Thứ Bảy, 15 tháng 9, 2018

Chữ Việt Cổ (khoa đẩu tự)

Chúng ta có cơ sở để tự hào về dân tộc chúng ta – tự hào về hơn 4000 năm văn hiến. Văn minh dưới thời vua Hùng giữa Trung Hoa và nước Việt chúng ta không có sự khác biệt, có những lĩnh vực chúng ta hơn hẳn người phương Bắc.

Vấn đề là ở chỗ người Hán âm mưu đồng hóa dân Việt mình, cho nên họ đã cấm người Việt học chữ khoa đẩu, là chữ viết riêng của dân Việt. Khi người Việt không đọc được chữ của mình thì lịch sử, văn học, văn minh của một dân tộc không còn nữa. Người Việt chúng ta đã bị biến thành dân mọi rợ ngu dốt, học chữ Hán để chúng dễ dàng biến dân Việt thành dân Hán.

Theo những nghiên cứu dựa vào chữ khoa đẩu dưới thời Lý thì lúc đó (thời Hùng Vương) bên đất Việt mình văn minh, võ học, tư tưởng, học thuật có phần hơn Trung Quốc. Về võ học, sử sách còn ghi Vạn Tín hầu Lý Thân thắng các cao thủ trong triều Tần Thủy Hoàng, giúp xây Vạn Lý Trường Thành, đánh giặc Hung Nô.

Chúng ta có chữ khoa đẩu từ xưa ghi lại văn minh thời vua Hùng, văn minh thời Lĩnh Nam đều chép bằng loại chữ này. Đến thời Hai Bà Trưng, công chúa Phùng Vĩnh Hoa cũng đã tìm được 74.988 bộ sách đã được viết trong suốt các triều đại lịch sử trước kia. Kinh thì có các bộ Bách Tộc, Kinh Dương, Lạc Long… Những sách chép về y học, thiên văn học, lịch số học, cùng với hàng nghìn bộ sách lặt vặt rất nhiều. Có thể nói, lúc đó văn minh hai nước Trung - Việt ngang nhau.

Khi Mã Viện đánh thắng Hai Bà Trưng rồi chiếm lấy nước ta, Mã Viện đã ra lệnh thu hết sách vở chở về Lạc Dương, cấm học chữ khoa đẩu hoặc trong nhà người nào có sách bằng chữ khoa đẩu sẽ bị bắt để cho dân Việt chúng ta không còn biết nguồn gốc và xem chúng ta giống như các bộ tộc man di mọi rợ.
Cái thành công của tụi Hán là làm cho chúng ta tin mình như vậy. Vì những thư tịch cổ của mình bị mất nên tụi Tàu nó muốn chép láo lếu về dân Việt của mình như thế nào cũng được vì tụi nó nghĩ rằng không còn ai biết để mà sửa lại. Trong bộ Hậu Hán thư của Phạm Việp còn ghi rằng dân Việt lúc đó không biết lễ nghĩa và chính Sĩ Nhiếp là người đầu tiên dạy dân Việt học chữ Hán với lễ nghĩa. Thế mà ngày nay nhiều người Việt còn coi bộ sách này làm khuôn vàng, thước ngọc để tra cứu sử Việt.



Cũng may là đến thời nhà Lý vẫn còn công chúa Bình Dương con vua Lý Thái Tông và một số người vẫn còn biết chữ khoa đẩu để mà ghi chép lại, nếu không thì không biết đâu mà tìm.

Nếu chúng ta không có 1 nền văn minh tích tụ trước từ thời vua Hùng, người Việt không có nguồn gốc lịch sử, văn học hay võ thuật không thể tự nhiên tình cờ có Hai Bà Trưng cùng với 162 vị anh hùng nổi lên đánh những trận kinh thiên động địa như trận Trường An, Nam Hải, Hồ Động Đình, Tượng Quận,… gắn liền với tên tuổi của các vị công chúa Hoàng Thiều Hoa, Thánh Thiên, Phật Nguyệt, Phùng Vĩnh Hoa làm cho tụi Hán phải chống cự vất vả. Những trận chiến kia vẫn còn vết tích để lại trên phần đất Lĩnh Nam của chúng ta mà tụi Tàu chiếm giữ đến ngày nay.

Thiên cổ Miếu, thôn Hương Lan, xã Trưng Vương, TP Việt Trì, nơi thờ hai vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang, thời vua Hùng

Nhà giáo về hưu Đỗ Văn Xuyền (sinh năm 1937), sống tại Việt Trì, sau một thời gian để công nghiên cứu đã bước đầu công bố công trình hơn 50 năm trời nghiên cứu “Giải mã chữ Việt cổ” tại Trung tâm Văn hóa Người cao tuổi Việt Nam. Để phản biện kết quả nghiên cứu của ông – một số người ngoài ngành tin rằng cần có một hội đồng chuyên gia đa ngành đánh giá và kết luận. Sơ bộ, đó là một thành quả nghiên cứu công phu, nghiêm túc, phản ánh sự lao động kiên trì, giàu nghị lực của tác giả và thành quả là một đóng góp có giá trị giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cội nguồn lịch sử, văn hóa của dân tộc và có thể mở ra “cửa sổ mới” hết sức thú vị để chúng ta hiểu được các thư tịch cổ.

Sau nhiều năm nghiên cứu các Ngọc phả tại các đền thờ khác nhau rải rác khắp vùng trung du, đồng bằng Bắc Bộ, ông đã tìm ra 18 nơi thờ các thầy giáo, học trò từ thời An Dương Vương, Hùng Vương. Từ đó ông đưa ra một giả thiết ban đầu của mình là trước năm 186 công nguyên là năm chữ Hán được đưa vào Việt Nam thì dân tộc ta đã có chữ viết riêng – chữ Việt cổ, chữ viết đó được các thầy giáo thời Hùng Vương sử dụng.

Giả thiết này hoàn toàn khác với điều đa số người Việt hiện nay vẫn cho rằng là trước khi bị Tàu đô hộ, nước Văn Lang (tức nước Việt) không có chữ viết riêng mà chỉ đến khi người Tàu qua xâm chiếm thì người Việt mới bắt đầu dùng chữ Hán để viết.

Qua nghiên cứu các thư viện và tìm đọc các thư tịch trong, ngoài nước của nhiều nhà nghiên cứu tiền bối đã đi sâu vào vấn đề này: Từ Lê mạnh Thát, Hà Văn Tấn, Lê Trọng Khánh, Bùi Văn Nguyên, Trần Ngọc Thêm,… cho đến Vương Duy Trinh, Trương Vĩnh Ký, cả những nhà nghiên cứu nước ngoài như Anh, Tiệp Khắc, Mỹ, Pháp, nhất là Trung Quốc: Từ Lục Lưu, đến Hứa Thân, Trịnh Tiểu,… ông đều gặp may bởi họ đã khẳng định: Việt Nam xưa đã có chữ viết riêng.

Chữ Việt cổ có liên hệ gì với chữ Quốc Ngữ?

Chữ Quốc ngữ xuất hiện ở nước ta từ thế kỷ 17. Nhiều cuốn sách cổ được in từ buổi đầu chữ Quốc ngữ xuất hiện, đến nay hầu như không ai đọc được.

Khi đem bộ chữ Việt cổ đã được giải mã thử đọc một số cuốn sách cổ, như cuốn “Từ điển Việt-Bồ-La” (1651) của Alexandre de Rhodes, hay cuốn “Sách sổ sang” của Philip Bỉnh (Giám mục người Việt, ở Thủ đô Bồ Đào Nha những năm 1790-1820), thầy giáo Xuyền đã rất thú vị khi dễ dàng đọc được những từ khó mà lâu nay nhiều người không đọc cũng không giải thích được.

Chính từ việc này, thầy Xuyền đã đưa ra một giả thuyết: Chữ Quốc ngữ có lẽ không phải là một công trình hoàn toàn mới của Alexandre de Rhodes.


Những trang viết trong cuốn “song ngữ” La Tinh - Việt cổ do ông Xuyền biên soạn.

Nhà truyền giáo người Bồ đã tiếp thu bộ chữ cổ của người Việt, và có công La Tinh hóa nó, để ra được chữ Quốc ngữ?!.

Giả thuyết của thầy Xuyền không phải không có căn cứ. Bởi chữ Quốc ngữ và chữ Việt cổ do ông giải mã có cùng cấu trúc ghép vần tương tự nhau, chỉ khác nhau về hình dạng mà thôi!

Chính trong cuốn “Từ điển Việt - Bồ - La”, Alexandre de Rhodes đã viết: “Đối với tôi, người dạy tài tình nhất là một thiếu niên bản xứ. Trong vòng 3 tuần, nó đã hướng dẫn cho tôi tất cả các thanh của ngôn ngữ ấy và cách đọc các từ”. Theo ông Xuyền thì “cách đọc các từ” đó nhiều khả năng là thứ chữ Việt cổ!


Tôi xin góp ý về bài thơ trên bằng chữ cổ, tức là xem kỹ thì thấy:
– ở từ “nghêu” thiếu chữ “-u” (phải viết thêm “c” đảo lộn)
– quen viết thành “engn” (“vv” là -e-, “nb” là ng-, còn U-vuông là n/m)
-> lối viết nguyên âm rất giống tiếng Khmer, Thái

Quy luật đặt âm, vần của chữ Việt cổ.

Theo nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền: Bộ chữ do Phạm Thận Duật mô tả là bộ chữ không có dấu, trong đó 17 chữ vần bằng là phụ âm, đi với thanh không. 16 thể chữ theo vần trắc là phụ âm đi với thanh huyền. 11 nét phụ (tứ bàng phụ họa) cho những từ vần bằng chính là nguyên âm. Sau nhiều năm khảo sát ở nhiều miền trong cả nước, ông sưu tầm được một khối lượng lớn tư liệu về chữ Việt cổ, và khu biệt được một bộ chữ gồm 47 chữ cái mà Ông tin chắc là chữ Việt cổ, vì bộ chữ này thỏa mãn được 03 tiêu chuẩn kiểm tra ký tự của một dân tộc, được các nhà khoa học đề ra, đó là:

– Có ghi lại được đầy đủ tiếng nói của dân tộc đó không?

– Những đặc điểm của ngôn ngữ dân tộc có thể hiện qua các đặc điểm của ký tự đó không?

– Có giải quyết được các “nghi án” về ngôn ngữ, ký tự của dân tộc đó trong quá khứ? (Chứng minh bằng các cuộc kiểm tra thực tế ở các địa phương, bằng cách dịch lại các văn bản còn tồn nghi và đọc các văn bản cổ mới sưu tầm.)

Đây là bộ chữ ghi phát âm của tiếng nói (không phải chữ tượng hình nguyên thuỷ) có cấu tạo gần với hệ chữ La Tinh của phương Tây, nên rất dễ học.

Tuy nhiên bộ chữ này có một nhược điểm là những chữ nguyên âm luôn thay đổi vị trí. Phải mất nhiều năm nghiên cứu ông mới tìm ra quy luật – Quy luật đặt vị trí nguyên âm theo đạo lý người Việt (ví dụ: từ trời nguyên âm đặt phía trên, từ đất nguyên âm đặt phía dưới. Tương tự các từ cha, con nguyên âm đặt phía trước hoặc sau). Để thuộc bảng chữ cái và nắm được quy luật ghép vần, người ta có thể học sử dụng được bộ chữ này để đọc, viết trong khoảng thời gian 7-10 ngày.
“Nghiêu thế, Việt thường Thị Kiến thiên tuế thần quy, Bối hữu khoa đẩu”. Sách Tân Lĩnh Nam Chích quái của Vũ Quỳnh (đời Lê, thế kỷ 15) viết đại ý: Thời Lạc Long Quân có người hái củi, bắt được con rùa, lưng rộng khoảng ba thước, trên mai có khắc chữ như con nòng nọc gọi là chữ Khoa Đẩu. Hùng Quốc vương đã cử phái đoàn đem rùa thần đó cống cho vua Nghiêu.
Về việc này, sách Thông Giám Cương Mục do Chu Hy đời Tống viết: “Năm Mậu Thân đời Đường Nghiêu thứ IV (2352 trước Công nguyên) có Nam Di Việt Thường thị đến chầu, hiến con rùa lớn”.
Sách Thông Chí của Trịnh Tiểu cũng đời Tống nói rõ hơn: “Đời Đào Đường, Nam Di Việt Thường thị qua nhiều lần thông dịch đến hiến một con rùa thần. Rùa ước được ngàn tuổi, rộng hơn ba thước, trên lưng có chữ Khoa Đẩu, chép việc từ lúc khai thiên lập địa đến nay. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy Lịch”. – Đây còn là khởi thủy của KINH DỊCH đấy!

Một lần trên đường đi tìm kiếm ông đã dừng chân bên ngôi miếu nhỏ của một xóm núi, đọc được một bản Ngọc Phả thời Trần Thái Tông với những dòng chữ vang vọng tự hào: “Nghiêu thế, Việt thường Thị Kiến thiên tuế thần quy, Bối hữu khoa đẩu”.

Như vậy thời Hùng Vương, dân tộc ta đã có chữ viết với tên gọi Khoa Đẩu, đó là điều có thể khẳng định chắc chắn.

Hơn một nghìn năm Bắc thuộc, cuộc tận thu trống đồng của Mã Viện năm 43, cuộc cướp phá sách vở của nhà Minh đầu thế kỷ 15, cuộc đốt phá hết thư khố quốc gia và thư khố của các bộ (sau cuộc tấn công vào đồn Mang Cá) của Pháp năm 1875, liệu có còn sót lại những gì?

Ông Xuyền đến Sa Pa, trên tảng đá vùng Hầu Thảo, sau khi cạo lớp rêu phủ đã tìm được những chữ giống như chữ cái của Vương Duy Trinh, Hiệp biện Đại học sỹ, Tổng đốc Thanh Hóa. Trong cuốn Thanh Hóa quan phong viết năm 1903, Vương Duy Trinh đã giới thiệu một số chữ lạ sưu tập được, khẳng định đó là chữ Việt cổ từ thời Hùng Vương, và đưa ra nhận xét: “Vì Thập Châu là nơi biên viễn nên dân ta còn lưu giữ thứ chữ ấy. Các nơi khác, Sĩ Nhiếp bắt bỏ hết để học chữ Trung Quốc”.

Giáo sư Hà Văn Tấn đã công bố công trình nghiên cứu “Về một nền văn tự trước Hán và khác Hán”, Giáo sư Lê Trọng Khánh thì khẳng định “Nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa Đẩu thời tiền sử để ghi tiếng dân tộc mình”.

Nhớ tới câu nói của Vương Duy Trinh: “Vì thập Châu là vùng biên viễn, nhân dân ta còn lưu giữ được thứ chữ ấy”, ông hướng tìm tòi lên vùng Tây Bắc, Việt Bắc, vùng khu 4 cũ, rồi lăn lộn lên cả Đông và Tây dãy Trường Sơn để tìm theo dấu vết.

Để đi được dài ngày và đi xa, với số tiền lương hưu ít ỏi, ông đã phải tính đến việc ăn ngủ giản tiện nhất, đó là: một chiếc võng bạt, một bi đông đựng nước, một ít bánh mì sấy khô và dăm gói mì tôm. Thế là ông “cầm cự” được hàng chục ngày để đi đến các vùng sâu vùng xa, quyết tìm cho ra chữ Việt cổ.

Trong các tài liệu sưu tầm được, ông đặc biệt chú ý đến một bộ chữ lạ. Rất tiếc là những trang sách này đã bị nguỵ trang và khoá mã, mặc dù vậy nó đã tồn tại hàng mấy trăm năm mà không ai chú ý tới. Linh cảm mách bảo, ông đã thức nhiều đêm trắng để mày mò giải mã. Kiến thức tổng hợp và vốn ngoại ngữ đã giúp ông rất nhiều trong lĩnh vực nghiên cứu chữ Việt cổ. Kết quả, ông đã khu biệt được loại ký tự này với các loại văn tự xung quanh, tìm ra được hình dạng, chức năng của từng chữ cái và cách cấu trúc của một loại ký tự mà người ta đã nhầm là chữ Mường, chữ Thái…

Qua công trình nghiên cứu về ngôn ngữ người Việt cổ HauĐricourt, ông khẳng định được bộ ký tự này có từ trước công nguyên (loại ký tự bắt nguồn từ chữ Khoa đẩu tượng hình chuyển sang chữ cái có ghép vần). Căn cứ vào ý kiến của giáo sư Lê Trọng Khanh: “Các dân tộc Bách Việt dùng thứ chữ này”.

Khi đã đọc thông viết thạo chữ Việt cổ, ông lại tìm đến các vùng người Thái, người Mường. Loại văn tự này có thể ghi được tiếng Thái, tiếng Mường nhưng không đầy đủ. Ông lại tìm đến các vùng quê Thái Bình, Bắc Ninh, Sơn Tây, Thanh Nghệ Tĩnh… để lắng nghe những người già phát âm.

Thứ ký tự này đã giúp ông ghi lại đầy đủ giọng nói, âm vực của họ, giúp ông giải thích được tiếng nói khác nhau của từng vùng – gần như nó đã ghi lại nguyên tiếng nói người Việt cổ. Nó đã giúp ông giải thích được nhiều vấn đề còn thắc mắc. Ví dụ: Vì sao trong tờ Le Paria và tờ L’Humanité từ những năm 20 của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Chữ Nguyễn Ái Quốc được viết là Nguyễn Ái Quấc. Và trong cuốn sách sổ sáng của Filíp Bỉnh viết ở Bồ Đào Nha năm 1822, chữ huyên được viết là huên, chữ dòng được viết là dào.

Cũng như vậy ông có thể chứng minh được một nền văn tự có trước Hán và khác Hán, của giáo sư Hà Văn Tấn qua việc giải thích sự tồn ghi trong cuộc khai quật của bà Cô La Ni ở Lam Giận Hoà Bình năm 1923. Tháng 9 năm 2004, giáo sư Hà Văn Tấn đã mời ông về Hà Nội nghe ông kể lại quá trình đi tìm chữ Việt cổ và khi được ông tặng bản Hịch của Hai Bà Trưng đã chuyển sang chữ Việt cổ, giáo sư đã cảm động nghẹn ngào: “Vấn đề lớn lắm. Chúng ta phải sớm báo cáo lên nhà nước”.

Bản Hịch của Hai Bà Trưng đã chuyển sang chữ Việt cổ.

Dịp hè năm nay, nghe tin tỉnh Sơn La tìm được hàng nghìn cuốn sách cổ có chữ lạ. Ông cầm vài tờ photo lên, đọc mà nước mắt ràn rụa. Như vậy điều dự đoán của các nhà khoa học trước đây đã được chứng minh: Thứ ký tự đặc biệt để ghi âm tiếng nói của người Việt cổ (thứ chữ dân tộc ta đã có từ thời đại Hùng Vương) đã được các dân tộc sử dụng chung và còn được lưu giữ bảo tồn ở vùng Tây Bắc cho đến ngày nay.

Trần Vân Hạc
Nguồn: Sách Hiếm