Thứ Năm, 4 tháng 5, 2017

KHÔNG NÓI HAI LỜI

Trong chúng ngoại đạo có Bà La Môn Xà Đề Thủ Na lên tiếng hỏi: ”Nầy Cù Đàm ngài nói Niết Bàn là pháp thường trụ phải chăng?”
- Nầy Đại Bà La Môn! Đúng như vậy.
- Nếu Cù Đàm nói Niết Bàn là thường trụ thời không đúng nghĩa. Vì như những sự vật trong đời, từ hột sanh ra trái nối luôn chẳng dứt, như từ đất sét làm ra cái bình, từ những sợi chỉ mà có cái áo. Cù Đàm thường nói rằng tu quán tưởng vô thường chứng được Niết Bàn. Nhơn là vô thường sao quả lại thường trụ?
Cù Đàm lại nói giải thoát dục tham chính là Niết Bàn, giải thoát sắc tham và vô sắc tham chính là Niết Bàn. Dứt vô minh v.v… tất cả phiền não thời là Niết Bàn. Từ dục, sắc, nhẫn đến vô minh phiền não đều là vô thường. Nhơn đã vô thường thời quả Niết Bàn cũng phải vô thường.
Cù Đàm lại nói từ nghiệp nhơn nên sanh cõi Trời, do nghiệp nhơn nên sanh địa ngục, do nghiệp nhơn mà được giải thoát, nên các pháp đều do nơi nhơn mà sanh. Nếu đã từ nơi nhơn sanh mà được giải thoát, sao lại nói Niết Bàn là thường?
Cù Đàm cũng nói rằng sắc theo duyên mà sanh nên gọi là vô thường, thọ tưởng hành thức cũng như vậy. Giải thoát như vậy, nếu là sắc thời là vô thường, nếu là thọ tưởng hành thức cũng là vô thường. Nếu ngoài năm ấm mà có giải thoát, thời giải thoát nầy chính là hư không. Nếu đã là hư không thời chẳng được nói rằng do nhơn duyên sanh, vì hư không là thường là duy nhứt, là khắp tất cả.
Cù Đàm cũng nói rằng: Phàm do nhơn duyên sanh ra thời là khổ, nếu đã là khổ sao lại nói giải thoát là lạc.
Cù Đàm lại nói: Vô thường là khổ, khổ là vô ngã. Nếu đã là vô thường, là khổ, là vô ngã thời là bất tịnh. Tất cả những pháp do nhơn duyên sanh ra, đều là vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh, sao lại nói Niết Bàn là thường, lạc, ngã tịnh?
Nếu Cù Đàm nói rằng cũng là thường cũng vô thường, cũng khổ cũng vui, cũng là ngã cũng là vô ngã, cũng tịnh cũng bất tịnh, như thế há chẳng phải là hai lời ư?
Tôi cũng từng nghe bực tôn túc nói nếu Phật ra đời thời lời nói không hai. Nay Cù Đàm nói hai lời, lại xưng rằng Phật chính là thân ta đây. Xin giải thích những điều tôi đã hỏi.
Phật nói: Nầy bà La Môn! Cứ theo lời của ông, nay tôi hỏi ông tùy ý ông đáp.
Nầy Bà La Môn! Tánh của ông là thường hay là vô thường?
- Tánh của tôi là thường.
Nầy Bà La Môn! Tánh ấy có thể làm nhơn cho tất cả pháp trong và ngoài chăng? 
- Chính thế, thưa Cù Đàm.
- Nầy Bà La Môn! Tánh ấy làm nhơn như thế nào?
- Thưa Cù Đàm! Từ tánh sanh ra đại, từ đại sanh mạn, từ mạn sanh mười sáu pháp: Năm đại là địa, thủy, hỏa, phong, không, năm tri căn là nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, năm nghiệp căn là tay, chơn, miệng tiếng, nam căn, nữ căn, cùng tâm bình đẳng căn. Mười sáu pháp nầy do năm pháp: Sắc, thinh, hương, vị, xúc sanh ra. Hai mươi mốt pháp nầy có ba pháp căn bổn: Nhiễm, thô và đen. Nhiễm là ái, thô là sân, đen là vô minh. Hai mươi ba pháp nầy, đều nhơn nơi tánh mà sanh.
- Nầy Bà La Môn! Những pháp đại, mạn v.v… là thường hay vô thường?
- Thưa Cù Đàm theo giáo pháp của tôi thời tánh là thường, những pháp đại v.v… đều là vô thường.
- Nầy Bà La Môn! Như trong pháp của ông nhơn là thường còn quả là vô thường. Trong pháp của ta dầu nhơn là vô thường nhưng quả là thường, thời có lỗi gì?
Nầy Bà La Môn! Trong pháp của các ông có hai nhơn chăng?
- Thưa Cù Đàm, có.
- Thế nào là hai?
- Thưa Cù Đàm! Một là sanh nhơn, hai là liễu nhơn.
- Thế nào là sanh nhơn? Thế nào là liễu nhơn?
- Sanh nhơn như đất sét làm ra cái bình. Liễu nhơn như đèn soi đồ vật.
- Hai nhơn nầy là một tánh. Đã là một tánh có thể khiến sanh nhơn làm liễu nhơn chăng? Có thể khiến liễu nhơn làm sanh nhơn chăng?
- Thưa Cù Đàm! Không.
- Nếu như sanh nhơn chẳng làm liễu nhơn, liễu nhơn chẳng làm sanh nhơn, có thể nói là nhơn tướng chăng?
- Thưa Cù Đàm! Dầu hai nhơn chẳng làm thành lẫn nhau, nhưng vẫn có nhơn tướng.
- Nầy Bà La Môn! Vật của liễu nhơn chiếu rõ có đồng với liễu nhơn chăng?
- Thưa Cù Đàm! Không.
Phật nói: Trong pháp của ta, dầu do từ vô thường chứng đặng Niết Bàn, nhưng Niết Bàn nầy chẳng phải là vô thường. Do từ liễu nhơn mà được nên là thường, lạc, ngã, tịnh. Do từ sanh nhơn mà được nên là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Do đây nên đức Như Lai nói có hai thuyết thường và vô thường. Hai thuyết nầy không có hai lời, nên Phật gọi là không nói hai lời.
Như lời ông nói từng nghe bực tôn túc bảo rằng Phật ra đời không có hai lời. Lời nói trên đây rất đúng. Tất cả chư Phật mười phương ba đời không bao giờ có lời nói sai, vì có thời đồng nói có, không thời đồng nói không, nên gọi là đồng một nghĩa, do đây nên gọi Phật không nói hai lời.
Nầy Bà La Môn! Đức Như Lai dầu gọi là hai lời, nhưng vì để hiểu rõ một lời. Thế nào là hai lời để hiểu rõ một lời? Như nhãn căn cùng sắc trần đây là hai lời, sanh ra thức đây là một lời. Nhẫn đến ý căn cùng pháp trần sanh ra thức cũng như vậy.
- Cù Đàm khéo phân biệt được ngữ nghĩa như vậy. Nay tôi chưa hiểu dùng hai lời để hiểu rõ một lời.
Đức Thế Tôn liền vì Bà La Môn mà tuyên nói pháp tứ đế: Nầy Bà La Môn! Khổ Đế cũng hai cũng một, nhẫn đến đạo đế cũng hai cũng một.
Bà La Môn thưa: “Bạch Thế Tôn! Tôi đã hiểu biết rồi”.
- Nầy Thiện Nam Tử! Ông hiểu biết như thế nào? 
- Bạch Thế Tôn! Khổ đế, tất cả phàm phu thời hai, còn thánh nhơn thời một. Nhẫn đến đạo đế cũng như vậy.
- Lành thay! Đã hiểu.
- Bạch Thế Tôn! Nay tôi nghe pháp đã được chánh kiến, tôi quy y Phật Pháp Tăng Tam Bảo. Cúi xin Đức Đại Từ cho tôi xuất gia.
Đức Phật bảo Kiều Trần Như: ‘Ông nên cạo bỏ râu tóc cho Xà Đề Thủ Na, cho ông xuất gia”.
Ngài Kiều Trần Như vâng lời Phật cạo tóc cho Xà Đề Thủ Na. Đương lúc cạo có hai thứ rơi xuống: Một là râu tóc, hai là phiền não. Xà Đề Thủ Na liền ở nơi chỗ ngồi chứng đặng quả A La Hán.
(Kinh Đại Bát Niết Bàn).

Không có nhận xét nào: