Ngày xưa khi Phật còn tại thế, kinh luật luận được truyền tụng lại bằng miệng, sau này mới được ghi chép lại thành sách. Kinh thì có tam sao thất bổn do người sau thêm thắt vào, để kiểm chứng lại cho chính xác Kinh nào nói dựa trên bốn chân lý tứ diệu đế dựa trên nền tảng nhân quả đạo đức thì đó là Kinh Phật nguyên chất.
Đây là một công thức siêu khoa học để xác định Kinh Phật giáo chân chính và Kinh ngụy tạo. Gọi là Kinh tức có Phật nói và đệ tử Phật nói, bây giờ thì các tổ nói cũng dựa trên nền tảng Tứ diệu đế, để triển khai rộng hơn. Bồ-tát Sĩ Đạt Ta từ khi ra đời đến khi xuất gia và thành đạo dưới cội Bồ-đề, thuyết giảng 49 năm hơn ba mươi ngàn quyển Kinh và an nhiên tự tại báo trước ba tháng trước khi nhập Niết-bàn đều nói đến bốn chân lý Tứ diệu đế.
Thế cho nên, xưa và nay đã tốn biết bao giấy mực sách vở và những diễn đàn tranh luận để phân biệt Kinh luật luận chính tà mà tới giờ này cũng chưa có học thuyết nào làm sáng tỏ chân lý Phật-đà. Chúng tôi, kẻ hậu học theo suy nghĩ riêng của mình đưa ra phương pháp để xác định Kinh Phật nguyên chất và Kinh Phật đời sau thêm thắt vào để cho phù hợp với phong tục tập quán của nước đó. Phật dạy Tứ diệu đế:
Đây là đau khổ, tức khổ đế.
Đây là nguyên nhân sinh ra đau khổ, tức tham sân si mạn nghi, ác kiến.
Đây là sự chấm dứt đau khổ tức là diệt đế hay còn gọi là Niết-bàn.
Đây là con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ, đó là Bát chính đạo.
1-Khổ đế: Khổ đế là sự thật rõ ràng, là chân lý chắc chắn cho thấy tất cả nỗi khổ đau của mọi chúng sinh trên trần thế này đều phải gánh chịu, như sinh sống là có khổ, đau ốm là khổ, già nua là khổ, chết là khổ v.v…Yêu thương xa lìa khổ, oán ghét gặp nhau khổ, mong cầu không được như ý khổ, thân tâmkhông hòa hợp khổ. Những nỗi khổ niềm đau ấy tràn ngập khắp thế gian. Chính vì vậy đức Phật thường ví cuộc đời như là một biển khổ mênh mông vô cùng tận.
2-Tập đế: Tập đế là chân lý chỉ rõ nguyên nhân nguồn gốc của thực trạng đau khổ của kiếp con người. Tập có nghĩa là nhóm lại, gộp lại, là sự huân tập lâu dài rồi trở thành thói quen thâm căn cố đế khó chừa bỏ. Con người và chúng sinh nói chung thấy khổ, biết khổ trong cuộc sống của mình, nhưng thực rakhông biết được nguyên nhân sâu xa gây ra nỗi khổ niềm đau. Đức Phật đã chỉ rõ: do vô minh che lấpnên con người không nhận ra thực tướng của vạn vật mà cứ tham đắm chạy theo cái hư ảo nên tạo ra nghiệp. Đó là nguyên nhân dẫn đến đau khổ.
3-Diệt đế: Diệt đế là chân lý thực sự nói về về cảnh giới tốt đẹp mà chúng sinh đạt được khi đã diệt trừnhững nỗi khổ cùng những nguyên nhân gây ra đau khổ và được giải thoát. Đó là sự chấm dứt khổ đau. Diệt tức là tịch diệt, nghĩa là không còn khổ đau trong luân hồi sống chết. Khi đó liền thể nhập trạng tháiNiết-bàn (Hữu dư Niết bàn). Khi xả bỏ huyễn thân, thân tứ đại không còn (chết, tịch, tịch diệt nay nhập Niết-bàn), khi đó gọi là Vô dư Niết-bàn. Diệt đế còn được gọi là Niết-bàn.
4-Đạo đế: Đạo đế là con đường, là phương pháp hữu hiệu để diệt trừ đau khổ. Đó là chân lý, là thể nhập Niết-bàn, là trạng thái tâm hoàn toàn không còn khổ não. Hay nói khác đi, đó là những phương pháp đúng đắn đưa ta đến con đường diệt mọi đau khổ.
Khi Kinh Phật được phát triển lan rộng đến các nước thì tùy theo phong tục của nước đó mà Kinh Phật có sự thay đổi về ngôn ngữ và Kinh nào vẫn giữ được bản chất chân lý bốn sự thật Tứ diệu đế thì coi như kinh đó là Kinh sống đáng được mọi người tin và tu theo. Văn tư tu là ba dấu móc quan trọng trong cuộc đời của người tu, Kinh Phật chân chính đều dựa trên nền tảng nhân quả hãy tự mình thắp đuốc lên với ánh sáng trí tuệ của chính mình, thắp lên với chính pháp, ta là chủ nhân của bao điều họa phúc.
Còn học thuyết nào chỉ cho con người hướng ra bên ngoài, cầu bên ngoài với tư tưởng ỷ lại và nhờ vả thì đó là Kinh ngụy tạo hư dối. Ngày hôm nay Tăng Ni cả nước gần 50.000 ngàn người, nhưng số thầy giảng Kinh thuyết pháp mở khóa tu chỉ đếm trên đầu ngón tay, đây là một thực trạng đau buồn, là nguyên nhân dẫn đến Phật giáo suy đồi bởi do nhiều thế lực chính trị đồng hóa. Các tu sĩ thực tu thực học thì ít, các tu sĩ mượn đạo tạo đời thì nhiều do ảnh hưởng nền văn hóa thực tại của đất nước Việt Nam.
Một số người là cán bộ cấp cao sở văn hóa cấp Tỉnh, họ nói rằng xây chùa và phục hưng chùa để thờ cúng tính ngưỡng dân gian. Họ đồng hóa chức năng chùa với đền, miếu giống nhau, vậy mà họ vẫn nắm giữ các chức vụ cao trong ngành văn hóa cấp Tỉnh. Chùa được xây dựng để hướng dẫn đạo đức làm người, hướng dẫn chân lý sống đạo đức Phật giáo chân chính, mở các khóa tu để hướng dẫn cho Phật tử tại gia tu học, chứ không phải như nhiều người lầm tưởng đền, chùa, miếu, phủ giống nhau như một.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét