Thứ Năm, 15 tháng 12, 2016

Tìm hiểu Pháp môn Tịnh độ

Pháp môn Tịnh Độ chủ trương niệm Phật, quán tưởng Đức Phật A Di Đà và sự thù thắng, trang nghiêm của cõi Cực lạc Tịnh Độ, bằng tự lực với Tín, Nguyện, Hạnh tương ưng bản nguyện của Đức Phật A Di Đà. 

LỜI NÓI ĐẦU

Là phật tử, không ai không biết đến việc tụng kinh niệm Phật. Việc niệm Phật cùng với việc tụng kinh A Di Đà và một số bộ kinh thường tụng khác trở thành việc hành trì thường xuyên hàng ngày của đại đa số phật tử. Trong các pháp môn tu tập, Tịnh Độ là một trong những pháp môn phổ biến đối với các phật tử tại nhiều nước Phật giáo Đại thừa như Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam…

Riêng ở nước ta, cùng với sự phát triển của Thiền tông từ bao thế kỷ nay, Tịnh Độ tông cũng được phát triển đến mức các nhà tu hành đều thâm sâu cả hai giáo lý và trở thành việc hành trì theo Thiền-Tịnh song tu. Tuy nhiên, đối với hàng phật tử, nhất là phật tử tại gia, việc tu theo pháp môn Tịnh Độ, cho đến nay vẫn còn nhiều điều cần phải tìm hiểu sâu, để qua đó bổ sung cho việc tinh tấn tu hành. Đa số phật tử chỉ thấy rằng muốn vãng sinh về Tây phương Cực lạc thì chỉ cần niệm Phật nhất tâm là đủ, thậm chí cho rằng không cần tụng kinh và thực hành các giáo lý tu tập khác.

Cuốn TÌM HIỂU PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ này mong được góp phần giúp cho chư vị phật tử tìm hiểu sâu hơn về lịch sử phát triển pháp môn Tịnh Độ cùng những vấn đề cơ bản về giáo lý, cũng như phương pháp tu tập và hành trì theo pháp môn Tịnh Độ.

Trong tài liệu này có đề cập đến một số vấn đề khác nhau về nhận thức cũng như về phương pháp tu tập của Tịnh Độ tông qua một số tài liệu, bài viết với mục đích tham khảo tìm hiểu. 

Vì trình độ có hạn, ngưỡng mong chư tôn thiền đức, các bậc thức giả, Phật tử mười phương và quý vị độc giả vui lòng đón nhận món quà nhỏ mọn này và lượng tình chỉ dẫn những điều còn sai sót. 

Tác giả kính ghi 
PHẠM ĐÌNH NHÂN
Pháp danh Chánh Tuệ Định
_____________________________

TÌM HIỂU PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ

Tịnh Độ là một trong các tông phái chính của Phật giáo. Giáo lý của pháp môn Tịnh Độ đã có từ khi Đức Phật tại thế, sau này trở thành một trong những pháp môn tu tập phổ biến đối với các phật tử tại nhiều nước Phật giáo Đại thừa. Mãi đến thế kỷ thứ IV, pháp môn Tịnh Độ mới trở thành một tông phái chính thức tồn tại và phát triển cùng với nhiều tông phái Phật giáo khác. Và ngày nay, Tịnh Độ tông trở thành một tông phái có nhiều phật tử tu tập đông đảo nhất không chỉ ở phương Đông mà ngay cả ở các nước phương Tây. 

Trong tài liệu này, xin chỉ bàn đến sự ra đời của pháp môn Tịnh Độ, lịch sử phát triển của Tịnh Độ, những vấn đề thuộc về giáo lý và sự thực hành tu tập theo pháp môn Tịnh Độ cùng những ý kiến khác biệt trong nhận thức và tu hành theo pháp môn Tịnh Độ. Những vấn đề khác có liên quan đến pháp môn Tịnh Độ như vấn đề hộ niệm và dấu hiệu của vãng sinh không đề cập đến trong tài liệu này.

Phần I.  LỊCH SỬ PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ

A. Khái niệm về Pháp môn Tịnh Độ:

Mục đích cứu cánh của đạo Phật là giải thoát. Đức Phật Thích Ca đã từng nói: “Nước trong bốn biển đều có một vị, đó là vị mặn. Tất cả các pháp môn của ta cũng chỉ có một vị, đó là vị giải thoát”. Vì vậy trong hầu hết các kinh điển của Đức Phật thuyết pháp đều nói đến con đường giác ngộ và giải thoát. Mà con đường giải thoát của đạo Phật căn bản là ở tâm, phải từ tâm mà ra tức là phải nỗ lực cá nhân. Dù Phật pháp có đến 84 nghìn pháp môn thì pháp môn nào cũng phải tự mình tu tập để đi đến giải thoát. Rõ ràng muốn từ bến bờ mê muội bên này sông sang bên kia bờ giải thoát phải tự mình lên thuyền, tức là phải có công phu tự thân tâm của chính người tu hành, phải có cả một quá trình tu tập. Pháp môn Tịnh Độ cũng thế, cũng phải là một quá trình tu tập mang tính tự lực là chính. 

Pháp môn Tịnh Độ là một trong những pháp môn tu tập phổ biến đối với các Phật tử tại nhiều nước Phật giáo Đại thừa như Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam. Nhìn về lịch sử phát triển Phật giáo, từ thời Phật giáo nguyên thủy, pháp môn Tịnh Độ chú trọng đến tự lực. Về sau này, vào những thế kỷ đầu của Tây lịch, Phật giáo Đại thừa phát triển đa dạng hóa lối tu hành nên có những pháp môn chú trọng đến tha lực, tức nhờ vào Phật lực mà tu hành đạt thành đạo quả, vượt thoát khổ đau. Đó cũng là lý tưởng của pháp môn Tịnh Độ.Vì vậy, Tịnh độ là một đường lối tu tập phổ biến, đáp ứng nhu cầu tâm linh về một đời sống vĩnh cửu và hoàn toàn giải thoát khổ đau của con người để được sống trong cõi Tịnh Độ an vui.

B. Các cõi Tịnh Độ trong Phật giáo:

Thông thường khi nói đến tịnh độ (Quốc độ thanh tịnh) các phật tử thường nghĩ đến cảnh giới Tây phương Tịnh Độ, nơi có Đức Phật A Di Đà và chư Thánh chúng. Nhưng theo Phật giáo Đại thừa thì có mười phương tịnh độ và mười phương chư Phật. Tuy nhiên trong các kinh điển thường đề cập đến bốn cõi tịnh độ, đó là: Tịnh độ Di Lặc, Tịnh độ Dược Sư , Tịnh độ A Súc Phật và Tịnh độ A Di Đà. 

Tịnh là sạch, là thanh tịnh. Tịnh độ là nơi thanh tịnh, là cảnh giới an lạc không có phiền não, khổ đau. Kinh điển thường nói đến Tịnh độ với nhiều tên gọi khác nhau như Thanh tịnh quốc độ, Thanh tịnh Phật sát, Tịnh quốc, Tịnh thế giới hoặc là Phật quốc. Đó là trụ xứ của chư Phật và chư Bồ tát tiếp độ và giáo hóa chúng sinh. Tùy theo công đức và nguyện lực đối với từng căn cơ của chúng sinh mà mỗi vị Phật có mỗi cõi nước khác nhau. Đó là nơi, là phương tiện giáo hóa của tất cả chư Phật. Điều đó có nghĩa rằng ngoài thế giới mà chúng ta đang sống còn có vô số thế giới khác. Có nhiều cõi tịnh độ khác nhau, nhưng thường hay nói đến bốn cõi tịnh độ chính là:

1. Di Lặc Tịnh Độ: 

Đó là cõi tịnh độ của Đức Phật Di Lặc, một vị Phật tương lai của thế giới loài người đang sống, hiện đang ở cõi trời Đâu Suất . Ngài Đạo sư Vô Trước , người sáng lập ra trường phái Duy thức học của Phật giáo đã viết những bộ luận nỗi tiếng như Du Già Sư Địa luận, Đại Thừa Trang Nghiêm luận, Phân Biệt Du Già luận và Kim Cương Bát Nhã luận. Tất cả những công đức và trí tuệ này mà Ngài viết được là do Ngài tiếp nhận được sự giáo hóa của Bồ tát Di Lặc. Về sau có nhiều hành giả trong trường phái Duy Thức học phát nguyện sinh về cõi Đâu Suất Tịnh Độ. Đâu Suất Tịnh Độ thuộc tầng trời thứ tư trong sáu tầng trời cõi dục. Nếu tu tất cả các thiện pháp và tùy nguyện mới sinh vào nội viện của cõi Đâu Suất, nếu không phát nguyện chỉ sinh vào ngoại viện như là một vị chư Thiên. Do từ đó mà tín ngưỡng Di Lặc tịnh độ xuất hiện. 

2. Dược Sư Tịnh Độ:

Đó là cõi tịnh độ của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Khi còn là Bồ tát, Ngài đã phát mười hai lời nguyện để cứu khổ chúng sinh. Chúng sinh nào khổ đau, hoạn nạn, bệnh tật biết niệm danh hiệu của Ngài thì sẽ được tai qua nạn khỏi, đời sống an ổn. Do vậy, các Phật tử thường trì tụng kinh Dược Sư để cầu an, giải khổ là nghĩa đó. Nếu phát tâm bồ đề và có ý nguyện cầu vãng sinh thì sẽ được Ngài tiếp độ.

3. A Súc Phật Tịnh Độ: 

Cõi tịnh độ này được đề cập trong kinh Duy Ma Cật, một bộ kinh quan trọng của Phật giáo Đại thừa. Tịnh độ theo nghĩa này là pháp tu thực tiễn được các tông phái Phật giáo Đại thừa rất chú trọng. Tư tưởng Tịnh độ này tương ứng với tư tưởng Bát Nhã, đặc biệt là mang tinh thần nhập thế rất tích cực, đề cao việc hành Bồ tát hạnh và kiến lập Tịnh độ ngay tại tâm. Kinh Duy Ma Cật nhấn mạnh rằng thanh tịnh hóa thân tâm tức là tịnh độ cõi Phật. Cư sĩ Duy Ma Cật được xem là hiện thân của hành giả từ Quốc độ Diệu Hỷ đến cõi này tuyên dương chính pháp, hộ trì cho Phật Thích Ca giáo hóa chúng sinh.

4. Tây Phương Tịnh Độ: 

Còn được gọi là Cực lạc thế giới, An dưỡng, Lạc bang v.v…Kinh điển Đại Thừa thường tán thán cảnh giới thù thắng của Tây phương và công đức bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà. Đức A Di Đà là chính báo, cảnh Tây phương cực lạc là y báo. Nếu chúng sinh nào chuyên tâm niệm danh hiệu của Ngài, tu tập thiện pháp và quán tưởng cảnh giới Tây phương thì đến lúc lâm chung sẽ được vãng sinh về Tây phương Tịnh Độ. Điều đáng chú ý là hành giả tu tịnh độ tin sâu vào tha lực của đức Phật và chư Bồ Tát. Lối tu này bao gồm cả tự lực và tha lực. Tự lực là tự mình y theo giáo pháp tu học để có đầy đủ phúc đức mới được vãng sinh. Trong kinh A Di Đà có dạy rằng không thể lấy chút ít căn lành và phúc đức mà được sinh về cõi Cực lạc được. Đức Phật khuyên chúng ta phải tự mình nỗ lực mới tiếp nhận được năng lực của Ngài. Niệm Phật còn có thể phát sinh công đức, tiêu trừ vọng nghiệp và thành tựu thiền định.

Đó là nói sơ qua về 4 cõi tịnh độ chính mà trong các kinh điển Đại thừa thường nhắc đến. Còn trong tài liệu này chủ yếu nói về cõi Tịnh độ Tây phương Cực lạc của Đức Phật A Di Đà và pháp môn Tịnh Độ theo Đại thừa Phật giáo.

C. Sự ra đời của pháp môn Tịnh Độ:

Nguồn gốc tư tưởng của Tịnh Độ xuất phát từ thời nguyên thủy, tức ngay từ thời đức Phật còn tại thế. Nhưng hình thành rõ nét thể hiện trong kinh điển Đại thừa bắt đầu từ trong kinh Hoa Nghiêm rồi sau là kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Nhưng trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, tư tưởng Tịnh Độ không bộc lộ rạng rỡ nhưng lại ăn sâu vào trong tâm khảm của giới tu tại gia. Trong khi đó giới xuất gia lại chú trọng đến giải thoát sinh tử, đạt đến Niết Bàn. Do đó tư tưởng Tịnh Độ vào thời kỳ này bị lu mờ, nên trong kinh điển Tiểu thừa ít nói đến pháp môn Tịnh Độ.

Trong hệ thống kinh Bát Nhã Đại thừa, ta thấy kinh Hoa Nghiêm có nói đến Thiện Tài Đồng Tử đi về phương nam tham học thày Tỳ kheo Công Đức Vân, có nói rõ việc niệm Phật tam muội và thấy Phật. Trong phẩm Nhập pháp giới của kinh Hoa Nghiêm có nói: “Bồ tát Quang Minh dùng chính định tam muội quán sát thấy tất cả chư Phật và quyến thuộc của Ngài ở cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh đạt được hư không đẳng niệm Phật Tam muội môn, thấy thân Như Lai chiếu khắp pháp giới”. Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Dược vương Bồ tát có nói: “Nếu có người phụ nữ nào nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nghe xong phát tâm tu hành, sau khi mạng chung liền vãng sinh về thế giới của Đức Phật A Di Đà, có các vị Đại Bồ tát vây quanh nơi đó.”

Pháp môn Tịnh Độ chủ trương niệm Phật, quán tưởng Đức Phật A Di Đà và sự thù thắng, trang nghiêm của cõi Cực lạc Tịnh Độ, bằng tự lực với Tín, Nguyện, Hạnh tương ưng bản nguyện của Đức Phật A Di Đà. Hành giả còn phải nương nhờ Phật lực để vãng sinh về Cực lạc trong trạng thái nhất tâm bất loạn. Tịnh Độ tông không phải là một pháp môn chỉ có tín ngưỡng Tịnh Độ Cực lạc và Đức Phật A Di Đà, không phải chỉ có niềm tin, mà đó là pháp môn chủ trương con đường tu tập Giới, Định, Tuệ mà chủ yếu là Giới và Định. Do nhờ công phu tinh tấn niệm Phật mà thành tựu Định đạt đến nhất tâm bất loạn, niệm Phật tam muội. Nhờ thọ trì Tam quy, Ngũ giới, hành Thập thiện và tu tạo các công đức phúc lành (trong đó có hộ trì Tam bảo, hoằng dương chính pháp, từ thiện, bố thí, phóng sinh v.v..) mà thành tựu được Giới. 

D. Lịch sử phát triển pháp mônTịnh độ.

Khi Phật giáo phát triển sang Trung Quốc, pháp môn Tịnh Độ đã được các vi đạo sư Trung Quốc ngưỡng mộ đi đến việc thành lập thành một tông phái riêng. Sau này Tịnh Độ lại được truyền sang Nhật Bản và cũng được Phật giáo Nhật Bản phát triển mạnh. Còn ở Việt Nam, ngoài yếu tố từ Trung Quốc truyền sang, còn có những thành tựu trực tiếp từ Ấn Độ truyền sang vào khoảng những thế kỷ đầu sau Công nguyên. Dưới đây ta điểm qua sự phát triển lịch sử pháp môn Tịnh Độ ở những nước phát triển Tịnh Độ.

1. Tịnh Độ tông ở Ấn Độ.

Như trên đã nói trong thời kỳ đức Phật còn tại thế và sau đó vào những thế kỷ trước Tây lịch, trước khi tư tưởng Đại thừa phát triển,Tịnh Độ tông ở Ấn Độ chưa hình thành pháp môn rõ rệt. Tuy tư tưởng Tịnh Độ trong thời kỳ này không bộc lộ mạnh mẽ nhưng ăn sâu vào tâm khảm của giới tu tại gia trong khi các tăng đoàn thuộc giới xuất gia lại quan tâm tu tập để giải thoát sinh tử, đạt đến Niết bàn. Vì vậy tư tưởng Tịnh Độ trong thời kỳ này ở Ấn Độ chưa phát triển mạnh mẽ, có thể nói bị lu mờ và cũng chưa hình thành tông phái rõ rệt. Cũng vì vậy mà trong kinh điển Tiểu thừa ít thấy nói đến pháp môn Tịnh Độ. Tuy nhiên, vào những thế kỷ đầu sau Tây lịch, khi tư tưởng Đại thừa phát triển cùng với sự phát triển Phật giáo lên phía bắc thì tư tưởng Tịnh Độ mới có dịp phát triển lớn mạnh và rộng rãi, nhất là ở Trung Quốc.

Do đó lý thuyết Tịnh Độ được khởi nguồn ở Ấn Độ, là một đường lối tu tập nhưng không thiết lập tông phái, chỉ khi các kinh điển Đại thừa Tịnh Độ truyền qua Trung Hoa thì Tịnh Độ mới trở thành tông phái rõ rệt

2. Tịnh Độ tông ở Trung Hoa: 

Phật giáo từ Ấn Độ phát triển sang Trung Quốc vào những năm đầu của thế kỷ thứ nhất sau công nguyên. Từ đời Đông Hán (25 – 220 SCN) về sau, đạo Phật càng ngày càng được mở rộng ở Trung Quốc, nhưng đến đời Lục Triều trở đi mới có vẻ thịnh đạt, rồi đến đời Tùy Đường mới là cực thịnh. Trong thời gian ấy (từ thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ VI), có một vị cao tăng Ấn Độ là Cưu Ma La Thập (344 - 413) sang Trung Quốc được tôn làm Quốc sư. Cưu Ma La Thập đã dịch kinh và luận Đại Thừa ra Hán văn như Kinh Kim Cương, kinh Pháp Hoa, kinh Duy Ma, Trung Quán luận, Thâp nhị môn luận v.v…Cùng trong thời kỳ đó có những vị tăng Trung Hoa đi sang Ấn Độ cầu pháp thỉnh kinh như vào năm Long An thứ ba (399) đời vua An Đế nhà Đông Tấn, có các vị Pháp Hiển, Tuệ Cảnh và Đạo Chính.

Trong quá trình phát triển, từ đời Đông Tấn (317 – 420) trở đi, các tông phái Phật giáo Đại thừa mới dần dần hình thành ở Trung Quốc. Ta có thể lược khảo có khoảng 10 tông phái, gồm Tịnh Độ tông, Thiền tông, Thiên Thai tông hay còn gọi là Pháp Hoa tông (lấy kinh Pháp Hoa làm nền tảng), Hoa Nghiêm tông (lấy kinh Hoa nghiêm làm cơ bản), Luật tông, Chân Ngôn tông (tức Mật tông), Tam Luận tông, Câu Xá tông, và Thành Thật tông. Tuy nhiên về mặt phát triển thì ở Trung Quốc có hai tông phái Tịnh Độ tông và Thiền tông là phát triển mạnh và phát triển cho đến ngày nay.

Riêng về Tịnh Độ tông, những kinh luận thuộc giáo nghĩa Tịnh Độ được dịch xuất hiện dần. Năm 250 thời Ngụy, ngài Khang Tăng Ngãi dịch kinh Vô Lượng Thọ, Cư sĩ Chí Khiếm thời Tôn Quyền dịch bộ Đại A Di Đà kinh. Đời Diêu Tần (thế kỷ IV), ngài La Thập dịch Phật thuyết A Di Đà kinh, còn gọi là tiểu kinh A Di Đà, rồi ngài Phật Đà Bạt Đà La (tức Giác Hiền) dịch Tân Vô Lượng Thọ kinh, Quán Phật tam muội kinh, ngài Trí Nghiêm dịch Tịnh độ tam muội. Thời Lưu Tống (thế kỷ V), ngài Cương Lương Da Xá dịch Quán Vô Lượng Thọ kinh, ngài Bồ Đề Lưu Chi (thế kỷ VI) dịch Vô Lượng Thọ kinh luận. Đặc biệt, ngài Thế Thân (316 - 396), đã trước tác Vãng sinh Tịnh Độ luận. Do đó đến thời kỳ này giáo lý về Tịnh Độ tông tương đối hoàn chỉnh ở Trung Quốc.

Về lịch sử phát triển và truyền thừa, ta thấy rằng cuối đời nhà Tây Tấn (265 – 317), vào khoảng năm Vĩnh Gia (307 - 313) đời vua Hoài Đế có một vị danh tăng người Thiên Trúc tên là Phật Đồ Trừng, nổi tiếng có nhiều pháp thuật. Phật Đồ Trừng có rất nhiều môn đồ, trong số đó có Đạo An. Ông là một vị cao tăng đã đề xuất ý kiến lấy họ Thích làm họ chung cho những người xuất gia để tưởng nhớ và tôn sùng Đức Thích Ca Mâu Ni. Đạo An có môn đồ là Huệ Viễn (334 - 416) người Nhạn Môn, Sơn Tây, đến ở chùa Đông Lâm trên núi Lư Phong cùng với 214 vị kết làm Bạch Liên xã, phát thệ trước tượng A Di Đà Phật, xin đồng tu tịnh nghiệp. Do đó Tịnh Độ tông bắt đầu hình thành.

Đời sau, môn đồ suy tôn Đại sư Huệ Viễn làm sơ tổ Liên tông, tức là sơ tổ của Tịnh Độ tông ở Trung Quốc. Tông này thờ Tam Bảo và lấy sự tụng kinh niệm danh hiệu A Di Đà Phật làm yếu chỉ trong sự tu hành. Tông này cũng cho rằng bất kỳ người nào tu pháp môn này cũng được, miễn là niệm Phật nhất tâm bất loạn, với niềm tin mãnh liệt, ý nguyện vững bền và hành trì niệm Phật tinh tấn thì đều có thể vãng sinh vào cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà ở Tây phương Cực lạc. Vì có giáo pháp dễ theo và mọi người ai cũng có thể theo được, nên Tịnh Độ tông ở Trung Quốc ngày một phát triển. Song, các vị Tổ trong Tịnh Độ tông không thực hiện sự truyền thừa như các tông phái khác là truyền tâm ấn từ đời trước cho đời sau, mà tùy theo công đức của từng vị mà môn đồ suy tôn làm Tổ. Cho nên từ thế kỷ thứ IV đến đầu thế kỷ XX, Tịnh độ tông mới có 13 vị tổ, kể từ vị tổ thứ nhất là Đại sư Huệ Viễn, (334-416), tiếp đến vị tổ thứ 2 là Đại sư Thiện Đạo (513-581), Đại sư Thừa Viễn (712-802),là vị tổ thứ 3, tiếp đó là các vị Đại sư Pháp Chiếu (747-821), Đại sư Thiếu Khang (?-805), Đại sư Diên Thọ (904-975), Đại sư Tỉnh Thường (959-1020), Đại sư Châu Hoằng (1532-1612), Đại sư Trí Húc (1599-1655), Đại sư Hành Sách (1628-1682), Đại sư Thật Hiền (1686-1734), Đại sư Tế Tỉnh (1741-1810) và vị Tổ thứ 13 của Tịnh Độ tông Trung Quốc là Đại sư Ấn Quang (1862-1940), hoằng pháp vào cuối đời Nhà Thanh và đầu thời Trung Hoa Dân Quốc của thế kỷ XX.

3. Tịnh Độ tông ở Nhật Bản:

Tịnh Độ tông Nhật Bản vốn có nguồn gốc từ Tịnh Độ tông Trung Quốc, được đạo sư Viên Nhân (793-864), người Nhật đem về cùng với các giáo lý của Thiên Thai tông và Mật tông mà sư đã tiếp thu trong thời gian du học tại Trung Quốc. Sư là người truyền bá phương pháp Niệm Phật, niệm danh hiệu của Phật A Di Đà. Những vị nổi danh của tông này trong thời gian đầu là Không Dã Thượng Nhân (903-972), cũng được gọi là Thị Thánh, vị "Thánh ở chợ", và Nguyên Tín ( 942-1017). Trong thời này, niệm Phật là một thành phần trong việc tu hành của tất cả các tông phái tại Nhật, đặc biệt là Thiên Thai tông và Chân Ngôn tông.

Mãi đến thế kỷ XII, đạo sư Pháp Nhiên (1133-1212) mới chính thức thành lập tông Tịnh Độ ở Nhật Bản. Sư muốn mở một con đường tu tập mới, "dễ đi" trong thời mạt pháp cho những người sống đau khổ. Sư rất thành công trong việc thuyết phục quần chúng và rất nhiều người quy tụ lại, thành lập một trường phái rất mạnh. Pháp Nhiên đã làm một cuộc cách mạng trong việc truyền bá và phát triển Tịnh Độ tông với trào lưu rộng lớn. Và chính vì sư tự tôn giáo lý đó là giáo lý cao nhất, nên không thoát khỏi sự tranh chấp dèm pha. Sư bị đày ra một vùng hoang vắng năm 74 tuổi.

Giáo lí cơ sở của Pháp Nhiên dựa trên các bộ kinh Vô Lượng Thọ, A Di Đà và Quán Vô Lượng Thọ. Cách tu hành của tông này chỉ là việc tụng niệm câu "Nam mô A Di Đà Phật". Việc niệm danh hiệu Phật rất quan trọng để phát triển lòng tin nơi Phật A Di Đà, nếu không thì hành giả không thể nào vãng sinh vào cõi của Ngài, đó là mục đích chính của việc tu hành của tông này. Pháp Nhiên quan niệm rằng, đa số con người không thể đi con đường khó, hoàn toàn tin vào tự lực trong thời mạt pháp và cơ hội duy nhất của họ là tin vào sự hỗ trợ của Phật A Di Đà, tin vào tha lực của Phật và Thánh chúng mới giúp cho con người dễ dàng tu tập và sinh về cảnh giới của Ngài là được an lạc trong cõi Cực lạc và được giải thoát.

Sau Pháp Nhiên là các vị Không Dã Thượng Nhân và Lương Nhẫn. Không Dã Thượng Nhân là người đầu tiên tín ngưỡng đức Phật A Di Đà và truyền bá công khai việc niệm Phật giữa chợ vì vậy sư được mang biệt hiệu là “Thị Thánh” (Vị Thánh ở chợ). Còn Lương Nhẫn nguyên là một cao tăng thuộc Thiên Thai tông, nổi danh trong việc tín ngưỡng và tán tụng Phật A Di Đà trong những bài hát. Ở Nhật Bản, Tịnh Độ tông cùng với Thiên Thai tông (lấy kinh Pháp Hoa làm nền tảng) và Hoa Nghiêm tông (lấy kinh Hoa Nghiêm làm nền tảng) ảnh hưởng lẫn nhau đều phát triển quan điểm “Dung thông niệm Phật” tức là nếu một người nào đó niệm Phật thì công đức này sẽ đến với tất cả những người khác và ngược lại, ai cũng có phần của mình trong việc tụng niệm danh hiệu Phật. Cách diễn giải giáo lý này thuyết phục được nhiều người trong vương triều và được các đệ tử kế thừa. Và vì vậy Tịnh Độ tông ở Nhật Bản rất phát triển cho cả đến ngày nay. 

4. Tịnh Độ tông tại Việt Nam:

Đạo Phật được truyền vào Việt Nam rất sớm ngay từ thời kỳ dựng nước. Phật giáo Việt Nam có thể đã hình thành từ trước Công nguyên và phát triển mạnh từ khoảng thế kỷ thứ II và thứ III sau Công nguyên, khi đất nước còn là đất Giao Chỉ phụ thuộc vào các triều đại phong kiến của Trung Quốc. Sử liệu Phật giáo để lại cho rằng các tăng sĩ Ấn Độ đi truyền giáo theo đường biển đã vào Giao Châu và ở lại đây hoằng pháp.

Mãi đến cuối thế kỷ thứ VI, Phật giáo ở Việt Nam mới có tổ chức hệ thống, mở đầu bởi thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi (còn gọi là dòng thiền Nam Phương). Sang thế kỷ thứ IX, có thêm thiền phái Vô Ngôn Thông (còn gọi là dòng thiền Quan Bich) và đến thế kỷ thứ XI đời nhà Lý, lại có thêm thiền phái Thảo Đường. Rồi tiếp theo là thiền phái Yên Tử và Trúc Lâm Yên Tử. Các thiền phái này phát triển và làm cho Phật giáo Việt Nam hưng thịnh. Bên cạnh đó trào lưu niệm Phật theo tư tưởng Tịnh Độ vẫn xuất hiện đan xen trong các thiền phái. 

Có thể thấy rằng trào lưu Tịnh Độ ở nước ta dẫu có một lịch sử lâu dài nhưng không tự thân phát triển thành một tông phái, không có vị trí độc lập, tách biệt với các tông phái khác, đồng thời cũng không phong phú trong lý luận và phương pháp thực hành như Tịnh Độ tông ở Trung Hoa hay Nhật Bản. Tuy ở Việt Nam từ trước tới nay Tịnh Độ tông chưa thành một hệ thống pháp môn riêng biệt, nhưng sau thời nhà Trần, khoảng đầu thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XX, phương pháp tu hành của Tịnh Độ dưới hình thức đọc tụng kinh A Di Đà và niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Phương pháp này đã được kết hợp hài hoà với các thiền phái tại Việt Nam thể hiện qua thực tế sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng của Phật giáo Việt Nam, thì thấy rằng dấu ấn của pháp môn Tịnh Độ là hết sức sâu đậm. Ta có thể điểm qua một cách hệ thống một số nét phát triển tư tưởng Tịnh Độ tông ở Việt Nam như sau:

Danh hiệu của Đức Phật A Di Đà được nhắc đến sớm nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam xuất hiện trong tác phẩm Cựu tạp thí dụ kinh do Khương Tăng Hội (?-280) soạn. Pháp môn niệm Phật cũng đã được đề cập trong cuốn Lục độ tập kinh cũng do Khương Tăng Hội soạn. Đây là những bộ kinh xưa nhất lưu hành tại Việt Nam. Như vậy, ngay từ rất sớm, vào trước thế kỷ thứ III, trong khuynh hướng tư tưởng Phật giáo Đại thừa được giới thiệu tại nước ta, người Phật tử Việt Nam cũng đã bước đầu được tiếp xúc với tư tưởng tín ngưỡng Tịnh Độ. Và sau đó, vói sự xuất hiện của bản kinh quan trọng là kinh Vô lượng thọ do nhà sư Đàm Hoằng (?-455), một vị tăng người Trung Quốc chuyên hành trì pháp môn Tịnh Độ với ước nguyện vãng sinh Cực Lạc, đến Việt Nam tu học tại nước ta, truyền bá. 

Tuy nhiên, giai đoạn tiếp theo, tức từ sau sư Đàm Hoằng đến nửa đầu thế kỷ thứ IX, chúng ta hiện không có tư liệu nào để lại đề cập đến Tịnh Độ.

Từ giữa thế kỷ thứ XI trở đi, khuynh hướng Tịnh Độ được phổ biến rộng rãi, với sự hình thành của nhiều ngôi Tam bảo, nhiều đạo tràng. Đặc biệt vua Lý Thánh Tông (1023-1072), thuộc Thiền phái Thảo Đường, đã cho tạc một pho tượng Phật A Di Đà độc đáo có một không hai trong lịch sử nghệ thuật điêu khắc của dân tộc, pho tượng này hiện nay vẫn còn ở chùa Phật Tích. Ngoài ra, còn có tượng Phật A Di Đà do nhà sư Trì Bát (1049-1117) thuộc thế hệ thứ 12 của dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi tạo dựng năm 1099 ở chùa Hoàng Kim, xã Hoàng Ngô, huyện Quốc Oai và tượng A Di Đà trong hội đèn Quảng Chiếu trước Đoan Môn, được tạo lập để cầu nguyện cho hoàng hậu Linh Nhân siêu sinh tịnh độ v.v… chứng tỏ Thiền tông và Tịnh Độ tông kết hợp với nhau. Cùng với tín ngưỡng A Di Đà, tín ngưỡng Quán Thế Âm, vị Bồ tát thân cận của Phật A Di Đà, ở thời kỳ này cũng trở nên phổ biến. Từ giai đoạn này trở về sau, trên phương diện tín ngưỡng, trào lưu Tịnh Độ đã thực sự có một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của nhân dân ta. 

Thế kỷ XII, theo tác phẩm Thiền uyển Tập Anh, ta thấy có nhiều thiền sư theo các thiền phái khác nhau nhưng vẫn hành trì theo pháp môn Tịnh Độ, như Thiền sư Tịnh Lực (1111-1175), thuộc thế hệ thứ 10 dòng thiền Vô Ngôn Thông, thường thực hành sám hối và thâm nhập được pháp môn Niệm Phật tam muội v.v… Đến đời Trần, các nhà tư tưởng lớn như Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Thái Tông cũng bàn đến vấn đề niệm Phật. Tư tưởng Tịnh Độ cũng được đưa vào trong các kỳ thi tuyển nhân tài do triều đình tổ chức mà ta có thể biết được qua bài thi của Lê Ích Mộc (1459-?) thi đỗ Trạng Nguyên trong khóa thi năm Nhâm tuất niên hiệu Cảnh Thống 5 (1502) đời Lê Hiến Tông . Dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử do Trần Nhân tông chủ trương cũng có nói về Đức Phật A Di Đà và thế giới Cực lạc nhưng cũng ở một khía cạnh khác.

Từ thế kỷ thứ XVI trở đi trào lưu Tịnh Độ cũng được phát triển mạnh mẽ thể hiện qua một vài tác phẩm của các danh tăng nhằm cổ súy và truyền bá tư tưởng Tịnh Độ như cuốn Bồ đề yếu nghĩa của Ngài Viên Văn (1590-1644) nói về Tự tính Di Đà. Thiền sư Minh Châu Hương Hải (1628-1708) phiên âm A Di Đà kinh sớ sao của Ngài Châu Hoằng và một số tác phẩm mang đặc điểm tư tưởng Tịnh độ của Thiền sư Chân Nguyên (1647-1726) v.v… cho phép ta thấy pháp môn Niệm Phật A Di Đà, cầu vãng sinh Cực lạc là một khuynh hướng tín ngưỡng lớn thời bấy giờ. Tuy nhiên quan niệm Tịnh Độ của Phật tử Việt Nam mang những đặc thù riêng mặc dù có sự ảnh hưởng của Tịnh Độ Trung Quốc.

Những đặc điểm đó thể hiện ở chỗ:

- Danh hiệu đức Phật A Di Đà xuất hiện sớm nhất ở Việt Nam qua Cựu tạp thí dụ kinh và Lục độ tập kinh vào giữa thế kỷ thứ III. Mặt khác, nhà sư Đàm Hoằng (?-455) chuyên hành trì pháp môn Tịnh Độ với ước nguyện vãng sinh Cực lạc đã đến Việt Nam tu học vào đầu thế kỷ thứ V vào năm 422, cách thời điểm Ngài Huệ Viễn sáng lập Tịnh Độ tông Trung Quốc (năm 422) chỉ khoảng sau 20 năm. 

- Tuy tư tưởng Tịnh Độ lễ Phật A Di Đà xuất hiện sớm ở Việt Nam và trở thành một trong những trào lưu chủ yếu của đời sống tín ngưỡng của Phật giáo nước ta, nhưng không hình thành một tông phái với chủ trương, lịch sử truyền thừa chặt chẽ và độc lập, tách biệt với các tông phái khác như Thiền, Mật hay Luật tông ở Trung Hoa và Nhật Bản. Ở nước ta, Tịnh Độ tông không đứng biệt lập và không hề thấy xảy ra những tranh luận với các hệ tư tưởng khác cũng như đấu tranh trong tự thân nó để phát triển. 

- Tịnh Độ tông ở Việt Nam phát triển, tồn tại, đan xen và song song với Thiền tông. Vua Trần Thái Tông (1218-1277), một nhà thiền học đã để lại nhiều tác phẩm trong đó có Khóa Hư Lục. Trong tác phẩm Phật học này có hẳn một chương Niệm Phật luận bàn về những lợi ích niệm Phật. Trần Thái Tông quan niệm tự tính Di Đà và tịnh độ chỉ có ở ngay hiện tiền, trong tâm của con người này mà không phải thuộc một quốc độ khác tồn tại ngoài thế gian. Quan điểm đó cũng thống nhất trong các tác phẩm của Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291) và Trần Nhân Tông (1258-1308). Trong bài phú nổi tiếng Cư trần lạc đạo phú của mình, nói lên chủ trương của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, Trần Nhân Tông đã viết : "Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn hỏi đến Tây phương. Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc". Như vậy, trên mặt lý luận, quan niệm Tịnh Độ ở đây được nhìn và giải thích theo đôi mắt thiền. Đấy là một trong những đặc điểm của trào lưu Tịnh Độ ở giai đoạn thời Trần nói riêng và cũng là một trong những đặc điểm căn bản trên phương diện lý luận của tư tưởng Tịnh Độ tại Việt Nam nói chung. 

Từ thế kỷ XVII, có sự thâm nhập của Tịnh Độ tông Trung Hoa, cũng được các chư tăng như Viên Văn Chuyết Chuyết (1590-1644), Minh Châu Hương Hải (1628-1708) và Chân Nguyên (1647-1726) v.v…truyền bá rộng rãi, đã mô tả thế giới Cực lạc và chủ trương niệm Phật để nhẹ nghiệp chướng, được vãng sinh về thế giới Tây phương Tịnh độ. Điều đó phù hợp với nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của quảng đại quần chúng Phật tử, nhất là cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX khi đất nước nằm trong tình trạng bị xâm lược, đời sống nhân dân cơ cực dưới sự đô hộ của thực dân Pháp. Trong thời kỳ này đã xuất hiện nhiều đạo tràng chuyên thực hành niệm Phật như Liên Trì xã, Niệm Phật liên xã. Cao trào này được phản ánh qua tác phẩm Phổ Khuyến Niệm Phật của nhà sư Tánh Thiên (1784-1847) và nhiều tác phẩm của các danh tăng khác như các vị Toàn Nhật (1755-1832), Tâm Truyền (1832-1911), Phước Huệ (1875-1863) v.v…

Đầu thế kỷ XX, dưới chế độ bảo hộ của Pháp, các tổ chức Phật giáo chỉ được mang danh nghĩa là các Hội đoàn, không được coi là Giáo hội. Vì vậy nhiều tổ chức Phật giáo đầu tiên lần lượt xuất hiện, bắt đầu từ miền Nam, ra miền Trung rồi miền Bắc. Nhất là từ năm 1920 và trong thập kỷ thứ 3 của thế kỷ XX, phong trào Chấn Hưng Phật giáo nổi lên rầm rộ ở các các miền Bắc, Trung , Nam. Nhiều hội đoàn về Phật giáo được thành lập và phát triển, nhiều tờ báo Phật học ra đời ở cả 3 miền. Giữa thế kỷ XX, do nhiều biến cố của đất nước, Phật giáo nói chung và Tịnh Độ nói riêng cũng phải qua nhiều khó khăn. Song riêng về pháp môn Tịnh Độ cũng được duy trì, củng cố và phát triển. Năm 1955, cố Hoà thượng Thích Trí Tịnh đã cho sáng lập hội Cực Lạc Liên Hữu, một đạo tràng chuyên tu Tịnh Độ đầu tiên của Việt Nam tại Chùa Vạn Đức, thành phố Hồ Chí Minh.Trong khoảng thời gian này cả Phật giáo đàng trong và Phật giáo đàng ngoài đều rất ưa chuộng pháp môn Tịnh Độ. Đặc biệt năm 1968 cố Hoà thượng Thích Thiền Tâm đã cho thành lập Đạo Tràng Tịnh Độ để chuyên tu ở Đại Ninh (Đức Trọng, Lâm Đồng) và dịch kinh Niệm Phật Ba La Mật. Tới năm 1970 cố Hoà Thượng còn cho mở Hương Nghiêm Tịnh Viện, năm 1974 cho mở khoá chuyên tu Tịnh Độ suốt ba năm. Cho đến ngày nay, pháp môn Tịnh Độ đã được phát triển mạnh mẽ và tỏa khắp các miền trong đất nước.

Tóm lại, trào lưu Tịnh Độ ở Việt Nam ta đã có một lịch sử lâu dài, nhưng không tự thân phát triển thành một tông phái riêng biệt, không có vị trí độc lập và tách rời với các pháp môn khác mà thường hòa quyện cùng với Thiền tông và Mật tông, đồng thời cũng không phong phú trong lý luận và phương pháp thực hành như Tịnh Độ tông Trung Hoa hay Nhật Bản. 

Sự không tách biệt độc lập này, có lẽ thuộc về đặc tính của dân tộc ta, cũng như đã thấy trong truyền thống Phật giáo Việt Nam, qua sự ra đời, sinh hoạt và truyền thừa của các dòng thiền. Dẫu là thiền sư, nhưng trong thực hành tâm linh thì vẫn trì tụng thần chú (Mật tông) và niệm danh hiệu Phật (Tịnh Độ tông). 

Đến nay Tịnh Độ tông đã được phát triển khắp đất nước. Rất nhiều đạo tràng niệm Phật A Di Đà xuất hiện khắp nơi, nhiều khóa tu Phật thất và khóa tu Một ngày niệm Phật cũng được phát triển làm cho pháp môn Tịnh Độ ngày càng ăn sâu vào tâm thức các Phật tử, bên cạnh sự phát triển của Thiền tông và Mật tông trong cả nước.

Phần II. GIÁO LÝ CỦA TỊNH ĐỘ TÔNG

A. Xuất xứ về giáo nghĩa căn bản của Tịnh Độ Tông.

Kinh Quán Vô Lượng Thọ còn được gọi là Thập Lục Quán Kinh là một trong ba bộ kinh quan trọng nhất của Tịnh Độ tông. Kinh miêu tả thế giới Cực lạc phương Tây của Phật A Di Đà và dạy 16 cách quán hành trì để sống thanh tịnh, giữ giới luật và niệm danh hiệu Phật A Di Đà, hành giả thoát khỏi các nghiệp bất thiện và được tái sinh nơi Tịnh độ Tây phương.

Kinh này nói rõ xuất xứ giáo pháp của Tịnh Độ tông đã được Đức Phật Thích Ca trình bày trước nguyện vọng của Hoàng hậu Vi Đề Hi trong ngục tối. Hoàng hậu Vi Đề Hi là mẹ của vua A Xà Thế đã bị con mình bắt bỏ ngục vì bà đã cố gắng tìm cách cứu chồng là vua Tần Bà Sa La đã bị bỏ ngục trước đó. A Xà Thế mưu cướp ngôi vua nên đã bắt cha mình là vua Tần Bà Sa La bỏ ngục. Bà Vi Đề Hi tìm cách giúp chồng bằng cách hằng ngày đến thăm và dấu các thức ăn đưa vào ngục. Bị phát hiện, bà bi con hạ lệnh cho bỏ ngục. Bà cầu mong Đức Phật đến cứu giúp vượt qua nỗi khốn khổ này, và xin tái sinh nơi một cõi yên lành, chỉ có an lạc không có khổ đau. Đức Phật đã xuất hiện và dùng thần lực cho bà thấy rõ mọi thế giới tịnh độ, nơi chỉ có an lạc không có khổ đau. Cuối cùng bà chọn cõi thế giới Cực lạc của đức Phật A Di Đà. Đức Thế tôn đã dạy bà phương pháp niệm danh hiệu Phật để được vãng sinh về cõi ấy và dạy phương pháp thiền định gồm 16 phép quán tưởng. Tuỳ theo nghiệp lực của chúng sinh, các phép này có thể giúp tái sinh vào một trong chín cấp bậc của đài sen chín phẩm từ Hạ phẩm hạ sinh đến Thượng phẩm thượng sinh (Cửu phẩm Liên hoa). Muốn được tái sinh về cõi Cực lạc của Đức Phật A Di Đà, hành giả phải thực hành các quy định trong giáo lý Tịnh Độ tông là tu tam tịnh nghiệp. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, Đức Thế Tôn có nói cho bà Vi Đề Hy rằng: “Nay ta sẽ vì bà mà nói rộng các pháp quán, cùng khiến đời vị lai tất cả hàng phàm phu, những người muốn tu tịnh nghiệp được vãng sinh Tây Phương Cực Lạc quốc. Này Vi Ðề Hi! Người muốn sang nước Cực lạc ấy nên tu ba phúc: Một là hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ bậc sư trưởng, có tâm nhân từ, chẳng giết hại và tu tập mười nghiệp lành. Hai là thọ trì Tam quy y, đầy đủ các cấm giới và chẳng phạm oai nghi. Ba là phát tâm Bồ đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Ðại Thừa và khuyến tấn người khác tu hành niệm Phật. Ba sự như vậy gọi là tam tịnh nghiệp”. Đó là nội dung căn bản của giáo nghĩa tu Tịnh độ mà đức Phật giảng giải cho bà Vi Đề Hy và cũng là giáo nghĩa căn bản của pháp môn Tịnh độ sau này.

B. Nội dung căn bản của giáo lý Tịnh Độ tông. 

Giáo lý của pháp môn Tịnh Độ đều có cơ sở từ kinh luận. Trong hệ thống kinh sách giáo lý Đại thừa có thể nói có rất nhiều bộ kinh đề cập đến pháp môn niệm Phật và cảnh giới Tịnh Độ. Chư Phật, chư Bồ Tát và chư vị cao Tăng tuyên dương pháp môn này đều nói rõ ưu điểm trên hai phương diện tự lực và tha lực. 

Tuy nhiên, từ trước đến nay trong hầu hết các sách nói về Tịnh Độ tông đều nhấn mạnh rằng Tịnh Độ tông lấy 3 bộ kinh và 1 bộ luận làm nền tảng (tức Tam kinh Nhất luận). Ba bộ kinh đó là kinh A Di Đà miêu tả thế giới Cực lạc đẹp đẽ trang nghiêm có Đức Phật A Di Đà đang thuyết pháp, Kinh Vô Lượng Thọ nói về tiền thân Đức Phật A Di Đà khi còn là Pháp Tạng Tỳ kheo đã phát 48 lời nguyện để cứu độ chúng sinh, kinh Quán Vô Lượng Thọ nói rõ phép quán tưởng niệm Phật và bộ luận Vãng sinh Tịnh độ của ngài Thế Thân giảng giải rõ về ý nghĩa của ba bộ kinh trên. Ngoài ra đôi khi còn nhắc đến Tịnh Độ tứ kinh, nghĩa là ngoài 3 bộ kinh kể trên, người ta còn bổ sung kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện và có khi bổ xung thêm cả kinh Đại Thế Chí Niệm Phật Viên thông là Tịnh Độ ngũ kinh

Có thể tóm tắt một cách đơn giản tinh thần nội dung giáo lý Tịnh Độ là: Con người hay nói rộng hơn là chúng sinh sống trên cõi Ta bà đầy ngũ trược ác thế này rất đau khổ. Hiểu cuộc đời này là khổ não, lẽ sống là vô thường, sinh tử luân hồi là quy luật, thì phải chọn cho mình một cuộc sống tốt hơn, không đau khổ, để được sống an lành và hạnh phúc và để được giải thoát khỏi mọi nỗi khổ niềm đau trên trần thế. Muốn thể phải tu nhân tích đức, phải có một pháp môn tu sao cho mọi chúng sinh với mọi căn cơ có thể hành trì để có thể tái sinh vào một cõi đầy niềm vui, không còn khổ não, đó là cõi Cực lạc. Vậy pháp môn đó là gì? Đức Phật thường nói có tới 84.000 pháp môn tu. Tùy theo căn cơ và hoàn cảnh của chúng sinh mà chọn pháp môn tu cho phù hợp. Pháp môn mà nhiều người tu (kể cả tại gia và xuất gia) là pháp môn Tịnh Độ hay còn gọi là pháp môn niệm Phật. Sở dĩ pháp môn Niệm Phật phổ biến và nhiều người tu vì nó không đòi hỏi trình độ và căn cơ người tu cao hay thấp, sang hay hèn, giầu hay nghèo và đặc biệt đó là một pháp môn dễ tu nhất. Với pháp môn Niệm Phật thì đi, đứng, nằm, ngồi hay làm chuyện gì mình cũng có thể niệm Phật được. Mục đích và hướng đến của người tu Tịnh Độ là chuyển hóa khổ đau thành an lạc thực sự và cầu được vãng sinh vào thế giới Cực lạc. Nhưng mục tiêu của người cầu vãng sinh Cực lạc không phải để hưởng sự an vui đó mà là để được giải thoát, giác ngộ, thành Phật. Nói cách khác, cảnh giới Cực lạc chỉ là môi trường hay phương tiện tốt nhất giúp cho mọi người được vãng sinh không còn thối chuyển trên con đường giác ngộ, hoặc không còn thối chuyển trên con đường đạt đến hạnh phúc thật sự. Muốn vãng sinh Cực Lạc phải có 3 điều kiện: Tín, Nguyện và Hạnh, đó là những yếu tố cần thiết, là tư lương của người hành giả tu theo Tịnh Độ cần phải có trên con đường tu tập. 

1.Tín (Xây dựng niềm tin): 

Đây là điều kiện đầu tiên để cho người tu Tịnh Độ vững bước trên con đường tu hành. Lòng tin là nền tảng để ước nguyện tu hành hướng về thế giới Cực lạc, niềm tin là nguồn gốc phát sinh mọi công đức. Hành giả Tịnh Độ phải có niềm tin rằng đức Phật A Di Đà và thế giới Cực lạc là có thật, rằng một khi mình tự tin rằng mình chuyên tâm tin tưởng, hành trì theo giáo lý của đức Phật và kiên trì niệm Phật quyết chí vãng sinh thì sẽ được vãng sinh. Niềm tin này đối với hành giả tu Tịnh Độ không bao giờ được thối chuyển. Đức Phật luôn nhấn mạnh rằng niềm tin này phải dựa trên nhận thức và lý trí. Tin có thế giới Cực lạc là dựa trên căn bản tin Pháp, tức là tin vào lời dạy của Phật. Tin những lời Phật dạy tức là tin vào giáo lý của Đức Phật nói về Vô thường, Khổ (trong Tứ Diệu Đế), Vô ngã, tin vào luật Nhân quả, Nghiệp báo, Duyên sinh. Vì vậy người ta thường nói lòng tin là một trong những món tư lương để cho hành giả bước trên con đường tu theo Tịnh Độ. 

2. Nguyện (Ước mong): 

Có lòng tin chưa đủ, người tu Tịnh độ phải phát nguyện, phải có ước nguyện, có lòng mong muốn được vãng sinh về thế giới Cực lạc và mục tiêu là thành Phật hay đạt được sự giác ngộ trọn vẹn. Biểu hiện của phát nguyện về Cực lạc phải được thể hiện trên mọi hành vi, lời nói và tâm ý của hành giả. Ước nguyện đó là rũ bỏ mọi phiền muộn, chấp trước để được tâm thanh tịnh, an lạc mới mong được vãng sinh về Tịnh độ, mong có khả năng để cứu độ chúng sinh. Phát nguyện vãng sinh Cực lạc tức là xác định điểm đến và lý tưởng của mình. Tâm nguyện như vậy mới tương ứng với tâm nguyện của Tịnh Độ, mới có cảm ứng với Phật và Thánh chúng ở nơi Cực lạc. Nếu có người niệm Phật A Di Đà mà không phát nguyện vãng sinh Cực lạc, mặc dù có phúc đức lớn do niệm Phật, người đó sẽ không được vãng sinh nước Cực lạc. Điều này có thể ví như một người đang làm một công việc mà không biết mình làm công việc này để làm gì, hay một người đang đi trên con đường mà không biết mình sẽ đi về đâu. 

3. Hạnh (Hành trì): 

Hạnh là sự thực hành phải cho kiên nhẫn và đúng pháp, nghĩa là chuyên niệm danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật không xen tạp và không tán loạn và cần nhất là phải hành theo đại nguyện của mình. Khi tâm nguyện hướng về Tịnh độ thì mọi hành động, ngôn ngữ đều được tu tập liên tục, nghĩa là việc hành trì theo phương pháp niệm Phật, quán tưởng đều phải hợp nhất giữa thân, khẩu và ý, không để cho các yếu tố khác chi phối, lôi kéo làm tâm bị tán loạn, ảnh hưởng đến trong khi niệm Phật. Mọi công đức, thiện pháp mà ta có đều hồi hướng về cõiTịnh Độ trang nghiêm, thanh tịnh. Như vậy, điều quan trọng trong sự thực hành niệm Phật A Di Đà để được vãng sinh đòi hỏi hành giả phải nhất tâm. Để có được kết quả là nhất tâm, hay một lòng không tạp loạn, hành giả phải tinh tấn nỗ lực niệm Phật và xem niệm Phật như là một sự nghiệp chính trong đời sống. Đó gọi là Niệm Phật nhất tâm bất loạn hay Niệm Phật tam muội. Nói cách khác, tâm của hành giả phải thường niệm A Di Đà một cách chí thiết và thể hiện tâm niệm này qua hành động, lời nói bằng cách ăn chay, bố thí, cúng dường Tam bảo, nói lời ái ngữ, không tà hạnh và sống đời sống có tiết độ.

Như vậy, theo pháp môn Tịnh Độ, tín, nguyện, hạnh (lòng tin sâu sắc, ước nguyện thiết tha và trì danh niệm Phât miên mật) là ba điều kiện không thể thiếu được, còn được gọi là tư lương của hành giả pháp môn Tịnh Độ. Riêng về niệm Phật cũng cần nói thêm rằng trong Đại Trí Độ luận có nói: “Niệm Phật tam muội có thể trừ các thứ phiền não và tội đời trước. Lại nữa, Niệm Phật tam muội có phước đức lớn hay độ chúng sinh…” 

Tóm lại giáo lý căn bản của Tịnh Độ tông chủ trương người tu theo Tịnh Độ (kể cả xuất gia và tại gia) phải nhất tâm niệm Phật, quán tưởng Đức Phật A Di Đà và sự trang nghiêm thanh tịnh của cõi Cực Lạc nơi Tây phương Tịnh độ, bằng tự lực của mình với niềm tin sâu sắc, ước nguyện thiết tha và hành trì miên mật (Tín, Nguyện, Hạnh), đồng thời hành giả phải nương nhờ Phật lực (tha lực) để được vãng sinh về Cực lạc trong trạng thái nhất tâm bất loạn. Về phần Hạnh tức phương pháp hành trì (trong Tín, Nguyện, Hạnh), không phải chỉ có chuyên trì niệm Phật, quán tưởng mà còn thọ trì Tam quy, Ngũ giới, hành Thập thiện, tạo công đức lớn, phát Bồ Đề tâm, nguyện thành Phật đạo, hóa độ chúng sinh. Chính trong kinh Quán Vô Lượng Thọ cũng đã có nói rõ điều này: “Hành giả muốn vãng sinh Tịnh độ phải hội đủ ba điều kiện: Một là hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, từ tâm bất sát, tu mười nghiệp lành. Hai là thọ trì Tam quy, ngũ giới, không phạm oai nghi. Ba là phát Bồ đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyên người khác cùng tu”. 

Chính vì ý nghĩa ấy, cho nên không thể hiểu đơn giản pháp môn Tịnh Độ chỉ là niệm Phật đạt đến nhất tâm bất loạn mà cần phải hội đủ ba tịnh nghiệp như kinh Vô Lượng Thọ đã nói ở trên. 

C. Các bộ kinh chính của Tịnh Độ Tông. 

Giáo nghĩa của pháp môn Tịnh Độ nằm trong 3 bộ kinh chính gọi là Tịnh Độ tam kinh, bao gồm kinh Vô Lượng Thọ, kinh A Di Đà và kinh Quán Vô Lượng Thọ.Ngoài ra, sau này các hành giả Tịnh Độ còn cho rằng pháp môn Tịnh Độ có 5 bộ kinh gọi là Tịnh Độ ngũ kinh. Đó là gồm 3 bộ kinh nói trên và thêm 2 bộ kinh khác là kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện, nguyên là một phẩm trích từ kinh Hoa Nghiêmvà kinh Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông, nguyên là chương Niệm Phật Viên Thông của kinh Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm. Thực ra 2 bộ kinh đó là một phần của các bộ kinh lớn khác mà các hành giả Tịnh Độ ghép vào vì có nói đến phát Bồ Đề tâm là một phần trong ba tịnh nghiệp và có nói đến công đức niệm Phật. Vì vậy cho nên thường khi nói đến các kinh chính của pháp môn Tịnh Độ, các hành giả đều chỉ nói đến 3 bộ kinh chính. Sau này còn bổ sung thêm kinhNiệm Phật Ba La Mật và bộ luận Vãng Sinh Tịnh Độ (do Bồ tát Thế Thân biên soạn).Thực ra kinh Niệm Phật Ba La Mật mà Đức Phật tuyên dạy tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá, cần được xem như là bộ kinh chính của pháp môn Tịnh độ vì đề cập nhiều nhất về phương pháp niệm Phật Ba La Mật. Nhưng không hiểu sao từ bao lâu nay, các hành giả về Tịnh Độ tông không thấy nhắc đến bộ kinh này và trong các đạo tràng tu Tịnh Độ cũng không mấy Phật tử biết đến bộ kinh này. Có thể do bộ kinh Niệm Phật Ba La Mật đề cập đến triết lý sâu sắc ở một trình độ cao mà các hành giả Tịnh Độ tông cho là không phù hợp với pháp môn dễ tu là Tịnh Độ tông. 

Phải nói rằng pháp môn Tịnh Độ đều dựa trên cơ sở từ những kinh và luận này. Đặc biệt trong giáo lý Đại thừa có nhiều bộ kinh nói đến pháp môn niệm Phật và cảnh giới Tịnh độ. Chư Phật, chư Bồ tát và chư vị cao tăng tuyên dương pháp môn này đều nói rõ ưu điểm trên hai phương diện tự lực và tha lực. Tự lực là do hành giả phải quyết tâm tự mình thực hiện, ngoài ra hành giả còn nhở ở tha lực tức là còn nhờ vào các đức Phật và Thánh chúng. Ngoài các bộ kinh chính đã nói ở trên, có thể thống kê các bộ kinh sau đây nói đến pháp môn Tịnh Độ: đó là các bộ kinh Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác kinh, Đại Phật A Di Đà kinh, Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ kinh, Cổ Âm Thanh Tán Đà La Ni kinh v.v… 

Sau đây ta điểm qua nội dung của các bộ kinh chính của pháp môn Tịnh Độ: 

1. Kinh Vô lượng thọ: 

Kinh Vô lượng thọ còn được gọi kinh Đại thừa Vô Lượng Thọ. Tên chính của bộ kinh này là Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh. Đây là một trong các bộ kinh chính của pháp môn Tịnh Độ. Kinh này được Hòa thượng Thích Trí Tịnh, Hòa thượng Thích Chân Thường, Hòa thượng Thích Đức Niệm và một số dịch giả khác dịch sang tiếng Việt từ bản Hán văn do Pháp sư Khương Tăng Khải và cư sĩ Hạ Liên Cư dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán[1]. 

Nội dung của kinh Vô Lượng Thọ nói về lịch sử của Đức Phật A Di Đà và 48 lời nguyện của Ngài để độ chúng sinh giải thoát. Kinh nói rằng ở vô lượng vô số kiếp về đời quá khứ lâu xa có đức Phật xuất thế hiệu là Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai. Khi đó có một nhà vua tên là Thế Nhiêu, sau khi nghe đức Phật thuyết pháp liền ngộ đạo, phát tâm xuất gia trở thành vị Tỳ kheo tên là Pháp Tạng. Ngài quyết tâm tu hành thành Phật và phát nguyện độ hết chúng sinh trong cõi Cực lạc của mình. Ngài lập 48 lời nguyện giúp chúng sinh giải thoát. 

Những nguyện quan trọng là nguyện thứ 18: “Khi con thành Phật, chúng sinh trong mười phương nghe danh hiệu con, hết lòng tin tưởng, nếu có điều lành nào, tâm tâm hồi hướng nguyện sinh về cõi nước con, cho đến mười niệm, nếu không được vãng sinh, thề không thành Chính đẳng, chính giác. Ngoại trừ những kẻ phạm tội ngũ nghịch, phỉ báng chính pháp”. Và nguyện thứ 19: “Khi con thành Phật, chúng sinh khắp mười phương nghe danh hiệu con, phát tâm Bồ đề, tu các công hạnh, hành sáu Ba la mật, kiên cố không lùi, lại đem các căn lành hồi hướng nguyện sinh về cõi nước con, một lòng nghĩ đến con ngày đêm không dứt, đến khi mạng chung, con cùng Thánh chúng Bồ Tát liền đến tiếp đón, khoảnh khắc sinh về cõi con được Bất thối chuyển. Nếu không được như nguyện, thề không thành Chính giác”. (Kinh Vô lượng thọ - Thích Đức Niệm và Minh Chánh dịch) 

Nội dung 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà cho ta thấy con đường tu tập Tịnh Độ dựa vào nguyện lực của Đức Phật A Di Đà và nhất tâm niệm Phật là con đường tu dễ nhất, mọi căn cơ có thể tu chứng được, đó là lý do tại sao Tịnh Độ tông được truyền bá rộng rãi nhất. 

2. Kinh A Di Đà: 

Kinh A Di Đà là một bản kinh chính của pháp môn Tịnh Độ. Đây là một trong ba bộ kinh quan trọng nhất của Tịnh Độ tông, lưu hành rộng rãi tại Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam. Kinh này giới thiệu cõi nước Cực lạc của Đức Phật A Di Đà và trình bày phương pháp nhất tâm niệm danh hiệu A Di Đà và sẽ được A Di Đà tiếp độ về cõi Cực lạc lúc lâm chung. Nguyên bản tiếng Phạn của kinh này vẫn còn tồn tại và người ta cũng còn tìm thấy những bản dịch Hán ngữ của hai dịch giả lừng danh là Ngài Cưu Ma La Thập và Pháp sư Huyền Trang. Kinh này được dịch sang tiếng Việt có nhiều bản, như bản dịch của Hòa thượng Thích Trí Tịnh, của Thiền sư Nhất Hạnh, của Hòa thượng Thích Tuệ Nhuận, của Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới Vạn Phật Thánh Thành v.v… Kinh A Di Đà do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng về y báo và chính báo[2] của đức Phật A Di Đà nơi thế giới Cực lạc ở phương Tây, cách cõi Ta bà này mười vạn ức cõi Phật nhằm ca tụng cõi Cực lạc. Kinh A Di Đà cũng chỉ rõ pháp môn niệm Phật để được vãng sinh về cõi Cực lạc của Đức Phật A Di Đà. Do kinh A Di Đà thuyết minh cảnh tướng trang nghiêm của cõi Tây Phương Cực lạc, nguyện lực độ sinh của Đức Phật A Di Đà, đặc biệt khuyên tu niệm Phật để được vãng sinh nên đây là bộ kinh ngắn gọn và hàm chứa giáo lý Tịnh Độ sâu xa mà các chùa, các tịnh xá đều đọc tụng hàng ngày. Theo lời Phật dạy trong kinh, nguyên nhân khiến chúng sinh cần nên phát nguyện sinh về Tịnh độ là do nơi đó có chư Phật, chư Bồ tát và các bậc thượng thiện nhân. Kinh A Di Đà có nói: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào mà được nghe nói Đức Phật A Di Đà rồi nhớ kỹ lấy danh hiệu của Ngài mà niệm trong một ngày, hai, ba, bốn, năm, sáu hoặc bảy ngày, một lòng tâm không tạp loạn, thì người ấy đến khi lâm chung, Đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh chúng hiện thân trước người đó, người đó lúc chết không điên đảo, liền được vãng sinh về nước Cực lạc của Đức Phật A Di Đà”. 

Hơn nữa trong kinh còn nói rõ chúng sinh nào dù còn mang đầy nghiệp chướng phiền não, nhưng mỗi khi đã quyết chí tu hành được vãng sinh sẽ chứng được địa vị Bất thối chuyển, từ đó thẳng tiến tu hành đến quả vị Vô thượng Bồ đề. 

3. Kinh Quán Vô Lượng Thọ: 

Như trên đã nói, kinh Quán Vô Lượng Thọ cũng là một trong ba bộ kinh quan trọng nhất của Tịnh Độ tông. Kinh miêu tả thế giới phương Tây của Phật A Di Đà và dạy cách hành trì: sống thanh tịnh, giữ giới luật và niệm danh hiệu Phật A Di Đà, thì hành giả thoát khỏi các nghiệp bất thiện và được vãng sinh nơi Tịnh độ của đức Phật A Di Đà. Trong kinh này, ngoài việc giới thiệu và giảng giải cho bà Vi Đề Hy biết về tất cả các cõi tịnh độ, nơi chỉ có an lạc không có khổ đau. Cuối cùng bà chọn cõi thế giới Cực lạc của Đức Phật A Di Đà. Trong kinh, đức Phật còn dạy cho bà và mọi chúng sinh 16 phép quán tưởng, và tuỳ theo nghiệp lực của chúng sinh, các phép này có thể giúp vãng sinh vào một trong chín cấp bậc của Tịnh độ, từ Hạ phẩm Hạ sinh lên đến Thượng phẩm Thượng sinh. 

Mười sáu phép quán tưởng đó là: 1. Quán tưởng mặt trời lặn, 2. Quán tưởng nước, 3. Quán tưởng đất, 4. Quán tưởng cây báu, 5. Quán tưởng nước cam lộ, 6. Quán tưởng tổng quát, 7. Quán tưởng toà sen, 8. Quán tưởng hình tượng của Tam thánh, 9. Quán tưởng sắc thân của Phật A Di Đà, 10. Quán tưởng sắc thân của Quán Thế Âm Bồ tát, 11. Quán tưởng sắc thân của Đại Thế Chí Bồ tát, 12. Quán tưởng vãng sinh trong hoa sen, 13. Quán tưởng hình tượng nhỏ của Tam thánh, 14. Quán tưởng ba phẩm ở Thượng sinh, 15. Quán tưởng ba phẩm ở Trung sinh, 16. Quán tưởng ba phẩm ở Hạ sinh. Các phép quán này giúp hành giả có thể thấy được A Di Đà và hai vị Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí ngay trong đời này và đó là dấu hiệu chắc chắn hành giả sẽ được vãng sinh về thế giới Tịnh độ. 

Tất cả mười sáu pháp quán làm nhân tố vãng sinh Cực Lạc, được Đức Phật trình bày một cách rõ ràng, đó đều là những pháp quán rất tinh vi và sâu thẳm. 

4. Kinh Niệm Phật Ba La Mật: 

Ngoài ba bộ kinh và một bộ luận trọng yếu của tông Tịnh độ do Bồ tát Thế Thân soạn thảo, thì kinh Niệm Phật Ba La Mật là bộ kinh nói rõ bản ý, chủ đích của tông Tịnh Độ, lý giải một cách rõ ràng, thấu đáo về mục đích và đường lối tu tập pháp môn niệm Phật cầu vãng sinh. Bản kinh đó do Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán vào đời Diêu Tần (384-417) và được Hòa thượng Thích Thiền Tâm dịch sang Việt ngữ. 

Có thể nói đây là bản kinh mang tính triết lý vô cùng quan trọng của Tịnh Độ tông, bản kinh này được Đức Phật thuyết giảng trước đại chúng gồm các vị Đại Bồ tát khắp mười phương, các tỳ kheo, chư thiên vương, lại có cả Quốc mẫu Vi Đề Hy Hoàng thái hậu, vua A Xà Thế…..tại núi Kỳ Xà Quật, gần thành Vương Xá. Nhưng đáng tiếc hiện nay tuyệt đại đa số hành giả truyền bá Tịnh Độ tông hoàn toàn không nói đến kinh Niêm Phật Ba La Mật, và hầu như các chùa, các đạo tràng A Đi Đà của pháp môn Tịnh Độ đều không tụng bản kinh này.

Trong phẩm thứ hai Mười tâm thù thắng của kinh Niệm Phật Ba La Mật (Bản dịch từ Hán sang Việt của Hòa thượng Thích Thiền Tâm) có nói: “Pháp môn niệm Phật chính là chuyển biến cái tâm thể của chúng sinh, bằng cách không để cho tâm thể ấy duyên với vọng niệm; với lục trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; với huyễn cảnh, với kiến chấp, với mong cầu, với thức phân biệt v.v.. Mà chỉ đem tâm thể ấy duyên mãi với danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật. Không bao lâu người niệm Phật tự nhiên đi vào chỗ vắng lặng, sáng suốt, an lạc, cảm ứng với nguyện lực của đức Phật A Di Đà, thấy mình sinh vào cõi nước Cực lạc, thân mình ngồi trên tòa sen báu, nghe Phật và Bồ tát nói pháp, hoặc thấy Phật lấy tay xoa đỉnh”. Điều này cũng tương tự như lời Đức Phật dạy trong kinh Quán Vô Lượng Thọrằng: “Chư Phật Như Lai là thân pháp giới, vào trong tâm tưởng chúng sinh, cho nên tâm các ngươi tưởng Phật thì tâm ấy là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật. Biến Chánh Biến Tri của Phật từ nơi tâm tưởng mà sinh, vì thế các ngươi phải nhớ nghĩ và quán tưởng kỹ thân của Đức Phật kia”.

Trong kinh Niệm Phật Ba La Mật, Đức Phật cũng đã dạy: “Chư Phật đã dùng Phật nhãn quán sát khắp mười phương, thấy rõ nghiệp lực chúng sinh lành dữ không đồng đều, thấy thân tướng và cảnh giới của chúng sinh xấu tốt có sai biệt. Nhưng điểm sinh khởi chẳng rời sát na tâm sinh diệt. Muốn hàng phục và chuyển biến cái sát na tâm sinh diệt ấy, thì không có pháp nào hơn là pháp NIỆM PHẬT”. Và đức Phật cũng đã nói: “Muốn niệm Phật đúng pháp và tự biết mình chắc chắn vãng sinh, thì người niệm Phật phải phát khởi mười thứ Tâm Thù Thắng đó là: 1.Tín tâm, 2. Thâm trọng tâm, 3. Hồi hướng phát nguyện tân, 4. Xả ly tâm, 5. An ổn tâm, 6. Đà La Ni tâm, 7. Hộ giới tâm, 8. Ba La Mật tâm, 9. Bình đẳng tâm, 10. Phổ Hiền tâm”. 

Vì vậy cần đặt đúng vị trí kinh Niệm Phật Ba La Mật là một trong những bản kinh chính và quan trọng của pháp môn Tịnh độ. 

5. Luận Vãng Sinh Tịnh Độ: 

Luận Vãng Sinh Tịnh Độ là bộ luận quan trọng trong pháp môn Tịnh Độ được chư cổ đức truyền bá tông Tịnh Độ xếp thành bộ luận căn bản để hoằng truyền pháp môn Tịnh độ. Bộ luận này do Luận sư Bồ tát Thế Thân (316-?) người Ấn biên soạn dựa vào ý kinh của bản kinh Vô Lượng Thọ, nên tên chính của bộ luận là Vô Lượng Thọ Kinh Luận, do đó bộ luận này thuộc về Tôn Kinh luận [3]tức là dựa vào ý kinh mà lập ra luận. Bộ luận này gồm hai phần kệ văn và luận văn. Kệ văn là những bài kệ được quy định chữ và vần điệu. Trọng tâm bộ luận này, cả kệ văn và luận văn đều dạy những cương lĩnh của môn tu Ngũ niệm, một phương thức tu hành cầu vãng sinh Tịnh độ. Vì thế, bộ luận này còn được gọi là luận Năm môn thực hành để được vãng sanh Tịnh Độ. 

Năm môn thực hành gọi là Ngũ niệm đó bao gồm. 

- Môn lễ bái : thân nghiệp chuyên lễ bái Phật A Di Đà. 

- Môn tán thán : khẩu nghiệp chuyên chấp trì Thánh hiệu Phật A Di Đà, tán dương Phật A Di Đà. 

- Môn phát nguyện: một lòng nhớ nghĩ, phát nguyện khi lâm chung được sinh về thế giới Tịnh độ. 

- Môn quán sát: chuyên quán sát chánh báo và y báo trang nghiêm của Đức Phật A Di Đà và thế giới Cực Lạc. 

- Môn hồi hướng: có bao nhiêu công đức thảy đều hồi hướng, cầu nguyện cho mình và tất cả chúng sinh sớm được vãng sinh. 

Ngoài ra, còn có hai bộ kinh cũng được xếp vào Pháp môn Tịnh Đô (gọi là Tịnh Độ Ngũ kinh). Đó là kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện và kinh Đại Thế Chí Niệm Phật Viên thông. 

Nhưng thật ra Phổ Hiền Hạnh Nguyện chỉ là một phẩm trong bộ kinh Hoa Nghiêm. Phẩm này nói lên 10 đại nguyện của Đại sĩ Phổ Hiền bao gồm 1. Lễ kính chư Phật, 2. Tán thán Như Lai, 3. Phổ hiến cúng dường, 4. Sám hối nghiệp chướng, 5. Tùy hỷ công đức, 6. Xin chuyển pháp luân, 7. Thị hiện Niết bàn, 8. Thường học theo Phật, 9. Hằng thuận chúng sinh, 10. Hồi hướng công đức.

Mười điều phát nguyện của Bồ tát Phổ Hiền rất quan trọng đối với người Phật tử nói chung, chứ thực ra không chỉ giành riêng cho pháp môn niệm Phật của Tịnh Độ tông. Do vậy, có thể nói Phổ Hiền Hạnh nguyện không nên xếp vào trong các kinh chính của pháp môn Tịnh Độ.

Kinh Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông nguyên là một chương trong bộ kinh Đại Phật đỉnh Thủ Lăng Nghiêm. Chương này nói về Ngài Đại Thế Chí đã đắc niệm Phật viên thông như thế nào. Đó là niệm Phật đạt tới mức vừa viên dung vừa thông đạt, tức niệm Phật đến viên mãn, đến thành tựu. Ý nghĩa của chương Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông là Ngài Đại Thế Chí hiện thân thuyết pháp, dạy hết thảy chúng sinh về pháp môn niệm Phật đạt đến viên thông. Đó là 4 phương pháp: 1. Trì danh niệm Phật, 2. Quán tượng niệm Phật, 3. Quán tưởng niệm Phật và 4. Thực tướng niệm Phật. 

Vì đó là một chương trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, nên việc đưa vào là một trong Tịnh Độ Ngũ kinh xem ra không hợp lý lắm. Vì vậy các hành giả Tịnh Độ tông ít nhắc đến kinh này là kinh chính của pháp môn Tịnh Độ.

D. Các xu hướng phát triển của giáo lý Tịnh Độ tông ở Việt Nam. 

1.Tịnh Độ tông trước thời Lý-Trần. 

Đây là thời kỳ thuộc thiên niên kỷ thứ Nhất sau Công nguyên, từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ X, trước sự kiện Khúc Thừa Hạo giành quyền tự chủ. Như ở trên đã trình bày, pháp môn Tịnh Độ đã vào Việt Nam cùng với thời kỳ đầu khi Phật giáo từ Ấn Độ và từ Trung Quốc sang Việt Nam. Khi đó ở Việt Nam đã có những tác phẩm Phật học như cuốn Cựu Tạp Thí Dụ kinh và Lục độ tập kinh đều do Tăng Hội, người Khương Cư, sinh ra và sống trên đất Giao Chỉ nước ta, biên tập vào khoảng thế kỷ thứ II và thứ III sau Công nguyên. 

Trong Cựu Tạp Thí Dụ kinh, lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo nước ta, danh hiệu đức Phật A Di Đà được nhắc đến. Ngoài ra, ta còn thấy trong Lục Độ Tập Kinh, pháp môn Niệm Phật được đề cập nhằm giúp cho các Phật tử thực hành theo Tịnh Độ. Theo Giáo sư Nguyễn Lang (tức Thiền sư Nhất Hạnh) viết trongViệt Nam Phật giáo sử luận (NXB Văn Học-2000) thì Lục Độ Tập Kinh là một tác phẩm rất đặc biệt do Tăng Hội biên soạn vào đầu thế kỷ thứ III, chắc chắn không phải là một tác phẩm dịch thuật từ Phạn ngữ mà là một tác phẩm sưu khảo biên tập trong đó có nhiều đoạn hoàn toàn do Tăng Hội viết. Trong Lục Độ Tập Kinh, cả thảy có 8 quyển nói về sáu độ (nên gọi là Lục Độ Tập Kinh tức là nói về sáu sự vượt qua bờ) gồm bố thí độ, trì giới độ, nhẫn nhục độ, tinh tấn độ, thiền định và trí tuệ[4]. 

Và như vậy ngay từ những thế kỷ đầu sau Công nguyên, pháp môn Niệm Phật đã được lưu hành trong quảng đại quần chúng Phật tử ở Việt Nam. Đó là thời kỳ đất nước ta chìm đắm trong sự lệ thuộc vào phương Bắc cùng với các cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (Năm 43 của thế kỷ thứ I SCN), của Bà Triệu (Năm 248). Nhưng tín ngưỡng Tịnh Độ với pháp môn Niệm Phật vẫn được duy trì, tuy không được phát triển mạnh mẽ, không thành tông phái riêng và cũng không được phong phú về mặt lý luận. Người Phật tử nặng về niệm Phật để cầu xin vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống, chắc chưa thấu hiểu giáo lý sâu xa của pháp môn Niệm Phật. 

Trong thời kỳ Bắc thuộc lần thứ 2 (từ năm 43 đến 541) kết thúc bằng cuộc khởi nghĩa của Lý Bí lập nên nhà Tiền Lý (544-602), có sự lưu truyền kinh Vô Lượng Thọ trong quần chúng Phật tử. Đây là một bản kinh thuộc Tịnh Độ tông do nhà sư Đàm Hoằng (?-455), một vị tăng Trung Quốc chuyên hành trì pháp môn niệm Phật Tịnh độ với ước nguyện vãng sinh nơi Cực Lạc, đem vào nước ta vào khoảng giữa thế kỷ thứ V. Do lưu truyền kinh Vô Lượng Thọ, nên trình độ thâm nhập giáo lý đức Phật cũng như pháp môn Niệm Phật đã được phát triển rộng rãi hơn. 

Sang giai đoạn Bắc thuộc lần thứ 3, kéo dài từ năm 602 khi kết thúc Hậu Lý Nam Đế đến năm 905 khi Khúc Thừa Dụ giành quyền tự chủ, có một số sự kiện Phật giáo làm cho Phật giáo ở Việt Nam phát triển có đặc thù riêng. 

Các sự kiện đó là: 

Sự kiện thứ nhất là vào tháng 3 năm Canh Tý (580) có nhà sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, người Ấn Độ từ Trung Hoa qua Việt Nam, trụ lại ở chùa Pháp Vân, hương Cổ Châu, Long Biên, nay thuộc xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Chùa Pháp Vân còn được gọi là Chùa Dâu, tên chữ là Diên Ứng tự. Đây là ngôi chùa được coi là có lịch sử hình thành sớm nhất Việt Nam mặc dù các dấu tích vật chất không còn, Chùa nằm ở vùng Dâu, thời thuộc Hán gọi là Luy Lâu là trung tâm của đất Giao chỉ và cũng là trung tâm Phật giáo thời cổ đại. Tỳ Ni Đa Lưu Chi đến đây lập nên thiền phái Phật giáo đầu tiên ở nước ta vào cuối thế kỷ thứ VI là Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Thiền phái này tồn tại đến đầu thế kỷ XIII được 19 thế hệ. 

Sự kiện thứ 2 là cuối thế kỷ thứ IX, vào năm 820, thiền sư Vô Ngôn Thông từ Trung Hoa sang Việt Nam ở lại chùa Kiến Sơ thuộc làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội. Từ đó một thiền phái khác được thành lập mang tên là thiền phái Vô Ngôn Thông còn gọi là thiền phái Quan Bích. Thiền phái này tồn tại được 17 thế hệ đến cuối thế kỷ thứ XIII thì dần dần được hợp nhất các thiền phái ở Việt Nam khi đó trở thành thiền phái Trúc Lâm.

Trong quãng thời gian này (từ thế kỷ thứ I sau Công nguyên đến thế kỷ thứ X), cụ thể là đến năm 905, Khúc Thừa Dụ lập nên thời kỳ tự chủ, thì Phật giáo phát triển nặng về Thiền tông, nhưng pháp môn Tịnh Độ cũng được duy trì hòa hợp dung thông với Thiền tông mà cụ thể là các thiền sư thuộc các thiền phái Tỳ Ni Đà Lưu Chi và thiền phái Vô Ngôn Thông vẫn thực hành pháp môn niệm Phật, trì tụng kinh A Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ nhưng Tịnh Độ vẫn chưa hình thành pháp môn riêng biệt.

2. Tịnh Độ tông dưới thời Lý-Trần: 

Từ sau sự kiện Khúc Thừa Du xây dựng chính quyền tự chủ năm 905, đặt nền móng cho Việt Nam giành độc lập, rồi đến thời kỳ Ngô Quyền xưng vương lập nên nhà Ngô (939-968), sau trận chiến thắng lịch sử trên sông Bạch Đằng trước quân Nam Hán, đến năm 968 Đinh Bộ Lĩnh xưng đế và đặt tên nước là Đại Cồ Việt thì nước ta trải qua các triều đại nhà Đinh (968-980), nhà Tiền Lê (980-1009) và nhà Lý (1009-1225) và nhà Trần (1226-1400). 

Trong suốt thời kỳ này, Phật giáo ở Việt Nam phát triển mà hưng thịnh nhất chủ yếu vào thời nhà Lý và nhà Trần. 

Cũng cần điểm qua sự phát triển của Phật giáo nói chung và của pháp môn Tịnh Độ nói riêng trong thời kỳ chuyển tiếp từ khi khôi phục quyền tự chủ đến đầu đời nhà Lý, tức là khoảng thời gian Nhà Ngô, Nhà Đinh và Tiền Lê. Ta biết trong thời kỳ, các vị vua như Đinh Tiên Hoàng và Lê Hoàn rất trân trọng Phật giáo đã coi các vị danh tăng như những cố vấn của triều đình, giúp Nhà nước lo việc đại sự. Ta có thể kể đến Pháp sư Ngô Chân Lưu tức Khuông Việt Đại sư (933 – 1011)[5] được vua Đinh Tiên Hoàng phong làm Tăng thống lãnh đạo Phật giáo cả nước. Năm 971 lại phong chức Khuông Việt Thái sư (Tể tướng) để giúp đỡ và phát triển đất nước Đại Cồ Việt. Nhà vua và quần thần của cả hai triều Đinh và Tiền Lê đều rất tôn trọng và cung kính các Đại sư khác như Pháp Thuận, Vạn Hạnh v.v… Phật giáo trong thời kỳ này đã chiếm được ưu thế trong xã hội bởi triết lý tích cực là thương cảm chúng sinh. Cho nên thời Đinh và Tiền Lê chọn Phật giáo là tư tưởng chính trị chính thống là hợp với lòng người, hợp với thời đại. Phật giáo đã cung cấp cho nhà Đinh và Tiền Lê tư tưởng trị nước (tư tưởng từ bi, bác ái, khoan dung) và cung cấp học thuyết trị vì thiên hạ cho bậc quân vương. Do đó Phật giáo trong thời kỳ này phát triển mạnh mẽ mà ta có thể thấy trong các trụ đá mà triều đình nhà Đinh cho khắc các kinh Tổng trì Đà La Ni và Kinh Chú Thủ Lăng nghiêm ở Hoa Lư, Ninh Bình. 

Sang đến thời kỳ Lý-Trần thì Phật giáo đã phát triển đến mức cực thịnh và đã trở thành Quốc đạo. Đây là thời kỳ vẻ vang, oanh liệt của dân tộc và của Phật giáo Việt Nam. Có thể thấy các đặc điểm của Phật giáo nói chung và của pháp môn Tịnh Độ nói riêng trong thời kỳ này như sau: 

a. Tính nhập thế: 

Phật giáo thời kỳ này giữ vai trò là một cột trụ lớn của hệ tư tưởng và văn hóa Việt Nam. Phật giáo đời Lý-Trần và nhất là vào thời Trần mang tính nhập thế tích cực “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian pháp”. Đạo không tách rời đời và đời cũng không thiếu vắng đạo, cả hai đã trở thành một hợp thể linh động, sáng tạo và diệu dụng trong mọi hoàn cảnh. Đặc điểm và tính nhập thế của Phật giáo thời Lý-Trần thể hiện nhiều trong các tác phẩm văn học và Phật học. Bài kệ trong đoạn kết của Cư Trần Lạc Đạo Phú của Phật hoàngTrần Nhân tông thể hiện rất rõ điều đó:

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên 
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch 
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền 
Dịch: 

Sống đời vui đạo cứ tùy duyên, 
Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. 
Của báu trong nhà, tìm gì nữa 
Thấy cảnh vô tâm, chẳng hỏi thiền.

Tư tưởng nhập thế của Phật giáo thời Lý-Trần mà nổi bật nhất trong thời Trần có liên quan đến pháp môn Tịnh Độ đã để lại trong nhiều tác phẩm như Khóa Hư Lục của Trần Thái Tông trong đó có bài Niệm Phật luận, bài Phổ Khuyến Phát Bồ Đề Tâm, bài Niệm Tụng Kệ v.v…cũng như các bài trong tác phẩm Thánh Đăng Lục, Thiền Uyển Tập Anh, Tam Tổ Thực Lục, Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục đều có đề cập đến tư tưởng niệm Phật độ sinh thuộc về pháp môn Tịnh Độ. 

b. Tính dung thông: 

Thời kỳ này các thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông đều phát triển mạnh mẽ, lại thêm thiền phái Thảo Đường[6] được thành lập sau sự kiện vua Lý Thánh Tông đi chinh phạt Chiêm Thành vào năm 1069. Các thiền sư trong cả ba thiền phái này không những tinh thông cả Thiền tông mà còn hộ trì pháp môn Tịnh Độ và thâm hiểu sâu cả Mật tông. Đó là đặc điểm các tông phái Phật giáo thời Lý-Trần: có sự dung thông trong quá trình tu tập và hoằng dương Phật pháp. Có thể nói sự kiện nhà sư Thường Chiếu ( ?–1203), vị thiền sư­ họ Phạm thuộc­ thế hệ thứ 13 thiền phái Vô Ngôn Thông dời sang chùa Lục Tổ ở hư­ơng Dịch Bảng nay là chùa Cổ Pháp xã Đình Bảng, vốn là một tổ đình lớn của Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Ông sang đây mở trư­ờng dạy học để giáo hoá Phật pháp cho ta thấy xu h­ướng hoà nhập của các thiền phái đạo Phật ở Việt Nam bắt đầu xuất hiện vào cuối thế kỷ XII và đầu thế kỷ thứ XIII đời nhà Trần. Rồi sự kiện thiền sư Trì Bát (1049 - 1117), đời thứ 12 thuộc thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã chịu ảnh hưởng của Tịnh Độ tông khi tin vào cõi Tây phương Cực lạc của đức Phật A Di Đà.

c. Tính thống nhất: 

Phật giáo thời Trần đã có công đem lại cho nền Phật giáo một sự thống nhất cao đô. Ta biết rằng ở nước ta thời trước đã có thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, thiền phái Vô Ngôn Thông và thiền phái Thảo Đường. Bên cạnh đó các pháp môn Tịnh Độ tông và Mật tông vẫn hoằng truyền Phật pháp. Tuy nhiên chỉ có các thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông là phát triển mạnh. Trước khi Vua Trần Nhân tông lập nên Trúc Lâm Yên Tử, thì từ những năm đầu của thế kỷ thứ XIII đã có thiền sư­ Thư­ờng Chiếu là ngư­ời dày công xây dựng sự hoà nhập giữa ba dòng thiền chính của Phật giáo Việt Nam, khởi đầu cho sự hình thành thống nhất của Phật giáo Việt Nam đi đến một thiền phái thống nhất Trúc Lâm Yên Tử. Thiền sư Thường Chiếu là người đã khơi mào cho việc hòa nhập mà vị đệ tử xuất sắc của Ngài là nhà sư Hiện Quang (?-1221), chính là vị tổ khai sơn ra phái Yên Tử. Mãi đến khi Trần Nhân Tông xuất gia tại chùa Hoa Yên trên núi Yên Tử năm 1229 thì Trần Nhân Tông được ghi nhận là người truyền thừa đời thứ 6 của phái Yên Tử và là vị tổ thứ nhất của Phật giáo Trúc Lâm. Từ đó trở đi Trúc Lâm Yên Tử trở thành nổi tiếng với công lao của 3 vị Tam tổ là Trúc Lâm Đầu Đà Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang trở thành Tam tổ sáng lập ra Giáo hội Phật giáo Trúc Lâm cho đến ngày nay. 

d. Về sự phát triển Tịnh Độ tông thời Lý-Trần. 

Từ giữa thế kỷ thứ XI trở đi, pháp môn Tịnh Độ được phổ biến rộng rãi, với sự hình thành của nhiều ngôi Tam bảo, và các đạo tràng ở khắp nơi. 

Thời Lý-Trần, Tịnh Độ tông đã được đề cao và phát triển bên cạnh Thiền tông. Ta có thể thấy vào năm 1057, vua Lý Thánh tông đã cho dựng một tượng A Di Đà bằng đá cao hai mét rưỡi tại núi Lạn Kha, huyện Tiên Du, Bắc Ninh, hiện vẫn còn ở chùa Phật Tích ngày nay. Sử liệu Phật giáo còn nói rằng pháp môn niệm Phật đã thâm nhập vào thiền phái Vô Ngôn Thông: Trong sách Thiền Uyển Tập Anh có nói đến việc Không Lộ (?-1444), vị thiền sư đời thứ 10 dòng Vô Ngôn Thông, đã dựng tượng A Di Đà ở chùa Quỳnh Lâm (thuộc xã Tràng An, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh). Thiền Uyển Tập Anh cũng nói đến thiền sư Tịnh Lực (1112–1175) thuộc đời thứ 11 dòng Vô Ngôn Thông, một ngày đêm mười hai thời thực hành sám hối và thâm nhập được pháp môn Niệm Phật tam muội[7] và đã đắc pháp Niệm Phật tam muội. Sư là một người đã có công phu niệm Phật, đã từng dạy đệ tử “nếu muốn diệt trừ các ác nghiệp thì phải áp dụng phương pháp niệm tụng bằng cả tâm lẫn miệng”. Thiền sư Trì Bát (1049-1117) thuộc thế hệ thứ 12 của dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi “nhân tưởng niệm Phật A Di Đà ở thế giới Phương Tây Cực Lạc, nên đã phổ khuyến đạo tục, dựng một đạo tràng lớn”[8], đã tạo dựng tượng A Di Đà năm 1099 ở chùa Hoàng Kim, Quốc Oai, Hà Nội. Rõ ràng đó là sự kết hợp hòa quyện giữa Thiền tông và pháp môn Niệm Phật của Tịnh Độ tông trong thời kỳ này, và đó cũng chứng tỏ Tịnh Độ tông thời Trần cũng phát triển mạnh mẽ.

Cùng với tín ngưỡng A Di Đà, tín ngưỡng Quán Thế Âm, vị Bồ tát thân cận của Phật A Di Đà, ở thời này cũng trở nên phổ biến. Từ giai đoạn này trở về sau, trên phương diện tín ngưỡng, trào lưu Tịnh Độ đã thực sự có một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của nhân dân ta. 

Qua tín ngưỡng của nhân dân thời bấy giờ, pháp môn Tịnh Độ đã đi vào quần chúng bằng con đường đề cao giáo pháp từ bi, cứu khổ, cứu nạn, bằng cách đưa lên hình ảnh thanh tịnh an lạc của cõi Tịnh Độ Tây phương Cực lạc, nơi mà Đức Phật A Di Đà cùng Thánh chúng sẵn sàng tiếp đón những người khi sống trên trần thế đã tu hành thập thiện nghiệp, tin sâu, nguyện thiết và niệm Phật cầu vãng sinh. Tịnh Độ tông còn đề cao hình ảnh vị Bồ tát đắc đạo nhưng vì thương xót chúng sinh khổ não nên ở lại trần thế cứu vớt họ. Đó là hình tượng vị Bồ tát Quán Thế Âm, tiêu biểu cho sức mạnh kỳ diệu, lòng từ bi và tình thương bao la. Chính mái chùa Một Cột ở Hà Nội, là nơi thờ Đức Quán Thế Âm đã được xây dựng vào năm 1049, thời vua Lý Thái Tông. Ta cũng thấy tác phẩm Khoá hư lụcdo Trần Thái Tông biên soạn nhằm giúp cho các Phật tử đọc tụng sáu thời trong một ngày đêm để giữ cho sáu căn[9] được thanh tịnh (trong Lục thời sám hối khoa nghi). Điều đó chứng tỏ Tịnh Độ tông chủ trương trì kinh, niệm Phật để giữ tâm được lặng lẽ thanh tịnh, để sám hối tội căn kiếp trước và để rửa sạch tội lỗi hàng ngày mắc phải. Đặc biệt, trong các tác phẩm của các nhà thiền học thời kỳ này, pháp môn Niệm Phật đã được đề cập đến như là một phương thức hành thiền được hướng dẫn từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, hợp với từng căn cơ đối tượng tham thiền học đạo.

3.Tịnh độ tông ở Việt Nam hiện nay.

Sau thời kỳ Phật giáo cực thịnh dưới các triều Lý Trần thì do ảnh hưởng mạnh của Nho học, nên Phật giáo Việt Nam cũng như Tịnh Độ tông trong thời Lê cho đến đầu thế kỷ XX không được phát triển mạnh. Tuy nhiên vào cuối thế kỷ XVI, nhiều tác phẩm về Tịnh Độ được viết, được dịch và chú giải nhằm cổ súy và truyền bá cho tư tưởng Tịnh Độ. Có thể kể như Thiền sư Viên Văn Chuyết Chuyết (1590-1644) viết tác phẩm Bồ đề yếu nghĩa, thuyết minh về Tự tính Di Đà; thiền sư Minh Châu Hương Hải (1628-1708) dịch A Di Đà kinh sớ sao của ngài Châu Hoằng; thiền sư Chân Nguyên (1647-1726) viết nhiều tác phẩm mang đặc điểm tư tưởng Tịnh Độ của Trung Hoa như Phật tâm luận, Tịnh độ yếu nghĩa; thiền sư Tánh Thiên viết Phổ khuyến niệm Phật… 

Vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, do triều Nguyễn độc tôn Nho học nên mặc dù các chùa trong nước rất nhiều, nhưng đều hoạt động riêng rẽ, không có một tổ chức, hệ thống liên lạc chặt chẽ với nhau, sự giao lưu phát triển về Phật học cũng suy giảm. 

Trong suốt giai đoạn thuộc Pháp, Phật giáo Việt Nam có nhiều biến cố. Một mặt, thực dân Pháp trong quá trình đô hộ, chủ trương không cho đạo Phật phát triển, mặt khác đạo Thiên Chúa được Pháp ủng hộ nên rất phát triển ở Việt Nam. Do đó trào lưu Tịnh Độ nói riêng cũng như Phật giáo nói chung không những không được phát triển mà còn suy thoái. Sang đầu thế kỷ XX, vào năm 1920, phong trào Chấn hưng Phật giáo xuất hiện, bắt đầu bằng những bài viết của các tăng sĩ và cư sĩ đăng trên các báo. Dưới chế độ thuộc địa và bảo hộ của Pháp, các tổ chức Phật giáo chỉ được mang danh nghĩa là các Hội đoàn, không được coi là Giáo hội. Vì vậy, các tổ chức Phật giáo đầu tiên lần lượt xuất hiện như Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học thành lập năm 1930 tại Sài Gòn và xuất bản tờ tạp chí Từ Bi Âm, Hội An Nam Phật học được thành lập năm 1932 tại Huế với tạp chí Viên Âm, HộiPhật giáo Bắc Kỳ được thành lập năm 1935 tại Hà Nội với tạp chí Đuốc Tuệ. Tiếp theo là xuất hiện thêm một số hội Phật giáo khác ở các tỉnh thành khác mà chủ yếu là ở miền Nam đồng thời nhiều tạp chí Phật học cũng được xuất bản nhưPháp Âm, Quan Âm, Tam Bảo, Tiếng Chuông Sớm, Duy Tâm, Tiến Hóa. Một nhà xuất bản đã ra đời, đó là Phật học Tùng thư do cư sĩ Đoàn Trung Còn thành lập năm 1932. Nhiều kinh sách đã được xuất bản như sách Phật Giáo Sơ Học, Phật Giáo Vấn Đáp, Phật Giáo Giáo Khoa Thư, và những kinh bản bằng quốc ngữ nhưKim Cương, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm. Từ sau Cách mạng tháng Tám, qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Phật giáo Việt Nam phát triển không đồng đều. Ở miền Bắc tuy đều có tổ chức Giáo hội Phật giáo ở các tỉnh, song do tình hình kháng chiến chống Pháp và chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, Phật giáo tuy có phát triển song không được mạnh, nhưng trong những ngôi chùa cũ, pháp môn Tịnh Đô vẫn được lưu truyền. Trong khi ở miền Nam, Phật giáo cũng phải trải qua nhiều biến cố, điển hình như sự kiện chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp phong trào Phật giáo năm 1963. Nhưng sau sự kiện này, Phật giáo miền Nam càng phát triển. Nhiều ngôi chùa được xây dựng, nhiều đạo tràng được lập nên, đặc biệt có rất nhiều đạo tràng chuyên tu pháp môn Tịnh Độ niệm Phật A Di Đà. 

Sau năm 1975, Phật giáo Việt Nam đã được tổ chức thống nhất lại thành Giáo hội Phật giáo Việt Nam vào năm 1981, tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển rộng rãi. Đáng chú ý nhất là phong trào phát triển pháp môn Tịnh Đô, tụng kinh Tịnh Độ và niệm Phật cầu vãng sinh được lan tỏa khắp mọi nơi. Nhiều đạo tràng niệm Phật A Di Đà của Tịnh Độ tông xuất hiện bên cạnh những đạo tràng Dược sư, đạo tràng Pháp Hoa v.v…Điển hình nhất là từ năm 1984, ngôi chùa Hoằng Pháp ở Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh đã bắt đầu tổ chức những khóa tu Phật thất (bảy ngày liền) chuyên công phu niệm Phật A Di Đà theo pháp môn Tịnh Độ với mỗi khóa tu từ 3.000 đến 5.000 Phật tử ở khắp nơi trong nước về dự. Điển hình này đã được nhiều chùa trong nước áp dụng vì tu theo pháp môn Tịnh Độ niệm Phật thu hút được nhiều Phật tử. Nhiều trung tâm, đạo tràng được thành lập theo Tinh Độ vì đó là một pháp môn tu dễ dàng hơn, nhẹ nhàng hơn so với các pháp môn tu khác, do đó đáp ứng được nguyện vọng của đại đa số Phật tử muốn qua tu hành niệm Phật để cầu được vãng sinh về Tây phương Cực lạc. 

Trong khoảng 10 năm trở lại đây, do tác động qua lại giữa các pháp môn Tịnh Độ ở Úc Châu, ở Singapore, Malaysia và Đài Loan với Tịnh Độ tông Việt Nam, các đạo tràng Tịnh Độ, các đạo tràng A Di Đà ở Việt Nam càng phát triển mạnh. Nhiều Niệm Phật đường được xây dựng, nhiều Vãng sinh đường được lập nên tạo điều kiện cho các Phật tử mong ước được huân tu niệm Phật và vãng sinh Tây phương Cực Lạc. Nhiều kinh sách, nhất là các sách về niệm Phật và truyền bá phương pháp hành trì niệm Phật của các vị Tổ Tịnh Độ tông được xuất bản một cách rộng rãi chứng tỏ Tịnh Độ tông không những trở thành một môn phái được phát triển rộng ở Việt Nam về mặt quy mô mà về mặt lý luận và phương pháp tu hành cũng được phát triển một cách hệ thống. Tuy nhiên, ta biết sự truyền thừa của pháp môn Tịnh Độ khác với Thiền tông. Ở Thiền tông luôn có sự truyền thừa từ đời này sang đời khác liên tục. Còn ở Tịnh Độ tông Trung Quốc, tùy theo công đức của từng vị Đại sư mà môn đồ suy tôn làm Tổ. Cho nên ở Trung Quốc kể từ cuối thế kỷ thứ IV đến đầu thế kỷ XX, Tịnh Độ tông Trung Quốc mới có 13 vị Tổ như đã nói ở phần trên. 

Ở Việt Nam, tuy pháp môn Tịnh Độ được lưu hành từ nhiều thế kỷ qua, nhưng về mặt tổ chức của pháp môn chưa hình thành một hệ thống rõ rệt, nghĩa là chưa có sự truyền thừa từ tổ nọ sang tổ kia như Thiền tông hoặc như Tịnh Độ tông ở Trung Quốc. Giữa thế kỷ thứ XX, một số vị có công truyền bá và xây dựng pháp môn Tịnh Độ phát triển cho tới nay là các Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh và Thích Thiền Tâm. Cả hai đại lão hòa thượng đều đã viên tịch. Gần đây một số đạo tràng niệm Phật A Di Đà theo truyền thống Tịnh Độ tông đã có những kiến nghị với Trung Ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam suy tôn các vị đại lão hòa thượng đó là những vị tổ của Tịnh Độ tông Việt Nam. 

Nhìn lại, chúng ta có thể thấy tín ngưỡng và pháp môn Niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh Cực lạc là một trong những khuynh hướng tín ngưỡng lớn, nếu không nói là chủ yếu, của Phật giáo nước ta hiện tại. Tuy nhiên, quan niệm Tịnh Độ của người phật tử Việt Nam mang những điểm đặc thù, dẫu có sự ảnh hưởng của Tịnh độ tông Trung Hoa, nhưng vẫn khác biệt so với Tịnh độ tông của Trung Hoa hay của Nhật Bản.

[1] Ở Việt Nam còn có một vài bản dịch Kinh Vô Lượng Tho do chư tăng và cư sĩ dịch. 
[2] Chính báo và y báo: Thân tâm mình là quả báo chính thức tức Chính báo. Cảnh vật ngoài thân mà thân tâm mình nương tựa vào gọi là Y báo. [3] Tôn Kinh luận là chư Tổ dựa vào ý kinh tự lập ra luận. Thích Kinh Luận là các Tổ cứ y theokinh văn giải thích thành luận. Bộ Luận Vãng Sanh Tịnh Ðộ này là Tôn Kinh Luận tức là dựa vào y kinh mà lập ra luận. 
[4] Sách Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang, NXB Văn học, 2000, trang 75. 
[5] Theo Lê Mạnh Thát, Khuông Việt Đại sư có thể là Khuông Việt Thái sư, một vị tể tướng khuông phò nước Việt, chứ chỉ là một vị đại sư bình thường như bao đại sư khác thì làm gì có thể khuông phò. 
[6] Thảo Đường, nguyên là một nhà sư Trung Quốc sang Chiêm Thành, bị bắt làm tù binh đưa về Viêt Nam. Được vua Lý Thánh Tông phát hiện tài năng Phật học và cho thành lập thiền phái Thảo Đường 
[7] Xem tiểu truyện Thiền sư Tịnh lực, trong Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh,Lê Mạnh Thát, Nxb. TPHCM, 1999, trang 223 
[8] Theo những dòng chữ khắc trên bệ tượng hình sư tử đội tòa sen ở chùa Một Mái, xã Hoàng Ngô, huyện Quốc Oai, Hà Nội 
[9] Sáu căn : Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

Phần III. CÁC PHƯƠNG PHÁP TU TẬP CỦA TỊNH ĐỘ TÔNG

A. Nguyên tắc và phương châm tu tập:

Mục đích và hướng đến của người tu Tịnh Độ là chuyển hóa khổ đau thành an lạc thực sự và cầu được vãng sinh vào thế giới Cực lạc. Nhưng mục tiêu của người cầu vãng sinh Cực lạc không phải để hưởng sự an vui đó mà là để được giải thoát, giác ngộ, thành Phật. Nói cách khác, cảnh giới Cực lạc chỉ là môi trường hay phương tiện tốt nhất giúp cho mọi người được vãng sinh không còn thối chuyển trên con đường giác ngộ, hoặc không còn thối chuyển trên con đường đạt đến hạnh phúc thật sự. 

Nguyên tắc tu tập lấy tự lực là chính, nhưng không thể không nhờ ở tha lực của Đức Phật và phương châm tu tập phải được thể hiện qua các tiêu chí Tín, Nguyện, Hạnh. 

Tịnh Độ tông chủ trương niệm Phật, quán tưởng Đức Phật A Di Đà và sự trang nghiêm thanh tịnh của cõi Cực lạc với tất cả sự nỗ lực cá nhân, bằng tự lực với các tiêu chí căn bản là phải đạt được Tín, Nguyện, Hạnh. Ngoài ra, hành giả còn được nhờ ở tha lực tương ưng với bản nguyện của Đức Phật A Di Đà và các Thánh chúng, nương nhờ vào Phật lực để vãng sinh về thế giới Cực Lạc trong trạng thái nhất tâm bất loạn. Vì vậy phương châm tu tập thể hiện qua Tín, Nguyện, Hạnh, không phải chỉ có chuyên trì niệm Phật ngày đêm, nhất tâm bất loạn. 

Việc hành trì như thế, bằng với cả lòng tin, với tâm nguyện thiết tha với sự hành trì nghiêm mật chưa đủ mà người tu Tịnh Độ còn phải am hiểu và vận dụng những điều mà Đức Phật dạy trong cuộc sống thường ngày, nghĩa là luôn nuôi dưỡng lòng từ bi, tu mười điều lành và còn thọ trì Tam quy, Ngũ giới, vun đắp các công đức phúc lành, và cao hơn thế nữa là phát Bồ Đề tâm, nguyện thành Phật đạo, hóa độ chúng sinh. Kinh Quán Vô Lượng Thọ đã chỉ cho ta thấy rằng: Hành giả muốn vãng sinh Tịnh độ phải hội đủ ba điều kiện, tức là phải tu tịnh tam nghiệp: Một là Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, từ tâm bất sát,tu thập thiện nghiệp (Tức: Không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không nói lời cay độc, không nói lưới hai chiều, không xiểm nịnh, không tham lam, không giận dữ, không si mê). Hai là Thọ trì Tam quy, cụ túc chúng giới (tức thực hiện đầy đủ các giới), không phạm oai nghi. Ba là Phát Bồ đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyến tấn hành giả (tức khuyên người khác cùng tu). 

Như vậy cần phải hiểu rõ rằng tu theo Tịnh Độ không phải chỉ là chỉ niệm Phật là đủ. Điều này sẽ được nói rõ trong mục Những vấn đề tồn tại trong tu tập theo Tịnh Độ tông nói ở phần sau. 

B. Sự thực hành các phương pháp tu tập: 

Cùng với việc xây dựng niềm tin và phát nguyện vãng sinh, hành giả Tịnh Độ tông phải thực hành niệm Phật A Di Đà. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca dạy rằng: “Nếu có thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào muốn sinh về cõi Cực lạc, thì người ấy phải niệm danh hiệu Phật A Di Đà với một lòng không tạp loạn, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày hoặc bảy ngày. Người ấy, đến khi lâm chung sẽ thấy được Phật A Di Đà và các vị Thánh chúng hiện ra trước mắt. Trong giờ phút ấy, tâm của người ấy được an trú trong định, không có điên đảo và tán loạn; do đó người ấy sẽ được vãng sinh ngay về nước Cực lạc của Đức Phật A Di Đà”. Như vậy, điều quan trọng trong sự thực hành niệm Phật A Di Đà để được vãng sinh đòi hỏi hành giả phải nhất tâm bất loạn, một lòng niệm Phật. Để có được kết quả là nhất tâm, không tạp loạn, hành giả phải tinh tấn nỗ lực niệm Phật và xem niệm Phật như là một sự nghiệp chính trong đời sống. Nói cách khác, tâm của hành giả phải thường niệm A Di Đà và thể hiện tâm niệm này qua hành động và lời nói ngay cả khi đi đứng nằm ngồi với một lòng nhất tâm bất loạn. 

Vậy thế nào là Nhất tâm bất loạn? 

Kinh A Di Đà nói nếu một ngày hoặc trong bảy ngày liên tục mà chuyên trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà đến mức nhất tâm bất loạn thì lúc lâm chung có thể vãng sinh về Tây phương Cực lạc. Không phải chỉ ở trong kinh A Di Đà nói đến nhất tâm bất loạn mà trong kinh Di giáo[1] cũng có nói đến “Chế ngự tâm tại một nơi thì không có việc gì là không làm được”. Kinh Hoa Nghiêm quyển 6, phẩm Nhập pháp giới có nói đến 21 loại niệm Phật tam muội. Nhất tâm bất loạn là thuộc về một pháp môn của tu định, hay còn gọi là Niệm Phật tam muội hoặc gọi là Bát châu tam muội hoặc là Nhất hạnh tam muội. 

Nhất tâm bất loạn ngược với tâm tán loạn. Khi miệng vẫn niệm danh hiệu Phật mà trong tâm có nhiều vọng tưởng, nghĩ đến những việc khác thì đó là niệm Phật tán loạn. Nhất tâm bất loạn tức là phải chuyên tâm nhất ý. Khi niệm Phật, phải gắn cái tâm mình vào danh hiệu Phật, miệng niệm danh hiệu Phật, tai nghe tiếng niệm Phật, tâm không nghĩ gì khác, đó gọi là nhất tâm. Và như vậy thì khi lâm chung có thể vãng sinh về cõi Cực lạc Tịnh Độ. 

Theo Đại sư Liên Trì[2], vị tổ đời thứ 8 Tịnh Độ tông Trung Quốc, thì Nhất tâm có thể chia thành: Sự nhất tâm và lý nhất tâm. Sự nhất tâm là tâm không có tạp niệm, tâm và miệng tương ứng với nhau, chỉ có niệm danh hiệu Phật, tự mình biết rằng mình đang niệm Phật, biết rằng có danh hiệu Phật đang niệm, đó là nhất tâm niệm Phật, hoặc là toàn thân niệm Phật. Còn Lý nhất tâm tức là tâm tương ứng với lý, tự thấy được pháp thân của A Di Đà tức là tự tính Tây phương không tách rời bản thân mình một tấc, đó là cảnh giới hiện ra trước mắt Tự tính Di Đà duy tâm Tịnh Độ. Sự nhất tâm thuộc về mức độ thiền định. Lý nhất tâm thuộc về trình độ thiền ngộ. Đó là kết quả của việc Thiền-Tịnh song tu. Lấy việc niệm Phật của Tịnh Độ tông để nhập môn thiền định đạt đến tam muội rồi giác ngộ, giải thoát. 

Tóm lại phương pháp thực hành tu tập Tịnh Độ tông để đi đến kết quả được vãng sinh về Tây phương Cực lạc, có thể chia làm 2 phần 

- Một mặt thực hành thường xuyên tu tam tịnh nghiệp như trong kinh Quán Vô Lượng Thọ đã nói nghĩa là: Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện đạo, thọ trì tam quy ngũ giới, không phạm oai nghi, phát Bồ đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại thừa, khuyến tấn hành giả. 

- Mặt khác thực hành việc trì danh niệm Phật đi đứng nằm ngồi đều phải nhất tâm bất loạn, đạt đến niệm Phật tam muội. 

C. Lợi ích của pháp môn Niệm Phật: 

Ta đã biết rằng pháp môn Niệm Phật của Tịnh Độ tông là một pháp môn dễ tu và phù hợp với mọi người, mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, không kể sang hay hèn, giầu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ. Nhưng không phải ai cũng có thể tu đạt đến kết quả để được vãng sinh về Tây phương Cực lạc, để được thành Phật và thoát cảnh sinh tử luân hồi. 

Thế giới Cực lạc là phương tiện tối thắng giúp cho hành giả trên con đường tu hành đi đến giác ngộ không còn thối chuyển. Phương tiện tối thắng đó là: môi trường tốt đẹp như trong mô tả của kinh A Di Đà, cuộc sống đầy đủ, thân thể khỏe mạnh, có trí tuệ và được thân cận học hỏi thực tập với các vị Thánh tức là Phật A Di Đà và các Thánh chúng. Còn thế giới Ta bà là thế giới đầy đau khổ, đầy nghịch cảnh: kiếp sống ô trược, nhận thức sai lạc, vô minh, chứa đầy phiền não tham, sân và si, vạn vật vô thường và mạng người ngắn ngủi. 

Do vậy, nếu hành giả biết tu tập sẽ đạt được điều mong muốn là sống trong cảnh an vui, thanh tịnh, không đau khổ, không phiền não, không còn bị ràng buộc bởi những tham sân si, luôn luôn an nhiên, tự tại thì bản thân người đó đang sống trong cõi Tịnh độ. Và, đối với họ, cõi Ta bà mà họ đang sống chính là cõi Tịnh độ. Ở một mức cao hơn, với người hành giả đã thực hành tu tam tịnh nghiệp, đã an nhiên tự tại, gạt bỏ hết mọi ràng buộc mà một lòng niệm Phật nhất tâm bất loạn thì sẽ được Đức Phật A Di Đà cùng Thánh chúng tiếp dẫn sang cõi Cực lạc ở Tây phương[3]. Vì vậy, so với Thiền tông, hành giả niệm Phật theo Tịnh Độ có được thắng duyên là môi trường Cực lạc để giúp cho sự tiến tu bất thối, và tâm niệm của hành giả niệm Phật luôn luôn được an ổn vì có được Phật A Di Đà hộ niệm. Đây là một trong những lý do chính giải thích tại sao pháp môn Niệm Phật A Di Đà phù hợp với tất cả mọi trình độ và được phổ biến tại các nước có Phật giáo Đại thừa như Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản v.v... 

Chính vì pháp môn Tịnh Độ là một pháp môn dễ tu và có nhiều lợi ích lớn trong tám vạn bốn nghìn pháp môn, nên Đức Phật thường khuyên bảo chúng sinh nên cầu sinh về Tây phương Cực lạc. 

Điều này chứng tỏ tầm quan trọng của việc sinh về Tây phương Cực lạc to lớn đến dường nào. Ta có thể kể đến một số lợi ích lớn khi tu theo pháp môn Tịnh độ: 1. Trong 49 năm thuyết pháp, Đức Phật đã giảng biết bao nhiêu bộ kinh trong đại tập kinh điển. Tuy nhiên, riêng bộ kinh Vô Lượng Thọ, có thể đã được Đức Phật giảng nhiều lần, nên hiện nay có đến 5 bộ kinh Vô Lượng Thọ khác nhau[4]. Yếu chỉ của kinh Vô Lượng Thọ là khuyên bảo chúng sinh nên cầu sinh về Tây phương Cực lạc. Điều này chứng tỏ tầm quan trọng của việc sinh về Tây phương Cực lạc to lớn đến dường nào nên Đức Phật mới giảng đi giảng lại nhiều lần như thế. 

2. Ta thấy các vị Đại Bồ tát như Văn Thù Sư Lợi, Phổ Hiền đều là những bậc Đẳng giác Bồ tát sắp thành Phật. Thế mà cả 2 vị đều phát nguyện sinh về Tây Phương để sớm thành Phật. Trong kinh Pháp Hoa, Đức Phổ Hiền phát nguyện rằng: “Nguyện cho tôi khi sắp lâm chung, trừ sạch hết thảy bao chướng ngại, tận mắt thấy Phật A Di Đà, tức được vãng sinh nước Cực lạc.” Các vị đại bồ tát còn phát nguyện về Cực lạc thì thấy lợi ích tu theo pháp môn Tịnh Độ được lợi ích đến nhường nào. 

3. Tu theo pháp môn Tịnh Độ rất dễ tu, có trường hợp người tu Tịnh Độ không cần phải đoạn hết nghiệp chướng của mình (tham, sân, si) mà có thể thoát khỏi kiếp luân hồi, về với cõi Tịnh của Phật A Di Đà là Tây phương Cực lạc. Tu theo các pháp môn khác người tu bắt buộc phải diệt trừ tận gốc tất cả nghiệp chướng của mình mới có thể thoát khỏi kiếp sinh tử luân hồi. 

4. Từ các kinh điển và các bộ luận của các vị Bồ tát và các Thánh hiền đều ra sức khen ngợi, ca tụng và khuyến khích mọi người tu theo pháp môn Tịnh Độ. Ngài Văn Thù Sư Lợi bồ tát cũng đã dạy: “Trong các pháp môn của Đức Phật không có môn nào qua được môn Niệm Phật, Niệm Phật là vua của các pháp môn”. Bồ tát Quán Thế Âm cũng dạy: “Niệm Phật hơn các hạnh khác”. Ngài Mã Minh, vị tổ thứ 12 của Thiền tông Ấn Độ đã nói trong Đại Thừa Khởi Tín Luận rằng: “Chuyên tâm niệm Phật là phương tiện tối thắng của Đức Như Lai”. Còn Bồ tát Long Thọ, vị tổ thứ 14 Thiền tông Ấn Độ cũng cho rằng: “Niệm Phật Tam muội có đầy đủ trí tuệ, có vô lượng phúc đức, đoạn trừ tất cả phiền não, độ tất cả các chúng sinh, và sinh ra vô lượng Tam muội khác cho đến Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội”. 

5. Điều kiện để một chúng sinh vãng sinh về các thế giới Tịnh độ khác như cõi Tịnh độ của Bồ tát Di Lặc và Tịnh độ của Phật A Súc là rất cao, vì chỉ trông cậy vào sức tu tự lực. Trong khi điều kiện vãng sinh về cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà, ngoài việc nhất tâm niệm Phật còn được nương nhờ tha lực của Phật A Di Đà. Điều đó có lợi rất lớn trong việc tu hành. 

Do những điều đó, đủ biết rằng pháp môn niệm Phật của Tịnh độ tông có lợi ích như thế nào. 

-------------------------------------------------------------------------
[1] Kinh Di giáo: Kinh Giáo huấn vắn tắt của Phật lúc sắp nhập niết bàn. 
[2] Đại sư Châu Hoằng (1532-1612), hiệu Liên Trì, người đời Minh. Tuổi trẻ thông minh học rộng, có căn duyên với pháp môn Niệm Phật, trước tác bộ Phật thuyết A Di Đà kinh sớ sao, tận lực xiển dương pháp môn Tịnh độ.
[3] Ở đây cần phân biêt 2 từ ngữ: cõi Cực lạc và cõi Tịnh độ. Cực lạc là thế giới của Đức Phật A Di Đà làm Giáo chủ. Tịnh độ là từ ngữ biểu thị thế giới thanh tịnh, trong sach do một vị Phật làm Giáo chủ. Tuy nhiên Tịnh độ còn có nghĩa là nơi trong sạch do tâm trong sạch, như trong kinh Duy Ma đã nói: “Tâm thanh tịnh thì quốc độ thanh tịnh”, trong trường hợp này thì có sự khác biệt tế nhị giữa hai từ ngữ với ý nghĩa: sống ở nơi nào mà với tâm thanh tịnh thì nơi đó là Tịnh độ. 
[4] Cuốn kinh Vô Lượng Thọ ngày nay ta thường dùng là do cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập tất cả 5 cuốn kinh ấy lại làm thành 1 cuốn hoàn chỉnh.

Phần IV. CẦN NHẬN THỨC ĐÚNG VỀ TỊNH ĐỘ TÔNG HIỆN NAY

A. Những dị biệt trong nhận thức và thực hành giáo lý Tịnh Độ tông hiện nay.

Trong phần này, xin phép chỉ nêu lên một số ý kiến khác nhau của các hành giả, của Chư tôn thiện đức và của những nhà nghiên cứu Phật học nói về pháp môn Tịnh độ. Những ý kiến đó đang lưu hành tồn tại trong Phật giáo ở nước ta. 

Những ý kiến khác nhau về nhận thức và thực hành giáo lý Tịnh độ tông hiện nay có thể có một số điểm cần nêu lên như sau: 

1. Sự khác biệt thứ nhất:

Có ý kiến cho rằng trào lưu Tịnh độ tông được truyền bá hiện nay ở nước ta do ảnh hưởng từ Trung Hoa nên có sự khác biệt với giáo lý Tịnh độ tông trong kinh A Di Đà [1]. Điểm khác biệt căn bản được nêu lên ấy là Tịnh độ tông trong kinh A Di Đà dựa vào 5 tiêu chí để được vãng sinh Tây phương khác hoàn toàn với 3 yếu tố tín, hạnh, nguyện mà ý kiến đó cho là do Trung Quốc đặt ra vốn không dựa vào bài kinh quan trọng nhất là kinh A Đi Đà và đó cũng chính là điểm mà phần lớn các vị giảng sư Tịnh độ tông không đề cập đến. Quan điểm đó cho rằng: “Trong kinh A Di Đà có 5 tiêu chí mà theo đó ai thực tập thì hiện tại được an lạc, sau khi chết đủ tiêu chuẩn để vãng sinh Tây phương mà không cần phải phát nguyện, không cần ai hộ niệm, tình trạng đó diễn ra như một quy luật tất yếu về phương diện nhân quả[2]”. Quan điểm đó cho rằng năm tiêu chí trong kinh A Di Đà mà hành giả tu Tịnh Độ đạt được vãng sinh là phải có căn lành lớn, có công đức lớn, có nhân duyên lớn, có quán phát âm lớn và có sự chuyên nhất tâm nghĩa là có niệm Phật nhất tâm bất loạn. Quan điểm đó còn nêu rõ: “Cốt lõi của kinh A Di Đà nằm ở chỗ không phải nhấn mạnh về sự hiện hữu của thế giới Tây phương mà là 5 điều kiện này. Bất kỳ ai đạt được 5 điều kiện này, ngay trước pháp hiện tại này, nơi người đó ở chính là Cực lạc, thì người đó chính là an vui và lúc đó, người hội tụ 5 điều kiện đó sẽ không còn nguyện vọng sinh về Tây phương để làm gì nữa. Cốt lõi và chiều sâu triết lý của Tịnh độ tông nằm ở chỗ này. Người đi theo tín ngưỡng của Tịnh Độ tông thì không quan tâm đến chuyện đó, chỉ quan tâm là sau khi chết mình được vãng sinh và do đó nhấn mạnh đến cái phương diện tín ngưỡng của Tịnh Độ vốn không phải do Đức Phật dạy. Đó là sự khác biệt rất căn bản giữa Tịnh độ tông trong kinh A Di ĐÀ và Tịnh Độ tông do Trung Quốc biên soạn[3]”. Ý kiến đó cho rằng hành giả muốn có căn lành lớn nghĩa là phải chuyển hóa được tham ái, sân hận, si mê và chấp thủ. Và nếu như thế thì các Phật tử tại gia sống đời sống vợ chồng không thể đạt được căn lành lớn vì không thể bỏ được tham ái, tuy rằng 3 yếu tố sau là sân hận, si mê và chấp thủ có thể đạt được, vì đời sống của Phật tử tại gia gắn kết với tình nghĩa vợ chồng và hoạt động tình dục là một trở ngại lớn làm cho Phật tử tại gia không thể nào có thể đạt được căn lành lớn mà chỉ có thể đạt được căn lành trung bình hoặc nhỏ thôi. Còn có đạt được căn lành lớn tức là chuyển hóa đươc tận gốc rễ tham ái, sân hận, si mê, chấp thủ và đây là điều mà chỉ các vị xuất gia mới có thể làm được, tuy nhiên không phải tất cả các vị xuất gia đều làm được như thế. Do ý nghĩa đó nếu không có căn lành lớn tức là đối với Phật tử tại gia sống có đời sống gia đình vợ chồng thì không thể vãng sinh về nơi Cực lạc được.

2. Sự khác biệt thứ hai:

Một ý kiến nữa cho rằng phàm là Phật tử hay hành giả tu theo bất kỳ pháp môn nào cũng phải tinh tấn, nỗ lực làm công đức lớn. Nghĩa là phải vận dụng và thực hiện những điều giáo pháp Đức Phật đã dạy. Không chỉ ăn chay, niệm Phật, đi chùa lễ Phật là đủ mà phải dấn thân thực hành tam quy ngũ giới, làm mười điều lành, phát bồ đề tâm v.v… mới có công đức lớn. Cho nên ai nghĩ đơn giản là chỉ cần niệm Phật, lạy Phật mà không cần đọc tụng kinh điển, thực hành theo giáo lý của Đức Phật là có công đức lớn là một sai lầm đáng tiếc. Vì vậy không nên cường điệu hóa những câu như: Niệm Phật một câu, phúc sinh vô lượng, lạy Phật một lạy, tội diệt hà sa. Cái đó chỉ là khích lệ, hoàn toàn phi nhân quả. Bởi vì rõ ràng chỉ niệm một câu niệm Phật thì không thể nào có vô lương phúc đức được, cũng như chỉ cần lạy Phật một lạy thì bao nhiêu tội ác của mình đều được diệt hết. Nếu thế thì trên đời này ai ai cũng tràn đầy phúc đức và không ai có tội cả vì chỉ cần niệm Phật một câu, lạy Phật một lạy là dù có bao nhiêu tội cũng đều được diệt hết. Đó là nội dung của ý kiến khác biệt thứ 2.

3. Sự khác biệt thứ 3:

Đó là ý kiến khác biệt về 48 lời nguyện. Ý này cho rằng người tu theo Tịnh Độ tông thường dựa vào 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà, nhưng thực ra 48 lời nguyện đó là lời phát nguyện của Tỳ kheo Pháp Tạng, như trong kinh Vô Lượng Thọ đã nói. Lúc phát nguyện thì thày Pháp tạng còn là một phàm tăng, nên không thể nói đó là 48 lời nguyện cùa Đức Phật A Di Đà. Ý kiến này nêu rõ: “Hiện nay 2 trong số 48 lời phát nguyện đó được phần lớn hành giả Tịnh Độ tông nương vào. Đó là lời nguyện thứ 18 và lời nguyện thứ 19 của thày Pháp Tạng. Lời nguyện thứ 18 cho rằng: Nếu ai niệm danh hiệu của ta 10 lần mà không vãng sinh về Cực lạc thì ta không thành Phật. Trên thực tế thày Pháp Tạng đã thành Phật mất rồi, quá lâu rồi. Nếu lời nguyện đó đúng sự thật thì thày ấy bây giờ phải là bồ tát chứ không phải là Phật A Di Đà…[4]”

Thực ra các bản kinh Vô Lượng Thọ do có nhiều dịch giả khác nhau, nên ngôn từ và hành văn cũng có chỗ khác nhau. Nên hiểu rằng 48 lời nguyện của Tỳ kheo Pháp Tạng là những lời nguyện để thực hành khi đã thành Phật và quá trình phấn đấu của Ngài Pháp Tạng qua biết bao nhiêu kiếp mới trở thành Phật A Di Đà được. Và như vậy, 48 lời nguyện đó chính là lời nguyện của đức Phật A Di Đà.

4. Sự khác biệt thứ 4:

Đây là sự khác biệt mà trong phần nói về các bộ kinh chính của pháp môn Tịnh độ đã được đề cập đến. Có một thực tế rất rõ ràng là trong cả một thời gian dài hành trì và phát triển pháp môn Tịnh Độ, các vị Tổ cũng như các pháp sư giảng giải về giáo lý Tịnh Độ không đề cập đến bộ kinh Niệm Phật Ba La Mật vốn là một bộ kinh vô cùng quan trọng của Tịnh Độ tông. Vì sao vậy? Bản kinh Niệm Phật Ba La Mật được Đức Phật tuyên giảng tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá trước tám vạn vị Đại Bồ tát khắp mười phương, các vị Trưởng lão, các đại Tỳ kheo, các vị Thiên vương, quỷ thần và quyến thuộc, lại có Quốc mẫu Vi Đề Hy và vua A Xà Thế cùng hoàng tộc, quần thần đến dự. Như vậy buổi thuyết giảng kinh này xảy sau thời gian không xa so với buổi thuyết giảng kinh Quán Vô Lượng Thọ trước mặt bà Vi Đề Hy khi còn trong ngục tối, do bà bị con là vua A Xà Thế hạ lệnh bắt bỏ ngục. Kinh Niệm Phật Ba La Mật là một bản kinh xúc tích và mang đậm tính triết lý sâu sắc và vô cùng quan trọng. Nhưng hiện nay có thể nói là trên 95% hành giả truyền bá Tịnh Độ tông hoàn toàn không động đến kinh Niệm Phật Ba La Mật. Có thể do bộ kinh này nói rõ tính chất yếu lĩnh rất cao siêu và cần có của một người tu theo Tịnh Độ, nên các vị pháp sư và hành giả Tịnh Độ phải bỏ qua với ý đồ để cho pháp môn Tịnh Độ trở thành một pháp môn dễ tu đối với mọi người.

Trên đây là một vài ý kiến và nhận thức khác biệt về pháp môn Tịnh Độ. Tất nhiên, nếu đi sâu nghiên cứu, còn có một số ý kiến khác nữa trong quá trình hành trì phát triển pháp môn Tịnh Độ. Mà cụ thể là những vấn đề tồn tại thể hiện trong quá trình tu tập của một số Phật tử.

B. Những vấn đề tồn tại trong tu tập theo Tịnh Độ tông: 

Pháp môn Tịnh Độ là một pháp môn dễ tu đối với mọi tầng lớp người và rất thịnh hành trong nhiều nước Phật giáo Đại thừa, chính vì vậy mà trong hành giả và các Phật tử đã nảy sinh rất nhiều nhận thức khác nhau xung quanh việc tu tập theo giáo lý này.

1. Chỉ chú trọng niệm Phật mà không đọc tụng kinh điển.

Trước hết trong đa số phật tử tu theo pháp môn Tịnh độ cho rằng chỉ cần chú trọng đến niệm câu “Nam Mô A Di Đà Phật” là đủ, nên không chú trọng đến việc học Phật nói chung, đọc tụng kinh điển và thực hành những điều răn dạy của đức Phật nói riêng trong cuộc sống hàng ngày. Thậm chí một số người còn cho rằng không nên đọc tung kinh Phật vì việc đó sẽ làm sao lãng việc niệm Phật, mà chỉ cần nhất tâm niệm Phật là đủ. Điều đó không đúng. Pháp môn Tịnh độ cũng rất chú trọng đến việc tụng kinh. Pháp môn Tịnh Độ có một số bộ kinh chính như kinh Vô Lượng Thọ, kinh A Di Đà, kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh Niệm Phật Ba La Mật và 2 bộ kinh bổ sung là Phổ Hiền Hạnh Nguyện và Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ cũng đã có nói rõ điều này: “Hành giả muốn vãng sinh Tịnh Độ phải hội đủ ba điều kiện: Một là hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, từ tâm bất sát, tu mười nghiệp lành. Hai là thọ trì Tam quy, ngũ giới, không phạm oai nghi. Ba là phát Bồ đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyên người khác cùng tu”. Vậy thì đọc tụng kinh Phật cũng rất cần thiết bên cạnh việc niệm Phật. Thực ra, các vị pháp sư và các hòa thượng chuyên giảng giải về Tịnh Độ tông khuyên ta chuyên tâm niệm Phật đều là những vị đã bao năm thông suốt những bộ kinh điển Đại thừa kể cả Đại Bát Nhã, Kim Cương, Thủ Lăng Nghiêm, Hoa Nghiêm, Diệu Pháp Liên Hoa v.v…trong tam tạng kinh luật luận và từ sự thụ nhận các yếu nghĩa của những bộ kinh luận đó trong suốt cả quá trình hành trì tu tập, các vị đó mới quy tụ trở về pháp môn Niệm Phật của Tịnh Độ tông.

2. Chỉ niệm Phật mà không thực hành tu tuệ-phúc:

Một số không ít các Phật tử và hành giả chú tâm niệm Phật để cầu vãng sinh cho mình, và chỉ chú trọng sao cho bản thân mình được vãng sinh mà không chú ý gì đến mọi chúng sinh trong pháp giới, không chú trọng việc thực hành tu tuệ cùng tu phúc theo giáo nghĩa Đại thừa. Chuyên tâm niệm Phật cầu vãng sinh như vậy dù có vãng sinh thì cũng chỉ ở phẩm thấp trong chín phẩm Liên hoa. Bởi vì niệm Phật cầu vãng sinh không thể tách rời việc thực hành đem giáo lý của đức Phật vào trong cuộc sống. Cuộc sống ở thế giới Ta Bà rất nhiều khổ ải, giáo lý Đại thừa chỉ rõ không chỉ tu cho mình mà phải Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh (Trên cầu thành Phật, dưới độ chúng sinh). Nghĩa là hành giả Tịnh Độ niệm Phật cầu vãng sinh để thành Phật thì phải có tấm lòng từ bi, thương yêu đến mọi chúng sinh, phải biết phát Bồ đề tâm, tin sâu nhân quả, làm nhiều việc thiện. Cũng chính là để bổ khuyết những yếu lĩnh có thể còn thiếu mà trong các kinh của Tịnh Độ đã được nhắc đến, bộ kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện là bộ kinh dạy người học Phật phát Bồ đề tâm với tâm lượng rộng mở như Ngài Phổ Hiền Bồ tát.

3. Chỉ chuyên niệm Phật mà không tu hạnh lành:

Cũng có nhiều Phật tử rất chú trọng đến niệm Phật, lễ Phật thành kính công phu, thực hiện các thời khóa niệm Phật rất nghiêm mật nhưng trong đời sống hàng ngày thì không chú trọng gì đến việc thực hành các hạnh lành cùng hành vi và ngôn ngữ, đôi khi vẫn còn tồn việc làm không tốt, lời nói thô ác v.v... Để được vãng sinh, trở thành Phật, không chỉ có niệm Phật là đủ, dù có nhất tâm bất loạn. Mà phải có hạnh lành trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài thời khóa niệm Phật, người Phật tử luôn luôn thực hành tu thập thiện nghiệp, lời nói cử chỉ hành vi cũng mang tính thiện và từ bi trí tuệ. Cũng có trường hợp trong khi niệm Phật vẫn còn những vọng tưởng, chấp trước, tham đắm, sân hận thì việc niệm Phật làm sao mà nhất tâm bất loạn được. Vì vậy tu theo Tịnh Độ, không thể được xem đơn giản là chỉ có niệm Phật là đủ, dù cho niệm Phật có đạt được đến nhất tâm bất loạn thì kết quả cũng chỉ ở một mực thấp mà thôi.

C. Nhận thức đúng về tôn chỉ Tịnh Độ tông của đức Phật

Pháp môn Tịnh Độ chủ trương niệm Phật, quán tưởng đức Phật A Di Đà bằng tự lực với Tín, Nguyện, Hạnh và với tha lực của đức Phật và Thánh chúng để vãng sinh về Cực lạc, thoát khỏi kiếp sống sinh tử luân hồi. Đây là nhận thức chung của đa số Phật tử tu theo pháp môn Tịnh Độ. Nhưng nếu chỉ hiểu như thế, chỉ biết nhất tâm niệm Phật đạt đến nhất tâm bất loạn thì chưa đúng với tôn chỉ Tịnh Độ tông của Đức Phật. Vậy cần phải hiểu đúng tôn chỉ Tịnh độ tông như thế nào?

Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, Đức Phật cũng đã chỉ rõ người tu theo Tịnh độ muốn vãng sinh về thế giới Cực lạc phải biết tu tam phúc hay còn gọi là tam tịnh nghiệp. Có nghĩa là ngoài việc nhất tâm niệm Phật ngày đêm thì người tu theo Tịnh độ tông cần phải hiểu giáo lý của đức Phật. Hành giả Tịnh độ phải biết hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiêp, thọ trì tam quy, ngũ giới, không phạm uy nghi, phát bồ đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại thừa, khuyên người cùng tu. Vì vậy, Tịnh Độ tông không phải chỉ có niềm tin vào tín ngưỡng Cực lạc và Đức Phật A Di Đà. Tịnh Độ tông là tông phái chủ trương đưa các hành giả đi theo con đường tu tập Giới, Định, Tuệ. Do có công phu niệm Phật nhất tâm bất loạn, niệm Phật tam muội mà thành tựu được Định. Nhờ có công đức thọ trì Tam quy, Ngũ giới, tu thập thiện nghiệp và các công đức hoằng dương chính pháp, phát bồ đề tâm v.v…mà thành tựu được Giới. Và cũng nhờ có công đức đạt được Định mà hành giả mới đi đến có Tuệ.

Cũng vì tôn chỉ Tịnh Độ tông như thế nên trong kinh Niệm Phật Ba La Mật, Đức Phật đã thuyết giảng một cách thấu đáo về tôn chỉ của Tịnh Độ tông là một pháp môn Niệm Phật cầu vãng sinh như thế nào. Trong Phẩm thứ hai của kinh Niệm Phật Ba La Mật, Đức Phật đã chỉ rõ: “Pháp môn niệm Phật chính là chuyển biến cái tâm thể của chúng sinh, bằng cách không để cho tâm thể ấy duyên với vọng niệm, với lục trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, với huyễn cảnh, với kiến chấp, với mong cầu, với thức phân biệt v.v.. Mà chỉ đem tâm thể ấy duyên mãi với danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật. Không bao lâu người niệm Phật tự nhiên đi vào chỗ vắng lặng, sáng suốt, an lạc, cảm ứng với nguyện lực của đức A Di Đà, thấy mình sinh vào cõi nước Cực lạc, thân mình ngồi trên tòa sen báu, nghe Phật và Bồ tát nói pháp, hoặc thấy Phật lấy tay xoa đảnh”.

Kinh Niệm Phật Ba La Mật cũng chỉ rõ người tu theo Tịnh Độ, tuy đã phát tâm niệm Phật một cách tinh tấn và công phu, nhưng nếu tái sinh vào cõi Ta bà thì vẫn bị luân hồi vì định huệ còn non kém, công đức chưa hoàn mãn. Cần phải vãng sinh thế giới Cực lạc gần kề với Phật và các Thánh chúng, thành tựu vô lượng Ba la mật, thâm nhập Tam muội Tổng trì môn, phát hoằng thệ nguyện đi khắp mười phương giáo hóa chúng sinh. Chính vì thế mà Đức Thế tôn đã nói rõ trong kinh Niệm Phật Ba La Mật rằng: “Nên biết rằng được vãng sinh Cực lạc thì không bao giờ trở lại địa vị phàm phu với thân xác ngũ uẩn nữa. Do đó mới gọi là Bất thối chuyển. Từ đó về sau, dần dần thành tựu mười thứ trí lực, mười tám pháp bất cộng, ngũ nhãn, lục thông, vô lượng đà la ni, vô số tam muội, thần thông du hý, biện tài vô ngại v.v… đầy đủ công đức vô lậu của bậc Đại Bồ tát, cho đến khi đắc quả Phật. Bởi vậy mà ta, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn hôm nay trân trọng xác quyết rằng: Vãng sinh đồng ý nghĩa với thành Phật”.

Chính vì những lý lẽ đó mà bản kinh Niệm Phật Ba La Mật cần được xếp vào một trong những bộ kinh chính của pháp môn Tịnh Đô, vì bản kinh đó bao hàm đầy đủ tôn chỉ của Tịnh Độ tông.

Phần 5: KẾT LUẬN

Pháp môn Tịnh Độ đã xuất hiện từ khi Đức Phật còn tại thế. Thời kỳ Phật giáo nguyên thủy, Tịnh Độ không được phát triển mạnh. Chỉ sau khi Phật giáo Đại thừa phát triển và nhất là vào những thế kỷ đầu sau Công nguyên, Tịnh Độ tông mới hình thành một tông phái chính thức ở Trung Hoa với Huệ Viễn Đại sư làm sơ tổ kể từ thế kỷ thứ IV.

Pháp môn Tịnh Độ lấy các bộ kinh Vô Lượng Thọ, A Di Đà, Quán Vô Lượng Thọ, Niệm Phật Ba La Mật và bộ luận Vãng Sinh Tịnh Độ là giáo lý cơ bản. Phương pháp tu tập của Tịnh Độ tông lấy việc tụng niệm câu “Nam mô A Di Đà Phật” làm việc hành trì thường xuyên. Tịnh Độ tông chủ trương niệm Phật, quán tưởng đức Phật A Di Đà và sự thù thắng, trang nghiêm của cõi Cực Lạc Tịnh độ, bằng tự lực với Tín, Hạnh, Nguyện. Hành giả còn phải nương nhờ tha lực của đức Phật A Di Đà và Thánh chúng để vãng sinh về Cực lạc trong trạng thái niệm Phật nhất tâm bất loạn. Tịnh Độ tông không phải là một pháp môn chỉ có tín ngưỡng cõi Tịnh độ Cực lạc và Đức Phật A Di Đà, không phải chỉ có niềm tin, mà đó là pháp môn chủ trương con đường tu tập Giới, Định, Tuệ mà chủ yếu là Giới và Định.

Vì vậy đòi hỏi ở hành giả và chư Phật tử tu hành theo Tịnh Độ tông phải có một phương pháp tu hành toàn diện: vừa hành trì niệm Phật đạt đến nhất tâm bất loạn để đạt đến Định, vừa phải đọc tụng kinh điển Tịnh Độ và thực hành tam tịnh nghiệp như Đức Phật đã nói trong kinh Quán Vô Lượng Thọ. Việc hành trì như thế mới đạt được vãng sinh về thế giới Cực lạc không còn thối chuyển.

Viết xong tại Ngọc Hà
Ngày 28.02.2015
Chánh Tuệ Định - Phạm Đình Nhân
----------------------------------------
Tài liệu tham khảo:
Kinh A Di Đà, bản dịch của HT.Thích Tuệ Nhuận, NXB Tôn Giáo
Kinh Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác, bản dịch của HT.Thích Trí Tịnh, NXB Tôn Giáo
Kinh Quán Vô Lượng Thọ, bản dịch của HT. Thích Trí Tịnh, NXB Tôn Giáo
Kinh Niệm Phật Ba La Mật, bản dịch của HT. Thích Thiền Tâm, NXB Hồng Đức
Kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện, bản dịch của HT. Thích Trí Tịnh, NXB Tôn Giáo
Luận Vãng sinh của Bồ tát Thế Thân, bản dịch của HT. Thích Phước Huệ, Viện Phật học Phước Huệ ấn hành, (tuvahanh.com)
Luận Du Già Sư Địa, Bồ tát Vô Trước ghi chép, bản dịch của Nguyên Huệ, NXB Hồng Đức
Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh, Bồ tát Vô Trước, bản dịch của Quảng Minh dịch, NXB Tôn Giáo
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, bản dịch của HT. Thích Thiện Hoa, Trang Tạng Thư Phật học (tangthuphathoc.net)
10. Kinh Dược Sư, bản dịch của HT. Thích Tuệ Nhuận, NXB Tôn Giáo
11. Kinh Duy Ma Cật, bản dịch của Thích Huệ Hưng, Trang Thư Viện Hoa Sen (thuvienhoasen.org)
12. Kinh Hoa Nghiêm, bản dịch của HT. Thích Trí Tịnh, NXB Tôn Giáo
13. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, bản dịch của HT. Thích Trí Tịnh, NXB Tôn Giáo
14. Trung Quán Luận của Bồ tát Long Thọ, bản dịch của Thích Nguyên Chơn, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh
15. Thập Nhị Môn Luận của Bồ tát Long Thọ, bản dịch của Thích Viên Lý, Viện Triết Lý Việt Nam và Thế Giới xuất bản 2000, Trang Hoa Vô Ưu (hoavouu.com)
16. Cựu tạp thí dụ kinh của Khương Tăng Hội, bản dịch của Lê Mạnh Thát trong Văn học Phật giáo Việt Nam, tập 2, Trang nhà Quảng Đức (old.quangduc.com)
17. Lục độ tập kinh do Linh Sơn Pháp Bảo Đại tạng kinh dịch, Trang Tạng Thư Phật học (tangthuphathoc.net)
18. Lục Tổ đàn kinh, bản dịch của Thích Minh Nghiêm, NXB Thời Đại
19. Thiền Uyển Tập Anh, Phân viện Nghiên cứu Phật học, NXB Văn học
20. Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh của Lê Mạnh Thát, NXB TP Hồ Chí Minh
21. Bồ đề yếu nghĩa của Thiền sư Viên Văn, Trang Hoa Linh Thoại (hoalinhthoai.com)
22. Khóa Hư Lục của Trần Thái tông, HT. Thích Thanh Từ giảng giải, Thiền viện Thường Chiếu xuất bản (thientongvietnam.net)
23. Cư trần lạc đạo phú của Trần Nhân tông, HT. Thích Nhất Hạnh dịch, Trang Làng Mai (langmai.org)
24. Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang, NXB Văn học
25. Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Lê Mạnh Thát, NXB Thuận Hóa, Huế
26. Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim, NXB Tân Việt, Hà Nội
27. Bản ý của Tịnh độ tông, Phan Minh Đức, Trang Đạo Phật Ngày Nay (daophatngaynay.com)
28. Giới thiệu về Tịnh độ tông, HT. Thích Viên Giác, Trang Tịnh độ pháp môn (tinhdo.net)
29. Khuyên tu pháp môn Tịnh độ, Cư sĩ Thiên Thông, Trang Tạng thư Phật học (tangthuphathoc.net)
30. Nguồn gốc lịch sử ra đời và phát triển của Tịnh độ tông, Cư sĩ Nguyễn Thanh Hoa, Trang Giáo hội Phật giáo Việt Nam (phatgiao.org.vn)
31. Nguồn gốc tông Tịnh độ, Thâm Phước, Việt dịch Thích Quảng Tấn, Trang Chùa Diên Quang (tinhdo.com.vn)
32. Nhận thức về pháp môn Tịnh độ, Thích Đức Trí, Trang Đường về cõi Tịnh (duongvecoitinh.com)
33. Pháp môn Tịnh độ trong kinh A Di Đà, Thích Giác Như, Trang Giác Ngộ Online (giacngo.vn)
34. Thế Nào Gọi Là Niệm Phật Nhất Tâm Bất Loạn? HT.Thích Thánh Nghiêm, Trang Tạng thư Phật học (tangthuphathoc.net)
35. Những ngộ nhận về Tinh độ tông, Thích Nhật Từ, Trang Pháp âm Đạo Phật Ngày Nay (chuagiacngo.com)
36. Tịnh độ tông Nhật Bản, Trang Wikipedia (wikipedia.org)
37. Trào lưu Tịnh độ tông tại Việt Nam, Thích Tâm Hải, Trang Tạng thư Phật học (tangthuphathoc.net) 
[1] Xem http://www.chuagiacngo.com/media/play-album-phap-thoai-thang-07-nam-2014/ 
[2] Ghi theo nguyên văn 
[3] Ghi theo nguyên văn 
[4] Ghi theo nguyên văn

Không có nhận xét nào: