Thứ Tư, 1 tháng 10, 2014

BA YẾU TỐ TINH – KHÍ - THẦN RANH GIỚI SỐNG VÀ CHẾT CỦA NHỮNG BỆNH NHÂN BỊ UNG THƯ

Theo phương pháp chữa ung thư của tây y là bỏ đói tế bào, nhưng không có cách nào bỏ đói tế bào bệnh mà không ảnh hưởng đến tế bào lành. Tuy nhiên lý thuyết này đúng trong trường hợp những bệnh nhân ung thư hết thuốc chữa, đã nằm chờ chết trong những ngày niệm danh hiệu A-Di-Đà-Phật, không biết lúc nào sẽ chết, không thiết ăn uống để cầu sống nữa, mà cầu chết… do đó trong 21 ngày niệm danh hiệu phật cầu vãng sanh, thì đó là lúc bỏ đói tế bào, cơ thể tự phục hồi chức năng hoạt động của lục phủ ngũ tạng, bệnh nhân lại cảm thấy khỏe mà không chết, sau khi tái khám, các bác sĩ đã phải ngạc nhiên vì bệnh đã khỏi, không còn dấu vết tế bào ung thư.

Phần một: Nguyên nhân gốc của bệnh ung thư do thiếu máu, áp huyết thấp.

Máy đo áp huyết đo ở tay trái có liên quan đến chức năng bao tử, đo bên tay phải có liên quan đến chức năng của gan.

Áp huyết đúng tiêu chuẩn theo khí công :

95-100/60-65mmHg, mạch tim đập 60 là áp huyết ở tuổi thiếu nhi.( 6 tuổi-12 tuổi)
100-105/60-65mmHg, mạch tim đập 65 là áp huyết ở tuổi thiếu niên (13 tuổi – 17 tuổi)
110-120/65-70mmHg, mạch tim đập 65-70 là áp huyết ở tuổi thanh niên (18 tuổi-40 tuổi)
120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi)
130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên)

Nếu những người nào có áp huyết cao hơn tiêu chuẩn là có bệnh cao áp huyết, nếu thấp hơn tiêu chuẩn là có bệnh áp huyết thấp.

Đa số những bệnh ung thư đều có áp huyết thấp dưới 100. Bất cứ chữa theo phương pháp nào làm cho áp huyết tăng dần lọt vào tiêu chuẩn là phương pháp đó đúng, còn càng chữa càng làm áp huyết giảm dần là bệnh càng nguy kịch, mặc dù hóa trị liệu cũng không giúp cho mình sống lại nếu áp huyết xuống đến 70, lúc đó cơ thể không có đủ khí huyết tuần hoàn bảo vệ sự sống của tế bào não, không đủ sức mạnh cho tim đập là cơ thể chết.

Những người khi mới bị bệnh ung thư, cơ thể còn khỏe mạnh, áp huyết thường ở khoảng 100, đi hóa trị lần đầu, áp huyết xuống 90, lần hai xuống 80, lần thứ ba xuống 70, thở hắt hơi ra, tắt thở, mà tây y không tìm ra nguyên nhân. Ngay cả khi tôi được thân nhân người bệnh ung thư mời đến bệnh viện cứu người, chữa song song với tây y, thay vì khi chữa phải nương theo tình trạng sức khỏe của bệnh nhân, nếu thấy áp huyết xuống thấp qúa, khí huyết không đủ, thì nên tạm ngưng điều trị, nhưng tây y cứ theo bài bản có sẵn, bắt buộc phải theo đủ liệu trình, ít nhất từ 8 đến 12 liệu trình liên tục, người có áp huyết thấp, cơ thể yếu không chịu nổi, thì đã chết trước khi đủ 8 liệu trình, nếu khỏe hơn thì đến liệu trình thứ 12 cũng sẽ chết vì sức khỏe suy kiệt, tình trạng áp huyết trước khi chết đều tụt xuống đến 70, như vậy chứng tỏ cái chết của bệnh nhân không do tế bào ung thư làm chết, mà chết vì thuốc trong qúa trình điều trị đã làm khí huyết bị suy kiệt.

Cho nên những người bệnh ung thư, nếu còn sống được lâu cho đến ngày nay nhờ hai lý do :

a-Tây y chê không chữa nữa, vì đã đi hết liệu trình mà không khỏi, thì hết cách, để bệnh nhân về nhà tự ăn uống chờ chết.

b-Những bệnh nhân bị bệnh ung thư đã từ chối cách chữa của tây y.

Cả hai loại bệnh nhân này đều muốn sống, có ý chí sinh tồn, đã tìm đến những phương pháp khác như châm cứu, thuốc bắc, tập luyện khí công, nằm ở nhà, tịnh dưỡng tinh thần, chấp nhận cái chết không sợ hãi, niệm Phật cầu vãng sanh về cõi tịnh độ như pháp môn niệm phật vãng sanh, niệm danh hiệu A-Di-Đà-Phật không ngưng nghỉ. chấp nhận cái chết đến bất cứ lúc nào... thế mà cuối cùng không bị chết, mà bệnh bớt dần hay khỏi bệnh hoàn toàn, nghe như chuyện hoang đường.

Thật ra không hoang đường chút nào. Theo nguyên lý đông y, bệnh xảy ra do 3 yếu tố là Tinh-Khí-Thần. Khi chữa là điều chỉnh lại Tinh-Khí-Thần, và muốn biết kết qủa chữa đúng hay sai, đều phải kiểm chứng lại bằng cách bắt mạch theo dõi tiến triển của bệnh dựa vào 28 biểu tượng của mạch đông y như : mạch hư, thực, phù, trầm, trì, sác, sắc, khẩn, nhu, tế, khâu, hoạt, trường, đoản, hồng, đại, đời, tuyệt....nhưng cuối cùng nhờ ăn uống thuốc men đúng, bệnh dần dần được hồi phục thì mạch phải có lực và có tượng mạch là hòa hoãn.

Nếu đem so sánh với phương pháp kiểm chứng của tây y, theo tiêu chuẩn chữa bệnh của đông y, chúng ta có thể dùng máy đo áp huyết sẽ biết kết quả nhanh hơn để kiểm soát khí và huyết, và theo dõi được mạch nhanh hay chậm.

Như vậy một người khi đo áp huyết không đúng tiêu chuẩn theo lứa tuổi là cơ thể đã có bệnh, dù bất cứ bệnh gì kể cả ung thư sẽ làm thay đổi áp huyết.

Thí dụ áp huyết theo tiêu chuẩn của trung niên, được đo ở hai tay, nếu không có bệnh :

120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi).
Nhưng khi có bệnh ung thư là thiếu khí và thiếu máu trầm trọng, áp huyết chỉ bằng lứa tuổi thiếu nhi:
95-100/60-65mmHg, mạch tim đập 60 là áp huyết ở tuổi thiếu nhi.( 5 tuổi-12 tuổi), như vậy, khi thầy thuốc đông y bắt mạch sẽ có mạch : Hư, nhưng có nhiều loại mạch đi kèm cho biết tình trạng hư như thế nào, như hư nhược, hư tế, hư phù, hư trầm, hư suy, …. mạch tim đập qúa nhanh như hư sác, hay quá chậm như hư trì, mạch đi qúa ngắn như hư đoản, mạch đi như mất mạch như mạch tuyệt…

Nếu trong qúa trình điều trị, những mạch xấu bớt dần, những mạch tốt xuất hiện, có lực, hòa hoãn là chữa đúng, có kết qủa, ngược lại, càng chữa càng mất những mạch tốt, xuất hiện những mạch xấu đến mạch tuyệt thì đã chữa sai gây hậu qủa làm chết người.

Những mạch này luôn thay đổi do các yếu tố Tinh-Khí-Thần có phù hợp hay không phù hợp nhu cầu so với tình trạng sức khỏe của bệnh nhân.

a- Yếu tố Tinh : ảnh hưởng do ăn uống hay thuốc men trong điều trị đúng hay sai.

Nếu tây y biết bắt mạch, so sánh trước khi chữa, và sau khi chữa một ngày, mạch xấu giảm, mạch tốt tăng, là đã biết cho ăn hay dùng thuốc trị liệu đúng. Nếu xuất hiện mạch xấu hơn, đáng lẽ phải ngưng, thay đổi thuốc hay thay đổi cách ăn uống để cơ thể phục hồi, thì ngược lại, vẫn chữa tiếp tục, khiến cơ thể suy nhược không đủ sức chịu đựng được hơn nữa dẫn đến tử vong, thì không phải do bệnh làm chết mà do chữa không đúng, không phục hồi được khí huyết.

Môn khí công y đạo đã nghiên cứu cách theo dõi khí huyết thay đổi bằng máy đo áp huyết thay cho cách bắt mạch, vừa tiện lợi, nhanh chóng, để kịp thời điều chỉnh thay đổi thuốc hoặc liều lượng cho phù hợp với nhu cầu của cơ thể mà không làm tổn hại mất khí huyết của cơ thể.

Do đó, khí công y đạo theo dõi áp huyết ở hai tay, trước khi ăn và sau khi ăn 30 phút, để biết chưc năng hấp thụ của bao tử và chức năng chuyển hóa của gan có được phục hồi mạnh hơn sau khi ăn hay không, nếu ăn uống sai lầm, thì trước khi ăn áp huyết tốt, sau khi ăn áp huyết thay vì tăng lên cho con người khỏe hơn thì ngược lại áp huyết càng tụt xuống thấp khiến sức khỏe suy nhược thêm. Như vậy máy đo áp huyết theo dõi được yếu tố Tinh biết đúng hay sai, tình trạng sống hay chết của bệnh nhân do ảnh hưởng của ăn uống thuốc men mỗi ngày mỗi khác..

Tinh là do ăn uống thuốc men sai lầm không đúng với nhu cầu mà cơ thể cần, cái mà cơ thể cần bổ sung thì không có, cái mà cơ thể không cần lại dư thừa quá nhiều trở thành độc tố, khiến cơ thể lại mất thêm năng lượng thải lọc độc. Vấn đề ăn uống thuốc men cho phù hợp với cơ thể để chữa bệnh thì phương pháp đông y hay hơn các phương pháp khác, vì khi điều chỉnh một cơ thể bệnh tật, đông y dựa vào cách bắt mạch để kiểm chứng so sánh sức khỏe của bệnh nhân trước khi và sau khi điều trị bằng ăn uống hay bằng thuốc.

Thí dụ : Đầu tiên, đông y bắt mạch cho một bệnh nhân để biết tình trạng khí và huyết, sẽ biết được khi hư hay thực, huyết đủ hay thiếu, cũng là hư hay thực, xem tạng phủ nào hư, tạng phủ nào thực, mạch chạy nhanh hay chậm, cơ thể nóng hay lạnh.... thuộc về loại mạch nào trong 28 biểu tượng loại mạch của đông y…khi chữa đúng bằng cách cho bệnh nhân uống thuốc, hay cho ăn uống, thấy mạch trở nên hoà hoãn, có lực, áp huyết trở lại đúng tiêu chuẩn so với số tuổi thì bệnh tật được đẩy lui, thoát khỏi tử thần.

Những bệnh nhân bị bệnh ung thư do thiếu máu, áp huyết thấp, việc đầu tiên trong cách ngừa bệnh, không để cho bệnh phát triển nặng hơn, thì tuyệt đôi không được dùng những loại thuốc hay loại thức ăn có chất chua như cam, chanh, bưởi, quit, dứa, nho, soài, dưa chua, yaourt, vit.C…sẽ làm hạ áp huyết, và mất hồng cầu….nếu người bị lạnh, kiêng những thức ăn hàn lạnh như dưa, giá, đậu xanh, nước dừa, kem, mướp đắng, cải xanh, hoa cúc…

Cần ăn những chất nóng ấm cay như gừng, tiêu, tỏi, hành, rau dền, củ dền, súp thịt bò, B12, extrait de foie, extrait de placentaire, hormodausse…làm tăng áp huyết, tức là tăng khí huyết giúp cơ thể phòng chống bệnh tật.

Theo phương pháp chữa ung thư của tây y là bỏ đói tế bào, nhưng không có cách nào bỏ đói tế bào bệnh mà không ảnh hưởng đến tế bào lành. Tuy nhiên lý thuyết này đúng trong trường hợp những bệnh nhân ung thư hết thuốc chữa, đã nằm chờ chết trong những ngày niệm danh hiệu A-Di-Đà-Phật, không biết lúc nào sẽ chết, không thiết ăn uống để cầu sống nữa, mà cầu chết… do đó trong 21 ngày niệm danh hiệu phật cầu vãng sanh, thì đó là lúc bỏ đói tế bào, cơ thể tự phục hồi chức năng hoạt động của lục phủ ngũ tạng, bệnh nhân lại cảm thấy khỏe mà không chết, sau khi tái khám, các bác sĩ đã phải ngạc nhiên vì bệnh đã khỏi, không còn dấu vết tế bào ung thư.

b- Yếu tố do khí :

Yếu tố thứ hai làm cho bệnh ung thư càng ngày càng trầm trọng, là sự đau đớn do tắc tuần hoàn huyết và thiếu khí lực, vì đau đớn, không thở được, không nói năng được, nói năng đứt quãng, làm xáo trộn áp huyết, thiêú khí thì áp huyết tụt thấp, khi nào tụt thấp xuống 70/60mmHg mạch 40 hay 140 giống như ngọn đèn hết dầu sẽ phụt tắt.

Do đó, cách chữa nào làm tăng khí huyết, giảm đau, lúc đó khí của hơi thở hòa hoãn, áp huyết tăng lên đủ tiêu chuẩn sẽ hết bệnh, cách chữa nào làm cho bệnh nhân tăng thêm đau đớn, mất khí. mất huyết, áp huyết càng ngày càng thấp là cách chữa không đúng.

Những bệnh nhân ung thư biết mình sắp chết, còn tỉnh táo, chỉ muốn cầu vãng sanh về tây phương cực lạc, họ bình tĩnh chờ chết, lúc nào cũng tự niệm danh hiệu 4 chữ : A-Di-Đà-Phật mong nhờ tha lực cứu độ, nhưng cũng chính là tự độ, theo nguyên tắc khí công, họ đang luyện khí, khí thông đều đặn theo nhịp của 4 chữ A-Di-Đà-Phật, mà mạch trở nên hoà hoãn, khí của cơ thể tăng lên từ từ theo thời gian niệm là thời gian luyện khí, khí đi đến đâu, thì máu đi đến đó, nguyên tắc thứ hai của khí công, khi cơ thể đau là khí huyết không thông, khi khí huyết được thông thì hết đau (thống thì bất thông, thống thì bất thống).

Một điều kỳ diệu, theo đúng khoa học, khi máu thiếu oxy, trở thành máu chết, máu chết là tế bào sẽ chết, nhưng khi luyện thở, hay tụng niệm, khí lực sung mãn, tiếng nói và hơi thở càng mạnh, oxy càng nhiều, máu nhận được oxy nhiều sẽ biến thành máu đỏ oxyde sắt tam Fe2O3, làn tăng hồng cầu, tăng áp huyết, mạch hoà hoãn, hết đau, tế bào khỏe được phục hồi, giúp chức năng cơ thể thải độc loại bỏ được tế bào bệnh.

c- Yếu tố Thần :

Thần là hệ thần kinh, là tâm lý, tư tưởng hoảng loạn, lo sợ bất an làm bệnh nhẹ thành nặng. Do đó những bệnh nhân ung thư hết thuốc chữa, biết mình sắp chết, từ chối mọi phương cách điều trị, tránh gây đau đớn thân xác, nhờ đọc kinh, niệm Phật, giúp tâm bình thản, mong nhờ tha lực cứu độ vãng sanh, lúc đó đau đớn biến mất, vì tâm bình thế giới bình, mọi chức năng trong cơ thể ngưng bị rối loạn, lúc đó, nhờ niệm Phật, nhất tâm bất loạn, mà còn tỉnh táo, sẽ trở thành loại thần dược là khí với thần hoà hợp, đều đặn hòa hoãn, giúp huyết lưu thông, như cơ thể được tiếp thêm điện năng, bộ máy khí hóa trong con người được phục hồi, hoạt động trở lại, biết đói khát đòi ăn, cho ăn uống đúng và đủ như thuốc bổ máu, bổ khí, cơ thể tự chữa khỏi bệnh, chứ không cần phải là thuốc tiêu diệt tế bào ung thư theo như cách chữa của tây y, tất cả những cách điều chỉnh Tinh-Khí-Thần đều có thể kiểm soát được bằng máy đo áp huyết, khi áp huyết trở lại bình thường đúng tiêu chuẩn, mạch hòa hoãn không nhanh không chậm, thì hết hàn hết nhiệt, mạch tim đập từ 70-80 là khỏi bệnh.

Tác giả: DoDucNgoc

Không có nhận xét nào: