I. Thuật chữa bệnh bằng Nước lạnh
Việc ứng dụng truyền Năng lượng vào cơ thể người bệnh, vào nước lã để chữa bệnh, đối với một số vị như tiến sĩ Chu Phác, tiến sĩ Nguyễn Đình Phư, tiến sĩ Nguyễn Thị Băng Tâm, nhà nghiên cứu Nguyễn Giác Phúc Hải,... thì không có gì lạ. Vậy việc dùng thuật chữa bệnh bằng nước lã, nước lạnh là có thật không, hay chỉ là trò lừa đảo, hay là trò mê tín dị đoan, lừa gạt bịp bợm.
Việc ứng dụng truyền Năng lượng vào cơ thể người bệnh, vào nước lã để chữa bệnh, đối với một số vị như tiến sĩ Chu Phác, tiến sĩ Nguyễn Đình Phư, tiến sĩ Nguyễn Thị Băng Tâm, nhà nghiên cứu Nguyễn Giác Phúc Hải,... thì không có gì lạ. Vậy việc dùng thuật chữa bệnh bằng nước lã, nước lạnh là có thật không, hay chỉ là trò lừa đảo, hay là trò mê tín dị đoan, lừa gạt bịp bợm.
Vấn đề ở đây là ai mới có năng lượng để làm nên nước chữa bệnh, vì không phải hễ ai có tu tập là cũng có thể làm ra nước chữa bệnh, đó là tùy theo căn cơ công phu Thiền định, công phu khí công, sự tu luyện với thành quả riêng của mỗi người khác nhau để truyền năng lượng tình thương vào nước.
Đối với một người bình thường, nếu tu luyện thường xuyên đúng cách thì có thể sau 10 năm đến 20 năm là đều có khả năng tạo loại nước có đặc tính chữa bệnh. Ngoại trừ những người có căn cơ riêng đặc biệt thì không cần thời gian tu luyện lâu dài. Một người có nhân duyên với một pháp môn, có phương pháp đặc biệt để thu nhận Năng lượng Vũ trụ thì sau thời gian ít tháng cũng có thể đạt được năng lực phát ra sóng với một băng tần cao... là có đủ năng lực làm ra nước chữa bệnh.
Từ trước tới nay, có thể có ít nhiều Bà con cô bác của mình cũng từng nghe nói sơ qua là đã có các vị giáo chủ của của một số tôn giáo, các đạo sĩ, các tu sĩ, ông thầy nước lạnh... đã từng dùng nước lạnh, nước lã để chữa bệnh.
Người bệnh chỉ dùng có nước lã (đúng ra không hẳn là nước lã không đâu, mà là còn phải có 1 chút xíu muối ăn Natri Clorua với công thức hóa học là NaCl) mà bệnh giảm, cũng hết, hoặc dùng thuốc Nam, Đông Y, Tây Y kết hợp với dùng nước lã giúp sức khỏe mau chóng bình phục một cách nhanh chóng. Bà con mình thường gọi đó là "nước phép", nước nhân điện, nước năng lượng, nước năng lượng địa sinh học. Mặc dù bệnh hết thật, nhưng thật ra đây cũng không phải là bùa chú, hay hẳn là phép thuật gì hết.
1. Oxy Ion Âm
Tác dụng của ion đã được các nhà khoa học trên thế giới dành nhiều thời gian để nghiên cứu và họ kết luận hầu hết các bệnh đều xuất phát từ sự mất cân bằng ion âm – dương trong cơ thể.
Các thành tựu khoa học trong nghiên cứu công năng của ion được nghi nhận bằng giải thưởng Nobel năm 2003 (https://vnexpress.net/khoa-hoc/hai-nha-khoa-hoc-my-doat-giai-nobel-hoa-hoc-2003-1988106.html). Ngày nay do môi trường ô nhiễm khiến các ion dương được sinh ra nhiều hơn, ion âm bị mất đi. Vì vậy việc lập lại trạng thái cân bằng ion cho cơ thể nhằm phục hồi sức khỏe, tăng cường sức đề kháng giúp khả năng phòng chữa bệnh là thiết yếu.
2. Sự mất cân bằng Ion
Mọi sinh loài sống trên trái đất là nhờ vào hiện tượng ion hóa mà tồn tại phát triển. Theo y học cổ truyền, mỗi con người là một tiểu vũ trụ, do vậy đều có từ trường (hàm lượng ion âm và dương).
Trong quá trình hoạt động của vũ trụ cộng với sự tác động của điều kiện sống không tốt của con người ngày nay: như cách ăn uống, chất lượng thực phẩm, môi trường sống, cách sinh hoạt… hàm lượng ion trong cơ thể con người luôn thay đổi, gây nên tình trạng mất cân bằng sinh học là nguyên nhân suy giảm sức khỏe dẫn đến bệnh tật.
Theo Trung tướng - Giáo sư - Tiến Sĩ - Lê Thế Trung, Nguyên Giám đốc học viện quân y: Trong quá trình hoạt động sống, do lao động gắng sức, đau đầu, mất ngủ, căng cơ… do vậy việc tăng cường ion, sẽ khắc phục được tình trạng thiếu hụt ion âm và đáp ứng được yêu cầu cân bằng ion của cơ thể.
3. Ion Âm có tác dụng phòng và hỗ trợ điều trị một số chứng bệnh như:
Suy nhược thần kinh, kém ăn, mất ngủ, thần kinh bại liệt, chân tay run, tê thấp, ổn định huyết áp, đái đường, đái dầm; đau lưng; nhức mỏi, bị sưng bầm; các bệnh đường hô hấp, hen suyễn; phục hồi di chứng sau tai biến, tim mạch, tiêu hóa (viêm loét dạ dày, hành tá tràng, viêm đại tràng mãn, tiểu đường, trĩ,…); hô hấp (viêm xoang, mũi họng, viêm phế quản mãn, hen phế quản); nội tiết (đái tháo đường, giảm ham muốn tình dục,…); tiết niệu, sinh dục (u xơ tiền liệt tuyến, đái dầm…); cơ quan vận động (viêm khớp dạng thấp, thoái hóa xương khớp, di chứng teo cơ, cứng khớp…)
Ion âm có tác dụng kích thích cơ quan tạo máu, hệ thống miễn dịch, nội tiết, điều hòa hoạt động của các cơ quan trong cơ thể, ngăn ngừa trạng thái lão hóa của tế bào, hạn chế sự phát triển của các tế bào ung thư… từ đó có khả năng kéo dài tuổi thọ cho con người.
Hiện nay Bộ Y tế đã công nhận liệu pháp sử dụng ion trong chăm sóc sức khỏe và chữa bệnh, và đã phép Nhà máy thông tin điện tử Z75 Bộ quốc phòng sản xuất một số máy tạo ra ion để cung cấp các bệnh viện Quân y 103, 108, 175... cho cả thị trường và được đánh giá cao.
Qua đó, các nhà khoa học cho rằng: Sở dĩ nước chữa bệnh được là nhờ trong đó có nhiều Oxy mang điện tích ion âm, cho nên việc dùng nước lạnh, nước lã chữa bệnh không còn là chuyện hoang đường, hay mê tín dị đoan gì hết.
Vì ai cũng biết là Oxy từ không khí rất cần thiết cho sự sống, cho sự trao đổi chất, trao đổi năng lượng cho cơ thể. Riêng Oxy ion âm thì tùy nơi, tùy vùng có địa hình khác nhau và tùy theo mỗi cơ thể mà sự tồn tại Oxy ion âm theo từng mật độ khác nhau.
4. Oxy Ion âm thường có ở đâu nhiều?
Bà con mình cũng đã ít nhiều đi nghĩ ngơi nghĩ dưỡng ở nơi có thác nước lớn, các Vùng núi, vùng biển, trong các khu rừng để "đổi gió" cho khỏe... thường có được cảm giác khỏe khoắn hơn trước khi đến đó... Chúng ta có thấy đúng rồi phải vậy không?
Thứ nhất là không khí ở khu vực có thác nước lớn, ở gần biển là có gió từ biển thổi vào rất trong lành, thứ hai không khí rất giàu Oxy, thứ ba là có sự xuất hiện của các Oxy ion âm giúp cho người bệnh chóng bình phục. Bản thân các núi đá luôn tích giữ năng lượng rất cao, năng lượng này đã giúp hơi nước tách ra các nguyên tử Oxy ion âm.
Những vùng đất đá trên núi luôn có một nguồn năng lượng rất lớn, khi chúng ta nằm nghĩ ngơi trên những tản đá lớn cũng sẽ thu nhận được những năng lượng quý báu này. Và khi những dòng nước chảy qua những vùng có đất đá trên núi luôn nhận được những năng lượng. Do đó, nước ở đây vừa giàu năng lượng và giàu Oxy ion âm đã giúp con người và các loài động vật uống vào sẽ thấy khỏe hơn bình thường là vậy.
Lưu ý là nước ở bên dưới thác nước có năng lượng và ion âm lớn hơn nước ở trên đầu thác lớn. Bà con mình có đã có nhiều cơ hội xem thác nước mà chưa biết nó quý, nên chúng ta chỉ thấy thỉnh thoảng có một ít người xuống tắm và múc đổ vô chai, bình để mang về nhà dùng.
Khoa học hiện đại đã phát hiện ra rằng những vùng núi, thác nước, vùng biển luôn có mật độ Oxy ion âm cao hơn nhiều địa hình khác. Sở dĩ diễn đàn đề cập đến ion âm là vì trong các loại nước chữa được bệnh đều có sự xuất hiện của ion âm với mật độ cao hơn nước bình thường rất nhiều.
Sau khi phát hiện ra giá trị của ion âm đối với sức khỏe, hiện nay các nhà khoa học đã đã tạo ra được các máy tạo, các mạch điện từ và đèn Led ra ion âm để chăm sóc sức khỏe và chữa bệnh. (xem Bài có liên quan: Ion Âm Với Chức Năng Sức Khỏe Con Người)
Diễn đàn tạm gọi chung các loại nước mà con người nhận từ các dòng suối thiên nhiên, từ các vị hành giả, từ các vị thiền sư, từ các bậc cao tăng, từ các vị phật tử, một số vị linh mục, các tín đồ của các tôn giáo có cao hạnh, khí công sư, các môn sinh tập luyện Nhân điện, Thiền Năng lượng Vũ trụ, tập Trường Sinh học, Cảm xạ Địa sinh học... thì có một số người có khả năng truyền năng lượng vào nước qua hình thức truyền sóng não băng tần cao vào nước lã (đúng ra không hẳn là nước lã không đâu, mà là còn phải có 1 chút xíu muối ăn Natri Clorua làm chất điện giải với công thức hóa học là NaCl. Natri là một trong những chất điện giải cơ bản trong cơ thể) mới có đủ lực phá vỡ cấu trúc của H20 qua hiện tượng điện giải H20 tạo ra Oxy ion âm (O-).
Tuy Sóng được phát ra từ não bộ (đúng ra là từ luân xa 6 thuộc tuyến Tùng) từ cơ thể người tu luyện luôn mang theo được năng lượng. Nhưng muốn tạo ra được Oxy ion âm trong nước thì đòi hỏi năng lượng cao và băng tần cao mới làm cho nước bình thường có thêm đặc tính tăng cường sức khỏe, giúp bệnh hết nhanh, sức khỏe được chóng bình phục... mà diễn đàn tạm gọi là nước chữa bệnh để phân biệt với nước thông thường.
Năng lượng cao chỉ mới đáp ứng về lượng, còn sóng băng tần cao mới đáp ứng được chất. Nếu chỉ đạt số lượng mà không đủ chất lượng thì không thể nào tạo ra được nhiều Oxy ion âm.
5. Vì sao nước chữa bệnh được?
Nội dung trình bày ngắn sau đây sẽ giải mã cái bí mật hàng ngàn năm về nước chữa bệnh dưới sự phân tích trong khoa học hiện đại (riêng về mặt tâm linh diễn đàn chưa có đề cập ở đây) Viện sĩ thông tin y học Vaxili kixeelep (Liên Xô cũ) nói: "Bất kỳ bệnh nào cũng gắn liền với sự hao hụt năng lượng do bị các tế bào hấp thu".
Theo lý luận y học phương Đông, bệnh do thất tình (hỷ, nộ, ái, ố, bi, kinh, khủng) và lòng tham, sân, si làm tổn thương thần khí cũng như mất cân bằng âm dương của cơ quan, nội tạng này được bổ sung năng lượng âm dương đạt đến mức đầy đủ theo hằng số sinh lý bình thường. Lúc đó, chức năng tự điều chỉnh của tế bào, mô và cơ quan nội tạng đó sẽ tự động được phục hồi, nhờ đó mà bệnh sẽ được đẩy lùi một cách dễ dàng.
Nước đã nạp năng lượng ion âm có thể bảo quản được nhiều ngày trong chỗ mát (không để trong tủ lạnh lâu quá 3 ngày vì sẽ sẽ phá hủy cấu trúc thông tin năng lượng của nước).
Có thể nói, các bệnh đều xuất phát từ rối loạn cân bằng năng lượng trong trường sinh học. Chữa bệnh bằng cách truyền năng lượng là làm ổn định sự rối loạn đó và bổ sung năng lượng thiếu hụt của người bệnh, đồng thời tẩy sạch các kênh năng lượng (các kinh mạch) nằm dọc theo cột sống không để đoạn nào bị tắc nghẽn.
Để tạm giải mã bí mật này, diễn đàn xin lấy trường hợp chữa bệnh bằng Nước Lã của cụ danh y Nguyễn Đức Cần, bà con mình thường gọi cụ Trưởng Cần là một vị lương y lừng danh một thời ở Thanh Mai - Hà Nội.
Cụ Nguyễn Đức Cần (1909-1983) người làng Đại Yên, phường Ngọc Hà, quận Ba Đình, Hà Nội. Được theo học một vị thầy huyền bí từ khi còn ít tuổi, sau nhiều năm theo thầy đi khắp nơi để học nghề và chữa bệnh, cụ về quê và bắt đầu chữa bệnh cho mọi người từ những năm 1940 và được nhiều người biết đến vào những năm 1970 của thế kỷ trước.
Phương pháp chữa bệnh của cụ rất đặc biệt và cho đến nay mới được lý giải cặn kẽ. Cụ đã chữa khỏi cho hàng vạn người với đủ các loại bệnh khác nhau mà không dùng đến thuốc, thậm chí không cần tiếp xúc với người bệnh bằng phép, bằng đạo phù, bằng thuật chữa bệnh từ xa qua thư từ, điện thoại, thậm chí chỉ bằng một cốc nước lạnh, một ly trà... mà không cần thuốc thang gì hết.
Thật ra là trước khi Cụ Trưởng Cần trao nước cho các người bệnh là Cụ đã cho nước đó vào một cái chai rồi đặt phía trước mặt của Cụ rồi Cụ thiền trong khoảng 30 phút. Trong 30 phút đó, Cụ gửi Năng lượng tình thương của mình vào trong nước. Cho nên, nước chữa bệnh của Cụ Trưởng Cần đã có Năng lượng tình thương trong đó, không có năng lượng nào cao hơn năng lượng tình thương.
6. Làm thế nào mà Cụ Trưởng Cần có năng lượng dồi dào để truyền vào nước.
Là do Cụ thường xuyên tham thiền, qua thiền sẽ giúp Cụ thu nhận được nhiều năng lượng để tái nạp vào nước thường thành nước chữa bệnh.
Năng lượng tình thương sẽ giúp hóa giải bệnh tật với những ai mà Cụ và họ có nhân duyên. Năng lượng này đã làm cho cấu trúc của nước thay đổi, trong đó sẽ có hiện tượng làm gia tăng mặt độ của Oxy mang điện tích âm (ion ÂM).
Cụ đã truyền Năng lượng tình thương (có nơi gọi tắt là truyền thần, truyền năng lượng hay truyền điện...) từ cơ thể của mình qua luân xa 6 đi vào nước để tạo ra sự phân cực, sự thay đổi cấu trúc của phân tử nước, trong đó họ có thể tạo ra những nguyên tử Oxy mang điện tích âm (ion Âm) để trung hòa ion dương dư thừa trong cơ thể con người, giúp cơ thể quân bình được ion âm và ion dương.
Một cơ thể mang các triệu chứng của bệnh tật là báo hiệu cho ta thấy sự quân bình âm dương trong cơ thể đã bị mất đi sự quân bình, không ổn định. Khi âm dương không quân bình thì sẽ ảnh hưởng đến ngũ hành. Ngũ hành là có liên quan đến lục phủ - ngũ tạng. Khi ngũ hành mất quân bình là kháng thể sẽ bị yếu dần dễ tạo môi trường thuận lợi cho mầm móng bệnh tật phát triển cũng là lẽ bình thường.
Sau khi âm dương được cân bằng thì ngũ hành cũng được quân bình, ổn định. Khi cơ thể ổn định được ngũ hành thì bệnh sẽ tự lui dần là vậy.
Thông thường trong nước vẫn có những nguyên tử Oxy mang điện tích âm, nhiều nhất là nước suối ở vùng núi cao. Nếu nước được nhận thêm năng lượng thì sẽ tạo được thêm nhiều ion âm.
Hình 4 nguyên tử Oxy mang điện tích âm (O2-) có 4 mối liên kết theo hình Kim tự tháp.
Những người tu thiền thu nhận được năng lượng vào cơ thể, năng lượng này để tái cấu trúc Phân tử nước (H2O) đã cho ra những nguyên tử Oxy mang điện tích âm.
Qua cuộc sống thực tiễn đã chứng minh thấy là những người luyện tập Yoga, Thiền định, Khí Công, Nhân điện, Thiền Năng lượng Vũ trụ, Cảm xạ, các vị Thiền sư, Đạo sĩ có áp dụng các phương pháp khác nhau để giúp cơ thể họ nhận được năng lượng từ thiên nhiên, từ vũ trụ để giúp cơ thể họ tự điều chỉnh quân bình được âm dương, nên họ luôn mạnh khỏe là vậy.
Trước đây, do những rào cản về nhận thức và nhân sinh quan hạn hẹp, do những rào cản về nhận thức và nhân sinh quan thời đó, phương pháp chữa bệnh bằng nước của cụ từng bị coi là mê tín dị đoan, lừa bịp, ma thuật, phù thủy…
Tuy nhiên trong thực tế, Cụ là một con người hiền hậu, sống giản dị, có tình thương bao la với mọi người, không cần danh lợi.
Đã có nhiều nhà nghiên cứu, các giáo sư, bác sĩ, các nhà khoa học tìm hiểu cách chữa bệnh, nhiều bài báo đăng tải những kỳ tích chữa bệnh và đạo đức của cụ. Tập hợp những nghiên cứu đó, vào năm 2009, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Cụ, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin đã xuất bản cuốn “Nguyễn Đức Cần - Nhà văn hóa tâm linh” do Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải và Nguyễn Tài Đức biên soạn (đã tái bản năm 2010 ).
Ngoài chữa bệnh Cụ còn có khả năng dự báo một số sự kiện mà sau này được kiểm chứng là chính xác. Có nhiều người tìm cách giải thích cơ chế và phương pháp chữa bệnh của Cụ, nhưng cho đến nay vẫn chưa có sự giải thích nào thỏa đáng.
Cụ kể cho mọi người nghe về các bệnh nhân, có những người ở Pháp, ở Canada, ở những miền rất xa xôi, người ta gửi những lá thư nói về những hiệu quả của việc chữa bệnh của cụ và lòng biết ơn của họ đối với cụ.
Một lần, khi cụ đang ăn cơm chiều, thì có một người khách đến nhà. Lúc đầu, bà ta còn ngồi bên ngoài cửa, sau thấy cứ ngồi xích dần vào gần chỗ cụ đang ngồi ăn cơm, nhưng lúc đó đã có nhiều người ngồi kín vây quanh cụ rồi và họ đang lắng nghe cụ nói chuyện…
Chợt cụ dừng lại, nhìn người khách mới đến với vẻ bao dung nhân từ. Cụ nói: Ồ, tôi xin lỗi bà. Rồi cụ bảo một chị: Cô cho Thầy xin chiếc bát và đôi đũa để mời bà đây sơi cơm. Chúng tôi nhìn thấy vẻ mặt hân hoan của người khách mới đến vì được ngồi ăn cơm cùng cụ.
Bữa cơm của cụ thật đơn sơ và đạm bạc, thường chỉ là một thứ rau gì đó, mấy hạt lạc rang, đôi ba chén rượu hoặc có thêm vài bìa đậu phụ mà thôi. Điều mà ai cũng phải ngạc nhiên khi nhìn thấy nồi cơm nhà cụ, nó quá bé, tưởng chừng chưa đủ để xới được hai bát cơm nhỏ. Thế mà có bữa sáng cụ ăn không hết, buổi chiều cụ chỉ ăn bát cơm rang lại là xong bữa. Cụ vẫn nói vui rằng: Dạ dày tôi chỉ bé bằng quả quýt, thì ăn làm gì cho nhiều.
Bà cụ Chút, một người em họ của cụ, có thời thường đến nhà thổi cơm giúp cho cụ, kể với chúng tôi rằng: Từ xưa ông vẫn dùng cái nồi cơm bé xíu ấy, mà bữa cơm của ông cụ có gì đâu, thường quanh năm chỉ có cơm cà với nước rau, có hôm nước rau còn không có thì cơm cà chan với nước lã lấy từ bể nước mưa ở cuối sân nhà.
Mỗi khi được ăn cơm cùng với cụ, dù ít hay đông người, ai cũng thấy no lòng và sung sướng, mà cũng thật lạ vẫn chỉ có chiếc nồi cơm nhỏ bé đó, thế mà mãi không hết. Còn Cụ thì nói vui rằng: Đó là nồi cơm Thạch Sanh.
Sở dĩ tuy mọi người ăn cũng ít cơm thôi, nhưng nhờ nước lã ở nhà Cụ đã được truyền năng lượng thật dồi dào nên mọi người dùng cơm tuy ít nhưng cũng thấy no như đã ăn đầy đủ bình thường.
7. Câu chuyện thứ hai về chữa bệnh, hóa giải bằng Nước.
Một buổi chiều thu năm ấy, khi tôi đang đứng chơi ở sân nhà cụ thì có một người con gái dắt xe vào nhà cụ. Người con gái này làm tôi ngạc nhiên vì khi tôi nhìn vào đôi mắt cô ta, chỉ thấy toàn lòng trắng, nghĩa là cô đang trợn ngược đôi mắt, nhưng lạ thay vẫn thấy cô ta dắt xe đi lại bình thường. Cô gái dựng xe ở sân và bước vào trong nhà.
Thấy việc này có vẻ kỳ lạ và vốn tôi lại hay tò mò, nên tôi cũng vào nhà theo để xem sự tình như thế nào. Khi thấy cụ, cô gái chắp tay và nói: "Cháu lạy ông ạ” rồi đột nhiên cô ta đổi giọng tiếng nghe léo nhéo như nhiều người tranh nhau cùng nói: "Lạy ông, con này xin lên ông, nhưng giữa đường nó lại la cà xem ảnh ở sứ quán, chúng con định cho nó chui vào gầm ô tô, nhưng biết đến ông nên chúng con không dám”.
Lúc đó ngồi trong nhà cụ có rất nhiều người đến xin chữa bệnh, mọi người ngồi nghe và chứng kiến thật ngỡ ngàng, ai cũng há cả mồm ra mà chẳng ai nói được câu nào. Bỗng cụ từ tốn bảo: “Thôi, tha cho nó”. Tôi chưa bao giờ được nghe một giọng nói thật nhẹ như cụ nói hôm đó, nó giống tựa như là giọng của một người mẹ dỗ dành đứa trẻ. Nói xong câu đó, thì cụ đứng lên đi xuống nhà dưới. Cô gái bỗng lại nói léo nhéo: "Lạy ông, để chúng con kéo lưỡi nó ra, cho nó biết". Chúng tôi thấy tự nhiên má cô ta hóp lại, lưỡi thè dài ra, khuôn mặt cô ta xám xịt, đôi mắt trợn ngược hoang dại.
Mọi người ngồi gần đó thất kinh. Bỗng cụ trở lại lên nhà. Lần này giọng cụ nghiêm khắc, cụ bảo: "Ta đã nói rồi, nếu không nghe lời ta, ta sẽ bắt hết cho lên thượng.”. Cô gái chắp ta lạy cụ lia lịa và kêu xin: "Xin ông tha cho chúng con. Xin ông tha cho chúng con”. Và cô gái trở lại bộ mặt bình thường, cụ rót nước và bảo cô ta: Cháu uống nước đi.
Ngồi trong nhà một lúc, thì cô ta đứng lên và đi ra sân. Tôi cũng ra theo và đến bên hỏi chuyện. Cô cho biết là sinh viên chuyên ngữ của một trường Đại học, nhà cô ở khu Hoàn Kiếm - Hà Nội và sau một lần đi thăm quan về thì cô bị bệnh tâm thần và cô được gia đình đưa lên xin cụ chữa bệnh. Cô nói rằng trong người cô có một lũ ma quỷ tá túc mà toàn là trẻ con.
Tôi hỏi: Họ có đông không?
Cô ta trả lời: Có nhiều người lắm.
Tôi lại hỏi: Họ có khuôn mặt như thế nào?
Cô ta trả lời: Họ luôn luôn có một bộ mặt buồn thảm, như thế này này.
Tôi thấy khuôn mặt cô đột nhiên thay đổi, từ một khuôn mặt thiếu nữ bỗng đổi sắc trông thật u tối và xám xịt, đúng là một khuôn mặt ma, trông thật khiếp sợ… Sau khi tiếp xúc và chỉ uống một ly nước của cụ Trưởng Cần trao cho... rồi đột nhiên cô lại trở vào trong nhà và tôi cũng lại vào theo, cô đã trở về trạng thái bình thường, tuy nét mặt vẫn phảng phất nỗi buồn nhưng đôi má thì đã thấy ửng đỏ…
Tôi đã được nghe những câu chuyện về ma quỷ, nhưng tôi không tin vì cho rằng đó là những câu chuyện trong cổ tích hoặc người ta phịa ra để doạ trẻ con. Nhưng khi tôi được chứng kiến cô gái này, đã hỏi chuyện cô nhiều lần thì thấy rằng những quan niệm cũ của mình phải thay đổi, vì sự thật chính là chân lý của cuộc sống. Ấn Quang đại sư, một vị cao tăng thời cận đại ở Trung Quốc, tu hành tinh tấn theo pháp môn Tịnh độ thường tụng kinh và trì chú Đại Bi.
Đại sư thường gia trì Chú Đại Bi vào nước, gạo hoặc tro sạch để cứu những chứng bệnh mà các vị thầy thuốc khác đều bó tay, hiệu nghiệm lạ lùng. Có một lần, nơi lầu Tàng Kinh của chùa phát hiện ra vô số mối trắng, đại sư ở trong thất, nghe nói, liền trì Chú vào nước bảo rưới lên loài mối, sau đó tự nhiên chúng kéo nhau đi mất. Qua phương cách chữa bệnh của Ấn Quang đại sư ta thấy có một sự khá tương đồng với phương pháp chữa bệnh của cụ Trưởng Cần.
Trong câu chuyện kể của nhà khoa học Nguyễn Phúc Giác Hải có viết: “Vậy thì cụ chữa như thế nào? Cụ lấy ra một miếng giấy, cụ bảo người bệnh đốt miếng giấy ấy trên một chậu nước rồi lấy nước ấy rửa chỗ đau của cơ thể. Rõ ràng khi thấy hiện tượng đó thì người nào cũng thấy đó là thần bí mà người ta có thể gọi là mê tín dị đoan, thế nhưng khi tôi chụp ảnh người bệnh ấy khi chưa chữa thì đầy những vẩy nến trên cơ thể và sau khi rửa cái nước đó thì sau hai tuần lễ nó đã bớt đi rất nhiều. Trước đó người bệnh đã đi chữa ở nhiều nơi nhưng không khỏi”….
Trường hợp khác: “Cụ nói với một người ngồi gần đấy đưa cho cụ cái khay trong đó có những miếng giấy. Cụ cầm miếng giấy tích năng lượng vào đó rồi cụ bảo đốt đi. Một người cầm miếng giấy đó đốt trên cốc nước rồi tôi uống cái cốc nước đó”.
Trong bài viết này tôi sử dụng khá nhiều những lời thuyết giảng của Hoà Thượng (HT) Tuyên Hoá. HT. Tuyên Hoá là một vị cao tăng đắc đạo người Trung Quốc đã chứng ngũ thông, là vị tăng sĩ diễn giải Chú Đại Bi gần với yếu nghĩa kinh và là người rất nổi tiếng trong việc bắt Ấn, kiết Ấn, trì Chú chữa bệnh. Khi nói về việc dùng nước lạnh chữa bệnh,
HT.Tuyên Hoá chỉ phương cách như sau: “Các vị xuất gia khi gặp người bệnh, trì Chú này vào trong ly nước, cho người bệnh uống thì có thể được khỏi bệnh. Để ly nước trì chú Đại Bi có được năng lực như vậy, quý vị không cần phải trì tụng toàn văn bài chú này, mà chỉ cần trì tụng câu Hô lô hô lô hê rị năm lần rồi dùng tay kiết ấn ba lần búng vào phía trên ly nước. Rồi trao cho người bệnh uống sẽ được khỏi hẳn”.
Theo sự giải thích của HT. Tuyên Hoá thì câu Chú Hô lô hô lô hê rị (trong Chú Đại Bi) chính là Bảo bát thủ nhãn ấn pháp, cũng chính là ấn pháp thứ ba trong số bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp. Ấn pháp này có công năng giải thoát cho chúng sinh khỏi những tai ương bệnh hoạn. Với phương pháp chữa bệnh theo kiểu trì Chú, Kinh Bổn Nguyện Dược Sư Lưu Ly Quang có đoạn:
"Ông Mạn Thù này: Thấy ai nam, nữ nếu có bệnh khổ thì nên nhất tâm, vì người bệnh ấy, tắm gội sức miệng sạch rồi tụng chú 108 lượt vào thức ăn, hoặc vào vị thuốc, hoặc vào nước lọc, không có vi trùng rồi đem cho uống thì bệnh khổ gì cũng đều tiêu hết".
Theo Mật tông giáo thì, Thủ Ấn là một dạng ngôn ngữ đặc thù của bàn tay do nguyện lực và nhân duyên của chư Phật, Bồ Tát hay những vị đã giác ngộ phát nguyện. Hành giả khi kết ấn tương đồng với thủ ấn của một vị Phật, Bồ Tát hay một vị nào khác thì sẽ sản sinh ra một năng lượng tương ứng hòa nhập vào thân tâm hành giả như sự cảm nhận của chính đức Phật, Bồ Tát đã cảm nhận vậy.
Phật, Bồ tát thể hiện phương tiện độ sinh của Ngài bằng vào uy lực gia trì. Gia trì về ba phương diện, mà thuật ngữ gọi là “Tam mật du - già”, tương xứng theo ba hành nghiệp của một chúng sinh: thân, miệng và ý. Sự gia trì, tức uy lực hỗ trợ của Phật, được thể hiện nơi thân của một chúng sinh qua các tư thế ngồi và các thủ ấn, nghĩa là các ngón tay của hai bàn tay giao nhau trong một tư thế nào đó đã quy định. Gia trì nơi miệng được thể hiện qua sự tụng niệm các chân ngôn. Ý mật gia trì nhờ sự quán tưởng về hình tướng Phật, hay các văn tự theo lối viết Brahmi, mà trong Phật giáo gọi là tự mẫu tất - đàm…
8. Chữa bệnh bằng việc viết một nội dung hay ký tự vào một tờ giấy
Hoà Thượng Tuyên Hoá cũng kể rằng, ở Trung Quốc nhiều người đều biết có một vị Tiên nhân, biết sử dụng một ấn chú gọi là “Phiên thiên ấn”. Bồ tát Quán Thế Âm gọi là “Bảo ấn” Chính là Tát bà tát bà trong Chú Đại Bi.
Khi luyện công phu tu tập thành tựu rồi, nếu có người vừa mới chết hoặc sắp chết, quý vị chỉ cần trì ấn này vào một tờ giấy, và viết vài dòng cho Diêm vương: “Hãy tha cho người này sống lại ngay. Hay hãy tha cho anh ta trở về dương gian”. Diêm vương không dám từ chối. Diệu dụng của Bảo ấn có thể giúp cho người chết sống lại.
Vì sao vậy? Vì quí vị đã có được Bảo ấn này cũng như ấn của vua vậy. Trên chiếu thư có ngọc ấn của vua thì khắp thiên hạ, ai có trách nhiệm gì cũng phải tuân theo chiếu thư mà thi hành, không ai dám chống lại. Với Bảo ấn, quí vị có thể làm lợi lạc, an vui cho mọi loài chúng sinh. Quí vị có thể chỉ bảo cho họ biết sự lợi lạc để phát nguyện hành trì. Và sẽ đạt được sự an lành. Vì vậy nên gọi là "Nhất thiết lợi lạc". Việc chữa bệnh bằng việc trì ấn vào một tờ giấy với một nội dung hoặc một ký tự nhất định rồi đốt đi theo phương cách trên ta thấy không khác nhiều so với phương pháp chữa bệnh của cụ Trưởng Cần.
Hầu hết, những bệnh nhân được cụ chữa đều theo phương pháp này. Với phương cách này cụ có thể chữa được bệnh cho nhiều bệnh nhân ở rất xa (Đức, Tiệp, Canada…) mà không cần bất kỳ một loại thuốc nào ngoài trường năng lượng đã được cụ truyền vào tờ giấy hay truyền vào một lá thư. Có rất nhiều bệnh nhân được cụ chữa theo phương pháp này. Bài viết có hạn, tôi xin được trích dẫn một số trường hợp về phương cách chữa bệnh này của cụ.
“Tôi có lên thưa lại với cụ thì cụ lại cho một mảnh giấy mang về, cụ dặn để trong người cho cô ấy yên tâm, cho thần kinh ổn định.
- Thưa ông, xin ông cho biết mảnh giấy ấy như thế nào?
- Mảnh giấy đó chỉ bằng cái bao diêm thôi, cụ viết một chữ vào đấy, sau đó cứ mỗi một tuần là tôi lên xin cụ, khoảng 4 tháng sau thì nhà tôi đã có thể tự lên trên cụ một mình và khoảng gần một năm thì nhà tôi khỏi hẳn."
Trường hợp khác: “Tôi lên cụ, cụ cho mảnh giấy đề chữ sót rau, thế là hôm sau cháu khỏi, đến bệnh viện cũng phải ngạc nhiên. Cháu nội tôi bị chàm, cụ cho miếng giấy đặt lên trán, thế là khỏi. Đúng là một sự kỳ lạ…”.
Qua lời kể của các bệnh nhân được cụ chữa thì họ chỉ nói là cụ viết một ký hiệu nào đó trên một tờ giấy nhỏ, sau đó đưa cho người bệnh đem về đốt hoặc dán lên chỗ đau, sau một thời gian bệnh nhân khỏi bệnh.
Trước khi cụ đưa tờ giấy đó, sau khi người bệnh mang về, cụ làm gì không ai biết được. Tôi chưa thấy một tư liệu nào nói về vấn đề đó.
Với phương cách chữa trị bệnh của cụ Trưởng Cần, hiện nay có người cho rằng, khả năng là Cụ sai “âm binh” hoặc một thế lực siêu nhiên chữa bệnh. Đây là một dự đoán không phải là không có cơ sở. Nếu dựa theo thuyết lý Phật đạo ta sẽ thấy người chữa bệnh cho cụ chính là những chúng sinh phát tâm nguyện gia bị, hộ trì cho hành giả phát tâm tụng kinh, trì Chú.
Trong Kinh Đà Ra Ni, Bồ Tát Quán Thế Âm nói: “Chúng sinh nào tụng trì thần chú này, có thể trị lành tám muôn bốn ngàn thứ bệnh ở thế gian, hàng phục các thiên ma, ngoại đạo, sai khiến được tất cả quỷ thần…
Nếu hành giả có thể tụng trì đúng pháp, khởi lòng thương xót tất cả chúng sinh, lúc ấy ta sẽ sắc cho tất cả thiện thần, long vương, kim cang mật tích thường theo ủng hộ, không rời bên mình, như giữ gìn tròng con mắt hoặc thân mạng của chính họ…
Các vị thiện thần này cùng thần long vương, thần Mẫu Nữ đều có 500 đại lực dạ xoa làm quyến thuộc, thường theo ủng hộ người thọ trì thần chú Đại Bi. Long vương hóa làm người lành chỉ dẫn lối”.
Trong Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Bổn Nguyện, đức Phật nói: "Có 12 vị đại tướng Dược Xoa mỗi vị đều có bảy nghìn Dược Xoa quyến thuộc đi theo đều thề nguyện hộ trì, hộ vệ những người thọ trì Kinh Dược Sư. Nếu có người nào thọ trì danh hiệu Đức Thế Tôn.
Dược Sư Quang Lưu Ly Như Lai cung kính cúng dàng. Quyến thuộc chúng con hộ vệ người ấy, khiến cho giải thoát hết thảy khổ nạn, có cầu nguyện gì đều được đủ cả, hoặc có ai cầu thoát khỏi bệnh tật, ách nạn cũng nên đọc kinh này. Lấy chỉ ngũ sắc mà kết thành chữ tên của chúng con - các vị Đại tướng Dược Xoa được như nguyện rồi sau hãy cởi ra”. Những chúng sinh đó là:
Thiện thần, Long vương, Kim cang mật tích, đại lực Dược Xoa… Đó là những chúng sinh trong 10 pháp giới nhưng mắt người không nhìn thấy được. Đó cũng là những thế lực siêu nhiên có mặt khắp nơi trong cõi Ta Bà. Hiện tượng chữa bệnh của các vị thiền sư và cụ Trưởng Cần thể hiện sự vi diệu, bất khả tư nghì của các Kinh, Chú Phật.
Cái vi diệu, bất khả tư nghì đó đã trở thành siêu tưởng, thần bí, không thể giải thích được đối với trí tuệ thế gian. Vì sao vậy? Vì trí tuệ thế gian chỉ tiếp nhận được cái hữu hạn thông qua nhục nhãn của con người nên không thể lĩnh hội được cái vô hạn của vũ trụ mà chỉ có trí tuệ xuất thế gian mới nhìn thấu được.
Tôi nhớ, có một lần tôi kể cho một người bạn về hiện tượng dấu hiệu của người được vãng sinh lên thế giới Tây Phương Cực lạc. Sau khi chết thân thể nóng ấm như người còn sống, khuôn mặt trang nghiêm, thanh thoát. Trạng thái đó kéo dài 3 - 7 ngày tuỳ theo nghiệp lực của mỗi người.
Người bạn đó bảo tôi là phi vật lý, hoang đường và cho đó là những trò lừa bịp của Phật giáo. Đó là cái nhìn của trí tuệ thế gian còn đối với những Phật tử theo Tịnh Độ Tông thì đó là bình thường và thực tế sau khi chết rất nhiều người tu theo pháp môn này có hiện tượng như vậy. Sau khi giải thích sự diệu dụng của Chú Đại Bi và 42 Thủ nhãn Ấn pháp.
HT. Tuyên hoá đã nói: “Những điều tôi phân tích trên đây có thể những bạn đọc mới phát sơ tâm bồ tát thất thật khó tin và nghi ngờ. Đức Phật đã hiểu điều đó vì căn cơ của chúng sinh Nam Diêm Phù Đề không dễ gì lãnh hội được những điều uyên thâm, vi diệu trong kinh điển Phật”.
Đức Phật Thích Ca Mầu Ni trong Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Bổn Nguyện hiểu được trí tuệ thế gian của con người cũng thốt lên rằng: “Như ta khen ngợi công đức bổn nguyện của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đó là những chỗ hành vi rất sâu của các đức Phật khó hiểu suốt lắm, ông có tin không?…
Ông A-Nan ơi! làm được thân người đã là khó lắm nghe được danh hiệu Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thời lại khó hơn”. Nghiên cứu tiếp sự diệu dụng của Bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp,
HT. Tuyên Hoá nói rằng “Nếu hành giả kết một sợi dây ngũ sắc rồi hành trì quyến sách ấn pháp vào sợi dây ấy. Thành tựu rồi thì khi phóng sợi dây này ra, các loài yêu ma quỷ quái, ly mỵ vọng lượng đều bị trói chặt. Không thể nào chạy thoát được. Từ đó sẽ tìm cách giáo hóa cho các loài ấy hồi tâm hướng thiện. Đây là diệu dụng của ấn pháp này.
Mới xem qua thì có vẻ bình thường nhưng công năng thật khó lường.
Các phương pháp chữa bệnh của Phật giáo không phải ai cũng làm được. Ngoài việc luyện công tu hành, hành đạo Bồ Tát, vị thầy thuốc phải có nhân duyên với người bệnh. Có khi cùng một loại bệnh, bệnh nhân không có nhân duyên với thầy thuốc thì bệnh nhẹ trở thành bệnh nặng, bệnh nặng không những chữa không khỏi. Theo HT.Tuyên Hoá:
Tất cả đều tùy thuộc vào nhân duyên giữa hành giả và người bệnh. Nếu quý vị có nhân duyên sâu dày với người bệnh, thì khi họ uống xong nước có trì chú Đại Bi liền được khỏi bệnh.
Còn nếu người bệnh không có duyên với hành giả, thì dù họ có uống nước đã trì chú, nhưng vì họ không có niềm tin ở Bồ tát Quán Thế Âm, thì bệnh họ không được lành hẳn.
Những người vốn đã tạo nghiệp chướng sâu dày, nếu được uống nước đã trì chú vào thì không đủ tạo nên năng lực để chuyển hóa bệnh của họ. Còn nếu người có nghiệp nhẹ khi uống nước đã trì chú vào thì có thể phát sinh năng lực to lớn, tạo ra một năng lực cảm ứng đạo giao. Chính năng lực này đã chữa lành bệnh.
Viết đến đây có thể nhiều người sẽ đặt ra câu hỏi, hiện nay có một số người chữa bệnh theo phương pháp của cụ Trưởng Cần nhưng đâu có thấy tu luyện gì.
Vì sao phương pháp chữa bệnh của cụ lại là của các Thiền sư Phật giáo mà không phải các đạo giáo khác… Là vì qua tĩnh tâm thiền định là một cách thu nhận được năng lượng thanh khiết (có nơi gọi là thánh điển) của vũ trụ để giúp cho một loại nước thật bình thường nước chữa lành bệnh thật hữu hiệu.
(Nguồn: Sưu tầm)
(Nguồn: Sưu tầm)
---
II. Ion Âm với chức năng sức khỏe con người
II. Ion Âm với chức năng sức khỏe con người
Có nhiều lý thuyết đã trở thành nổi tiếng trên toàn cầu. Đó là điều trị bằng ion âm có tác dụng tốt trên các chức năng sinh lý của một cơ thể sống. Việc chăm sóc tốt cho sức khỏe, điều trị, chữa bệnh bằng ion Âm thật ra có từ lâu đời ở Ấn Độ từ cả ngàn năm trước qua hình thức tắm rữa và dùng nước của các vị đạo sư, các vị hành giả công phu luyện Khí công, tập Yoga, Thiền vá các hành giả Thiền năng lượng, Nhân điện, Năng lượng vũ trụ, Trường sinh học,...
Tiếc là người xưa không biết ion âm, họ chỉ biết dùng từ Prana (hay phương tây gọi là Energy, người Trung Hoa gọi là Qi, còn người Việt gọi là Khí và danh từ phổ biến hiện nay trong ngành Y học bổ sung, Y Năng lượng gọi chung đó là Năng lượng) để tương tác vào trong nước để chữa bệnh rất hiệu quả mà thôi.
Hành giả ngày xưa chỉ biết là sau khi Prana được truyền vào nước, vào cơ thể con người để được lưu giữ lại trong cơ thể trong một khoảng thời gian vài ngày, vài tuần hoặc vài tháng, thậm chí cả năm nếu được bảo quản nơi mát mẻ, và thời gian này cũng phụ thuộc sự công phu luyện tập của người truyền.
Những vị hành giả trên có khả năng phát khí công, phát truyền điện, truyền năng lượng vào nước để tạo ra sự phân cực, thay đổi cấu trúc của nước, trong đó họ có thể tạo ra những nguyên tử Oxy mang điện tích âm (ion Âm) để trung hòa ion dương trong cơ thể con người, giúp cơ thể quân bình được ion âm và ion dương.
Thông thường trong nước vẫn có những nguyên tử Oxy mang điện tích âm, nhiều nhất nước suối ở vùng núi cao. Nếu nước được nhận thêm năng lượng thì sẽ tạo được thêm nhiều ion âm.
Hình 4 nguyên tử Oxy mang điện tích âm có 4 mối liên kết theo hình Kim tự tháp 3 cạnh.
Do phần đông cơ thể con người bị bệnh thường có ion dương (cation) cao hơn người mạnh khỏe bình thường. Cho nên sau một thời gian người bị bệnh dùng nước lã có chứa ion âm (anion) này sẽ dễ phục hồi hồi sức khỏe, chóng hết bệnh cũng không có gì lạ:
- Nghiên cứu tìm ra rằng các ion âm có tác dụng tích cực trong kiểm soát hệ thần kinh và làm giảm căng thẳng, đau đầu và giảm suy nhược thần kinh.
- Nghiên cứu lâm sàng chỉ ra rằng hầu hết mọi người được trải nghiệm cho kết quả là các chức năng nội tạng trở nên tốt hơn, dạ dày có tác dụng nhanh nhất, và chức năng gan được cải thiện, từ đó nhiều chất độc đã bị trục xuất. Loại bỏ táo bón và đau dạ dày cũng như phục hồi nhanh chóng sự mệt mỏi cũng là kết quả được tìm thấy.
- Báo cáo cho rằng các triệu chứng tê liệt đã được giảm đáng kể sau khi cung cấp ion âm trong 30 ngày. Sau 90 ngày điều trị, bệnh nhân hồi phục hoàn toàn. Báo cáo chỉ ra rằng các ion âm rất hiệu quả trong điều trị xơ cứng vai, cũng như tình trạng tê liệt gây ra bởi hệ thống thần kinh.
- Nghiên cứu chỉ ra hiệu quả giảm đau của các ion âm có tác dụng đáng chú ý đối với trường hợp đau đầu và đau dây thần kinh.
Các chuyên gia khoa học tin rằng: nhu cầu của con người mỗi ngày 130 triệu ion Âm, và phòng làm việc, nhà ở, nơi giải trí, chẳng hạn như môi trường chỉ có thể cung cấp khoảng 100 triệu ion âm 2-20 thì dễ dẫn đến viêm phế quản, viêm phổi và các bệnh hô hấp khác; ion âm hấp thu sau 8h30 phút.
Sự hấp thụ oxy của phổi tăng lên nhiều hơn 20% so với 5% lượng khí carbon dioxit 14 đã được công nhận dùng trong y tế để diệt khuẩn và là phương tiện hiệu quả để làm sạch không khí.
Chủ yếu là do cơ chế khi anion gắn kết với vi khuẩn, vi khuẩn bị làm thay đổi cấu trúc hoặc chuyển năng lượng, dẫn đến cái chết của vi khuẩn và rơi xuống đất. Ion âm cũng như ion dương đều có trong không khí.
Trong không khí có khói, bụi, virus, vi khuẩn và các tác nhân gây bệnh khác. Hoạt hóa để làm sạch không khí, khử trùng, loại bỏ thuốc lá, thêm nữa là vai trò của bụi.
2. I-on và I-on Âm là gì?
Trong không gian luôn tồn tại rất nhiều các hạt trôi nổi tự do. Các hạt mang điện tích được gọi là I-on. Các I-on này hay còn được gọi tên khoa học là các nguyên tử, phân tử hay cụm phân tử có thể phóng một lượng điện nhỏ trong không khí.
Trong không gian luôn tồn tại rất nhiều các hạt trôi nổi tự do. Các hạt mang điện tích được gọi là I-on. Các I-on này hay còn được gọi tên khoa học là các nguyên tử, phân tử hay cụm phân tử có thể phóng một lượng điện nhỏ trong không khí.
Chúng có thể đi vào cơ thể mỗi người và trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống sức khỏe của chúng ta. I-on được tồn tại dưới hai dạng điện là Âm và Dương.
Các I-on Âm hay Anion là các hạt có thể phóng điện Âm khi ở trạng thái trung tính có thể nhận thêm một hay nhiều điện tử Electron. I-on Âm là các hạt có lợi giúp tăng cường năng lượng sống nên I-on Âm hay còn được gọi là “Vitamin trong không khí”. Nói cách khác Ion Âm chính là các Oxy nguyên tử mang điện tích âm.
Các I-on Dương hay Cation là các hạt có thể phóng điện Dương khi ở trạng thái trung tính có thể bị mất đi một hay nhiều Electron. I-on Dương là các hạt có hại gây tổn hao năng lượng.
Một Anion khi kết hợp một Cation trong không khí theo ma trận 1:1 sẽ trung hòa lẫn nhau. Điều này có nghĩa mỗi I-on Âm sẽ trung hòa vô hiệu hóa I-on Dương có hại.
3. Sự hình thành của I-on Anion
a) Anion là gì?
Anion được gọi là các hạt oxy trong không khí hoặc những vitamin trong không khí toả ra ở thác nước hoặc trong những khu rừng rậm. Khi chúng ta ở trong núi và cảm thấy tươi mát, tinh thần sảng khoái và toàn bộ cơ thể trở nên nhanh nhẹn, đó là vì hiệu quả của các anion.
a) Anion là gì?
Anion được gọi là các hạt oxy trong không khí hoặc những vitamin trong không khí toả ra ở thác nước hoặc trong những khu rừng rậm. Khi chúng ta ở trong núi và cảm thấy tươi mát, tinh thần sảng khoái và toàn bộ cơ thể trở nên nhanh nhẹn, đó là vì hiệu quả của các anion.
Đó là bởi vì các anion được hấp thụ qua da bằng cách hít thở trong núi. Các anion hấp thụ trong cơ thể hoạt động khôi phục lại trong cơ thể và loại bỏ oxy hoạt động là thứ mệt mỏi. Đó là lý do tại sao nếu chúng ta đi trong núi, tâm trí sáng suốt và toàn bộ cơ thể trở nên nhanh nhẹn. Anion bên trong cơ thể làm một vai trò phục hồi từ sự mệt mỏi. Họ nói rằng anion có thể được hấp thụ qua đường thở 10 ~ 20%, thông qua da 60 ~ 70%.
b) Hiệu quả của vitamin anion trong không khí
Anion trong không khí tự nhiên trung hòa ảnh hưởng xấu của cation và giữ sự cân bằng của nó và khôi phục các chức năng tế bào bằng cách trung hòa oxy hóa các chất liệu trong cơ thể là nguyên nhân gây lão hóa và các bệnh tật và gia tăng quá trình trao đổi chất, tăng sức đề kháng, và mức độ miễn dịch.
Chúng cũng hoạt động thanh lọc máu, phục hồi do mệt mỏi, dây thần kinh chủ ổn định, giảm bớt đau, loại bỏ các chất gây dị ứng và có một kháng sinh tuyệt vời trên vi trùng hoặc mốc.
4. I-on trong tự nhiên:
I-on trong không khí khi được nhận thêm Electron sẽ chuyển thành Ion – Âm. Đó cũng là nguyên lý vật lý về sự chuyển hóa năng lượng. I-on không tự nhiên mất đi hay tự nhiên sinh ra mà chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác.
I-on không tồn tại lâu trong không khí. Quá trình hình thành và mất đi của I-on diễn ra liên tục khi có đủ tác động.
Năng lượng của các tia chớp, tia hồng ngoại và các tia trong không gian vũ trụ khác (ngoài hai tia vừa kể) là tác nhân chính tạo nên I-on.
Mật độ, số lượng I-on ở điều kiện môi trường khác nhau là khác nhau. Có thể thấy qua biểu thống kê đã được thực nghiệm như sau:
5. Mật độ I-on Âm trong tự nhiên:
Môi trường | Âm - dương | Môi trường | Âm - dương |
Thác, suối nước | 20.000/cm3 - # | Ngoài đường | 500/cm3 - # |
Rừng núi | 10.000/cm3 - # | Trong phòng | 50/cm3 - # |
Bờ biển | 5.000/cm3 - # | Lò vi sóng | # - 4000/cm3 |
Vườn cây | 2.000/cm3 - # | Khu vực nhà máy | # - 2000/cm3 |
6. Điển hình hơn, suối thiêng vùng Lourdes ( Pháp )
Từ chỗ chỉ là một thị trấn có dòng suối nhỏ ở miền Nam nước Pháp. Ngày nay vùng Lourdes đã trở thành một địa danh nổi tiếng.
Chuyện bắt đầu xảy ra vào tháng 3 năm 1858, một cô gái Pháp tên Margrette bỗng thấy Đức Mẹ nhập vào mình và phán truyền: "Ta ban cho các con nguồn nước suối màu nhiệm này để làm dịu bớt phần nào nỗi khổ đau trên thế giới".
Được nghe kể lại lời phán truyền của Đức Mẹ, cha xứ coi suối là một thứ nước linh thiêng. Ông thử lấy nước đó nhỏ vào mắt anh mù Sactơlê. Lạ thay, ngay lúc đó đôi mắt anh sáng trở lại và đọc được dòng chữ viết từ mảnh giấy của cha xứ.
Tin đó lập tức lan đi rất nhanh, một cô gái Charlotte bị liệt từ lâu không đứng lên được liền được đưa đến suối Lourdes, cô thấy khỏe ra và đi lại bình thường sau khi uống nước suối Lourdes. Một cụ già bị hen mãn tính, mới uống có hai lần thuốc nước suối đã dứt hẳn cơn hen.
Ngoài những người có bệnh tật tìm đến còn có rất nhiều nhà báo, nhà nghiên cứu, bác học cũng tới. Vùng Lourdes xa xôi vắng vẻ trước đây nay bỗng trở nên sầm uất, náo nhiệt vì người đến cầu xin khỏi bệnh, lấy tin tức, xác định khảo cứu,...
Trước đây, nhiều nhà khoa học, các nhà nghiên cứu trên thế giới đã bỏ ra hàng chục năm nghiên cứu nhưng không giải mã được bí mặt nước lã của suối nước ở Lourdes. Giờ đây họ mới phát hiện ra rằng "nước suối ở Lourdes có chứa rất nhiều Oxy mang điện tích ÂM (ion Âm)" với mật độ cao hơn nước thiên nhiên ở những địa phương khác.
Thông thường những khu vực thuộc vùng núi và vùng biển là những nơi có năng lượng rất cao, nên các hành giả, thiền sư thường đến những nơi đây để luyện Yoga và thiền. Những nơi có năng lượng cao là những nơi có chỉ số Bovis cao và mặt độ ion âm cũng cao hơn những nơi khác.
Nhưng riêng vùng Lourdes là nơi chỉ số Bovis rất cao, cao hơn nhiều vùng núi khác trên thế giới. Vì vậy, những người đến nơi đây luôn cảm thấy khỏe hơn.
Do cơ thể của một số trường hợp bệnh có chỉ số ion dương cao hơn ion âm nên họ dễ mắc bệnh, sau khi dùng nước suối có mật độ ion ÂM cao... đã trung hòa được được ion dương dư thừa... để giúp cơ thể trở về trạng thái quân bình trung hòa, nên mau hết bệnh, sức khỏe chóng phục hồi là vậy. (Lưu ý là cơ thể của người bệnh ung thư và viêm khớp luôn có mật độ ion dương cao. Bệnh thấp áp luôn có mật độ ion âm thấp)
Chính quyền địa phương đã tổ chức và khai thác rất tốt địa điểm này, họ đã biến nơi đây thành một địa chỉ du lịch nổi tiếng không chỉ ở nước Pháp mà gần như khắp thế giới.
7. Ảnh hưởng của mật độ I-on âm đến sức khỏe
- Trong phòng có mật độ ion âm ít hơn 50/cm3 như phòng hút thuốc, chúng ta có cảm giác ngột ngạt. Đây là môi trường dễ phát sinh vi khuẩn.
- Khi ở trong khu vực có mật độ ion âm ít hơn 1.000/cm3, cơ thể có cảm giác cần được thông gió.
- Khu vực với mật độ ion âm 2.000 ~ 20.000/cm3 cho ta một cảm giác không khí trong lành, tươi sạch.
- Với mật độ ion âm trên 20.000/cm3, con người sẽ có cảm giác hưng phấn, sảng khoái. Môi trường này còn có tác dụng ngăn không cho vi khuẩn phát triển.
8. Công dụng của đèn LED ion âm:
· Ngăn chặn các bệnh truyền nhiễm và tăng cường khả năng miễn dịch.
· Khử trùng trong không khí: Tiêu diệt virus và vi khuẩn.
· Loại bỏ bụi bẩn kết dính và các chất ô nhiễm, chất hóa học, phần tử siêu nhỏ độc hại.
+ Bạn đặt Đèn LED ion âm trong văn phòng thì mọi áp lực sẽ được loại bỏ, tinh thần phấn chấn, tập trung cao độ cho công việc.
+ Bạn đặt Đèn LED ion âm trong phòng ngủ sẽ tạo ra không gian lãng mạn, giúp bạn ngủ sâu giấc, loại bỏ nói sảng khi ngủ, tăng sức đề kháng cho cơ thể.
+ Bạn đặt Đèn LED ion âm trong phòng khách, căn phòng khách của bạn sẽ trở nên tươi mát trong lành hơn, giảm khói bụi, mang lại cảm giác dễ chịu thư thái, loại bỏ stress.
+Ion âm giúp phái nữ làm đẹp hiệu quả nhờ khả năng hấp thụ sâu vào bên trong da, hỗ trợ tăng hiệu quả rõ rệt khi dùng các loại mỹ phẩm làm đẹp da.
(Nguồn: Sưu tầm)
---
III. Chỉ số Bovis Trong Đời Sống Sức Khỏe
Các Thiền sư, các hành giả, các học viên luyện tập qua các phương pháp Thiền nhận năng lượng vũ trụ - Nhân điện,- Yoga - Dưỡng sinh trường Sinh học, cảm xạ học... thì cơ thể có chỉ số Bovis tăng rất cao, sự tăng nhanh chóng tùy theo sự tu luyện của mình, tùy theo cấp học cao thấp mà sự tăng chỉ số Bovis cũng có sự khác nhau. Máy đo Địa từ trường (Géomagnétomètre), máy Bovis Biometer dùng đơn vị chỉ số n là Bovis. Thông thường các nhà Ðịa Sinh Học hay dùng từ ngữ: “chỉ số Bovis”. Như vậy chỉ số này nói lên điều gì?
2. Chỉ số Năng Lượng Sinh Học - Bovis
2. Chỉ số Năng Lượng Sinh Học - Bovis
Để đo năng lượng sinh học của người, động thực vật hay địa sinh học. Các nhà nghiên cứu năng lượng sinh học trên thế giới (chuyên gia cảm xạ học, chuyên gia năng lượng sinh học) luôn dùng tới chỉ số đo có tên gọi là Bovis. Chỉ số Bovis được lấy theo tên của nhà vật lý học người Pháp có tên là Antoine Bovis. Ông không chỉ là nhà vật lý nổi tiếng mà còn là một nhà cảm xạ, một nhà năng lượng cảm ứng giỏi của thế kỷ 20.
1. Chỉ số đo năng lượng của địa sinh học được lấy từ: 0 đến 20.000 đơn vị Bovis.
2. Chỉ số đo năng lượng của người, động vật được tính từ: 0 đến 400.000 đơn vị Bovis.
Đây là những chỉ số cơ bản được áp dụng vào thế kỷ 19 và thế kỷ 20. Bước sang thế kỷ 21, Các chuyên gia cảm xạ học của nhiều nước trên thế giới như: Balan, Bỉ, Đức, Mỹ… đã nghiên cứu năng lượng sinh học trên hàng triệu con người và đã thấy rằng: chỉ số đo năng lượng sinh học ở người cần áp dụng từ: 0 đến 100.000 đơn vị Bovis. Trong những trường hợp mà cơ thể có năng lượng đặc biệt thì chỉ số Bovis này có thể được sử dụng từ: 0 đến 1.000.000 đơn vị Bovis. Với những nơi có năng lượng địa sinh học đặc biệt, sẽ lấy chỉ số đo từ: 0 đến vô cực.
Chỉ số Bovis được lấy theo tên nhà vật lý Pháp Antoine Bovis. Ông đã đưa ra chỉ số này trong khi tiến hành khảo sát kim tự tháp Ai Cập trong những năm 1930.
Chỉ số Bovis dùng để đo “sức khỏe”, ”sức sống” tự nhiên của vật thể hữu cơ, đo năng lượng tự nhiên, sóng dao động của quả đất. Năng lượng này được gọi là “biophoton” tức là phân tử ánh sáng mặt không nhìn thấy được. Thứ năng lượng này là cần thiết để duy trì sự sống trên quả đất. Ðó là sự cân đo trực giác của những nhà cảm nhận năng lượng, của những người có công năng bẩm sinh họăc rèn luyện công phu.
Muốn đo được chính xác bằng phương pháp trực giác (intuition), người đó phải vô thức hoàn toàn, thực hiện nguyên lý của lão tử “không mà có”, các nhà cảm nhận năng lượng đã thực hiện một phương pháp rất hiệu quả đó là phương pháp lập trình hệ thống cảm nhận năng lượng chính xác tối đa.
Cho đến nay chưa có máy móc gì nhiều để đo chỉ số Bovis trực tiếp, giá máy rất đắt. Song cũng vẫn có cách đo chỉ số Bovis gián tiếp thật đơn giản với chi phí thấp, bằng cách người ta có dùng một số liệu pháp cộng hưởng song song với hình ảnh của Cropcircles….
Cũng không thu được kết quả. Một điều đáng ghi nhận là gần đây có nhóm nhà cảm xạ, do chỉ số Bovis một vật thể (khu đất, ngôi nhà) từ xa cho kết quả rất trùng khớp, chẳng khác gì chiếc máy. Chỉ số năng lượng Bovis đo năng lượng tự nhiên của quả đất được tính từ 0 đến vô tận.
Tóm lại, hiện nay chúng ta cũng có cách đo chỉ số Bovis cho con người và vật chất khác, bằng các phương tiện khác như dùng con lắc, cảm xạ đồ, Hào Quang Phổ... rồi dựa vào đó mà luận tính ra chỉ số Bovis một cách dễ dàng.
3. Sau đây là chỉ số Bovis của một số vật thể:
Ảnh: Máy đo chỉ số Bovis ngày nay dựa trên kỷ thuật đo Từ Trường thông thường để đo "Tia đất", mạch đất nơi ta ở để khắc chế hoặc nâng thêm sinh khí môi trường sống. |
Chỉ số Bovis càng cao thì sức khỏe càng tốt. Nếu một người chỉ có chỉ số Bovis < 5.000 thường là sức khỏe yếu, bệnh tật.
Năng lượng tối thiểu cần thiết cho con người từ 6.500 đến 10.000 Bovis hay hơn chút ít.
Một người khỏe trung bình phát ra 10.000 -15.000 Bovis nhưng nếu có công phu luyện tập chỉ số Bovis có thể lên tối đa 40.000 Bovis, điều đó nói lên khả năng trị liệu ở mức độ cao. (luyện tập qua các phương pháp Thiền - Yoga - Dưỡng sinh trường Sinh học, năng lượng vũ trụ - Nhân điện, cảm xạ học... thì cơ thể có chỉ số Bovis tăng rất cao nhanh chóng giúp tăng cường sự đề kháng của cơ thể, giảm thiểu được bệnh tật. Ngoài ra, người có chỉ số Bovis cao sẽ có khả năng hỗ trợ chữa bệnh cho nhiều người khác rất hữu hiệu.)
4. Chỉ số Bovis:
a) Chỉ số Bovis cơ thể con người:
Chỉ số Bovis của cơ thể con người bao nhiêu là tốt ?
Từ 0 đến 1.000 rất có khả năng gây ung thư.
Từ 1.000 đến 3.000 bệnh nặng.
Từ 3.000 đến 5.000 sức khỏe yếu, bệnh thường gặp và hay mắc phải.
Từ 5.000 đến 6.400 dưới bình thường một ít.
Từ 6.000 đến 6.500 bình thường.trung bình, khỏe mạnh.
Từ 6.500 đến 9.000 tốt.
Từ 9.000 đến 12.000 khá tốt.
Từ 12.000 đến 14.000 rất tốt, xúc cảm, thuận lợi sức khỏe.
Từ 14.000 đến 18.000 trí tuệ.
Từ 18.000 đến 20.000 khí lực tốt.
Từ 20.000 trở lên có công năng rất tốt.
Một người trung bình phát ra 9.000 Bovis nhưng nếu có công phu luyện tập các pháp môn Tĩnh tâm, Thiền định, như Năng Lượng Vũ Trụ - Nhân điện, cảm xạ hoc... chỉ số Bovis có thể lên tối đa 40.000 Bovis,
b) Chỉ số Bovis của đất đai, chỗ ở (nhà cửa):
c) Chỉ số Bovis của một số vật thể, như của khu đất ảnh hưởng đến sức khỏe và bệnh tật
- Từ 0 đến 1.000 đất đai nằm trên giao điểm địa từ trường họăc giao điểm của mạch nước ngầm (còn gọi là căn nhà ung thư, căn nhà có tử khí).
- Từ 1.000 đến 3.000 vùng đất có tử khí là giao điểm của mạng lưới địa từ trường - đũa dạt ra - con lắc quay ngược chiều kim đồng hồ (con gọi là căn nhà ly dị, đất sinh bệnh nặng, bệnh tiên thiên).
- Từ 3.000 đến 5.000 vùng đất có âm khí, đây là giao điểm của mạng lưới từ trường - đũa dạt ra - con lắc quay thuận (còn gọi là căn nhà bệnh tật, đất gây ra sự hao hụt năng lượng, sinh mệt mỏi thường xuyên).
- Từ 5.000 đến 6.500 có mức độ năng lượng vật lý dưới trung bình.
- Từ 6.500 là năng lượng vật lý trung bình. tương đối khỏe mạnh.
- Từ 6.500 đến 9.000 có mức độ năng lượng vật lý khá tốt,sinh khí khá tốt, địa điểm đạt yêu cầu.
- Từ 9.000 đến 12.000 đất rất tốt.
- Từ 12.000 đến 18.000 đất vượng khí.
- Từ 18.000 đến 20.000 đất long mạch, năng lượng vật lý thật tốt vượt lên tỷ lệ này thì có khả năng sinh tồn cao.
Tu Luyện, tập Yoga, Khí công, Cảm xạ học, Thiền định sẽ giúp chúng ta quân bình và tăng chỉ số Bovis. Đặc biệt là người luyện tập Yoga sau một thời gian có thể là 10 - 20 năm có thể tự khai mở được 6 Luân xa thì chỉ số Bovis sẽ cao trên từ 18.000 đến 30.000 Bovis nên sẽ tránh được nhiều bệnh tật. Chỉ số Bovis tăng là biểu hiện Năng lượng sinh học trong cơ thể tăng.
Nếu ta có nhân duyên được người có khả năng giúp chúng ta kích hoạt, khai mở 6 Luân xa thì việc tăng chỉ số Bovis sẽ tăng nhanh chóng trong một thời gian rất ngắn trong vòng vài tuần, vài tháng mà thôi.
Nếu người có năng lực giúp chúng ta trong việc kích hoạt 6 Luân xa, thì chỉ trong vòng vài phút là xong. Sau đó, người nào kiên trì tu tập Yoga -Thiền định thì chỉ số Bovis sẽ lên đến 40.000 là một điều rất bình thường, khi đó Tâm Thân sẽ an lạc, sẽ có một đời sống hạnh phúc thật sự.
(Nguồn: Sưu tầm)
---
IV. Khoa học cuối cùng cũng chứng minh được sự tồn tại của kinh mạch
(Nguồn: Sưu tầm)
---
IV. Khoa học cuối cùng cũng chứng minh được sự tồn tại của kinh mạch
Học thuyết kinh mạch có một lịch sử lâu đời và đã được phát triển liên tục cùng với y học cổ truyền phương Đông và các phương pháp tu luyện và thiền định. Các thầy thuốc Đông y tin rằng các kinh mạch là những đường dẫn “khí”, loại năng lượng quan trọng cho sự sống của cơ thể. Các kinh mạch gắn liền với nội tạng và trải rộng khắp trong cơ thể.
Bản đồ kinh mạch đã được các thầy thuốc Trung y lập ra từ 2000 năm trước (ảnh: Internet)
Hơn 2000 năm trước, các nền văn hóa cổ đại đã biết về sự tồn tại của các kênh năng lượng này. Chúng được gọi là ‘sen’ ở Thái Lan, ‘nadis’ ở Ấn Độ, ‘kinh mạch, ‘mạch’ hoặc ‘kênh’ ở Trung Quốc, Nhật Bản và ‘kênh’ ở Tây Tạng.
Gần 2.000 năm trước, cuốn sách Hoàng Đế Nội Kinh tại Trung Quốc đã ghi lại một cách hệ thống vị trí của các kinh mạch. Ở Ấn Độ, nơi có nhiều kỹ thuật chữa bệnh đông y phát triển, người ta cho rằng có đến 72.000 nadis hoặc đường năng lượng.
Hệ thống kinh mạch đóng một vai trò quan trọng trong sinh lý học, bệnh lý học, và phòng ngừa bệnh. Bệnh tật được cho là do sự tắc nghẽn dòng năng lượng trong các kênh năng lượng này. Các phương pháp chữa bệnh truyền thống, bao gồm châm cứu, massage và yoga, được tạo ra dựa trên nguyên tắc tồn tại của các kinh mạch.
“Trong các nền văn hóa và y học truyền thống trước chúng ta, việc chữa bệnh được thực hiện bằng cách di chuyển năng lượng.” – Albert Szent-Gyorgyi, nhà hóa sinh học, người đoạt giải Nobel năm 1937.
Nhiều phương pháp chữa bệnh truyền thống như châm cứu dựa trên nguyên tắc của kinh mạch (ảnh: Shutterstock)
Với một số người, lý thuyết cơ thể năng lượng rất khó hình dung vì chúng ta chỉ nhìn thấy cơ thể do xương thịt tạo nên. Về cơ bản, chúng ta nằm trong một trường năng lượng, bao phủ bởi một trường năng lượng khác. Cơ thể chúng ta là điện từ trong tự nhiên và khoa học đã đo những tần số này bằng các máy móc tiên tiến, như máy quét EKG và MRI, trong nhiều năm. Nhiều nghiên cứu chứng minh các đường năng lượng và các điểm huyệt đạo dẫn điện ngay cả khi kim đo không được sử dụng. Ngoài ra người ta đã nhận thấy kỹ thuật mát-xa Shiatsu cũng có thể kích thích các hiệu ứng năng lượng giống như vậy. Tương tự, khí công, thái cực quyền, yoga… đã được chứng minh có thể tăng độ dẫn điện tại các huyệt. Tuy vậy, khoa học chưa bao giờ tin vào sự tồn tại của kinh mạch… cho đến bây giờ.
1. Hành trình hơn 50 năm tìm kiếm sự tồn tại của kinh mạch
Đầu những năm 1960, nhà khoa học Bắc Triều Tiên, Giáo sư Đại học y khoa Pyongyang, Kim Bong-Han thông báo rằng ông đã tìm thấy các kinh mạch. Giáo sư Kim cho biết có tồn tại các cấu trúc hình ống mới ở bên trong và bên ngoài mạch máu và mạch bạch huyết, cũng như trên bề mặt của các cơ quan nội tạng và dưới lớp hạ bì. Ông tin rằng chúng là những đường kinh mạch truyền thống. Sau nghiên cứu của Giáo sư Kim, các kinh mạch được gọi là ống dẫn hoặc kênh Bonghan (Bong-Han system).
Tuy vậy, kết quả nghiên cứu của giáo sư Kim hầu hết không được công nhận do ông không trình bày đầy đủ phương pháp nghiên cứu và công thức tạo ra chất nhuộm màu xanh để hiển thị đường kinh mạch, khiến cho các nhà khoa học khác không thể mô phỏng lại nghiên cứu của ông. Năm 1965, trường Y khoa Pyongyang bất ngờ đóng cửa, khiến cho nghiên cứu của ông bị quên lãng gần 40 năm.
Năm 2000, Tiến sĩ Kwang-Sup Soh, Đại học Quốc gia Seoul, Hàn Quốc đã thành lập một phòng thí nghiệm để nghiên cứu sự tồn tại của kinh mạch. Tiến sĩ Soh đã lựa chọn Tiến sĩ Byung-Cheon Lee là người đứng đầu nhóm nghiên cứu, tiến hành xem xét lại những phát hiện của Giáo sư Kim.
Sau hàng loạt những thử nghiệm và thất bại, họ đã phát hiện được hệ thống đường ống mô tả bởi Giáo sư Kim trên bề mặt nội tạng của thỏ, chẳng hạn như gan, dạ dày, ruột, bàng quang.
Năm 2008, các nhà khoa học đã khám phá ra một loại thuốc nhuộm để xác định kinh mạch có tên khoa học là trypan blue. Từ thời điểm đó, họ đã xác nhận sự hiện hữu của hệ thống kinh mạch ở tim bò, não thất chuột, các dây thần kinh cột sống, cũng như ở các mô mỡ bụng… Năm 2014, các nhà khoa học đã phát hiện ra sự tồn tại của kinh mạch ở trong mạch máu dây rốn của nhau thai người.
Một đường kinh mạch ở ống ngực chuột được phát hiện nhờ kỹ thuật nhuộm màu (ảnh: TS. Kwang‐Sup Soh)
Ngày nay, tên khoa học được sử dụng để gọi hệ thống kinh mạch là Primo Vessel System hay Primo Vascular Sysem, gọi tắt là PVS, tạm dịch là Hệ thống Kinh huyết Nguyên sinh.
2. Kết cấu của kinh mạch mà khoa học hiện nay phát hiện
Để tìm hiểu về cấu trúc hệ thống kinh mạch, Tiến sĩ Kwang‐Sup Soh và các đồng sự đã tiêm thuốc nhuộm y tế vào các điểm châm cứu. Thuốc nhuộm này đã nhuộm màu các kinh mạch, khiến chúng hiển thị dưới dạng những đường mỏng. Các đường mỏng này không thấy xuất hiện tại các điểm không châm cứu được nhuộm màu.
Các đường kinh mạch – ký hiệu là BHD và các điểm giao kinh mạch – ký hiệu là BHC của một chú chuột được hiện lên nhờ kỹ thuật nhuộm màu xanh, các đường màu đỏ – ký hiệu là FAT là mạch máu không bị nhuộm màu (ảnh: TS. Kwang‐Sup Soh).
Các nhà nghiên cứu phát hiện rằng, các đường kinh mạch không giới hạn ở làn da, mà thực tế chúng là một hệ thống đường ống hoàn chỉnh, ở đó có một loại chất lỏng chảy qua, và các chất lỏng này tập hợp để tạo thành tế bào gốc.
Nghiên cứu với trứng gà cho thấy, sự xuất hiện của kinh mạch xảy ra trước sự hình thành của các lạc mạch (các nhánh của kinh mạch), mạch máu, mạch bạch huyết, dây thần kinh và nội tạng.
Các kinh mạch được phát hiện trong cơ thể thỏ rất mảnh, trong suốt một nửa với đường kính trung bình từ 20 đến 30µm. Mỗi kinh mạch chứa đến 20 ống dẫn nhỏ có đường kính từ 3 đến 10µm được lót bởi một lớp tế bào nội mô và được bao quanh bởi lưới ngoại bào. Mỗi ống dẫn chứa đầy chất lỏng trong suốt được gọi là primo fluid, tạm dịch “dung dịch nguyên sinh”. Chúng có thể được kết nối với nhau tại các nút giao nhau của đường kinh mạch.
Mô phỏng cấu trúc một đường kinh mạch (ảnh: TS. Kwang‐Sup Soh)
Các nhà khoa học cũng xác định rằng kích thước kinh mạch của người cũng không dày hơn so với kinh mạch của các động vật nhỏ như thỏ, chuột, chó…
Thành phần của primo fluid (tạm dịch: dung dịch nguyên sinh) ở chuột được phát hiện là giàu bạch cầu hạt (granulocyte) và hạt tế bào nội tiết (secretory granule), nó chứa:
- dưỡng bào (mast cell) chiếm 20%,
- mô bào (histiocyte) chiếm 53%,
- bạch cầu ái toan (eosinophil) chiếm 16%,
- bạch cầu trung tính (neutrophil) chiếm 5%,
- các tế bào giống tế bào gốc chưa trưởng thành (immature stem-like cells) chiếm 3%,
- bạch cầu chỉ chiếm 1%.
Các nhà nghiên cứu đo được nồng độ cao của các tế bào gốc giống phôi người trưởng thành, biểu hiện dấu ấn sinh học các tế bào gốc mã số OCT4, NANOG và CD133.
3. Tác dụng của kinh mạch dưới góc nhìn khoa học
a) Các nhà khoa học đã phát hiện hệ thống kinh mạch (PVS) có những chức năng như sau:
Lưu thông và vận chuyển: dung dịch nguyên sinh (primo fluid) được lưu thông trong một mạng lưới các mạch và nút với nhiều đường dẫn độc lập. Mặc dù toàn bộ hệ thống kinh mạch vẫn chưa được ánh xạ đầy đủ trên cơ thể người, nhưng các nhà khoa học tin rằng bản chất tuần hoàn của nó có thể giúp vận chuyển các chất hóa học, các yếu tố gây viêm, cũng như các tế bào ung thư (di căn) trong dung dịch nguyên sinh. Hệ thống kinh mạch đã được dự đoán là một tuyến đường phân phối thuốc điều trị một cách hiệu quả, đặc biệt là điều trị ung thư.
Chức năng miễn dịch và tái sinh: dung dịch nguyên sinh chứa một lượng lớn các tế bào tương đồng với tế bào gốc, có kích thước 1 đến 4µm. Chức năng chính xác của những tế bào này vẫn chưa được xác định, nhưng Trung tâm Ung thư Quốc gia Hàn Quốc đã xác nhận rằng dung dịch nguyên sinh chứa rất nhiều các tế bào miễn dịch khác như đại thực bào, bạch cầu ưa eosin và dưỡng bào
b) Chức năng nội tiết:
Dẫn truyền thần kinh: hệ thống kinh mạch cũng được mô tả như một cơ quan nội tiết vận chuyển hormon. Chất catecholamin – hormon được tiết ra trong các tình huống căng thẳng, để giải phóng năng lượng của cơ thể và chuẩn bị cho một tình huống “chiến đấu hay trốn chạy” cũng được tìm thấy trong dung dịch nguyên sinh.
Phát quang sinh học (Biophoton): các nhà khoa học Hàn Quốc phát hiện rằng hệ thống kinh mạch chứa hàm lượng cao các axit nucleic và được bao quanh bởi collagen. Vì vậy, tiến sĩ Lee và Soh cho rằng đây có thể là một phương tiện tốt để vận chuyển hoặc giao tiếp sinh học qua phát quang sinh học.
Quá trình viêm: các nhà khoa học cũng chỉ ra rằng hệ thống kinh mạch của chuột bị viêm nhiễm mang các sản phẩm bệnh lý, chẳng hạn như bạch cầu trung tính đa hình và các nguyên bào sợi, có thể liên quan đến các quá trình viêm nhiễm.
Ung thư: ở động vật có vú, hệ thống kinh mạch đã được xác định trên mô fascia (mô liên kết cơ thể) xung quanh khối u, cũng như tìm thấy kết nối với các khối u. Hệ thống kinh mạch có thể là một cơ chế mới được công nhận trong kiểm soát tăng trưởng ung thư, nhưng cũng có thể là một con đường mới cho di căn ung thư, bởi vì các kinh mạch được tập trung nhiều hơn xung quanh các vị trí khối u, và tế bào khối u di chuyển hiệu quả trong hệ thống kinh mạch hơn là trong hệ bạch huyết.
Nghiên cứu của các nhà khoa học Hàn Quốc có thể được tìm thấy ở đây.
4. Kết luận
Cho dù nhiều người còn hoài nghi, kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Bắc và Nam Triều Tiên đã khẳng định được sự tồn tại và phần nào chức năng của hệ thống kinh mạch trên cơ thể người và động vật.
Những phát hiện này cũng khẳng định sự hiểu biết của con người còn rất hạn chế so với hiểu biết của người xưa. Tuy vậy, những phát hiện mới về kinh mạch mang lại cho chúng ta hy vọng về một cuộc cách mạng trong y học cũng như phương pháp tiếp cận mới khi tìm hiểu về nhân thể học và vũ trụ.
(Thiện Tâm
Nguồn: https://trithucvn.net/khoa-hoc/khoa-hoc-cuoi-cung-cung-chung-minh-duoc-su-ton-tai-cua-kinh-mach.html)
***
Hoàng Lạc (tổng hợp và biên tập)
***
Hoàng Lạc (tổng hợp và biên tập)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét