"LÝ" là lẽ phải, là điều suy luận, là cảnh giải ngộ, thuộc về phần TÁNH.
"SỰ" là phương tiện, là công hạnh, là hình thức, thuộc về phần TƯỚNG.
Tuy nhiên, đi đến chỗ cùng, Sự tức là Lý, tánh tức là tướng, đồng một thể như thật tròn sáng dung thông. Trên đường tu, Lý và Sự làm trong ngoài cho nhau, phối hợp nhau, giúp đỡ lẫn nhau để thành tựu.
Có Sự, mới thật hiện được điều suy luận, chứng minh được chỗ lý giải, đi đến mục tiêu, và cuối cùng đoạt lấy kết quả.
Lý như đôi mắt để nhìn đường. Sự như đôi chân để tiến bước.
Không có mắt, hoặc mắt lờ lạc, tất dễ lầm đường.
Không có chân, dù mắt sáng tỏ bao nhiêu, cũng chẳng làm sao đi đến nơi đến chốn.
Lại, có Lý không Sự, như người có họa đồ, biết đường lối mà chẳng chịu đi.
Có Sự không Lý, như kẻ tuy đi nhưng thiếu người hướng đạo, lộ tuyến mê mờ.
Có Lý có Sự, như đã thông suốt đường lối, lại vừa cất bước hành trình, tất sẽ về nơi bảo sở.
Sự và Lý đã nương nhau như thế, nếu thiếu một tất chẳng có hy vọng thành công. Nhưng người tu tuy thiếu phần giải ngộ, song nếu chịu y theo lộ trình của bậc tiên đức đã chỉ dạy mà thật hành, cũng đi đến mục tiêu và sẽ thành công, đồng với cổ nhơn không khác.
Kinh luận, sự tích cùng các pho trứ tác của người xưa, hay lời chỉ dạy của bậc thiện tri thức đời nay, chính là lộ trình đích xác, nếu y theo mà thật hành, tất sẽ đạt thành kết quả.
Cho nên có Sự mà thiếu phần lý giải chẳng đủ lo ngại. Đáng lo là những kẻ hiểu lý nhưng không thật hành, chỉ ngồi nói suông, dù có đàm huyền luận diệu thao thao, suốt đời vẫn chẳng tiến được nửa bước.
Cứ thật mà nói, người thiếu Sự cũng quyết định không có Lý. Tại sao thế?
Ví như kẻ đã biết nhà cháy, mà không chịu chạy thoát vẫn mãi ngồi yên, nào khác chi người không biết?
Vì thế, Phật pháp có thể độ hạng ngu dốt chẳng thông một chữ, nhưng không phương độ kẻ thế trí thông biện, thiếu sự hành trì.
Thuở xưa, ngài Châu Lợi Bàn Đà ngu tối, đức Phật chỉ đem hai chữ "chổi" và "quét" bảo cố gắng tham chiếu. Ông tối tăm đến đỗi hễ nhớ chữ này lại quên chữ kia, nhưng nhờ sức kiên trì không giây phút nào xao lãng, nên kết cuộc chứng được quả A La Hán.
Còn Đề Bà Đạt Ma tuy thông minh đĩnh ngộ, thuộc sáu môn pháp tạng, luyện thành năm phép thần thông, nhưng bởi tham danh lợi chẳng thiết thật tu hành, nên kết quả bị đọa địa ngục.
Xem đây thì biết dù kẻ suốt thông tam tạng, song chẳng thật hành, tất nghiệp hoặc từ vô thỉ vẫn còn nguyên không giảm được tơ hào, sự tri giải trở thành vô dụng.
Sao bằng một bà lão dốt nát nơi nhà bếp, mặt mày lem lọ, nhưng thường chuyên niệm Phật, ngày kia tâm yên không loạn, ngồi ngự đài sen!
Cho nên kẻ suốt đời chỉ cầu sự thông hiểu trên danh tướng lý luận, để mong thành một vị bác học về Phật pháp, không thiết thật tu hành; tất phải lâm cảnh kể thức ăn ngon mà mình chịu đói, đếm tiền kẻ khác mình vẫn nghèo nàn, kết cuộc hoàn toàn vô bổ.
Nhà Phật đã ví những vị ấy như người điếc khảy đàn cho đại chúng nghe; kẻ quảy gánh đi khắp nơi rao bán đủ thứ thuốc hay, song quên hẳn chính mình đang mang nhiều chứng bịnh.
Bậc có chí học Phật, nên lưu ý đến điểm này !
BỎ SỰ, TỨC LÝ KHÔNG THÀNH, BÁC TƯỚNG, THÌ TÁNH KHÔNG ĐỨNG VỮNG!
Có một lối nhận định sai lầm, mà những kẻ thiên về huyền luận tự cho là hành trì theo lý, cũng cần nên biện minh.
Nhiều người trọng lý khinh sự, thường chấp nê theo lý luận:
"Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ," rồi phủ nhận cõi Cực Lạc và sự tiếp dẫn vãng sanh.
Những người này lý thuyết hóa các kinh nói về Tịnh Độ và bảo:
"Di Đà tức là bản tánh Phật của mình; cõi Tịnh Độ là cảnh tịnh ở trong tâm, sao lại tìm bên ngoài?"
Đây là điểm sai lầm rất lớn của thiên lý luận. Họ chấp lý bỏ sự, chuộng tánh quên tướng, đem chân đế mà bác hiện tượng của tục đế, chẳng biết rằng song phương không thể rời nhau.
Theo Đại Thừa Khởi Tín Luận, chân tâm có hai phần: tánh và tướng.
Phần tánh gọi là Chân Như môn, phần tướng là Sanh Diệt môn;
Chân Như không rời sanh diệt, sanh diệt tức là Chân Như.
Bởi thế Mã Minh Bồ Tát gọi phần Chân Như là Tạng Như Thật Không, phần sanh diệt là Tạng Như Thật Bất Không; cả hai đồng chung một thể tánh như thật.
Ví như mặt biển to rộng, không thể chỉ chấp nhận phần nước mà bỏ phần sóng bọt; vì chấp như thế tức đã sai lạc với hiện tượng của biển, mà cũng chẳng biết biển là gì?
Cho nên, bỏ sự tức lý không thành, bác tướng thì tánh không đứng vững. Rất nhiều kẻ có chút học thức thế gian, khi nghiên cứu các kinh Đại Thừa nói về lý Bát Nhã, bởi không hiểu thấu đáo, nên thường mang chứng bịnh chấp "lý không" này.
Do đó, họ đem các kinh nói về sự tướng, như các kinh Tịnh Độ hoặc Kinh Địa Tạng, mà lý thuyết hóa tất cả.
Họ cho những kinh thuyết về sự tướng này là phương tiện để dẫn dắt hạng ngu thấp, những người tin có Tịnh Độ hoặc địa ngục, đều mê tín; nhưng thật ra, chính họ mới là kẻ lạc lầm!
Nhân tiện, xin dẫn vài đoạn kinh ra biện minh, để phá lỗi chấp không ấy.
Như Bát Nhã Tâm Kinh nói: "... Không trí cũng không đắc, vì không sở đắc, nên Bồ Đề Tát Đỏa y Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm không quái ngại. Chư Phật ba đời y Bát Nhã Ba La Mật Đa, nên đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề."
Trước y theo chân đế nói "không đắc", tiếp đó y theo tục đế lại nói "đắc". Thấy "đắc" là chấp có, thấy "không đắc" lạc vào chấp không, nên người học Phật phải khéo hiểu ý kinh để đi vào trung đạo.
H.T. THÍCH THIỀN TÂM
(Niệm Phật Thập Yếu)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét