1. Câu hỏi đánh thức lòng tự tôn.
“Việt Nam có quá nhiều cái nhỏ?” – một tiến sĩ từng tốt nghiệp ở nước ngoài đã phát biểu như vậy trên một tạp chí trong nước. Ở một góc nhìn nào đó, lời ấy không sai.
Sống ở xứ người, ông thấy đường lớn, nhà lớn, trường đại học lớn, công viên lớn… nên khi nhìn về quê hương, cảm giác “nhỏ bé” là điều dễ hiểu. Nhưng nếu chỉ nhìn bằng con mắt vật chất, e rằng ta sẽ bỏ lỡ cái “lớn” đích thực – cái lớn của văn hoá, tâm linh và minh triết dân tộc.
2. Lớn trong tâm thức – nhỏ trong hình thức.
Những năm gần đây, với lối tư duy hướng ngoại, ta dựng lên nhiều công trình được gọi là “văn hoá thế kỷ” như Khu du lịch Đại Nam hay những tượng đài ngàn tỉ đồng. Tất nhiên, điều đó thể hiện khát vọng phát triển. Nhưng nếu chỉ dừng ở hình thức to lớn, mà thiếu nội dung tinh thần, thiếu hồn Việt, thì những công trình ấy vẫn chỉ là “vỏ lớn – ruột nhỏ”.
Bánh chưng hai tấn, bánh dày một tấn dâng giỗ Tổ Hùng Vương – nghe thì hoành tráng, nhưng khi “phát lộc”, bánh lại vữa, lên men, bánh dày thì mốc. Trong khi triết lý âm dương ẩn chứa trong hình tượng ấy – trời tròn đất vuông, cha mẹ sinh thành – lại bị lãng quên. Phải chăng đó là dấu hiệu cho thấy ta đang lạc trong sự phô trương hình thức?
3. Di sản không nhỏ – hồn Việt rất lớn!
Ai dám nói Chùa Một Cột là nhỏ? Một kiến trúc độc đáo có một không hai trên thế giới, kết tinh trí tuệ và tâm linh dân tộc hơn 5.000 năm.
Ai bảo Trống đồng Đông Sơn là nhỏ? Đó là biểu tượng của Vũ trụ quan, nhân sinh quan sâu sắc, minh chứng rằng người Việt xưa đã biết suy tư về Trời – Đất – Người từ thuở hồng hoang.

Những công trình ấy là “tượng đài tinh thần”, là hồn cốt Việt Nam, làm nên sức sống muôn đời của dân tộc. Không phải ngẫu nhiên, đất nước ta từng mang những tên đầy tự hào: Đại Cồ Việt, Đại Việt, Đại Nam.
Nguyễn Trãi đã viết trong Bình Ngô đại cáo:
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.”
Đó là lời xác nhận rằng nước Việt đã lớn từ rất sớm – lớn ở nền văn hiến, ở chiều sâu nhân bản.
3. Minh triết Việt – kho tàng bị lãng quên.
Từ Lục tổ Huệ Năng (sinh ở đất Lãnh Nam xưa), đến Trần Nhân Tông, Hải Thượng Lãn Ông, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du…, Việt Nam có không ít bậc minh triết. Minh triết ấy không nằm trong lâu đài, mà ẩn trong lời ru, câu ca, tục ngữ, truyện cổ, tranh Đông Hồ, trong từng nhịp sống bình dị của dân quê.
Ông cha ta từng nói:
“Trăm năm bia đá cũng mòn,
Nghìn năm bia miệng hãy còn trơ trơ.”
Công trình vật chất có thể phai tàn, nhưng công trình tinh thần – văn hoá – minh triết mới là điều trường tồn.
4. Cái lớn đích thực.
Nhà tư tưởng Phạm Công Thiện từng viết:
“Không cần phải đọc Platon, Aristote, Kant, Hegel hay Karl Marx... chỉ cần đọc lại ngôn ngữ Việt Nam, nói lại tiếng Việt Nam, và sẽ thấy rằng tất cả đạo lý, triết lý cao siêu nhất của nhân loại đã nằm sẵn trong vài ba tiếng Việt đơn sơ như CON và CÁI, như CHAY, CHÁY, CHÀY, CHẢY, CHẠY...”
Thật vậy, cái lớn của Việt Nam không nằm ở vật thể, mà ở linh hồn dân tộc – trong ngôn ngữ, đạo lý, văn hiến và tình người. Khi người Việt hiểu lại và sống lại với cái “lớn” ấy, nước Việt sẽ mãi là một dân tộc Đại – lớn từ bên trong.
Hoàng Lạc
Nguồn tham khảo: Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi; Phạm Công Thiện, “Ngôn ngữ và Tư tưởng Việt Nam”.
Ảnh minh họa Internet: Chùa Một Cột – Hà Nội; Trống đồng Đông Sơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét