Chủ Nhật, 23 tháng 8, 2015

NĂNG LƯỢNG SINH HỌC

1. Thời xưa:

Gần đây, chúng ta có nghe thấy xuất hiện ở VN một phương pháp trị bệnh không cần dùng thuốc. Nó thật mới mẻ, kỳ lạ đến mức độ khó tin đối với những ai chưa có dịp điều trị hoặc chứng kiến. Phương pháp điều trị này là một bộ phận của sự ứng dụng Năng Lượng Sinh Học, còn gọi là Trường Sinh Học hoặc Nhân Điện.

Trước hết, chúng ta nhận thấy các tôn giáo đã biết đến Năng Lượng Sinh Học từ lâu rồi. Ấn Độ giáo, trong kinh Vedas và Upanishads (cách nay trên 5.000 năm) có ghi hệ thống 7 Luân Xa (Chakra) rất hoàn chỉnh. Đây là những điểm hút năng lượng vũ trụ, là trung tâm của cơ thể, đồng thời là nơi qua đó con người được giao tiếp với thế giới bên ngoài. Người Ấn Độ cổ gọi Năng Lượng Vũ Trụ là "Khí Prana", nguyên tố cấu tạo căn bản và là nguồn gốc của sự sống. Họ thu Khí Prana bằng phép thở, Thiền tịnh và luyện Yoga. Phật giáo cũng có những kinh nói về các Luân Xa, phép thiền cách đây hơn 2.500 năm. 

Thiên Chúa Giáo họa hình Chúa Giêsu hoặc các Đấng Linh Thánh với hào quang quanh đầu hay toàn thân. 
Ai Cập – Babylon, nơi có một nền văn minh cổ kính, hiện còn đang lưu trữ nhiều bức tranh nghệ thuật tuyệt tác, trong đó có một bức minh họa trên đá (cách đây 4000 năm) mô tả một hệ thống 7 Luân Xa. Kundalini (Hỏa Xa) cũng được đề cập đến bằng hình ảnh rất rõ ràng.

Người Bách Việt đã xây dựng thuyết Âm-Dương từ 3.000 năm trước Công nguyên. Họ thừa nhận sự tồn tại của năng lượng vũ trụ đầy sức sống gọi là "Khí". Vạn vật đều được tác thành từ "Khí", và Khí này luôn xâm nhập vào mọi vật. Từ thời cổ, họ đã biết luyện Khí công để thu Tiên Thiên Khí và phát Nội Khí để bảo vệ sức khỏe.

2. Thời hiện đại:

Từ thế kỷ 12 (sau CN) đến thế kỷ 20, Năng Lượng Sinh Học được các học giả, các nhà khoa học, các viện khoa học khắp nơi trên thế giới nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi bằng các phương tiện khoa học hiện đại.
Liebnitz cho rằng nguyên tố cốt yếu của vũ trụ là những trung tâm lực, nó chứa nguồn chuyển động riêng của nó. 

Newton đã khai sinh khái niệm Trường Vũ Trụ. Cơ sở này được Faraday kết luận: nó là cơ sở khoa học để giải thích khả năng gây ảnh hưởng qua lại của con người từ một khoảng cách. 

Năm 1800, Mesmer cùng với Helmont đã khám phá ra những hiện tượng năng lượng, theo đó, sinh vật đều được xung nạp một "chất lỏng". Nhờ năng lượng này mà mọi vật có thể gây ảnh hưởng lẫn nhau từ một khoảng cách. Sau đó, hàng loạt các nhà vật lý chuyên môn, các bác sĩ lần lượt công bố những khám phá của mình về năng lượng sinh học. Năm 1911, bác sĩ William Kilner tưởng trình kết quả nghiên cứu của ông. Ông mô tả quanh cơ thể con người có một màn sáng chói, đó là hào quang hoặc Nhân Trường Năng. Màn này có nhiều lớp, phân biệt được nhờ màu của nó. Tùy theo giới tính, năng lực tinh thần và tình trạng sức khỏe mà hào quang này khác nhau. 

Bác sĩ William Reich, nhà tâm thần học, là bạn đồng sự của Freud, từ năm 1930 đến 1950 đã nghiên cứu Năng lượng Vũ trụ và và tương quan của các nhiễu loạn dòng Orgone trong cơ thể con người.  

Năm 1939, Kirlian đã sáng chế máy chụp hào quang quanh cơ thể con người và bất động vật. Cùng năm ấy, bác sĩ H. Burr và F. Northrop ở đại học Yale đã đo được các trường năng của hạt giống và động vật. Bác sĩ Valorie Hunt và Rosalyn Bruyere đã phân tích thấy hào quang của con người có 7 lớp màu, tương ứng với 7 Luân Xa cũng mang màu này. Hiện nay người ta đo điện từ trường quanh cơ thể bằng một thiết bị cực nhạy gọi là Squid (máy đo giao thoa điện tử siêu dẫn). 

3. Kết luận:

Năng Lượng Sinh Học có một lịch sử lâu đời ở phạm vi toàn cầu, nhưng trước đây con người chỉ được giải thích là hoặc cho là điều huyền bí. Không ít môn phái, cá nhân chủ trương tập luyện thu năng lượng vũ trụ để đạt được các phép thần thông, biến hóa, độn thổ, phi hành Kiến thức con người ngày càng mở rộng, và những khám phá ngày càng phong phú, tinh vi. Năng Lượng Sinh Học đã trở thành một bộ môn nghiên cứu-ứng dụng khoa học thật lý thú của con người và không còn huyền hoặc như xưa nữa. Các khoa học gia thế kỷ 20 đã công bố: "Năng lượng sinh học là một loại vật chất, có thể gây ảnh hưởng giữa những cá nhân từ một khoảng cách". 

4. Năng lượng sinh học là gì ?

"Nhân điện" là Năng lượng Sinh học của con người, tên gọi do các nhà nghiên cứu người Pháp đặt ra từ thế kỷ 19, để phân biệt với Năng lượng Sinh học của động và thực vật. Tên gọi này cũng xuất phát từ quan quan niệm Năng lượng Sinh học chính là “điện”.

Bản chất Năng lượng Sinh học là gì, nền vật lý hiện đại chưa thể đưa ra định nghĩa dứt khoát, hiện các nhà khoa học còn đang tranh cãi, nhưng có thể hiểu qua các xác định cụ thể của các khoa học gia hiện đại như sau:

- Đó là loại vật chất đa dạng, siêu dẫn, siêu trạng thái, siêu phát xạ, bao gồm: tĩnh điện, từ tính, điện từ, màu, nhiệt, sóng âm thanh. Chính trong những thành phần cấu tạo này mà nó còn có mang thông tin và “lệnh” phát đi từ người sử dụng. Nó mang thông tin và cả những cảm giác thuộc 5 giác quan của con người. là một loại "vật chất" phát ra từ các loại vật chất khác.

5. Ứng dụng: 

Năng lượng Sinh học để luyện tập và ứng dụng trong các thuật: Thần giao cách cảm (Thấu thị– nhìn xuyên qua vật chất và thời gian), Thôi miên, đọc tư tưởng của người khác và Chữa bệnh từ một khoảng cách thật xa… Kết quả của các thuật trên đây nói lên khả năng “siêu phàm” của con người. “Sự huyền diệu xảy ra không mâu thuẫn với tự nhiên, chỉ mâu thuẫn với những gì chúng ta hiểu biết về tự nhiên mà thôi”. 

Môn Năng lượng Sinh học phát triển theo thời gian và không gian trên cơ sở khoa học. Những khám phá về Năng lượng Sinh học thật là kỳ thú và hữu ích vô tận. Năng lượng Sinh học gọi là “Y năng lượng” là loại thuộc thần diệu đối với tất cả mọi chứng bệnh, kích thích và tái tạo sinh thái của các tế bào, mô, màng của cơ thể. Nhớ vào tính có chứa phát lệnh và chứa thông tin của nó mà ta có thể trị bệnh từ một khoảng cách thật xa. Dùng “Y năng lượng” để trị bệnh, không cần kèm thêm một loại thuốc hay phẫu thuật nào khác mà bệnh vẫn khỏi được một cách nhẹ nhàng, êm ái. Nó có thể chặn đứng hoặc tiêu diệt được tận gốc căn bệnh trong một thời gian ngắn, kể cả các bệnh nan y. Không có trường hợp phản ứng hay gây tác hại cho cơ thể khi sử dụng nó. 

Nguồn:quehuongyeudau.blogtiengviet.net
--------------------

Tâm Còn Chưa Thiện, Phong Thủy vô ích.
Bất Hiếu Cha Mẹ, Thờ Cúng Vô ích.
Anh Em Chẳng Hòa, Bạn Bè vô ích.
Làm trái Lòng người, Thông Minh Vô Ích.
Chẳng Giữ Nguyên Khí, Thuốc Thang Vô ích.
Thời Vận Không Thông, Mưu Cầu Vô ích.

Khổng Tử.

Không có nhận xét nào: