A WORLD BEYOND
Tác giả: Ruth montgomery Coward, Mc Cann & Geoghegan, Inc, 200 Madison Ave NewYork, N.Y. 10016
Tác giả thuật lại lời của một người từ thế giới bên kia nói lên bằng phương pháp đánh máy tự động. Người ấy tên là Arthur Ford, đã chết ngày 14-1-1971, thọ trên 70 tuổi. Phần lớn đời sống của ông dành cho việc khảo cứu về thế giới vô hình. Ông là một con đồng (medium) nghĩa là người có khả-năng để cho những linh hồn có thể tiếp xúc với người trần qua trung gian của ông. Có rất nhiều người đã biết tiếng ông.
Ông học rộng, đọc nhiều, sáng suốt, nghĩa là có thể nhận biết ngoài giác quan vật chất, có khả-năng nhìn đồ vật mà đoán được sở hữu chủ. Ngay trong khi thức tỉnh, ông có thể nghe người chết nói với ông. Không như nhiều con đồng cần nơi hoàn toàn đen tối, ông có thể lên đồng bất cứ lúc nào, ban ngày hay đèn sáng, chỉ buộc một chiếc khăn thẫm màu bịt ngay mắt, linh hồn người chết sẽ nói qua miệng ông. Khi còn trẻ, ông là mục sư Tin Lành, ông đã có khả năng nhìn thấy được ngoài tầm con mắt, như một buổi sáng trong trại lính. Trước khi thức giậy, ông "trông thấy" tên những người mới chết đêm vừa qua, ông kể cho các bạn hay, họ ra xem bản danh sách thấy đúng, không những đúng tên mà đúng cả thứ tự. Trong nhiều năm sau ông nghiên cứu về Huyền-Bí- Học.
Tác giả cũng có khả-năng nhưng không muốn trở thành con đồng, mà chỉ dùng vào việc đánh máy tự động. Phương pháp nầy cũng như cầu cơ, phụ bút tại Việt Nam, nhưng diễn tả được nhiều hơn, và rõ-ràng nhanh chóng hơn. Những phiên đánh máy tự độ ng để viết ra cuốn nầy, bắt đầu ít ngàysau khi việc hỏa táng thi hài ông Ford hoàn tất, và tro được rãi xuống Ðại-Tây-Dương gần Miami. Những lời trong cuốn nầy là lời của ông Ford mà tác giả thuật lại. Cuốn sách được xuất bản năm 1971 là năm ông Ford chết.
Ðại khái những điểm quan trọng như sau:
- Mỗi người là một thực-thể tồn-tại mãi mãi trong cõi vô cùng, không đầu, không cuối vô thủy vô chung.
- Mỗi người trong chúng ta là một phần của Thượng Ðế, tất cả chúng ta hợp lại là Thượng Ðế.
- Mỗi chúng ta đều thiếu sót nếu không có toàn thể nhân loại, cả người sống và người chết. Tất cả chúng ta hợp lại thành Tâm linh Vũ-trụ, mà ta quen gọi là Thượng Ðế.
- Trong cõi vô hình không có thời gian, chúng ta có thể xóa bỏ thời gian và không gian, vì có thể đến bất cứ nơi nào bất cứ lúc nào theo ý ta muốn, và chúng ta có thể nhìn xa trong cái mà thế gian gọi là tương lai, vì mọi sự đều định trước cả. Nếu người nhân thế hiểu rằng mọi sự được định trước đến mức nào, thì họ sẽ không phải phấn đấu mảnh liệt để tránh tai ương, vì khi đã là tiền định thì khổ tâm có ích gì! Hãy chấp nhận mọi việc xẩy đến, duy phải nhớ cố gắng có một đời sống hữu ích. Chẳ ng nên sợ hãi, vì đó là ý muốn của Thượng Ðế, hoặc là phận sự mà ta đã lựa chọn khi trở lại đời sống vật chất. Giữ tâm thoải mái làm hết sức mình.
- Ði vào cõi chết chẳng khác gì bước qua một cửa mở chào đón, bước ấy nhanh chóng hầu như không cảm thấy. Người thì vui mừng, kẻ thì miển cưỡng, nhưng phải đều nghe theo tiếng gọi của Vũ-trụ đến nơi yên tỉnh.
- Có nhiều việc làm, nhưng chỉ là những việc có mục-đích cần thiết và thích nghi, nhưng muốn làm hay không tùy ý, không ai bắt buộc phải làm gì cả, tự mình chọn lấy việc làm nếu muốn tiến.
- Ý nghĩ cũng là hành động. Với ý nghĩ chúng ta tạo nên không những khuôn khổ cho đời sống tương lai, mà còn cả Thiên đường hay Ðịa ngục cho chính mình.
- Tham thiền rất là quan trọng, cần tiếp tục luôn luôn trong cõi hữu hình, vì đó là sợi dây liên lạc với tâm của Thượng Ðế. Như người đi học, mỗi ngày bài học khó hơn hôm trước. Cũng thế, mỗi ngày bỏ qua không tham thiền là một ngày uổng phí, mà thời giờ trôi đi rất nhanh chóng. Có ở bên vô hình mới thấy rõ là bên hữu hình một đời người không lâu hơn một tia chớp là bao, và thời gian từ đời sống nầy sang đời sống khác, có khi trải hàng bao nhiêu thế-kỷ hay hàng triệu năm, cũng chỉ như là nh ững lúc chờ đợi hơi lâu mà thôi.
- Thời gian trong cõi vô hình không có nghĩa gì cả. Không ai có tuổi, vì ai cũng có từ lúc sơ khai và không bao giờ là tận cùng, không có thời giờ, không có gì chết, không có sự chết. Mọi vật đều có từ đầu, không có việc gì tiêu diệt, chỉ là thay đổi trạng thái, như con sâu hóa bướm, rồi tan rã và hồn nó lại sang một thân hình khác.
Ông Ford kể lại cảm giác của ông: Sau khi thoát xác, tôi cảm thấy nhẹ-nhàng, tự do, sung sướng, không còn vướng-víu xác thân nặng nề, không còn bệnh hoạn đau đớn, cảm giác khoan-khoái không sao tả được. Rồi gặp các bạn bè thân thuộc xưa kia đến chào đón vui mừng. Ðời sống hai bên không khác gì nhau, chúng tôi vẫn ở đây, duy không có cái thể xác bị nhiều luật vật-chất ràng buộc. Chúng tôi tự do như gió muốn đi đâu và lúc nào cũng được, có thể đi xuyên qua các vật hữu hình. Nhưng không phải là đi lang-thang, vì ai cũng có mục đích.
Mục đích ở đây cũng như ở bên hữu hình, là làm theo ý muốn của Thượng Ðế. Chúng tôi không ai giống ai, mỗi người một việc khác nhau. Chúng tôi thực sự không được trông thấy Thượng Ðế, nhưng lúc nào cũng cảm thấy Thượng Ðế ở gần kề, vì chúng ta là Thượng Ðế, Thượng Ðế là chúng ta, không có cách biệt. Chúng ta cũng ví như những ngón tay, tuy rằng riêng biệt nhưng vẫn thuộc vào một khối chung.
Thượng Ðế là một sức mạnh trường tồn, nó hợp nhất tất cả mọi vật trong vũ-trụ. Sức mạnh ấy là Chân-lý vũ-trụ, là toàn thiện vũ-trụ. Người mới sinh ra cũng toàn thiện, nhưng sau càng đông thì càng cạnh tranh nhau về vật chất nên mất hòa đồng , mất hòa đồng là căn-bản sinh ra tội ác, cho nên phải chịu luân hồi. Nhưng chúng ta sẽ luôn luôn tìm đến toàn thiện, tìm đến tình thương của Thượng Ðế, tình thương là chất keo gắn liền chúng ta với sức mạnh trung-ương. Hãy yêu thương lẫn nhau, yêu thương Thượng Ðế, yêu thương chính mình, hãy tự mình hòa điệu với sức mạnh vô cùng ấy. Vì chúng ta còn thiếu sót chưa toàn thiện, nên còn phải trở lại trái đất nhiều lần, để mài dũa những khía cạnh lởm chởm của chúng ta cho được hoàn toàn tròn trặn để hòa đồng với đại khối.
Thượng-Ðế cũng là sự hiểu biết hoàn toàn, biết cả những điều cầu nguyện chưa phát ra lời. Ngài là ánh sáng, là sự thật, là tình thương. Ngài là đức Sáng Tạo ra ta, là cha chúng ta, yêu thương mỗi người trong chúng ta. Ngài sẵn-sàng ban cho ta tất cả những gì lợi ích nhất cho ta mà không thiệt hại đến ai khác. Tất cả những điều cầu nguyện do lòng tin và tình thương đều được ban cho. Ngài hàn gắn vết đau, Ngài yêu thương, Ngài an ủi, Ngài coi sóc ngày đêm và năm tháng. Thượng Ðế là tất cả.
Ông Ford nói đến vài trường hợp khác nhau của những người đã bước qua cửa tử.
Người mới qua đời với cái chết tự nhiên, bỏ lại xác thân mệt mỏi bệnh hoạn, thì hồn lìa ra dễ dàng không cảm thấy gì.Vừa mới lúc trước còn mang mớ xương thịt đau đớn, mà ngay sau đó đã thấy mình ở trong cảnh đẹp tươi trong sáng. Có người ở trên một cánh đồng cỏ có cây có suối. Bỗng nhớ nhà muốn về nhà, tức thì về ngay, thấy nhà đông người mà không ai để ý đến mình cả. Thấy vợ mặt áo tang ngồi khóc, y lại gần vỗ-về vợ, nhưng vợ không trả lời. Rồi thấy sửa soạn đám tang, y đến gần xem thì rất hoảng sợ, vì đây là lần đầu y trông thấy thân hình y nằm đó và người ta sắp đem chôn. Y cố kêu gọi mọi người rằng y vẫn còn khỏe mạnh đây, nhưng vô ích. Rồi y thấy nhiều người thân củ đã chết từ lâu vây quanh chào đón và nói cho y biết rằng y đã sang cõi vô-hình. Một ông già râu bạc gọi y đến trường học, trong lớp có nhiều người khác, ông già cho biết y nay đã thoát xác rồi, gia đình bè bạn không thể trông thấy và nói chuyện với y được nữa. Y phải chấp nhận và tập cho quen với đời sống tâm linh, có nhiều khả năng hơn trước. Bấy giờ y nhớ lại cuộc đời đã qua và cả những đời trước nữa. Y rất đau khổ đã không hoàn tất được công việc mà y đã quyết định làm khi y nhận lãnh cái thân xác thịt vừa qua. Nay y nhớ lại cái mục tiêu mà y tự đặt ra khi đó, và giận cho y đã quên mất vài phần khi ở trong đời vật chất. Tại sao tiềm thức y nhớ, mà tâm thức y lại quên? Do đó y đã uổng phí một phần đời y, khiến cho y chậm tiến. Y cũng nhận thấy rằng đây là một thế giới hoạt động, người lười biếng tự làm hại mình vì không a i bắt buộc phải làm gì cả, không làm gì thì cứ ở mãi trong tình trạng thấp kém mà không tiến cao lên được.
Hành động tốt nhất để tiến là ban bố tình thương. Một ý nghĩ không tốt, nhất là một ác ý đối với ngươì khác, có thể làm chậm bước tiến đến độ phải cần cả một đời tương lai hoặc hơn nữa để gạt bỏ vết đen ghi trong cuốn sổ tiềm thức. Chớ nói ác, chớ nghĩ ác. Không có điều ác nếu tự ta không tạo ra nó. Chính chúng ta là ma quỷ của chúng ta.
Trong đời sống xác thịt, ta có thể vượt qua được các chướng ngại của thân vật chất, nếu những sự ham muốn, thù hận, được gạt bỏ ra ngoài. Ðời sống thế gian là một đời sống đầy cám dỗ. Sự thách đố vượt qua cám dỗ là con đường nhanh chóng nhất để tiến lên trình-độ cao hơn. Ðối với vô cùng, thì cái thân vật chất chỉ được một khoảnh-khắc ngắn ngủi đã bị hủy diệt rồi, thế thì tại sao không cố vượt qua cám dỗ vật chất nó chỉ tồn tại trong một chớp mắt, để cho sự tiến hóa của ta bị trì hoãn. Nên luôn luôn lưu tâm vào điểm nầy để thắng lực lượng ma quỷ nó vây quanh ta và thúc đẩy ta xa Ðấng Tạo Hóa, chỉ vì khoái lạc nhất thời.
Ma quỷ không phải là một người, hay nói đúng hơn là một hồn người, nhưng là một lực lượng mà mỗi hành động sai lầm càng làm cho nó mạnh hơn. Nguyên thủy chỉ có một danh từ, là danh từ Thiện tức là Thượng-Ðế. Cha chúng ta không đặt ra điều ác, nhưng những linh hồn ở trong thể xác thì ham muốn, tranh đấu, cải cọ với nhau, muốn cho mình được hơn kẻ khác, nên tạo ra một lực lượng ác, dần dần kết thành khối mà người ta quen gọi là quỷ Satan. Không phải Thượng Ðế mà chính là người đã sinh ra quỷ Satan, nó không phải là một linh hồn ác, nhưng là sự hình thành của tội ác, nuôi dưỡng bằng mỗi ý nghĩ và hành động ác. Muốn phá Satan, người cần thức tỉnh rằng ý nghĩ cũng là hành động, và mỗi khi một ý nghĩ ác hoặc hành động ác được thay bằng một ý nghĩ hoặc hành động với tình thương, là mỗi lần con quỷ sẽ bị thu nhỏ lại một phần. Ðến khi nào thiện hay ác không còn trong trái tim mọi người trên trái đất, không những trong thể xác mà cả trong tâm linh, thì chúng ta sẽ đạt tới Chân - Thiện - Mỹ.
Người ốm nặng mong chết để thoát khổ, là người mà hồn lìa xác nhẹ-nhàng hơn cả, vì sung sướng trút bỏ được cái thân bệnh hoạn. Người có tâm đầy tình thương, sẵn-sàng giúp đỡ những linh hồn khác, như những trẻ thơ ngay không có mẹ và những hồn mới còn gặp khó khăn.
Những người chết đột ngột mà không phải là lỗi của họ, như bị tai nạn, bị sát hại hay vì chiến tranh, bị xúc động mạnh khi thấy mình ở trong cõi vô hình không còn làm được những việc quen làm trước kia. Những linh hồn khác hết lòng giúp họ để họ thích nghi với hoàn cảnh mới.
Những người đi lính miễn cưỡng bị tử trận, rất tức giận đã mất cái thân xác trẻ trung hăng-hái. Sự tức giận đó đã không thể giải quyết được gì, còn cản trở bước tiến của tâm linh rất nhiều.
Chúng ta dang tay chào đón người mới đến với tất cả tình thương. Lúc đầu họ thường ngạc nhiên, nếu trước kia họ không học hỏi và tham thiền. Họ đói họ khác thì chúng tôi cho ăn cho uống tuy đó chỉ là tưởng tượng nhưng họ coi là thật vì vẫn tưởng là còn xác thân. Dần dần quen rồi, họ mới thấy rằng không cần ăn uống nữa. Chúng tôi để mặc họ muốn làm gì tùy ý, nhưng sẵn sàng giúp họ.
Người tự sát tưởng rằng hủy thân đi là hết, không biết rằng hồn vẫn còn, và như thế vấn-đề vẫn còn, lại thêm khó khăn hơn nữa. Trong cõi vô hình không giải quyết được vấn đề trần gian, phải đợi sang đời sau, biết đến bao giờ? Linh hồn rất đau khổ, tức giận cho mình đã phí mất một đời, khiến cho đời sau càng thêm nặng nợ và còn mang cái tội là đã hủy diệt sự sống mà Thượng Ðế đã ban cho, không ai được quyền lấy đi.
Kẻ sát nhân cũng rất đau khổ, không những đau khổ vì không thể trả lại đời sống cho nạn nhân của y nay cùng ở với y, mà còn đau khổ vì đã cản trở nạn nhân trả nghiệp quả riêng của họ. Hai hạng người nầy tự mình bị dày vò cực khổ vô cùng tro ng thời gian rất lâu chờ đợi để được sang đời khác đền bù tội lỗi.
Những người tuy không có tội nặng nhưng rất khó thích nghi, là những người không tin rằng có đời sống vô hình. Người vô tín-ngưỡng từ trước vẫn nghĩ rằng chết rồi là hết, nên không sẵn sàng để đón nhận hoàn cảnh bất ngờ, nay rất ngạc nhiên, tưởng rằng những người và cảnh vật trông thấy quanh y chỉ là ảo ảnh, do y tưởng tượng. Trong lúc sống không tử tế với ai, tự nghĩ không có bổn phận giúp đở ai. Nay y phải ở chung với đám người cũng ích kỷ như y, nhưng thô-lỗ cục-cằn mà y coi là hạ cấp, muốn thoát ra khỏi mà không được, rất là khổ sở.
Người còn tha thiết đến đời vật chất, đến những người thân, đến tiền của công việc còn bỏ lại, thì tâm trí loạn động nhiều, cần một thời gian dài và nhờ những linh hồn khác giúp đỡ, mới dần dần bỏ được sợi dây ràng buộc y với đời sống trên trần. Rồi y phải kiểm điểm những lầm lỗi trước và tìm cơ hội tái sinh để chuộc lại.
Trước khi lựa chọn nơi tái sinh, tâm linh phải tự kiểm điểm xem những món nợ nào cần trả trước và cần có những đức tính nào để tiến. Rồi phải tìm xem hoàn cảnh nào thích hợp với điều kiện của mình. Nếu y muốn học yêu thương, thì phải chọn nơi nào đức tính ấy không có nhiều. Thường y chọn cha mẹ ở những người xưa kia y đã biết hoặc có sự liên lạc về nhân quả. Rồi y chọn phái nam hay nữ để có thể tiến được nhiều hơn. Nếu nhiều linh hồn trình độ ngang nhau muốn đầu thai và cùng một nơi, thì hồn nào thích hợp hơn cả sẽ được lựa chọn, sự lựa chọn nầy có thể ví như máy tính thiên tạo tự động ghi nhận và ấn định tư cách của mỗi linh hồn.
Linh hồn được trúng tuyển bay lơ-lững gần cha mẹ, và khi ngày giờ đã đến, nhập vào bào thai hoặc đúng lúc hoặc ngay trước hay ngay sau khi lâm sản. Những linh hồn bị loại đi tìm nơi khác thích hợp với mình.
Trường hợp đứa trẻ mới sinh ra đã bị tật nguyền, là gì linh hồn đã chọn thân hình bất toàn ấy, thay vì một thân hình đầy đủ, để trả nợ mau chóng hơn. Những chướng ngại trong đời vật chất càng nhiều, thì linh hồn tiến hóa càng nhanh, nhanh hơn là những người có đủ tiện nghi trên đời. Càng tiến nhanh trên phương diện tâm linh, thì càng ít phải trở lại thân xác thịt.
Thường thường linh hồn trước kia thuộc phái nào, nam hay nữ thì lại thác sinh vào phái ấy. Nhưng cũng có khi lựa chọn phái khác để học hỏi, như một người tính vũ phu muốn sinh ra phái nữ để học tính dịu-dàng, một phụ nữ nhút-nhát sinh ra phái nam để học can đảm. Trường hợp một bà bị tê liệt nửa người và run rẩy, chúng tôi nhận thấy rằng trong một tiến thân, người ấy ở thành La-Mã là một tên lính dữ tợn ưa làm cho kẻ khác run sợ; Y đã thả thú dữ ra để cho nạn nhân sợ hãi trước khi bị cắn xé. Nay để đền tội, y phải sinh ra làm một người đàn bà yếu ớt và run rẩy.
Những linh hồn đã tiến hóa đến một trình độ tương đối cao, đều hộp nhau để học hỏi. Không có lể nghi như ở trần gian hộp ngày chúa nhật tán dương Thượng Ðế. Những linh hồn nầy trong đời vật chất đã tiến hóa, đã tham thiền để hòa đồng với Vũ -trụ. Họ đã không uổng phí thời giờ trên mặt đất, nay họ có thể tiến hóa nhanh chóng hơn. Nhờ bước tiến nhanh, những lần phải luân hồi sau nầy sẽ giảm bớt đi. Có ở trình độ nầy mới biết cái cảm giác thích thú và thỏa mãn được tiếp tục học hỏi về tâm linh khi bước sang cõi nầy. Những người không tin và nhạo báng rất đáng thương, họ không bao giờ biết cảm giác khoái lạc ấy.
Những linh hồn đã tiến hóa luôn luôn hoạt động. Một số trong chúng tôi học hỏi để tiếp tục tiến hóa, một số dạy những linh hồn mới đến, một số nữa tham thiền và cầu nguyện mong chuộc tội lỗi đã qua. Ðừng có điên rồ tưởng rằng chúng tôi lìa bỏ xác phàm bước sang thế giới tâm linh là chúng tôi gần thiên đường hơn và tự nhiên được hợp nhất với Thượng Ðế. Muốn đạt tới sự hợp nhất ấy, phải trải qua nhiều triệu triệu năm cố gắng đặc biệt theo luật Thượng Ðế và giúp đở người khác trên đường thăng tiến. Mỗi việc lành ta làm cho người khác mà không cầu báo là một lần làm thêm sáng tỏ và rút ngắn bớt con đường ấy.
Tâm bố thí không giới hạn, không mong báo đáp, là bật thang lên thành quả tâm linh. Ðừng cho tay trái biết việc làm của tay phải. Hãy bố thí trong thầm lặng, đừng nói cho ai biết, nên tìm cái vui thú trong việc làm hơn là trong lời nói. Nếu người đời đã khen, đã ca tụng rồi, thì còn mong gì Thượng Ðế khen thưởng nữa. Ta không mong ai ca ngợi khi ta tự giúp ta, tại sao ta lại mong ca ngợi khi ta giúp người khác, khi người ấy cũng là một phần chúng ta, một phần của Thượng Ðế!
Bên trong mỗi chúng ta đều có trí sáng suốt hiểu rõ chân lý. Chúng ta đều có khả năng tiến tới cái gọi là Thượng Chủng, nghĩa là giống thượng đẳng (super race). Xưa kia chúng ta là một phần của Thượng Chủng, nhưng về sau lòng tham lam, ích kỷ, thù hận và nhiều ý nghĩ tồi tệ khác dần dần thâm nhập vào những người mang thân xác thịt.
Tiềm thức chúng ta chứa chất tất cả mọi điều hiểu biết mà chúng ta thu thập từ khi bắt đầu được cấu tạo. Nó là cái kho tài liệu vĩ đại nhất chưa bao giờ thấy, nhưng trong khi còn mang thân xác thịt thì không thể mở kho ấy bằng cách thường. Qua những giấc mơ và lúc tham thiền, hoặc nhờ thôi miên đúng phép, ta cũng chỉ có thể mở được một phần mà thôi. Nhưng ở đây, trong cõi vô hình, tất cả kho ấy trong đời quá khứ luôn luôn bày ra trước mắt, và nếu tâm linh ta có khả năng hơn, ta có thể thấy được các đời trước nữa.
Có rất nhiều trường dạy tiến hóa tùy theo trình độ của linh hồn. Chúng ta được tạo nên do một phần của Thượng Ðế, có đủ tính chất của Thượng Ðế, vậy muốn hoàn tất cuộc hành trình của chúng ta và trở về với Thượng Ðế, thì phải được thấm nhuần triết lý của Vũ-trụ và hiểu biết luật lệ của Vũ-trụ để được hòa đồng với Tạo-Hóa là cha chúng ta.
Ông Ford nói đến hai phần tự tin là mình hoàn toàn, đã đạt tới đức hạnh bực Thánh.
Một người cho rằng mình đã sẵn-sàng để được vào hàng Thánh, và mong được Thánh Gabried dẫn đến ngay vàng của Thượng Ðế ngay khi bước sang cõi vô hình. Y khoe với mọi người rằng y không hề làm gì lầm lỗi, không bao giờ trộm cắp, lừa dối, tà dâm. Y làm việc trong nhà thờ và dự vào nhiều việc từ thiện, y chắc rằng đời sống nầy là đời cuối cùng trước khi về với Thượng Ðế ở trên trời. Tâm y nhẹ nhàng khi bước qua bên nầy, và tỉnh giậy thấy quanh mình phong cảnh ngoạn mục. Y thấy một đám người áo trắng đi đến tưởng rằng họ đến đón y, nhưng họ đi thẳng. Lại thấy lũ trẻ chơi đùa, y gọi chúng hỏi thánh Gabried ở đâu, chúng nói chúng chẳng gặp thánh thần nào cả. Y tìm đến một ông già râu bạc ngồi trong lều, y hỏi đường đi tìm thánh Gabried, Ông già nói: "con đường nằm ở bên trong"
Y nghĩ là một đường hầm, nhưng tìm không thấy, y lại hỏi: "tại sao không ai chỉ đường cho tôi đến Thượng Ðế? Tôi có việc cần gặp Thượng Ðế, Thượng Ðế ở đâu?".
Ông già lại nói: "hãy nhìn vào bên trong"
Y nhìn quanh trong lều chẳng thấy gì, bực mình nói: "đừng có đùa bỡn, tôi cần đến Thiên đình."
Ông già nói rõ: "Tôi biết , nên tôi đã bảo anh hãy nhìn vào bên trong anh. Ai nấy đều phải tự xét đoán mình trước khi gặp Ðức Sáng Tạo.
- Nhưng tôi không làm gì lầm lỗi cả, đời tôi trong sạch nay tôi sẵn sàng gặp Thượng Ðế.
- Còn tánh tự phụ của anh thì sao? anh lấy làm chắc rằng anh không lầm lỗi?
- Tôi chắc, vì cả đời tôi không làm gì trái cả. Tôi đã cố gắng làm phận sự, và nay tôi chờ được khen thưởng trên trời.
Bấy giờ ông già nắm tay y nói: "con chưa thấy sao con? Con đã nghĩ đến linh hồn con nhiều quá, mà không nghĩ đến làm bớt đau khổ cho những người không bằng con. Con đã bao giờ hy sinh miếng bánh của con cho kẻ ăn mày đói ngồi ở đầu đường chưa? Con có lúc nào bớt thì giờ để nghe những nỗi khó khăn của người dưới quyền con không? Con có bao giờ nghĩ đến làm cho tâm hồn vợ con được thoải mái không? Nay vợ con được sung sướng hơn khi con còn sống, vì không phải bị con bắt phải kính trọng con như một ông thánh. Hãy nhìn xem vợ con đang làm gì."
Lúc ấy y nhìn thấy nhà y ở California. Một người đàn ông ngồi ruỗi dài trên ghế của y. Vợ y trông khỏe mạnh vui vẻ. Người kia nói: "Chúng ta sẽ được hoàn toàn hạnh phúc.
- Phải sau khi mãn tang.
- Sau lâu thế.
- Sợ người ta chê cười. Còn John thì chắc y chẳng để ý gì đến dưới nầy nữa, chắc y đương ở trên trời và tìm đến Thượng Ðế. Thật là khó kinh khủng mà sống với một người tự cho mình là ông thánh."
Bấy giờ y mới nhìn vào nội tâm y và nhận thấy rằng y đã lo tạo cho y trở thành ông thánh nhiều hơn là phụng sự Thượng Ðế và những người chung quanh. Tệ hại hơn nữa là y đã được nhiều lời khen ngợi ở thế gian về việc làm của y, nên không còn gì để đem theo tâm linh nữa. Nay y hiểu rằng chỉ có bố thí và giúp đỡ trong sự yên lặng vô danh mới được thưởng công trên trời, y đau khổ giận cho y rằng đời gương mẫu của y đã không giúp ích cho linh hồn y như đã giúp cho đời vật chất của y. Chi mà khôn g có tình thương, tình thương không vị kỹ, thì những việc làm của y trong xã hội được khen ngợi nhiều, chỉ là những ngày trống rỗng. Nay y đã hiểu bí mật của sự cứu rỗi là bố thí không vị kỷ, đặt quyền lợi người khác trước quyền lợi của mình, yêu thương v à giúp đở lẫn nhau.
Một người đàn bà cũng tin rằng mình có đủ đức tính của một vị thánh và mong đợi được đưa thẳng đến gặp Thượng Ðế. Thị thức giậy ở bên nầy và nhìn quanh tìm cửa bằng ngọc để đi vào tìm thánh Peter. Thị đến một cửa, không đẹp như thị tưởng, đi vào thấy vườn hoa đẹp nhưng không để ý, chỉ chăm chăm đi gặp Thượng Ðế. Trên đường thấy có nhiều người cùng đi, thị vượt lên trước họ đến một nơi cao, chắc rằng trên đó Thượng Ðế đương ngồi chờ thị. Thấy một người cũng leo lên gần thị, nhận ra bà lão ăn mày trước kia vẫn gặp ở đầu đường, thị tỏ ý khinh bỉ, chỗ nầy đâu phải là nơi lão được đến! Thấy một người trẻ tuổi mặt sáng, chắc là một vị thiên thần, thị xin được đưa đến trước Thượng-Ðế. Vị nầy nói: "Nhưng thưa bà, tất cả chúng ta là Tượng-Ðế" Thị bực mình, vì nói như thế là gồm cả lão ăn mày bên cạnh thị. Thị nói: "Ðừng có đùa cợt, ông hãy dẫn tôi đến gặp Thượng Ðế".
Bấy giờ đám đông mà thị đã vượt lên trước đã đến nơi vây quanh thị, thị bực rằng sẽ không được đứng hàng đầu nữa. Người trẻ tuổi nói với tất cả đám đông:
"Quý vị hãy nghe đây, Thượng Ðế ở khắp nơi. Thượng-Ðế là tình thương, quý vị thương yêu nhau và giúp đở nhau là có Thượng-Ðế trong đó".
Thị bực lắm, hỏi rằng: "Thiên Ðình ở đâu?
- Thiên Ðình ở ngay nơi bà đứng."
Nhưng thị nhìn quanh, chẳng thấy Thiên Ðình đâu cả. Dần dần thị mới hiểu ý, Thiên Ðình ở ngay nơi thị, quan tòa là thị. Bấy giờ thị nhìn vào nội tâm, mới thấy rõ sự thật kinh khủng. Trong khi cố gắng một đời sống trong sạch không tội lỗi, thị chỉ nghĩ đến riêng mình, không bao giờ có một lời an ủi cho người kém mình, mà lại còn muốn tránh xa sợ họ làm nhơ bẩn cái áo trắng trong của thị. Ðâu là tình thương người khác? Thượng-Ðế không cần nói, thị cảm thấy câu trả lời trong tâm thị, thị biết cái tâm của thị hơn ai hết, chính thị là quan tòa của thị.
Những người đã chết không phải là bay lơ lửng trên không trung. Họ ở ngay trên mặt đất, không ở đâu khác, vì chỉ có một Vũ-trụ duy nhất. Họ không ngủ trên giường ta, không ngồi trên ghế ta, nhưng họ hoạt động ngay giữa chúng ta. Họ cũng đi cùng đường nhưng không bị cản trở về vật chất, không phải đi vòng quanh những chướng ngại như nhà cửa hay tảng đá. Tuy họ cùng ở với ta, nhưng ta không thấy họ mà họ vẫn thấy ta và biết được cả ý nghĩ của ta.
Khi chúng ta tham thiền là chúng ta được gần Thượng-Ðế, chúng ta gặp Thượng-Ðế ở trong chúng ta. Càng thiền được nhiều trong cõi hữu hình, thì càng tiến nhanh trong cõi vô hình. Nên nhớ là khi tham thiền, bắt đầu phải thở cho sâu, để tống r a những hơi độc tích tụ trong thân hình. Ðọc một câu chú, rồi nghĩ rằng mình hòa đồng với Vũ-trụ. Hãy tự coi mình là một phần của tạo Vật, của tinh hoa Thượng-Ðế, hãy quên cá tính mình đi, tưởng tượng như mình với Vũ-trụ chỉ là một. Sau một thời gian, sẽ cảm thấy mình nhẹ bỗng, tựa hồ như một tâm linh bay vơ-vẫn trong một bầu trời xa lạ. Hãy thí nghiệm, luôn luôn giữ ý nghĩ hợp nhất hoàn toàn, chẳng bao lâu sẽ cảm thấy hòa đồng với Tạo Vật. Rồi tiến sâu hơn, hãy để cho tâm linh Thượng Ðế tràn ngập vào tâm khảm mình. Hãy dành ra ít nhất 15 hay 20 phút mỗi ngày giữ yên lặng như thế. Hãy đón nhận lời của Thượng Ðế.
Cầu nguyện khác hẳn với tham thiền. Cầu nguyện là tác động, không phải thụ động như tham thiền, mong cảm đến trái tim của Thượng-Ðế. Nghĩ điều thiện thì Thượng Ðế ở kề bên. Hãy cầu nguyện cho một mục tiêu tốt đẹp, không phải cho lợi riêng m ình. Nên nhớ rằng cầu nguyện để hại người khác, thắng địch thủ, hơn bạn bè là vô ích.
Khi một linh hồn mong đợi gần Tâm của Thượng-Ðế, nó sẽ nâng cao ý nghĩ đến độ cảm thấy mình như bay bổng và đầy khoái lạc. Cảm giác mạnh đến nổi quên cả mình trong thế giới tâm linh, bấy giờ thấy rằng khoái lạc xác thịt không còn có nghĩa g ì nữa. Rồi từ đó sẽ tiến lên, không phải trở lại đời vật chất nữa. Trên tầng cao hơn, ta chỉ còn là tâm thức, không còn nghĩ đến cá tính nữa. Tầng nầy chưa phải là tầng cao nhất, chỉ là một nấc thang trên đường tiến hóa. Chúng ta đi trong ánh sáng, ánh sá ng của Chân-Lý Vũ-trụ. Cũng không ở luôn mãi đó, mà tiến mãi đến toàn thiện.
Ông Ford nói đến một người, lúc sống đã học hỏi, hiểu biết và tham thiền linh hồn thoát xác được sáng suốt ngay. Sau khi chào hỏi bạn bè thân thuộc y tham thiền trong khi rung động của vũ-trụ tràn ngập y với cảm giác sung sướng lạ lùng. Y tìm ngay những hồn mới đến, lạc lõng hoặc mê man để giúp đỡ. Y không mất một giây phút thương tiếc cho cái thân xác đã mất, y biết rằng sẽ gặp lại người thân trong cõi-vô-hình, y đã để lại mọi việc tốt đẹp trên đời, nay y tiếp tục tiến hóa. Có nhiều người được như thế, không phải ai nấy đều biết rõ những gì chờ đón họ, nhưng họ sẵn sàng chấp nhận mọi điều Thượng Ðế ban cho, và rất vui mừng rằng vẫn được tiếp tục hoạt động với nhiều việc để làm.
Người nầy sẽ tiến rất nhanh, sẽ sớm có dịp trở lại thân hình khác, hoặc tiến lên tầng cao hơn. Nếu muốn tiến lên, thì phải học các thầy tiến hóa. Các thầy sẽ dạy cách thay đổi tần số rung động để dần dần hòa nhịp với với rung động ở tầng trên. Khi tần số rung động của họ đã cao và lên được tầng trên, thì chúng tôi sẽ không thấy họ nữa, mặc dù họ vẫn ở đây, họ vẫn thấy chúng tôi, đại-khái cũng như người trần không thấy chúng tôi mà chúng tôi vẫn thấy người trần. Nhưng nếu họ muốn thì họ vẫn có thể hạ thấp rung động để cho chúng tôi thấy. Trong đoạn sau, ông Ford sẽ nói đến những tầng trên rõ ràng hơn.
Ông Ford trước kia đã được lên tầng trên, nhưng tự ý muốn trở lại thế gian để thực hành những điều đã học hỏi. Vì thế khi ông là mục sư ở trong trại lính, ông đã trông thấy danh sách những người chết đêm trước khi ông mới ngủ giậy còn ở trong phòng (xem trang 13) vì đã có khả năng nhận tin tức từ khắp nơi.
Trái lại, một người không tin, lúc sống cho rằng chết là hết không còn gì nữa, khi mở mắt ra thấy có nhiều người quanh mình khuyên nhủ và giúp đở, lại cho là ảo-ảnh, là tưởng tượng, không phải thực, nên nhắm mắt lại. Khi mở mắt ra thì không thấy ai nữa, mà thấy mình rơi vào vực thẩm đen tối, ở trong tình trạng rất sợ hãi. Tình trạng nầy thường kéo dài rất lâu, đến khi nào lòng tin trở lại, cầu Thượng Ðế cứu, bấy giờ lại được thấy nhiều người đến giúp đở. Những linh hồn nầy khi tỉnh ngộ rồi thì cố gắng học hỏi, giúp đỡ những hồn khác và sẽ tiến hóa nhanh. Còn những hồn cố chấp không tỉnh ngộ thì cứ ở trong cảnh đen tối hàng ngàn năm.
Kẻ sát nhân cố tình giết hại người khác để thỏa mãn ác ý của mình, thì ở trong tình trạng như chết một thời gian lâu, đến khi tỉnh giậy thấy mình ở trong địa ngục mà chính mình đã tạo nên. Không phải là trông thấy quỷ sứ, nhưng thấy chính mặt y bị biến dạng vì thù hằn, tham lam, ác độc. Y sợ rúm lại tưởng mình bị quỷ nhập. Y thất đảm khi nhận ra rằng không những y đã bỏ phí một đời không tiến, mà còn thụt lùi trở lại nhiều đời nữa mới có thể chuộc được tội y. Bấy giờ y nhớ lại ý muốn của y là vượt qua mọi sự cám dỗ khi y bước vào cuộc đời, khốn nỗi y đã làm trái ngược với ý muốn ấy.
Linh hồn nầy bị đau khổ trong thời gian rất dài. Ðến khi thất vọng cùng cực, y rên xiết cầu Thượng-Ðế cứu. Nếu y thực tâm hối hận, những linh hồn khác sẽ đến giúp y, và dần dần y sẽ tiến lên rất chậm, rất chậm, cho đến khi hiểu biết cái hình phạt vì đã lấy đi một mạng sống do Thượng Ðế ban cho. Như Lee Oswald đã bắn John Kennedy, và Jirhan đã bắn Bobby Kennedy, sẽ còn phải đau khổ lâu lắm trong sự hối hận. Ðến như Hitler thì chẳng khác nào y bị trơ-trọi trên một cù-lao đen tối không nhà cửa , và sẽ không bao giờ rữa sạch được tội ác của y.
Người tự sát trong một giây phút thất vọng, đã lầm tưởng rằng chết là giải quyết được vấn đề, không biết rằng đâu có dễ-dàng giải quyết như thế, và chúng ta không có quyền dập tắt ngọn lửa sống mà Thượng Ðế đã thắp sáng lên. Ðược mang cái thân xác thịt là đặc-ân Thượng Ðế ban cho để trả nợ nghiệp chướng. Nhiều hồn khác còn phải chờ đợi để được trở lại làm người, nay ta đã được rồi lại hủy bỏ cái đặc-ân ấy, thì nghiệp chướng sẽ tăng lên gấp mười, và phải chờ đợi rất lâu mới lại được đầu thai.
Những nạn nhân bị sát hại không mang mối hận thù kẻ đã hại mình. Ở trong cõi vô hình mà còn hận thù thì sẽ bị thoái hóa rất nhiều, có khi hàng vạn năm. Họ hiểu rằng như thế là họ đã trả được nghiệp chướng, trả được tội lỗi quá khứ, và sẵn sàng tha thứ.
Ông Ford nhắc lại rằng không có tòa án xử tội, ngoại trừ chính lương tâm chúng ta, lương tâm ấy lại chính là Thượng Ðế. Khi tấm màng che mắt ta không còn nữa, thì ta thấy rõ đâu là trái đâu là phải. Ta rất vui mừng khi nhận thấy rằng những việc giúp đở nhỏ mọn, một lá thơ hay một nụ cười an-ủi, những việc mà ta đã quên, lại giúp ích cho ta tiến hóa nhiều hơn. Trái lại những hành động mà ta tin rằng có lợi cho ta lại làm cho ta chậm tiến, vì ta đã làm một cách rầm-rộ, khoa trương, để được hãnh diện, được khen ngợi. Hãy giúp người chỉ vì người ta cần giúp, tùy theo khả năng của mình, xong rồi quên đi đừng mong cảm ơn và báo đáp, cũng không cần ai biết cả. Hãy coi mình như một cái giếng, lúc nào cũng tràn đầy tình thương.
Chỉ có thể chữa bỏ những thói hư tật xấu ở trong đời hữu hình. Ở cõi vô hình không làm gì được cả vì không có những cám dỗ. Trường học gian khổ là đời vật chất, có nhiều cám dỗ mà ta phải vượt qua.
Có người lấy làm lạ tại sao có những linh hồn tiến hóa cao luôn luôn giúp đỡ người khác, lại có những linh hồn cục-cằn không hơn thú vật. Sự đó có thật. Lúc mới đầu chúng ta đều như nhau, là những tàn lửa của Thượng Ðế, nhưng trải qua những đời sống trên trái đất, mỗi linh hồn phản ứng với hoàn cảnh một cách khác nhau. Chớ nên mắc vào thói hư tật xấu, luôn luôn giúp đở người khác, nhớ mục tiêu là trở về với Thượng Ðế.
Ðừng mong tiến hóa lấy riêng mình, không thể nào có chuyện ấy. Nếu muốn chạy đua vượt lên trước người khác, thì không bao giờ đến được thượng đỉnh. Bỏ lại người khác là cách tốt nhất để thục lùi, rồi phải bắt đầu trở lại. Cần phải thương yêu lẫn nhau, giúp đở người khác cùng tiến với mình.
Tự ta ghi chép lấy vào cuốn sổ của ta. Không có tòa án, không có quan tòa râu bạc nào, ngoài lương tâm của chính ta, không thể che đậy gì được, không thể trốn chạy đâu được.
Những tầng cao hơn có nghĩa là những trình độ thức-giác cao hơn, chứ không phải là ở tầng lớp cao hơn, vì các giới cùng ở một nơi. Muốn được tiến lên tầng cao, cần nhiều công phu học hỏi, những người ở tầng trên mà muốn xuống tầng dưới thì rất dễ-dàng. Người ở tầng dưới không thấy được người ở tầng trên, nhưng người trên thấy rõ người dưới, đại khái cũng như chúng tôi đối với người ở cõi trần. Không thể lấy lời nói của trần gian để tả trình độ sáng suốt ở mỗi tầng. Ví như một quả bóng thổi phòng bằng khinh khí, khi còn ở dưới đất là còn trông thấy và sờ mó được, nhưng khi đã cắt dây thì quả bóng bay lên, cũng như sợi dây bạc nối hồn với xác, khi chết dây đứt thì hồn lìa khỏi xác. Quả bóng lên cao trên thượng tầng không khí, người dưới đất không trông thấy nữa, nhưng ở trên cao vẫn trông thấy ở dưới. Ðó là thí dụ rất thô sơ, nhưng khó nói rõ hơn, vì tâm chí người ta bị hạn chế, không thể hiểu xa hơn được. Chúng tôi hiện nay ở cõi trung-giới, còn có liên lạc với đời vật chất, những người ở tầng trên đã đoạn tuyệt với trần gian.
Chúng tôi học hỏi ở đây, có thể lựa chọn hoặc trở lại luân hồi, hoặc tiến lên tầng trên. Tầng trên ví như tầng không khí loãng, trong một thời gian không còn liên lạc với những hồn khác và với cõi trần. Chúng tôi như là bay bổng trong một bầu khí quyển mà tần số rung động rất cao. Tạm giải thích như vậy, thật ra không có lời nào tả được. Ở đấy không khí rất mạnh, hay đúng ra là không có không khí, không có gì che đỡ những tia sáng chói lọi. Chúng tôi phải cố gắng chịu đựng ở đó, rồi lại học hỏi để tiến xa hơn nữa.
Rồi sau chúng tôi đi qua từ tinh cầu nầy sang tinh cầu khác. Chúng tôi đi trên mặt tinh cầu như người trần đi trên mặt trái đất, chỉ khác là không còn thân xác thịt nặng nề. Chúng tôi chỉ còn như là ý nghĩ (theo kinh Phật thì có lẽ đây là H ữu-tưởng-giới). Lên trên nữa thì chúng tôi chỉ còn là ánh sáng, tuy nhiên chúng tôi vẫn là chúng tôi, cái ta vẫn còn.
Những tầng trên có thể gọi là tầng thứ ba và tầng thứ bốn, những tầng chỉ khác nhau về tần số rung động. Chúng tôi phải học hỏi để có thể thích hợp được với những làn sóng ánh sáng và tiếng động nó mạnh đến độ có thể làm mù hoặc điếc những người ở cõi trần. Chúng tôi bấy giờ ở trong tình trạng như một chất dịch-thể, tuy nhiên không phải là một chất lỏng. Chúng tôi được đổ vào cái khuôn Vũ-trụ "nói thế cho dễ hiểu" và gần như hợp nhất với Vũ-trụ.
Ðó là tầng thứ ba. Tầng thứ bốn là lên ở những tinh cầu khác như Hỏa-tinh, Thủy-tinh, Mộc-tinh, Kim-tinh, Thổ-tinh..v.v. nhưng không phải là thân vật chất, mà là trình độ giác-thức cao hơn. Trên những tinh cầu đó cũng có hình thể sinh vật, nhưng khác hẳn với hình thể trên trái đất, trình độ tiến hóa các sinh vật ấy cũng khác nhau.
Nếu một linh hồn tội lỗi nhiều kinh khủng đến độ cần phải tới ngàn triệu đời sống mới chuộc được, thì linh hồn ấy sẽ ở trong tình trạng tuyệt vọng nơi trái đất nầy (thí dụ như Hitler). Linh hồn ấy có khi phải nhận lấy một thân hình hoàn toàn khác mà chúng ta ở trái đất không gọi là người, ở trên một tinh cầu khắc khổ bội phần, để có thể đền bù tội lỗi nhanh chóng hơn.
Những tâm linh ở trái đất muốn tiến hóa lên những tầng cao, phải mất nhiều công phu học hỏi nâng cao tần số rung động của mình, để không những lên cao mà còn phóng mình sang tinh cầu khác. Cuộc viễn-du nầy khiến họ học hỏi được nhiều về nhữ ng định luật của Vũ-trụ. Và khi lên đến tầng thứ bốn và thứ năm, thì có thể ở trên nhiều tinh cầu cùng một lúc, vì khi đó với thức-giác cao, hồn có thể phân thân ra nhiều nơi.
Cao hơn hết là tầng thứ sáu, linh hồn đã đạt tới toàn thiện, có thể hợp nhất với Thượng-Ðế. Tất nhiên chúng tôi còn xa quá chưa thể biết được, nhưng được dạy cho biết rằng khi một linh hồn gần đến mức toàn thiện, phải kiểm điểm lại tất cả bao nhiêu đời đã qua, từ đời trước nhất, không còn gì vướng mắt nữa. Chúng tôi chỉ được nghe nói thế thôi, những linh hồn đó không bao giờ quay ngược bánh xe vận mệnh vòng trở lại nữa.
Sáu tầng trên đây có lẽ cũng là những giới nói trong kinh Phật.
Tầng thứ nhất là cõi Dương thế mà chúng ta đương sống, có thân hình vật chất, có dục tính, thường gọi là hạ giới, kinh Phật gọi là Dục giới.
Tầng thứ hai là cõi âm, cõi của những linh hồn mới bước qua bên kia, gọi là trung giới, kinh Phật gọi là Sắc giới.
Tầng thứ ba linh hồn không còn sắc chất, là Vô Sắc giới.
Tầng thứ tư chỉ còn ý nghĩ, là Hữu Tưởng giới.
Tầng thứ năm chỉ còn ánh sáng, là Vô Tưởng giới.
Tầng thứ sáu linh hồn đạt tới toàn thiện, là Phi-Hữu-Tưởng-Phi-Vô-Tưởng-Giới, có lẽ là giới của các vị Giáo chủ: Phật, Chúa ..v.v..
Trên hết là Thượng Ðế, có thể gọi là tầng thứ bảy.
Ðó là lấy trí nhỏ mọn của tôi đoán phỏng như thế.
Sau hết, ông Ford nhắc lại rằng trong cõi trung-giới mà ông đương ở, không có thời gian: Chúng tôi nhận thấy rằng chúng tôi tồn tại luôn luôn, vô thủy vô chung. Chúng tôi có thể thấy một khoảng thời gian dài hơn người đời thấy rất nhiều, nhưng vẫn không thể biết được đâu là khởi đầu đâu là tận cùng. Chúng tôi chỉ hiểu biết rộng hơn người trần gian về mục tiêu của Thượng Ðế, nhưng chúng tôi chưa phải là hoàn toàn sáng suốt.
Hết
TTđTD sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét