Thứ Năm, 11 tháng 6, 2015

NHỮNG ÂM HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO TRONG THI CA TRUYỆN KIỀU

Ngoài việc chịu ảnh hưởng thuyết nhân quả và nghiệp báo nhà Phật, Nguyễn Du còn viết ra những vần thơ đầy âm hưởng Phật giáo. Ngôn ngữ thi ca vốn đã là rất biểu tượng, ngôn ngữ thi ca Nguyễn Du còn biểu hiện trừu tượng đến thiên tài. Nguyễn Du ngoài rung cảm thi ca, còn có rung cảm trí tuệ Phật giáo. Nhà thơ núi Hồng Lĩnh đã nói đạo Phật bằng tiếng nói của trái tim trần thế. Vần thơ gợi lên ý ấy trong cảm nhận của người viết trước tiên là:
“Ai ngờ lại hợp một nhà
Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm”
(3177-3178)

Mười lăm năm đoạn trường là một bài học về “khổ đế” mà nguyên nhân của nó vừa hợp với giáo lý Tứ đế vừa hợp với tinh thần giới luật nhà Phật, là lòng khát ái, dục ái:

“Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều
Mắc điều tình ái, khỏi điều tà dâm”
(2681-2682)

Hay: “Tu là cỗi phúc, tình là dây oan”

- Với Phật giáo (tiêu biểu như các câu 1 và 2 trong kinh Pháp Cú) thì tâm làm chủ, tâm tạo tác các nghiệp thiện và ác và sẽ nhận lấy quả báo tương ứng về sau. Với Kiều tâm cũng quyết định vui buồn và giá trị của đời sống:

- “Người buồn cảnh có vui đây bao giờ”.
- “Chữ trinh còn một chút này”
Chẳng cầm cho vững, lại dày cho tan”
(3161-3162)

Hay “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.

- Với Phật giáo, người Phật tử mộ đạo, mến đạo, quyết tâm sống đạo mà nếu không hiểu đạo, không có chính kiến thì càng làm cô phụ giáo lý giải thoát mà thôi. 

Âm hưởng giáo lý đó lại vọng vào trong vần thơ tái hợp mà không tác hợp của Kiều:

“Người yêu ta xấu với người
Yêu nhau thời lại bằng mười phụ nhau”

Ngay cả giáo lý Phật giáo minh bạch thế mà nếu hành giả chấp thủ nó (chấp giới, chấp định, chấp tuệ, như kinh Xa Dụ trình bày) thì sẽ rơi ngay vào cảnh:

“Yêu nhau thời lại bằng mười phụ nhau” 

- Phật giáo tiêu biểu như kinh Hạt Muối, Tương Ưng bộ kinh, bảo rằng người với tâm từ bi rộng lớn thì hầu như không chịu hậu quả của các việc làm nhỏ sai trái. Với Kiều thì Nguyện Du xác định: 

“Như nàng lầy hiếu làm trinh
Bụi nào cho đục được mình ấy vay”
(3119-3120)

- Kinh Kim Cương Bát Nhả, một kinh nổi tiếng của đại thừa, thì nhìn mọi hiện hữu do duyên sinh, chúng là không có tự ngã, thực sự ở ngoài các giá trị cấu, tịnh, thiện, ác, thị phi… chúng không thật sự gây trở ngại đến vấn đề tự do, giải thoát của con người. Trở ngại giải thoát là nằm ở tâm con người, ở lòng tham ái, chấp trước của con người. Tư tưởng này như là có chuyển âm hưởng của nó vào vần thơ:

“Duyên kia có phụ chi mình
Mà toan chia gánh chung tình làm đôi”
(3107-3108)

- Người tu tập đạo Phật, đạc biệt là các thánh hữu học, dù tâm đã tỏ tường đạo lý, tỏ tường sự thật của mọi hiện hữu, nhưng tập quán sinh tử vẫn còn vương vấn thân sắc, có khi còn vương vấn cõi lòng. Nguyễn Du lại diễn đạt một tâm trạng của Kiều sao mà nghe như động đến tâm hồn của một thiền sư vậy, khi nhà thơ viết:

“Tiếc thay chút nghĩa cũ càng
Dẫu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng”
(2241-2242)

- Nhưng khi mà thiền sư đã hất đổ hết các vọng tưởng, đốt cháy hết sầu, bi thì quả là giờ phút đại phúc, nghe như vừa dựng đứng dậy cả khung trời giải thoát, bởi vì bấy giờ thiền sư đã phá tan hết vô minh đã nhiều đời che khuất ngõ ý và làm tan hết mây dục vọng đã nhiều đời giăng bít trời tâm. Nguyễn Du đã chuyển qua Kiều một cảm xúc của thời kỳ hội ngộ như là một cảm xúc của thiền sư đang đối diện với giải thoát:

“Trời còn để có hôm nay
Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời”
(3121-31220)

Thơ của Nguyễn Du nghe ra vừa thơ vừa đạo suốt cả tâm sự Thuý Kiều. Nếu bạn tìm hiểu kỷ giáo lý nhà Phật rồi đọc lại thi phẩm tuyệt tác Kim Vân Kiều bạn sẽ bắt gặp rất nhiều, nhiều lắm, các vần thơ lồng ý đạo. Thi ca của thiên tài Nguyễn Du hình thành một lúc hai bè nhạc: một bè của khúc đoạn trường, bè kia là âm vang của trí tuệ giải thoát.

Thích Chơn Thiện 
TTđTD - Trích “Những hạt sương” – nhà xuất bản Tôn giáo

Không có nhận xét nào: