Người Trung Hoa đã có 2000 năm để nói Kinh Dịch là của họ, có hơn vài ngàn tác giả với hơn mấy ngàn đầu sách luôn luôn khẳng định điều này khiến nó đã thành một sự thật hiển nhiên khó ai cãi lại được. Nhưng ngày nay đã có những chứng cứ cho chúng ta thấy rằng nguồn gốc Kinh Dịch không thể tìm thấy ở Trung Hoa, mà Việt Nam mới chính là nơi khai sinh Kinh Dịch, mặc dầu những người bày tỏ quan điểm này chỉ đếm được trên đầu ngón tay, quả là “mãnh hổ nan địch quần hồ” nhưng chân lý không phải là dựa vào số đông.
Một người làm khoa học chân chính chỉ nên đưa ý kiến phản bác sau khi đã đọc kỹ quan điểm đối lập, cân nhắc chính xác những bằng chứng họ đề ra xem chỗ nào mình đống ý, chỗ nào không đồng ý, rồi chính mình phải trưng cho được những chứng cứ ngược lại để làm sáng tỏ vấn đề, không nên nói chung chung, nói theo cảm tính. Cho rằng Kinh Dịch là của Trung Quốc hay là của Việt Nam là quyền của mỗi người, nhưng muốn bảo vệ niềm tin này phải dựa vào chứng lý.
Người Trung Hoa nói về nguồn gốc Kinh Dịch dựa trên những chứng lý nào?
1- Trước hết họ cho Phục Hy nhìn những đồ hình trên con long mã vẽ nên bát quái. Đây là sự bịa đặt chỉ hợp với những người mê tín, ưa sự huyền hoặc, thế mà cũng được vô số người tin như thật. Nhưng Phục Hy không phải là thủy tổ chính thống của người Hoa hạ, Phục Hy là tổ của một tộc trong đại chủng Bách Việt phía Nam Trung Quốc, người Hoa mượn làm tổ của mình, Tư Mã Thiên không đồng ý nên đặt Hoàng Đế ở đầu Sử Ký, vậy nếu Phục Hy có làm ra Bát quái cũng không thể nói là của Trung nguyên. Thừa nhận Phục Hy chế ra Kinh Dịch là người Hoa đã nhận Kinh Dịch là của dân Bách Việt, vậy sao cứ nói mãi Kinh Dịch của Trung Hoa và gọi đó là niềm tin chính thống.
Hoàng Tông Viêm (1616 -1686) người ở cuối đời nhà Minh, đầu đời nhà Thanh đã cực lực phủ nhận vai trò của Phục Hy trong Kinh Dịch, sao người Việt Nam vẫn cứ tin!
2- Sau Phục Hy người Hoa cho là Văn Vương khi bị Trụ Vương cầm tù ở Dữu Lý đã nâng cấp 8 quẻ thành 64 quẻ và viết quái từ, hào từ Kinh Dịch.
Người bịa ra thuyết này là Tư Mã Thiên, sử gia hàng đầu và uy tín của Trung Quốc.
Chính vì Tư Mã Thiên có uy tín nên lời nói của ông rất có trọng lượng và người ta đã theo đó mà tin không cần kiểm chứng.
Từ Văn Vương đến Tư Mã Thiên cách nhau hơn nghìn năm, trung gian có Khổng Tử cách mỗi ông chừng 500 năm. Khổng Tử rất tôn sùng Văn Vương từng ca tụng nhà Chu : “Ngô tùng Chu” (ta theo nhà Chu), thế mà Khổng Tử chưa bao giờ nói Văn Vương soạn Kinh Dịch,làm sao Tư Mã Thiên lấy chứng cứ đâu mà nói Văn Vương diễn Dịch nếu không bịa đặt. Ở đầu quyển Sử Ký, lương tri Tư Mã Thiên còn ray rứt nên ngần ngại chỉ đưa ra giả thuyết “có lẽ Văn Vương diễn Dịch”, nhưng gần cuối sách thì lại xác định hẵn là Văn Vương diễn Dịch, và nhiều người hùa theo đó mà tin.
Từ Tư Mã Thiên về trước trong sách vở thời tiên Tần chưa ai tìm thấy một lời ghi nào nói Văn Vương soạn Dịch,thuyết này chỉ có sau Văn Vương một nghìn năm làm sao tin được.
Kinh Thi là sách đại tụng Văn Vương, kể rất nhiều công tích của Văn Vương nhưng không hề đá động đến kinh Dịch, các con Văn Vương như Võ Vương, Chu Công dùng bói toán để cúng lễ Văn Vương nhưng chưa bao giờ nói Văn Vương bói Dịch chứ đừng nói đến chuyện Văn Vương soạn Dịch.
Bản thân Văn Vương là nhà chính trị, nhà quân sự không phải là nhà triết học, Văn Vương là người Hoa Bắc, nhưng Kinh Dịch có nhiều phương ngữ Hoa Nam không thể kết luận Văn Vương soạn Kinh Dịch.
Chính nhóm Ngô Bá Côn đã xác định điều này: “từ thời cận đại đến nay, cách nhìn nhận này đã bị các học giả phủ nhận” (Dịch học, nxb Văn Hóa –Thông Tin, HN 2003, tr.99)
Sách Tả Truyện dẫn nhiều câu chuyện bói Dịch nhưng không hề nói Văn Vương soạn Dịch.
Các nhà Dịch học Trung Quốc đầu thế kỷ XX đã có người muốn dứt bỏ Văn Vương khỏi vương quốc Kinh Dịch, nhưng có một số người nhiễu sự ưa chuyện huyễn hoặc cứ cố níu kéo Văn Vương, nhất là một số Dịch giả người Việt, cứ khư khư ôm chân Văn Vương chẳng rời một bước, tặng không cho ông cái ngai ngất ngưỡng không công mà hưởng.
3. Sau khi loại bỏ Phục Hy và Văn Vương, một số nhà Dịch học Trung Quốc lại cho rằng Kinh Dịch có nguồn gốc từ các nhà Vu Hịch là các quan coi việc bói toán (Cố Hiệt Cương, Lý Kính Trì), Kinh Dịch có các từ phán đoán giống các từ bói toán: cát,hung, hối lận, cữu, vô cữu, nhiều lời Hào trùng hợp với lời bói, nhưng quan điểm này không mấy thuyết phục vì hai cơ cấu Dịch và bói khác nhau, bốc từ là những câu hỏi sẵn đưa ra để hỏi về một vấn đề mà người hỏi thắc mắc, câu trả lời là nhận hoặc phủ nhận, có hay không, còn hào từ phải tùy thuộc vị trí của hào, bản chất của hào, thời của quẻ.
4. Phát hiện mới nhất là quan điểm của Trương Chính Lương khi cho rằng nguồn gốc của quẻ Dịch đến từ quẻ số khắc trên Giáp cốt văn và Kim văn. Nhóm Chu Bá Côn cũng đã có ý kiến về vấn đề này “Song dùng các chữ số trong phép bói cỏ như 1,5,6,7,8 v.v… không đủ chứng cứ để chứng minh tại sao trong kinh Dịch lại chỉ có 8 kinh quái và 64 biệt quái” (Dịch học,tr 63).
Sau cùng nhóm Chu Bá Côn kết luận: “Tóm lại, đối với việc tìm hiểu nguồn gốc của quái, hào tượng tuy đã có một số ý kiến có ảnh hưởng nhất định trong mấy năm gần đây, nhưng những điều được đề cập tới đều không ngoài hai loại tượng và số,vẫn chưa thể nói là đã có một đáp án được gọi là công nhận. Có lẽ trong tương lai gần,theo đà phát hiện tư liệu ngày càng nhiều, chúng ta sẽ có được một đáp án xác đáng” (Dịch Học,tr 63). Còn Vương Ngọc Đức thì bi quan hơn: “Cuộc tranh luận kéo dài hai ngàn năm vẫn không có câu giải đáp chính xác. Nếu vẫn theo phương thức tư duy của các học giả thời xưa, thì hai ngàn năm nữa vẫn chưa làm rõ được vấn đề.
(Bí ẩn của Bát quái-nxb Văn Hóa –Thông Tin,HN 1996,tr 27).
Như vậy, đối với vấn nạn nguồn gốc Kinh Dịch,các học giả Trung Quốc đành chịu “bó tay” không truy vấn được. Vậy thì người Việt Nam hà cớ gì cứ đi theo họ để xác nhận một điều họ đã phủ nhận,cứ trân trọng mãi cái họ đã ném đi.
Vậy để xác định Kinh Dịch có nguồn gốc từ Việt Nam chúng ta có những chứng cớ gì?
Năm 1970, Giáo Sư Kim Định đã dõng dạc tuyên bố “Kinh Dịch là của Việt Nam” trong tác phẩm “Dịch Kinh linh thể”, tiếp sau đã có nhiều người mạnh dạn đề xuất những chứng cứ như Nguyễn Xuân Quang, Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Trần Quang Bình, Hà Văn Thùy, Nguyễn Quang Nhật, Nguyễn Việt Nho, Trúc Lâm…
Riêng cá nhân tôi từ năm 1999 đến nay, tôi đã trình với công luận những chứng cứ khả dĩ chứng minh được Kinh Dịch là di sản của tổ tiên Việt Nam qua mấy điểm sau:
Căn cứ vào những hoa văn trên đồ gốm Phùng Nguyên và đồ đồng Đông Sơn thì Việt Nam đã ghi khắc những quẻ Dịch trước Trung Quốc và sớm hơn chứng liệu của Trung Quốc (xin xem Phát hiện Kinh Dịch thời đại Hùng Vương - Thanhnienonline).
Chứng liệu của Việt Nam trực tiếp từ tượng quẻ không phải qua suy luận từ số đến tượng như Trung Quốc.Có đầy đủ 8 quẻ đơn và một số quẻ kép trên đồ đồng Đông Sơn.Những quẻ này có thể đọc thành văn bản phản ánh tư tưởng quốc gia Văn Lang (Sứ giả Văn lang - Anviettoancau.net).
Quẻ Dịch trên đồ Phùng Nguyên và Đông Sơn chứng tỏ hào dương vạch liền và hào âm vạch đứt của Trung Quốc là biến thể của Hào dương vạch liền và hào âm vạch chấm chấm của Việt nam,Trung Quốc đã nối những chấm âm lại thành vạch đứt để vạch cho nhanh (cải biên) (Chiếc gậy thần-dạng thức nguyên thủy của hào âm hào dương - Thanhnienonline).
Các từ Dịch/Diệc, Hào, Càn, Khôn, Cấn, Chấn, Khảm, Ly, Tốn, Đoài chỉ là từ ký âm tiếng Việt (Bàn về tên gọi tám quẻ cơ bản của Kinh Dịch - Dunglac.net).
Quan trọng nhất theo tiêu chuẩn tam tài Trung Quốc chỉ sử dụng Tiên Thiên đồ, Hậu Thiên Đồ mà không có Trung Thiên Đồ, một đồ cốt yếu đã được tổ tiên Việt Nam sử dụng để viết quái, hào từ Kinh Dịch cũng như phân bố vị trí các quẻ. Đồ này được tổ tiên Việt nam dấu trong truyền thuyết, trên trống đồng nên có thể khẳng định Trung Quốc không thể nào là người khai sinh kinh Dịch (Trung Quốc đã công bố hơn 4000 Dịch đồ nhưng không có đồ nào phù hợp với Trung Thiên Đồ) (Kinh Dịch di sản sáng tạo của Việt Nam - Thanhnienonline).
Truyền thuyết Việt Nam một phần là những câu chuyện liên hệ với Kinh Dịch, như chuyện con Rồng cháu Tiên là chuyện của Trung Thiên Đồ, chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh là chuyện kể lại từ những lời hào quẻ Mông, người Trung Hoa chỉ cần thay đổi bộ thủy trong hai chữ “chất cốc” thành bộ mộc là đổi câu chuyện nói về lũ lụt thành chuyện dạy trẻ mông muội là xóa được gốc tích của Kinh. Truyền thuyết được lưu giữ chính là để bảo tồn Kinh Dịch. (Các bài trên Anviettoancau.net- cùng tác giả)
Trong một bài báo ngắn chúng tôi không thể trình bày hết mọi chứng cứ nhưng thiết tưởng bấy nhiêu đó cũng đủ để hy vọng các bậc thức giả Việt Nam nên xét lại vấn đề, cân nhắc phân minh trả lại sự công bằng cho Tổ Tiên, thái độ “mackeno” của quí vị chỉ làm tăng thêm nỗi đắng cay chua xót của liệt tổ ở chốn u linh. Xin hãy chung tay làm sáng tỏ huyền án này.
Hởi ai có thấu lòng tiên tổ!
Xin giải oan cho “Giọt máu Rồng”.
Bị chú:
Bài này tôi viết để kỷ niệm 10 năm công bố chứng cứ chứng minh “Kinh Dịch là di sản sáng tạo của Việt Nam”, xin trân trọng cám ơn các cơ quan truyền thông và quý độc giả đã hưởng ứng truyền đạt thông tin này.
Nguyễn Thiếu Dũng
Nguồn: Anviettoancau
1 nhận xét:
Xin cam tác giả rất nhiều về bài viết này. Quả thật nó rất hay và logic. Tôi cũng có dịp tham khảo rất nhiều tài liệu nói về Việt Nam ta, mới thấy rằng văn hóa của Trung Quoc ngay nay va kể cả xua kia la 1 thu văn hóa mổ côi, một thứ văn hóa gì mà toàn là xâm lăng, tàn phá của người khác, rồi lấy những gì Trân quý của người ta rồi tự nhận là của mình. Tôi rất tâm đắt với tác giả về điều này, nhưng khổ 1 nổi là kiến thức KINH DICH chính thống của Việt Nam là tác nào , mang tên la gi..... và còn nhiều thứ phải kể thêm lắm, cho nên tôi nghi người Việt Nam hiện có thái độ lạnh nhạt, thờ ơ thì tôi nghĩa rằng không phải lỗi của họ đấu, nếu như rằng vấn đề kiến thức chính thống về KINH DICH của Tổ tiên ta được tuyên truyền rông rãi phổ biến, khi phần lớn số đông người Viêt Nam ta đã am tường rồi thì không cần phải kêu gọi minh oan cho giọt máu rồng nữa, mà khi ấy mọi chuyện sẽ tự dưng sáng tỏ, những kẻ mà trước đây tự nhận KINH DICH la của mình sẽ tư nhiên phải biết tự xấu hổ
đôi lời chia sẽ tâm tư cùng tác giả
Đăng nhận xét