Thứ Ba, 31 tháng 3, 2015

Những Bí Ẩn Cuộc Đời (tiếp theo)

Tác giả: Dale Carnegie
Dịch giả: Nguyễn Hữu Kiệt
Đọc: Những Bí Ẩn Cuộc Đời (1)
Phần 3
11 - Quả Báo Tâm Lý
Chúng ta đã thấy bằng cách nào tánh kiêu căng một thói xấu trên địa hạt tinh thần có thể gây nên quả báo cụ thể trên địa hạt vật chất dưới dạng những bịnh tật khốn khó. Những tập hồ sơ Cayce cũng chứa đựng nhiều trường hợp mà những tội lỗi trên địa hạt tinh thần gây nên quả báo thuộc về tâm lý; trong số đó có hai trường hợp đáng kể về quả báo lạc loài cô đơn, mà nguyên nhân là tội bất khoan dung.

Trường hợp thứ nhất là của một vị nữ tu trong một tu viện Pháp hồi thời vua Louis mười bốn. Vị nữ tu này rất nghiêm khắc, lạnh lùng và thiếu đức bao dung đối với những sự lầm lạc yếu đuối của người đời, hiểu Thánh Kinh một cách quá chặt chịa, gò bó từng chữ từng cầu, và khinh bỉ những người nào vi phạm những lời răn dạy trong Thánh Kinh. Hậu quả của thái độ khắc nghiệt đó biểu lộ trước hết trong kiếp này bằng một chứng bịnh đau hạch, dây dưa không dứt, làm cho bịnh nhân bị hoại huyết quá nhiều trong lúc có kinh nguyệ. Chứng bịnh này làm cho cô không thể đi học đều đặn, mỗi tháng nằm liệt giường hết hai tuần lễ, làm cho cô trở nên nhút nhát, thích sống cô đơn, và tránh xa các bạn bè đồng lứa tuổi. Những điều này có ảnh hưởng đến cá tính của cô về mọi mặt.

Về sau những chứng bịnh kể trên đã lần lần giảm bớt. Nhờ có một thân hình đẹp đẽ, cân đối, cô làm nghề kiểu mẫu ở New York và lập gia đình. Tuy nhiên, cuộc tình duyên của cô không có hạnh phúc. Vợ chồng không hợp ý tâm đầu: Người chồng thì lạnh lùng và khắc khổ, còn cô thì lại khao khát sự yêu đương. Trận Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ, người chồng phải vượt biển tùng chinh. Từ đó, cô bắt đầu sống một thời kỳ độc thân, làm cho cô buồn không thể chịu nổi cảnh đơn chiếc, nên phải dọn vào ở trong một trại nghỉ mát. Tại đây, cô bắt đầu uống rượu và sống một cuộc đời bê thạ Lúc đầu cô cảm thấy rằng uống một hai ly rượu giúp cô thoát khỏi sự ám ảnh nặng nề của cơn sầu khổ. Nhưng một khi đã bước vào con đường ấy rồi, cô không thể ngưng lại đượ nữa; càng ngày càng uống rượu nhiều thêm. Có khi cô uống luôn ngày đêm không dứt, trong ba tuần liên tiếp như vậy, và ngủ với bất cứ người nào, lính thủy, lính tập hay phi công, tùy theo lúc cao hứng. Khi cô say rượu thì mất cả mọi sự dè dặt trong cử chỉ, và bất chấp cả áo quần. Cô đi tiểu tiện và đại tiện ngay ở giữa sân nhà chỉ khoác một cái áo choàng để hở, và nếu người ta không ngăn cản thì cô cứ điềm nhiên khỏa thân đi thẳng vào phòng khách lữ quán đang ở trọ. Sau cùng, sức khỏe của cô bắt đầu suy sụp dưới ảnh hưởng chất men rượu nồng. Hai bàn tay bắt đầu run đến một mực mà cô không thể cầm viết ký tên vào những ngân phiếu để lãnh tiền của chồng gởi về. Trong những lúc tỉnh táo và đầy đủ trí khôn,cô quyết định rời khỏi trại nghỉ mát trung tâm quy tựu hằng nửa chục những căn cứ hải quân và đồn trại ở gần bên. Những bức thư cuối cùng cho biết rằng nay cô làm thơ ký với ít nhiều trách nhiệm; nhưng về sau cô vẫn tiếp tục chè chén bê tha, và sau cùng đã ly dị chồng. Dường như sự trụy lạc của cô trước hết là do bởi thần kinh quá căng thẳng, mà điều này lại phát sinh từ chứng bịnh đau hạch mà ra. (Ông Cayce hay nhấn mạnh rằng các bộ phận hạch tủy trong thân người thường là những phương tiện biểu lộ của luật quả báo). Chứng bịnh này lại là cái hậu quả trực tiếp của những hành vi kết án khắc nghiệt của cô đối với kẻ khác và sự thiếu lòng nhân từ của cô ở kiếp trước. Những sự lầm lạc yếu đuối của kẻ khác, mà trước kia cô lên án một cách khắt khe, nghiệt ngã, ngày nay đã trở nên những sự lầm lạc yếu đuối của chính mình. Bằng cách trả quả báo như thế, cô mới hiểu được rằng sự lầm lạc tội lỗi của người đời là đáng thương, và họ là những người mà ta phải thông cảm và giúp đỡ thay vì lên án và chê bai. Cũng như những kẻ chế nhạo, những người chỉ trích chê bai kẻ khác phải chịu nhận lãnh cái số phận của những kẻ mà họ đã lên án.

Trường hợp thứ nhì là của một người đàn bà có thói kiêu căng và thành kiến trong hai kiếp trước. Trong một kiếp vào thời kỳ của đấng Christ tại Palestine, cô là vợ của một vị giáo sĩ Do Thái. Với địa vị xã hội này, cô đã tỏ ra khắc nghiệt và khinh bỉ những người thanh niên phóng đãng, tự do, vô tôn giáo. Thời gian trôi qua cũng không làm phai mờ và giảm bớt lòng kiêu căng và tự phụ của cộ Trong kiếp thứ nhì, cô tái sinh ở Salem, tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ, nhưng vẫn không chừa thói khắc nghiệt và lên án kẻ khác, mà dường như cô càng trở nên khó khăn nghiệt ngã hơn! Cuộc soi kiếp cho biết rằng: Linh hồn này đã gặp phải những người rất khó tính trong kiếp hiện tại, những người khắc khe, soi mói và saün sàng lên án kẻ khác. Trước kia linh hồn này đã gây nhiều đau khổ cho kẻ khác. Khi người ta nhận chìm một vài người xuống nước trong vụ xử án những người phù thủy, cô chứng kiến việc ấy và vỗ tay hoan nghinh. Khi những người khác bị đánh bằng roi vọt, cô cũng biểu đồng tình. Bởi vậy, linh hồn này thường nhớ lại những sự hành phạt đau khổ của những thời kỳ đó trong những khi cô bị loạn trí. Hiện thời cô bị chứng nội thương trong mạch máu và tủy xương sống, do bởi thiếu sự điều hành giữa bộ thần kinh giao cảm và bộ Óc, chứng bịnh này là cho cô có những thời kỳ "Phản ứng thể xác." Sự phản ứng thể xác này là một chứng bịnh thần kinh mà đương sự bị đau từ năm 39 tuổi, và những cơn khủng hoảng thường tái phát trải qua 14 năm kế đó. Cô không có gia đình; nhà ở khu sang trọng tại New York, và sự kiện rằng cô không có làm nghề nghiệp gì dường như chứng tỏ rằng cô có phương tiện và tài sản. Người ta có thể cho rằng sự Ở không, vô sự có thể là một yếu tố quan trọng gây nên những cơn khủng hoảng tinh thần. Nhưng đó chỉ là một nguyên nhân tạm bợ bên ngoài, có tính cách nhất thời mà thôi, chứ không phải nguyên nhân sâu xạ Trong tận thâm tâm của người đàn bà này, có một lòng khắt khe nghiệt ngã đối với nhân loại, một sự thản nhiên lạnh lùng trước những điều nguyện vọng và đau khổ của người đời. Sự khắc nghiệt, bất khoan dung của cô đã làm cho nhiều người thất vọng đau khổ trong những kiếp trước: Bởi vậy, thật là công bình mà thấy cô trải qua kinh nghiệm thất vọng đau đớn trong kiếp này.

Người ta có thể tự hỏi rằng tại sao người đàn bà này không bị trả quả báo về sự khắc nghiệt của cô hồi thời ở xứ Palestine, trong kiếp đầu thai ở Salem. Câu hỏi này có thể giải đáp bằng hai cách khác nhau. Trước hết, kiếp đầu thai ở Salem có lẽ có một mục đích khác hơn là sửa chữa tánh khắc nghiệt của cộ Bởi đó, tánh khó khăn này đã bành trướng thêm trong khi cô theo đuổi một công việc quan trọng khác ở kiếp nói trên. Lẽ thứ hai là thái độ khắc nghiệt của cô ở Palestine có thể chưa rõ rệt lắm, và chưa biểu lộ bằng những hành động gây tổn thương cho kẻ khác. Đó chỉ là tánh bất khoan dung lúc mới đầu, chưa đủ mạnh để có thể gây nên một nghiệp quả lớn lao. Ngoài ra, mọi việc xảy ra trong đời cô là một sự thử thách. Trong kiếp sống ở Salem, cô có thể là một người khoan dung hay khắc nghiệt, tùy ý cô chọn lựa con đường tâm tính của mình. Nhưng cô đã thất bại trước sự thử thách đó; cô càng tăng cường thêm tánh khắc nghiệt đã có ở Palestine thay vì sửa chữa lại, và bởi đó cô tạo nên quả báo mà cô phải trả trong kiếp này.

Trong những thói xấu đồng một loại với tánh bất khoan dung và nghiệt ngã, có tánh hay chỉ trích. Trường hợp sau đây là một thí dụ lý thú về quả báo gây nên bởi tánh hay chỉ trích. Đó là một người thanh niên 27 tuổi, làm thiếu úy trong quân đội, có tánh tự ti mặc cảm, và luôn luôn nghĩ rằng mình bất lực, không làm nên trò trống gì. Chúng tôi không được biết những lý do nào làm trở ngại sự phát triển cá tính của y thuở thiếu thời. Có thể rằng y đã có một người cha hay người mẹ có thói hay công kích một cách vô lý; hoặc y có một thân hình dị dạng, làm cho bè bạn trong lớp chế diễu nhạo báng. Chúng tôi đưa ra những sự phỏng đoán trên đây là vì căn cứ vào cái quả báo hiện thời của đương sự, vì trong cuộc soi kiếp, ông Cayce nói: "Ai giống nào sẽ gặt giống nấy. Vì anh đã chỉ trích kẻ khác, nên ngày nay anh phải bị chỉ trích lại."

Cuộc soi kiếp cho biết rằng người thanh niên ấy trong kiếp trước là một nhà phê bình nghệ thuật, thường có thói quen chỉ trích một cách gắt gao, cay đắng, nghiệt ngã, mọi nghệ phẩm mà y không vừa lòng. Vì trong quá khứ y đã gieo sự ngờ vực trong lòng kẻ khác, làm cho họ mất tin tưởng về khả năng của chính mình, thì ngày nay đến lượt y phải bị cái quả báo tương đương là thói tự ti mặc cảm.

Chúng ta thấy ở đây một khía cạnh mới của Luật Nhân Quả vô cùng phức tạp, một khía cạnh rất quan trọng về mặt tinh thần, đáng để cho ta suy gẫm. Tự nhiên những nhà phê bình chuyên môn chỉ gồm một số rất ít, nhưng trên Trái Đất hiện nay người ta đếm có gần hai tỷ rưỡi những nhà phê bình tài tử, tay ngang, nghĩa là không chuyên nghiệp. Có lẽ không một nghề nghiệp nào trên thế gian có nhiều tay hành nghề tài tử như nghề này, họ phê bình và chỉ trích thiên hạ một cách say mê thỏa thích, kể từ ngày họ mới tập nói cho đến ngày mà Thần Chết khóa miệng họ lại dưới nấm mồ! Nghề này không cần bỏ vốn, và dễ làm hơn ăn cơm! Ngoài ra, nó còn khác hẳn với mọi thứ tiêu khiển của người đời, đó là một trò chơi mà người ta có thể thực hành ở ngoài đường hoặc trong nhà, suốt cả năm này qua tháng nọ, mà chỉ cần dùng một khí cụ duy nhất, là một cặp lưỡi sắc bén! Chỉ cần có hai hay ba người tụ họp lại, là cái trò chơi phê bình, chỉ trích này bắt đầu!

Tuy nhiên, mặc dầu sự chỉ trích là môt trò tiêu khiển không tốn kém, nhưng nó có thể bắt buộc ta trả một cái giá rất đắt một ngày về sau. Nguồn tài liệu (đó là danh từ mà ông Cayce dùng để ám chỉ cái quyền năng của ông) thấy rõ sự hành động của luật Nhân Quả trải qua giòng thời gian vô tận, thường đưa ra những lời cảnh cáo nghiêm khắc và rõ ràng cho những người nào có cái tật này. Thí dụ sau đây, trong hằng trăm những thí dụ khác, là một bằng chứng hiển nhiên để cho ta dùng làm tài liệu suy gẫm:

"Chúng tôi thấy linh hồn này thường tỏ ra quá nghiêm khắc trong sự chỉ trích kẻ đồng loại. Phải tốp bớt lại, vì những gì mà ta chỉ trích ở kẻ khác, sẽ đến với ta dưới một hình thức nào đó."

Đó là một lời tuyên bố rõ ràng về luật quả báo, theo đó một nguyên nhân gây ra trên địa hạt tâm lý sẽ mang đến một hậu quả tâm lý tương đương. Điều này nhắc nhở cho chúng ta nhớ lại những lời răn dạy trong Kinh Thánh Gia Tộ Đức Jesus có dạy rằng: "Ta nói cho các ngươi biết, mỗi lời nói vô ích mà mỗi người thốt ra, họ sẽ phải trả lời trong ngày Phán Xét cuối cùng," và kế đó là những lời răn: "Không phải những gì chui vào lỗ miệng của một người, nó làm cho y bị Ô nhiễm, nhơ bợn, mà là những gì từ trong lỗ miệng của y chui ra!" "Ngươi chớ lên án nếu ngươi không muốn bị kẻ khác lên án. Vì ngươi lên án kẻ khác như thế nào, thì đến phiên ngươi sẽ bị lên án cũng y như thế đó!"

Lời răn trên đây, đối chiếu với luật quả báo mà chúng ta phải thấy, có một ý nghĩa hùng hồn, mạnh mẽ và hợp lý trên phương diện thực tế mà người ta chớ khá coi thường. Về những trường hợp kể trên, chúng ta nên nhớ rằng chính cái nguyên động lực, và mục đích của mỗi hành động mới là cái sức chuyển vận luật Nhân Quả. Không phải nghề phê bình văn nghệ nó làm cho người thanh niên kia bị sa đọa trong kiếp trước, mà chính là cái thái độ bên trong của y và sự ngờ vực mà y đã gieo trong lòng kể khác về tài năng của họ, trong khi y hành nghề một cách cẩu thả. Người ta thấy một tình trạng tương tự khi người lính La Mã ngược đãi những tín đồ đạo Gia Tô, như đã kể ở Phần 5. Nghiệp của y gây ra không phải là vì y thừa hành chức vụ của người lính gác, mà do bởi hành động tàn ác của y đối với những người không sức tự vệ đặt dưới quyền sinh sát của ỵ Ở đây cũng như mọi trường hợp, chính cái tinh thần bên trong mỗi hành động mới là cái nguyên động lực tạo nên nghiệp quả.

Trước đây, chúng ta thấy rằng những khuynh hướng độc tài chuyên chế nguyên nhân là do những kinh nghiệm chỉ huy ở kiếp trước. Khả năng lãnh đạo là một đức tính tốt, nhưng nó thường biến chứng thành thói chuyên chế độc tài. Trong lịch sử, người ta thấy những người có chức vụ cao, nắm quyền thế trong tay, thường lạm dụng quyền hành để thỏa mãn lòng tham vọng riêng của mình. Những trường hợp lạm dụng quyền thế một cách trắng trợn và những quả báo gây ra do những hành động đó, đều được thuật lại rất nhiều trong những tập hồ sơ Caycẹ Thí dụ, đây là trường hợp của một người có quyền thế trong thời kỳ các vụ án phù thủy ở Salem. Y là một trong những viên chức có trách nhiệm trừng trị khủng bố những người đàn bà bị tố giác là hành nghề phù thủy. Tuy nhiên, trong khi thừa hành chức vụ đàn áp khủng bố những người theo tà đạo để bảo vệ thuần phong mỹ tục và bảo vệ tín ngưỡng Gia Tô, con người mô phạm và đạo đức giả này lại lạm dụng quyền hành của mình để thỏa mãn điều sắc dục: Những người phụ nữ bị giam cầm đều bị cưỡng bách phải thất tiết với y! Những tập hồ sơ cho biết nhà đạo đức giả ấy đã đầu thai trở lại kiếp này. Hiện nay y là một thiếu niên 11 tuổi, con của một người đàn bà nghèo khổ, bị chồng bỏ rơi. Y thường bị chứng động kinh rất dữ dội; trong lúc soi kiếp cho y, y đã liệt bại hết nửa thân mình bên trái, và câm không nói được nữa. Y không thể tự mình mặc hay cởi áo quần, hoặc ăn uống hay đi lại, tiểu tiện mà không có người dìu dắt. Hai vai của y đã còng, và sau một cơn động kinh kéo dài suốt nhiều ngày, trong khi đó ông bị chứng phong giựt, mỗi ngày cách khoảng độ nửa giờ, y không thể nào giữ vững đầu trên cổ được nữa, và không thể ngồi dậy được nếu không có người nâng đỡ.

Theo ông Cayce, bịnh động kinh thường là quả báo của sự hoang dâm vô độ. Dầu sao, sự lạm dụng quyền hành trong trường hợp này là một yếu tố quan trọng. Sự nghèo khổ và địa vị thấp kém của người mẹ y dường như là một sự đảo lộn địa vị giàu sang quyền thế của y trong kiếp trước. Chứng động kinh là cái hậu quả của sự cưỡng hiếp, dâm dục khi y lạm dụng quyền hành để thỏa mãn thú tính.

Trường hợp sau đây là một thí dụ lạm dụng quyền thế trong thời kỳ khủng bố đạo Gia Tô ở La Mã. Có một người tên Romus, làm quân nhân trong đạo binh La Mã. Ngoài ra số tiền lương tháng, với cấp bậc khá cao của y, y đã dùng thế lực để kiếm những món tiền khổng lồ. Cuộc soi kiếp không nói rõ y dùng phương pháp nào, không biết là y biển thủ công quỹ hay dọa nạt để làm tiền; nhưng y đã dùng phương tiện bất chính để mưu lợi, thâu được rất nhiều của cải vật chất, nhưng lại mất mát nhiều về phương diện tâm linh. Trong kiếp hiện tại, Romus bị nhiều đau khổ: Sự nghèo đói, lầm than, không nhà cửa, luôn luôn theo dõi y suốt đời. Nghề thợ may của y không đủ sinh lợi để nuôi một vợ và năm con. Chỉ nhờ sự giúp đỡ của cha mẹ y mà vợ chồng và gia đình y mới có thể sinh nhai một cách tạm bợ và bấp bênh ở một khu phố nghèo nàn tại Luân Đôn. Trong trường hợp này cũng vậy, kẻ lạm dụng quyền hành đã phải chịu những quả báo tương đương với hành động quả báo của y gây ra. Tình hình tài chánh tuyệt vọng của y phản ảnh những nỗi lầm than khốn khổ mà y gây ra cho kẻ khác trong kiếp trước.

Dưới đây là một trường hợp khác về sự lạm dụng quyền hành, cũng đáng được cho chúng ta ghi nhớ: Một người đàn bà nọ thuộc giai cấp trưởng giả hồi thời Cách Mạng Pháp, đã tham gia cuộc nổi loạn chống giai cấp quý tộc. Với tấm lòng thành thật tranh đấu cho một lý tưởng, bà đã thực hiện một sự tiến bộ lớn về đường tâm linh. Nhưng sau cuộc Cách Mạng, khi dịp may đưa đến bà đạt tới một địa vị quan trọng trong chánh phủ, bèn trở nên độc tài và lạm dụng quyền thế chẳng thua gì những người mà bà đã tranh đấu chống lại trước kia. Cuộc soi kiếp nói: "Hậu quả đưa đến, là trong kiếp hiện tại, linh hồn này phải chịu dưới quyền sai khiến của kẻ khác, để đè nén bớt những khuynh hướng độc tài và hách dịch của y trước kiạ" Hiện thời, người đàn bà này sống một cuộc đời rất khó khăn, lúc soi kiếp, bà đã 40 tuổi, góa chồng đã mười năm và có một đứa con gái nhỏ. Bà phải chiến đấu với nghịch cảnh để tư mưu sinh và nuôi con. Bà đã tìm được việc làm trong một cơ sở cứu trợ nạn nhân thất nghiệp của chánh phủ trong một thời gian nhưng tình trạng của bà vẫn bấp bênh. Sự cô đơn và thiếu nguồn vui sống đã làm cho bà tuyệt vọng và chán nản. Tình trạng này không phải là do sự ngẫu nhiên tình cờ: đó là cái phản ảnh đúng đắn của những sự đè nén áp bức mà bà đã gây ra cho kẻ khác, khi lạm dụng quyền hành trong taỵ Xét qua bề ngoài, thì bà là nạn nhân của một tình trạng kinh tế khủng hoảng và một số mạng hẩm hiu; nhưng xét về luật quả báo, thì bà chỉ là nạn nhân của chính mình.

Những trường hợp kể trên có thể giúp cho ta một cái tiêu chuẩn quan trọng để tìm hiểu những nỗi khó khăn trắc trở của người đời cùng những nỗi khổ đau của họ, và tìm ra những nguyên nhân xa gần, căn cứ vào quả báo trong hiện tại. Khi nhà hiền triết Eschyle cách đây hai ngàn năm ở Hy Lạp nói rằng: "Số mạng, tức là hạnh kiểm" ông ta đã thốt ra một câu châm ngôn mà nếu ta nói ngược lại cũng vẫn đúng. Vì những trường hợp đã xét qua như trên dường như chỉ rằng số mạng con người ngày nay, tức là phản ảnh cái hạnh kiểm của y trong quá khứ. Đến đây, một vấn đề quan trọng được nêu ra, một vấn đề mà bất cứ người nào học hỏi nghiên cứu và suy gẫm chính chắn về thuyết Luân Hồi, cũng không khỏi nêu ra để tự vấn lấy mình. Nếu như sự nghèo khổ là những quả báo cần thiết để giáo dục sửa đổi những kẻ hung dữ, độc ác, bất công theo định luật Nhân Quả, thì tại sao người ta cần phải cố gắng hoạt động trong những công việc cứu tế xã hội để làm gì. Phải chăng những cố gắng của ta để trợ giúp kẻ khác bần hàn khốn khó, sẽ làm ngăn trở sự hành động của luật Nhân Quả?

Chúng ta nên hiểu rằng thuyết Luân Hồi không phải chủ trương một thái độ nhắm mắt buông xuôi đối với những nhu cầu cấp bách của xã hội. Những linh hồn cần phải học bài học nghèo nàn khốn khó, sẽ sinh ra trong một thời kỳ lịch sử và trong một hoàn cảnh địa phương mà sự bất công của xã hội có thể tạo nên cái quả báo nghèo khổ khốn cùng cần thiết cho bài học kinh nghiệm của họ.

Nhưng đồng thời, những người nào không cố gắng làm việc để cải thiện đời sống của kẻ đồng loại, tức là họ phạm vào tội "Thờ ơ, chểnh mảng" (omission); còn những kẻ lợi dụng và khai thác kẻ đồng loại vì mục đích ích kỷ, là những kẻ tích cực phạm tội (commision); hai thứ tội lỗi này, có ngày họ sẽ phải trả quả.

Thuyết Luân Hồi, nếu hiểu một cách đúng đắn, sẽ không thể dùng làm một thuyết để bào chữa cho những hành vi của kẻ bất lương. Giáo lý mà thuyết ấy cho ta trước hết thuộc về địa hạt tâm lý, bởi vì nó nhắm vào mục đích cải tiến linh hồn người cho tới mức Toàn Thiện. Nhưng giáo lý ấy cũng nằm trong địa hạt xã hội, bởi vì mục đích tối cao của nó là tình thương; và tình thương chính là cái mãnh lực mầu nhiệm làm tiêu tan mọi điều nghiệp chướng và quả báo xấu xa, theo định luật Nhân Quả cai quản sự tiến hóa của con người.

Những Đạo gia quả quyết rằng hành động của con người không thể nào sửa đổi được định luật của Vũ Trụ. Định luật Nhân Quả Công Bằng cũng ví như nước, luôn luôn giữ mực bằng phẳng, quân bình. Dầu cho con người gặp hoàn cảnh nào và dưới thời kỳ nào, điều đó không quan hệ, đó chỉ là cái khung cảnh bên ngoài làm nền tảng và bối cảnh cho linh hồn đầu thai để học hỏi kinh nghiệm ở cõi trần. Đối với một linh hồn đã chọn lựa nhũng hoàn cảnh đó, thì luôn luôn có những phương tiện thích nghi để giúp cho họ sửa chữa những khuyết điểm và lầm lạc bên trong của họ.

12 - Nguyên Nhân Của Quái Trạng Tâm Lý
Ngày nay, nhiều người đã quen thuộc với cái tên của bác sĩ Freud và danh từ tiềm thức. Tuy nhiên, nhiều người không biết rằng bác sĩ Freud đã khám phá ra tiềm thức trong khi ông theo đuổi những cuộc sưu tầm về giấc ngủ thôi miên. Vì những người ngủ mê trong giấc thôi miên có thể nhớ lại những sự viếc xảy ra từ thuở nhỏ mà họ đã hoàn toàn quên hẳn trong lúc bình thường, nên ông Freud mới đưa ra giả thuyết rằng trạng thái tiềm thức là một kho ký ức giữ gìn những tài liệu cũ mà người ta không thể nhớ lại bằng cách nào khác. Về sau, ông Freud bỏ không dùng khoa thôi miên như một kỹ thuật chữa bịnh nữa, vì trong nhiều trường hợp, nó không được hoàn mỹ, và ông tiếp tục thí nghiệm những phương pháp khác để thám hiểm những vực sâu thẳm của tiềm thức. Tuy thế, người ta cũng đã coi khoa thôi miên như là nguồn gốc của khoa phân tâm học (psychanalyse).

Tron lĩnh vực tâm lý theo thuyết Luân Hồi, khoa thôi miên có thể có một vai trò tương tự. Thần Nhãn của ông Cayce dường như chỉ rằng một người trong giấc thôi miên có thể khám phá những kiếp trước của những người khác. Một sự kiện quan trọng hơn nữa là dường như một người trong giấc thôi miên cũng có thể nhìn thấy và sống lại những tiền kiếp của chính mình.

Những kinh nghiệm thụt lùi về quá khứ trong giấc thôi miên chỉ rằng trong tiềm thức của một người, được giữ gìn ký ức của tất cả mọi việc đã xảy ra từ khi y mới sinh. Một người trong giấc thôi miên, thụt lùi về dĩ vãng đến năm y lên mười tuổi, khi người ta truyền lệnh cho y viết tên của y, thì y viết với tuồng chữ của tuổi thơ ấu hồi y lên mười. Khi y thụt lùi về năm lên sáu tuổi y viết với tuồng chữ còn non nớt hơn nữa; khi y thụt lùi lại năm lên ba, y cầm viết chì vẽ nguệch ngoạc vài nét không có ý nghĩa gì cá HIện tượng thụt lùi về quá khứ trong giấc thôi miên kể trên thường được thí nghiệm trong những lớp giảng về khoa tâm lý ở trường Đại Học, và những sinh viên tâm lý học đã quen thuộc với hiện tượng ấy. Nhà bác học Pháp De Rochas hồi thế kỷ mười chín tuyên bố rằng với những kỹ thuật thụt lùi về dĩ vãng như đã kể trên, ông có thể nhớ lại những kỷ niệm đã qua trong quá khứ. Quyển sách của ông nhan đề "Những Kiếp Sống Liên Tục" (Les Vies Successives) không được coi như một quyển sách khoa học, nhưng có lẽ một ngày kia nó sẽ được hoan nghênh như một công trình tiền phong trên địa hạt tâm lý về thuyết Luân Hồi. Những quái trạng tâm lý được xem xét bằng hiện tượng Thần Nhãn của ông Cayce, giải thích tánh chất của trí nhớ và tiềm thức, và có vẻ xác nhận rằng tiềm thức con người thật ra còn thâm sâu hơn là những điều mà các nhà phân tâm học có thể hiểu. Một trong những quái trạng tâm lý lạ lùng nhất là sự sợ hãi. Những nhà phân tâm học định nghĩa điều này như là sự sợ hãi quá độ, mà nguồn gốc là do bởi nhiều tình trạng phức tạp gây nên. Sự sợ hãi dị thường này làm cho con người sinh lòng thù nghịch, gây hấn, hoặc cảm thấy mình có tội lỗi rất nặng nề. Những xúc cảm ẩn tàng này về sau biểu lộ dưới hình thức một sự sợ hãi vô lý và bất thường đối với một vài sự vật ở ngoại cảnh, thí dụ như sợ giông mưa, sấm sét, sợ dao, sợ nước... Có nhiều trường hợp; những kinh sợ đó được truy nguyên từ một việc xảy ra trong một kiếp trước, làm cho y bị đau khổ hay thiệt mạng.

Một thí dụ lý thú là trường hợp của một người đàn bà từ thuở thiếu thời đã sợ những gian phòng kín. Ngồi trong rạp hát, cô phải chọn một chỗ ngồi gần chỗ cửa đi ra. Ngồi trên xe buýt, nếu xe chật chỗ và quá đông người, cô bước xuống đợi chuyến xe khác. Trong những khi đi nghỉ hè, đi chơi ở miền núi, cô rất sợ chui vào những hang, động, hầm hố hay bất cứ chỗ nào bốn bể kín mít, không có ngõ ra. Người trong gia đình không ai hiểu lý do của thái độ lạ lùng này, vì không ai có thể nhớ lại hồi thuở nhỏ đã xảy ra việc gì làm cho cô có sự sợ sệt như vậy. Cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng trong một kiếp trước, cô chui vào một cái hang, thình lình hang sụp lở, bị đè bẹp dưới đống đá, sỏi, cát vụn, và chết ngộp. Ký ức về cái chết rùng rợn này ngày nay vẫn còn in sâu trong tiềm thức của cô.

Một thí dụ khác là trường hợp của một người đàn bà nọ có hai điều kinh sợ: Sợ dao bén và sợ những loài thú có lông, nhứt là những loài thú nhà. Cô nổi cơn hoảng loạn mỗi khi có một vật bén nhọn ở gần bên mình hay khi thấy ai xử dụng gươm dao... Cuộc soi kiếp cho biết trong một kiếp trước ở Ba Tư, người đàn bà này bị giết vì một lưỡi gươm trong lúc chạy loạn. Còn việc sợ thú có lông thì khó hiểu hơn, vì trong gia đình, người nào cũng có nuôi chó hay nuôi mèo, người anh của cô lại thích nuôi thú. Nhưng mỗi khi cô nhìn thấy con chó hay con mèo thì giựt mình kinh sợ như người gặp phải rắn độc. Hơn nữa, cô không khi nào mặc áo choàng bằng da thú, hoặc cổ áo may bằng lông thú. Những nhà tâm lý học có thể tìm căn nguyên sự sợ sệt của cô trong những sự giao tế với người trong gia đình, thí dụ như lòng ganh ghét đố kỵ đối với người anh ưa nuôi thú chẳng hạn, và giải đáp vấn đề ấy như là sự biểu lộ lòng căm thù nghịch của cộ Tuy nhiên, những cuộc soi kiếp truy nguyên sự sợ sệt này từ một kiếp trước ở châu Atlantide, khi đó cô đã trải qua một kinh nghiệm khủng khiếp về những loài vật có hình thù ghê rợn. Cuộc soi kiếp cũng đã giải thích nhiều quái tượng sợ hãi khác và truy nguyên ra từ những kiếp trước. Sự sợ hãi bóng tối của một người nọ được giải thích rằng trong kiếp trước, y là một chánh trị phạm dưới thời Louis 16 và bị giam cầm trong một đài cao ở Pháp cho đến khi chết bỏ xác trong ngục tối. Một người nữa sợ dao bén. Một người nữa sợ dao bén; đến lúc truy nguyên ra thì được biết rằng kiếp trước y đã trải qua một kinh nghiệm rùng rợn trong một phòng tra tấn ở Pháp, và đã bị tra khảo bằng những thứ hình cụ khủng khiếp, gồm cả sự tra tấn bằng hình cụ bánh xe (rouet). Một người nọ có những cơn hoảng sợ bất thần, dường như y cảm thấy rằng ngày tận thế sắp đến! Cuộc soi kiếp truy nguyên sự sợ sệt này ở một kiếp trước, vào thời kỳ một phần châu Atlantide bị sụp lở chìm xuống đáy biển. Trong khi đó y đang ngồi một mình trên một ngọn đồi cao để xem sách, thình lình cơn động đất làm rung chuyển trọn cả vùng chung quanh như trời long đất lở và y nhìn thấy nước biển dâng lên bốn phía chung quanh ngọn đồi của y.

Một người đàn bà kia sợ thú dữ một cách lạ thường. Kiếp trước ở La Mã, người chồng bị tội và bị bắt buộc phải đấu sức với loài thú dữ trong võ trường.

Hai người kia sợ nước một cách rất vô lý. Truy nguyên ra thì được biết rằng kiếp trước họ đi tắm sông, bị giòng nước xoáy cuốn đi và bị chết đuối. Một người nữa cũng sợ nước, được biết rằng quái trạng này là do bởi trong tiền kiếp hồi thời đế quốc La Mã, y đã bị đắm tàu chết đuối trong một cơn bão nổi lên ở giữa biển.

Khi chúng ta xét kỹ những trường hợp này theo quan điểm tâm lý thông thường, chúng ta có thể tự hỏi rằng phải chăng tất cả những thí dụ trên đây cũng có thể được giải thích một cách thỏa đáng bằng cách tìm ra một nguyên nhân trong kiếp hiện tại. Thí dụ, người đàn bà sợ ngồi trong phòng kín, có thể đã bị nhốt trong một phòng tối lúc lên bốn tuổi, nhưng ngày nay cô đã quên mất việc đó. Do sự khêu gợi trong giấc thôi miên, người ta có thể đào xới việc ấy trong ký ức đã lãng quên từ lâu và nhà tâm lý học có thể căn cứ trên tài liệu đó mà hiểu những vấn đề xúc động thường gây nên các chứng bịnh loạn thần kinh. Nhiều người đã có kinh nghiệm cùng một loại giống như trên, nhưng lại không có sự sợ hãi một các vô lý. Như vậy tại sao có người lại có sự thụ cảm đặc biệt đó? Nếu tất cả những người đã trải qua những cơn xúc động tình cảm đều đâm ra sợ ngồi trong phòng kín, thì trên thế gian, người thuộc về hạng này sẽ nhiều đến nỗi người ta phải đóng cửa tất cả phòng điện thoại, buồng ngủ, những gian phòng độc chiếc, và vài loại hộp đêm, như là những nơi hăm dọa sự thăng bằng của tâm hồ, trí não và sức khỏa công cộng.

Trong tập hồ sơ Cayce, vấn đề này được giải đáp như sau: Sự kiện rằng một đứa trẻ tỏ ra thụ cảm hơn một đứa trẻ khác trong một tình trạng xúc động tâm lý nhất định, có thể là do kinh nghiệm ở một kiếp trước. Hoàn cảnh tạo ra trong kiếp này là cái phương tiện làm thức động trở lại cái ấn tượng kinh khủng đã bị vùi lấp trong ký ức. Theo thuyết Luân Hồi, chúng ta thấy rằng tiềm thức cũng ví như một cái hộp có hai đáy, nó vốn thâm sâu hơn là người ta tưởng trong lúc bình thường. Vài nhà tâm lý học, nhứt là Carl Jung, cảm thấy rằng những lớp sâu thẳm trong tiềm thức cần được nêu ra để giải thích những quái trạng về tâm lý mà người ta không thể giải thích được bằng cách nào khác.

Theo quan điểm của ông Cayce, mỗi người đều có những ký ức tiềm tàng đột khởi từ một quá khứ xa xăm, do những kinh nghiệm của y đã trải qua trong những tiền kiếp. Tất cả những sự sợ hãi, thù ghét, thương yêu và những tình cảm vô ý thức của y đều là thành phần của một cái sản nghiệp tinh thần mà y tự để lại cho mình, chẳng khác nào như người ta tích trữ của cải ngày hôm nay để dùng lại cho một ngày về sau. Con người văn minh tân tiến ngày hôm nay đã từng là một người dã man mọi rợ trải qua nhiều kiếp trong dĩ vãng, và bởi đó, thật là một điều tự nhiên nếu y vẫn còn một vài thú tính mà y chưa tinh luyện và loại trừ. Trong cái dĩ vãng xa xăm đó, chính y đã từng trải qua những điều sợ hãi khủng khiếp trong rừng rậm, và những sự tàn nhẫn độc ác của loài người. Vậy thì thật là một điều tự nhiên nếu ngày nay, thỉnh thoảng y vẫn cảm thấy những cơn sợ hãi bất thường, vô lý, và những nỗi lo âu phiền muộn vô căn cứ. Chính y đã từng thương yêu, ghét bỏ hay đố kỵ nhiều người khác mà y tiếp xúc trong dĩ vãng: Vậy thì là lẽ tự nhiên nếu ngày nay y cũng lại cảm thấy đối với chính những người đó, đã cùng đầu thai lại trong kiếp này những mối thiện cảm, thương yêu hay thù hận, ghét bỏ một cách vô lý và không thể giải thích được lý do.

Những ký ức thuộc về kiếp trước có thể biểu lộ trong kiếp này bằng những phương tiện khác hơn là những sự sợ hãi hay những quái trạng tâm lý. Ông Cayce đã căn cứ trên thuyết Luân Hồi để giải thích hiện tượng về những giấc mộng tái diễn trở lại nhiều lần. Một thí dụ lạ lùng về vấn đề này là của một người đàn bà đưa ra câu hỏi sau đây: "Tại sao hồi thuở nhỏ tôi thường năm mộng thấy cảnh tận thế, với những luồng mây đen bao phủ và tiêu diệt cõi thế gian?" Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce trả lời rằng trong một kiếp trước ở châu Atlantide, người đàn bà ấy đã làm nghề giáo sĩ và y sĩ, và đã chứng kiến một trong những vụ thiên tai kinh khủng làm sụp đổ châu này dưới lòng biển sâu. Cái ấn tượng rùng rợn đó vẫn còn in sâu trong tâm hồn cô đến nỗi nó thường xuất hiện trở lại trong giấc ngủ trong kiếp này.

Một trường hợp lý thú khác là của một em gái nhỏ bốn tuổi, thường làm cho mẹ nó lo âu vì mỗi đêm nó đều giựt mình tỉnh giấc, khóc la bài hãi một cách vô cùng sợ sệt. Em nhỏ này đầy đủ sức khỏa và không có bịnh tật chị Mẹ nó bèn viết thơ cho ông Cayce để xin ông giải thích về quái trạng của đứa bé. Cuộc soi kiếp cho biết kiếp trước em chết bất đắc kỳ tử trong trong trận Thế Chiến Thứ Hai ở Pháp. Nhưng chỉ trong chín tháng sau, em đã đầu thai trở lại trong một gia đình ở Bắc Mỹ. Trong khoảng trung gian ngắn ngủi giữa hai kiếp sống, những kỷ niệm rùng rợn về chiến tranh binh lửa vẫn chưa xóa mờ trong ký ức của em và thường xuất hiện trong giấc ngủ.

Những trường hợp kể trên không khỏi làm cho chúng ta lại nêu ra câu hỏi về vấn đề trí nhớ. Nhiều người phản đối thuyết Luân Hồi thường đưa ra lập luận này, là nếu có Luân Hồi thì tại sao chúng ta không nhớ lại những kiếp trước? Điều này mới nghe qua thì dường như lạ lùng, nhưng thật ra nó không lạ gì lắm nhưng thật ra nó không lạ gì lắm nếu chúng ta cũng không nhớ được hết những việc gì đã xảy ra trong đời chúng ta lúc còn thơ ấu hay trong thuở thiếu thời. Trí nhớ của con người là một cái gì rất mỏng manh, tế nhị, và những sự việc trôi qua trong đời chúng ta chẳng khác nào như nước chảy giữa dòng, cho nên khi nói rằng ta không nhớ một việc gì, không có nghĩa là việc ấy không có xảy ra.

Nếu chúng ta hỏi một người bạn câu này: "Anh đã làm gì vào đúng 10 giờ 26 phút buổi sớm mai ngày 19 tháng 4 năm 1939?" Chúng ta có thể đem hết cả gia tài để đánh cuộc rằng y không thể nhớ từng chi tiết rõ ràng như y đã làm gì vào ngày hôm đó, y mặc y phục như thế nào, nói những chuyện gì, với ai... Việc y không nhớ rõ các việc đã xảy ra trong một ngày giờ nhất định trong đời của y, không có nghĩa là y đã không trải qua những giờ phút đó.

Bởi đó, sự phản đối thuyết Luân Hồi bằng những lập luận nói trên không thể đứng vững. Trước hết sự lãng quên là một hiện tượng rất thông thường và rất tự nhiên của con người. Sau nữa, trí nhớ có một tính chất rất đặc biệt là rất chóng quên phần chi tiết, mà chỉ giữ lại cái nguyên tắc đại cương. Thí dụ: Mỗi người có học thức đều có thể nói rằng 7 lần 7 là 49, và 12 lần 12 là 144. Y không nhớ rằng y đã trải qua những giờ mệt nhọc vất vả trong lớp học hồi thuở thiếu thời để làm những bài toán đó, nhưng khả năng suy tính và sự thông hiểu toán pháp hãy còn tồn tại trong trí óc của y.

Những sự hiểu biết khác của con người cũng được giải thích bằng cách đó, chẳng hạn như sự cẩn thận đề phòng khi ta đứng gần lửa, sự dè dặt và sợ chó khi bước vào nhà người lạ; khả năng về âm nhạc, khiêu vũ, hay sự thông hiểu, khéo léo của ta về bất cứ một ngành nào. Việc chúng ta biết đi biết đứng chứng tỏ rằng có một thời kỳ chúng ta đã tập đứng, tập đi, nhưng trong một vạn người, không có đến một người nhớ rõ những sự cố gắng vất vả khó khăn mà y đã làm từ thuở ấu thơ để có thể đi đứng tự nhiên được như bây giờ. Như vậy, sự lãng quên về phần chi tiết vẫn không làm mất đi trí nhớ về phần nguyên tắc, và tất cả những khả năng và đức tính của con người trên phương diện luân lý, trí tuệ, đạo đức tâm linh, đều là sự tổng hợp tất cả những kinh nghiệm mà y đã trải qua trong những tiền kiếp, mà ngày nay đã quên mất những chi tiết.

Lý luận thứ hai mà người ta dùng để phản đối thuyết Luân Hồi lại càng tế nhị hơn. Họ cho rằng tật không phải lẽ mà bắt buộc một cá nhân phải chịu trách nhiệm về những hành động mà một cá nhân khác đã làm. Họ cho rằng quả báo và sự trừng phạt chỉ có một ý nghĩa là khi nào kẻ phạm tội có ý thức được và nhìn nhận tội lỗi của ỵ Sự trả lời của Đao. gia về lập luận này căn cứ trên điều mà họ gọi sự liên quan giữa cá tính và linh hồn.

Linh hồn bất diệt ví như một tài tử ở ngoài vòng sân khấu, có thể nhớ rõ quá khứ, nhưng khi chuyển kiếp làm người, chẳng khác nào như người tài tử đóng một vai trò nhất định, thì sự mầu nhiệm của luật Thiên Nhiê khiến cho y không nhớ điều gì cả ngoài ra phần nguyên tắc đại cương của những kinh nghiệm mà y đã thâu thập được trong các kiếp trước. Ví như anh tài tử khi ngồi tại nhà có thể nhớ rõ tất cả những lớp lang của vở kịch Phụng Nghi Đình mà y đã đóng, nhưng trên sân khấu, khi y đóng một vai trò nhất định, chẳng hạn như vai Lữ Bố, thì y chỉ biết có một vai trò đó mà thôi chứ y không thể nghĩ đến vai trò khác. Cũng y như thế, linh hồn người chứa đựng ký ức của tất cả mọi sự đã xảy đến cho y trong những vai trò của các nhân vật mà y đã từng đóng ở các tiền kiếp. Lúc bình thường thì cá tính riêng biệt của y không nhớ được những kỷ niệm đó ngoại trừ khi nào y dùng những phương pháp đặc biệt và bất thường để rút lấy những kỷ niệm đó trong cái kho ký ức vô tận của linh hồn.

Lập luận chống thuyết Luân Hồi kể trên cho rằng thật là không phải lẽ và trái với luân lý nếu một người bị trả quả và đau khổ vì những hành động mà có lẽ y đã làm trong kiếp trước, nhưng ngày nay y đã quên mất, không còn nhớ gì nữa. Lập luận này không thể đứng vững, cũng chẳng khác nào như lý luận cho rằng việc một người lớn bị đau khổ vì những sự xung đột vô ý thức của y từ thuở ấu thơ, cũng không hạp với luân lý.

Sự lãng quên, nó che khuất dĩ vãng và chỉ cho chúng ta thấy có một phần hiện tại ngắn ngủi, là một điều cần thiết và che chở đối với chúng tạ Ngoài ra những thí dụ về việc sợ hãi vô lý và những giấc mộng tái diễn nhiều lần, người ta còn thấy trong những tập hồ sơ Cayce những quái trạng tâm lý khác nữa. Thí dụ như những ảo ảnh ẩn hiện chập chờn, trong nhiều trường hợp thường được truy nguyên từ những ký ức bất thường thuộc về kiếp trước. Có một trường hợp, cuộc soi kiếp cho biết rằng những trung tâm bí yếu trong thân người, tiếng Phạn gọi là Chakra (Luân Xa), tình cờ khai mở, làm cho luồng Xà hỏa (Kundalini) đi xuyên qua những Luân Xa và gây nên những ảo ảnh hay ảo giác. (Luồng xà hỏa Kundalini là một mãnh lực thần bí trong cơ thể con người nằm trong đốt cuối cùng của bộ xương sống và có liên quan trực tiếp đến bộ phận sinh dục và năng lực sáng tạo trong châu thân.)

Những cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết trong nhiều trường hợp, một sự rối loạn thần kinh có nhiều nguyên nhân hoàn toàn thuộc về thể chất, và đã được chữa khỏi một cách mầu nhiệm bằng các phương tiện sinh lý. Chúng ta đã thấy trong Chương 2, trường hợp của cô thiếu nữ được chữa khỏi bịnh loạn trí nhờ nhổ một cái răng cấm mọc ngược. Một thí dụ hiển nhiên khác là trường hợp của một người thư ký bưu điện bỗng nhiên đổi tánh một cách lạ thường và thình lình trở nên gây gỗ, buồn bực và hung bạo. Gia đình khuyên y đi khán bịnh và vào nằm bịnh viện để điều trị. Các bác sĩ tuyên bố rằng y bị chứng khủng hoảng thần kinh, và người ta bèn để y nằm riêng buồng kín. Vợ y yêu cầu ông Cayce dành cho y một cuộc khán nghiệm bằng Thần Nhãn. Cuộc khán nghiệm cho biết y đã bị té ngã nặng từ nhiều năm về trước, chạm mạnh vào xương hông làm đau tủy xương sống, và điều này đã phản ứng toàn bộ Thần Kinh Hệ. Ông Cayce khuyên y hãy điều trị bằng phương pháp nắn xương và trị bằng điện. Gia đình y nghe theo lời. Trong sáu tuần lễ, bịnh nhân đã bình phục trở lại như thường, và người ta để cho y tự do trở về nhà. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp loạn trí, cuộc khán nghiệm cho biết rằng bịnh nhân bị tà ma nhập xác ám ảnh. Xưa nay người ta vẫn tin rằng một vài chứng bịnh loạn thần kinh nguyên nhân là vì ma nhập. Những người đọc bộ Thánh Kinh đều biết rõ chuyện đấng Christ đã đuổi tà ma ra khỏi xác của một người điên, và những người Gia Tô giáo đều quen thuộc với vấn đề các vị Cố đạo Gia Tô vẫn tiếp tục thực hành những phép đuổi tà (exorcisme). Vấn đề này tự nhiên là hoàn toàn xa lạ đối với khoa Tâm lý học hiện đại, và những nhà chữa bịnh thần kinh ngày nay coi nó như một điều dị đoan đã lỗi thời. Tuy nhiên, nếu người ta chấp nhận rằng linh hồn người vẫn còn tồn tai. sau khi chết, thì không có lý do gì mà cho rằng những linh hồn bất hảo, lưu manh hồi còn sống ở thế gian, sau khi chết lại không ám ảnh, khuấy phá hay nhập vào xác một người khác.

Để chữa bịnh tà, ông Cayce thường dùng phép điều trị bằng điện, và khuyên bịnh nhân nên cầu nguyện, và tham thiền quán tưởng. Trong một trường hợp, người bịnh được chữa khỏi trong vài tháng, chấm dứt sự ám ảnh của những giọng nói thì thầm bên lỗ tai y, làm cho y sợ hãi đến phát bịnh. Trường hợp này là do quả báo gây nên: Trong kiếp trước bịnh nhân đã dùng tà thuật để ám hại kẻ khác.

13 - Quả Báo Đối Với Hôn Nhân
Vấn đề hôn nhân là một vấn đề phức tạp và khó khăn nhất trong đời người. Hôn nhân là một nguồn hạnh phúc vô tận nếu nó được thành tựu một cách mỹ mãn, nhưng nếu thất bại, thì đó là một nguồn đau khổ rất lớn. Hôn nhân đem đến cho ta những cái cực đoan về vinh nhục, sướng khổ của đời người, và giữa hai cái cực đoan đóm có cả một loạt những trạng thái trung gian, vừa khổ vừa sướng, vừa vinh vừa nhục.

Nói về phương diện pháp lý, hôn nhân là một hợp đồng sống chung giữa hai người nam, nữ. Về phương diện nhân sinh, đó là một sự phối hợp của nam và nữ tính, bản năng thúc đẩy của những nhu cầu sinh lý và tình cảm. Hội Thánh Gia Tô coi hôn nhân như một nghi thức thiêng liêng. Khoa tâm lý coi nó như một vấn đề xử thế và sinh hoạt. Kẻ ngông coi hôn nhân như một cái bẫy chuột mà chỉ có những thằng ngốc mới chui vào.

Theo một sự định nghĩa rộng rãi hơn căn cứ trên thuyết Luân Hồi, thì những quan điểm kể trên đều đúng, nhưng chỉ đúng có một phần. Nhà tâm lý học Linhk định nghĩa hôn nhân là khiếm khuyết và bất toàn cùng góp sức với nhau để tranh đấu cho hạnh phúc. Định nghĩa này sẽ gần sát hơn với quan điểm của nền Minh Triết cổ truyền, nếu tranh đấu cho hạnh phúc cũng là cố gắng để tự cải tiến lấy bản thân mình. Theo quan điểm rộng rãi này, thì hôn nhân là một cơ hội cho hai linh hồn bất toàn bổ khuyết và giúp đỡ lẫn nhau để thanh toán những món nợ nhân quả, rèn luyện những đức tính mới của linh hồn và tiến hóa trên đường tâm linh.

Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã nhiều lần xác nhận rằng không có một sự liên hệ quan trọng nào trong đời người mà lại do sự ngẫu nhiên tình cờ. Vấn đề hôn nhân càng chứng minh cho điều này một cách triệt để. Không có một cuộc hôn nhân nào bắt đầu từ con số không: đó là sự nối tiếp của một câu chuyện đã bắt đầu từ lâu. Các cuộc soi kiếp cho biết rằng bằng cách này hay cách khác, những người kết hôn thành vợ chồng đã có nhân duyên với nhau trong kiếp trước. Đó là một điều lý thú. Trong những cuộc soi kiếp, ông Cayce coi vấn đề hôn nhân như một điều tự nhiên của con người, và ông thường nói: "Ừ! Hôn nhân là một việc tốt. Đối với một linh hồn sống trên thế gian, đó là một cách sinh hoạt tự nhiên."

Có người hỏi: "Tôi có nên kết hôn trong lúc này hay không?" Ông Cayce đáp: "Lúc nào cũng nên, nếu anh chọn được người bạn trăm năm thích hợp. Điều đó tùy theo mục đích mà anh theo đuổi khi anh muốn kết hợp với người ấy."

Một gia đình ấm cúng, đó là hình ảnh của trạng thái điều hòa hạnh phúc mà tất cả mọi người đều mong muốn. Về điều này, ông Cayce tuyên bố như sau với một người mà ông soi kiếp cho: "Sự thành công của anh phải là cái tổ ấm, vì trên đời không có sự thành công nào lớn hơn nữa. Ít người được thành công về cả hai khía cạnh nghề nghiệp và hạnh phúc gia đình. Nhưng hạnh phúc gia đình mới là sự thành công lớn nhất, và người nào coi thường điều ấy sẽ tự tạo nên những trách nhiệm nặng nề về sau. Vì gia đình, tức là cái biểu tượgn gần nhứt đối với điều nguyện vọng rốt ráo của linh hồn trong tương lai: đó là một đời sống hạnh phúc trên Thiên Đàng. Bởi vậy, anh hãy làm sao cho gia đình anh là cái hình bóng của cõi Thiên Đàng hạnh phúc!"

Vì gia đình là nơi người ta cùng theo đuổi một mục đích chung với một mối tình thân hữu, nó là một cơ cấu thể hiện nhũng mối liên quan giữa con người với Tạo Hóa. Đó là bởi gia đình có một mục đích sáng tạo, khi mà những đơn vị gồm trong đó đều hợp nhứt với nhau trong một lẽ sống và một lý tưởng chung.

Những quan niệm trên đây không phải là mới lạ gì. Tuy nhiên, những cuộc soi kiếp trình bày một quan điểm vừa tự do vừa tân tiến đối với vai trò và định mệnh của phụ nữ. Có điều lý thú là vấn đề nam nữ bình quyền, và quyền tự do của phụ nữ trong việc sắp xếp cuộc đời của mình, được coi như vấn đề đương nhiên. Ý niệm về sự đương nhiên này biểu hiện rõ hơn trong những cuộc soi kiếp về những trường hợp mà đương sự phải chọn lựa một trong hai điều: Nghề nghiệp và hôn nhân. Thần nhãn của ông Cayce không chấp nhận quan niệm Phát xít và độc tài đặt để vai trò của phụ nữ là ở trong gia đình, thờ chồng và nuôi con.

Cũng như trong những cuộc khán bịnh, mà phương pháp điều trị không tùy nơi một đường lối duy nhứt, thì ở đây cũng thế. Không hề có một phép xử thế nhứt định cho tất cả mọi trường hợp về vấn đề hôn nhân. Những nguyên tắc tâm lý và đạo đức bao giờ cũng vẫn giống như thế nhưng sự diễn đạt bằng hành động cử chỉ có thể khác biệt nhau tùy trường hợp. Đối với vài phụ nữ, ông Cayce khuyên nên lập gia đình; nhưng đối với những người phụ nữ khác, ông lại khuyên họ nên theo đuổi một nghề nghiệp. Có vài người, ông khuyên họ nên hành nghề trước đã, rồi sau sẽ lo lập gia đình. Có người thì ông khuyên họ vừa lấy chồng vừa theo đuổi một nghề nghiệp. Đối với những người khác nữa, ông khuyên hãy chọn một trong hai điều; vì họ không thể phụng sự hai chủ cùng một lúc.

Một thiếu nữ 18 tuổi, có tánh e lệ rụt rè và bất mãn về cuộc đời, muốn biết xem cô có thể làm gì trong tương lai. Cuộc soi kiếp nhấn mạnh rằng trước khi nghĩ đến hôn nhân, cô nên làm một công việc có tánh cách săn sóc giúp đỡ các trẻ em. Cuộc soi kiếp cho biết: "Nếu linh hồn này tìm cách tiến hóa cho con đường hôn nhân, thì cô sẽ bị thất vọng đau đớn, trừ phi trước khi lấy chồng, cô đã có làm những công tác trợ giúp xã hội và săn sóc trẻ em." Cuộc soi kiếp nói thêm rằng cô có thể giúp các em gái nhỏ trong trại mẫu giáo hay một tổ chức tương tự.

Một nhà tâm lý học sẽ nhìn nhận rằng lời khuyên đó rất lành mạnh, theo quan điểm thuần tâm lý. Dạy dỗ các thiếu niên nhi đồng là những linh hồn kém kinh nghiệm hơn mình và làm việc chung với họ, là một phương tiện rất tốt để cởi mở và phát triển tâm tính. Sự chỉ huy và lãnh đạo kẻ khác giúp cho y mở đức tự tin, nếu không thì đức tính ấy không bao giờ có cơ hội phát triển. Hôn nhân có thể hoàn toàn thất bại nếu cô ấy chọn một người bạn trăm năm không xứng đôi vừa lứa, trong cơn tuyệt vọng của một tâm hồn khép chặt và cô đơn. Dầu cho cô được một người chồng xứng đôi, sự thất bại cũng vẫn có thể xảy đến nếu một trong hai người không có đủ sự hòa hợp cần thiết để đương đầu với những vấn đề thích ứng với hoàn cảnh và những sự căng thẳng mà hôn nhân tạo nên. Bởi vậy trong trường hợp này, phương pháp tốt nhất là hãy làm một công tác xã hội và theo đuổi một nghề nghiệp trước khi lập gia đình.

Trong một trường hợp khác, một thiếu nữ có khả năng được khuyên nên lập gia đình và đồng thời nên theo đuổi một nghề nghiệp; nhưng cô chỉ nên kết hôn với một người nào mà hoàn toàn thích hợp với cô mà thôi. Trong những kiếp trước, cô đã làm nhiều công việc khác nhau, và có khả năng về các ngành điêu khắc, làm đồ gốm, ngành dệât vải, cùng với khả năng âm nhạc và khiêu vũ,... Với cái di sản tài năng dồi dào đó, cô có đủ điều kiện trở nên một nhà lãnh đạo, và sau khi đã nêu rõ các điều kể trên, cuộc soi kiếp cho biết thêm: "Chúng tôi thấy rằng linh hồn này nên lập gia đình và đồng thời nên theo đuổi một nghề nghiệp, với điều kiện là nghề nghiệp đó phải giải thích ứng với người chồng mà y chọn lựa. Bởi vì nếu người chồng đó không phải là một người hoàn toàn thích hợp với y và góp phần xây dựng vào công việc mà y sẽ làm, thìsẽ có những sự bất đồng ý kiến và những sự thất vọng chua cay đến nỗi nó sẽ in sâu vào tâm hồn y những vết thương nguy hiểm."

Trái lại, dưới đây là trường hợp lý thú của một nữ tài tử trẻ đẹp vài tài hoa, cô ấy yêu một người, và muốn biết xem cô có thể vừa thành hôn vừa tiếp tục hành nghề tài tử của cô được không? Cuộc soi kiếp trả lời không úp mở rằng: "Không được! Linh hồn này có đủ những đức tính cần thiết để thành công hoặc trên sâu khấu hoặc trong gia đình; nhưng cô không thể thành công trong hai việc cùng một lúc. Vậy cô hãy tự chọn lựa lấy!" Xem xét tỉ mỉ những cuộc soi kiếp bề trên, thì người ta thấy rằng những lời khuyên luôn luôn nhắm mục đích dìu dắt đương sự hướng về việc phát triển tâm linh. Nếu một phụ nữ muốn theo đuổi một nghề nghiệp với những lý do ích kỷ như là muốn có nhiều tiền, quần áo đẹp, địa vị cao sang, quyền hành chỉ huy, danh vọng cá nhân... Thì nguồn tài liệu biết rõ cái tâm địa ấy và khuyên y nên hướng về việc lập gia đình. Lời khuyên này được đưa ra không phải vì lý do tình cảm hay theo tục lệ truyền thống về tánh cách thiêng liêng của gia đình và vai trò của phụ nữ. Nó được căn cứ trên quan niệm rằng cái nguyên động lực và mục đích là những tiêu chuẩn để xét đoán mọi hành động của con người; rằng một hành vi ích kỷ bao giờ cũng không bằng một hành động vị tha, và những trách nhiệm mà người ta phải gánh vác trong sự kết hôn và lập gia đình, dễ đưa con người ta tìm kiếm để thụ hưởng riêng một mình trong một vài loại nghề nghiệp.

Bởi vậy, ông Cayce thường khuyên nhiều phụ nữ, dầu rằng có tài năng, hãy nên tạo lập gia đình và nuôi con; vì đó là cái kỷ luật tốt nhất để giúp đỡ ch họ khai mở những đức tánh tâm linh mà họ còn thiếu sót, để thắng bớt lòng ích kỷ có ý thức hay vô ý thức trong kh họ theo đuổi một sự nghiệp. Một mặc khác, một vài phụ nữ tài năng có thể thành thật muốn đem khả năng của mình để phụng sự nhân loại. Đối với một phụ nữ thuộc về loại này thì một tổ ấm, một người chồng, một gia đình có thể là những chướng ngại cho sự phát triển đầy đủ những khả năng của họ. Bởi vậy ông Cayce thường khuyên họ hãy trì hưỡn việc lập gia đình một thời gian hoặc nên phối hợp việc hôn nhân với việc hành nghề cùng một lúc. Mục đích tối hậu, đối với những người độc thân cũng như đối với những có gia đình, là sự phát triển tâm linh; và dầu là đàn ông hay đàn bà họ đều là những linh hồn bất tử và có quyền chọn lựa một tình trạng gia đình thích hợp nhứt, có thể giúp họ theo đuổi sự phát triển tâm linh.

Ông Cayce coi cái quyền tự do sắp đặt cuộc đời của mình không những là một quyền hạn trên địa hạt xã hội mà còn là một cái quyền trên địa hạt vũ trụ. Nói theo danh từ triết học, thì cái quyền đó gọi là quyền tự do ý chí (libre arbitre), nó đã từng là một đầu đề tranh luận gay go sôi nổi trải qua nhiều thế kỷ. Một trong những điểm quan trọng nhất của thuyết Luân Hồi là nó nhấn mạnh về sự hiện hữu của quyền tự do ý chí. Một điều lầm lạc rất thông thường của những người tin tưởng ở thuyết Luân Hồi và Nhân Quả, là họ cho rằng số mạng con người đã được định saün từ trước.

Một sự tin tưởng sai lầm như thế có những hậu quả rất tai hại về mặt tâm lý và đạo đức tâm linh, vì nó làm xuống tinh thần và làm tê liệt ý chí tiến thủ của con người. Thái độ buông xuôi, thụ động của người Ấn Độ, là một dân tộc phần đông tin tưởng ở thuyết Tiền Định, đã chứng minh cho điều tai hại của sự lầm lạc kể trên. Chúng ta nên biết rằng mỗi cái hắt hơi, mỗi vết muỗi cắn, hoặc mỗi lần dự tiệc, không phải là đã tiền định hằng bao nhiêu thế về trước. Phần nhiều những chi tiết về cuộc đời chúng ta đều hoàn toàn do chúng ta định đoạt bằng tư tưởng và ý chí ngay trong lúc hiện tại. Thật ra, tất cả những sự việc xảy ra trong đời chúng ta, từ việc quan trọng như việc hôn nhân đến việc nhỏ mọn như việc ăn một cái kem chẳng hạn, đều do chúng ta định đoạt. Những sự khó khăn trắc trở nó đè nặng lên vai chúng ta bây giờ đều là kết quả của những lỗi lầm mà chúng ta đã gây nên trong quá khứ do sự định đoạt của chính mình. Những sự khó khăn đó dường như đến với chúng ta từ bên ngoài, bởi vì chúng ta đã quên những hành động của ta trong dĩ vãng và tầm nhỡn quang của chúng ta quá ngắn ngủi nên chúng ta không thể nhìn thấy sự liên quan giữa những hành động đã qua với cuộc đời chúng ta trong lúc hiện tại. Như thế nếu chúng ta hiểu rõ định luật Luân Hồi, thì sự tranh luận giữa hai vấn đề tự do ý chí và định mệnh đã được giải quyết. Chúng ta sở hữu quyền tự do ý chí chẳng khác nào như một con chó bị buộc dây nơi cổ; nói một cách khác, con chó được hoàn toàn tự do đi đứng, chạy nhảy tùy theo ý muốn trong cái tầm của sợi dây dài hay ngắn. Cũng y như thế, luật Nhân Quả định đoạt cái tầm sợi dây dài hay ngắn của mỗi người trong chúng ta; chúng ta được hoàn toàn tự do trong cái tầm giới hạn đó. Vấn đề tự do ý chí này kêu gọi sự chú ý của những người khảo cứu các tập hồ sơ soi kiếp của ông Cayce về vấn đề hôn nhân và nhất là những cuộc soi kiếp cho những người đưa ra những câu hỏi về bạn trăm năm của mình sau này. Các cuộc soi kiếp luôn luôn cho biết rằng việc hôn phối giữa hai vợ chồng là do những sợi dây duyên nghiệp tạo nên; tức là những cặp uyên ương sắp sửa đi đến hôn nhân đều là những người quen nhau từ kiếp trước, nhưng họ đã quên và ngày nay họ gặp nhau trở lại để cùng thanh toán những món duyên nghiệp nợ nần chung giữa hai người.

Tuy nhiên, trong vấn đề hôn nhân cũng như trong tất cả mọi vấn đề khác, luôn luôn vẫn có quyền tự do ý chí và tự do chọn lựa. Dầu cho giữa hai người có một sợi dây duyên nghiệp nó biểu lộ bằng một sự hấp dẫn mãnh liệt, sự phối hợp của họ trong lúc hiện tại không phải luôn luôn là cần thiết hoặc nên khuyến khích. Dưới đây là hai cuộc vấn đáp ngắn để diễn tả sự việc kể trên:

1. - Hỏi: Tôi có nên kết hôn với anh chàng trai trẻ đang tỏ tình với tôi lúc này chăng?

Đáp: Hai người vốn có duyên nghiệp với nhau từ trước. Nhưng tốt hơn cô đừng nên làm hôn phối với y.

2.- Hỏi: Cuộc hôn nhân của tôi với F.S. Có thể giúp cho sự phát triển chung của chúng tôi chăng?

Đáp: Có thể được, nhưng chúng tôi thấy rằng có nhiều người khác mà cô có thể phối hợp để cùng nhau phát triển một cách điều hòa và phát triển hơn nữa. Đó là những người mà kiếp trước cô đã có tạo nghiệp duyên từ hồi thời kỳ văn minh cổ Ai Cập. Dầu sao, sự chọn lựa phải là ở tự nơi cộ Thật ra, cô có một món nợ nghiệp duyên với F.S. Mà cô cần phải trả cho dứt, nhưng phương tiện dở nhứt là kết hôn với y!

Khi mà ông Cayce ngăn cản một cuộc hôn nhân, dầu cho trong những trường hợp hai người có dây duyên nghiệp với nhau, người ta có thể giải thích bằng nhiều cách. Trước hết, có thể rằng trong kiếp này những người ấy cần phải học những bài học kinh nghiệm khác, quan trọng hơn là sự liên hệ giữa vợ chồng. Cũng có thể rằng một người, hoặc cả hai, đều chưa đủ chuẩn bị saün sàng để đối phó với vấn đề hôn nhân. Hoặc cũng có thể rằng cuộc hôn nhân trù liệu là một hành phạt quá nặng nề đối với sự lỗi lầm trước kia của đương sự. Và sau cùng, cũng có thể rằng hai người trong cảnh xa nhau, sẽ học bài tâm linh đó một cách hữu hiệu hơn là trong sự sum họp vợ chồng.

Những cuộc soi kiếp thường không nói rõ lý do vì sao trong mỗi trường hợp, đương sự nên đi đến hôn nhân hay là không nên. Dẫu cho trong những trường hợp mà hôn nhân được coi như một giải pháp tốt đẹp, ông Cayce cũng để cho đương sự hãy tự quyết định lấy. Ông ít khi nào đưa ra một quyết định thế cho người trong cuộc. Thái độ căn bản đó đã hiện rõ ràng trong trường hợp dưới đây của một cặp uyên ương đến hỏi ý kiến ông về việc họ có nên kết hôn với nhau chăng? Cuộc soi kiếp cho biết rằng họ đã cùng nhau trải qua hai lần kinh nghiệm về việc vợ chồng, một lần ở Ba Tư và một lần ở Ai Cập. Đó là cái lý do của sự hấp dẫn mãnh liệt nó thu hút hai người lại với nhau trong kiếp này. Về cuộc hôn nhân của họ, cuộc soi kiếâp không nói dứt khoát, mà cho biết rằng: "Nếu giữa hai người có một sự hòa hợp về lý tưởng và mục đích, thì hôn nhân có thể là một kinh nghiệm tốt đẹp."

Người thiếu nữ hỏi ông câu này: "Mỗi người trong chúng tôi có thể kết hôn với một người nào khác mà lại có hạnh phúc nhiều hơn là nếu hai chúng tôi kết hôn với nhau chăng?" Ông Cayce đáp: "Nếu cô hỏi như thế, tôi có thể trả lời bằng cách đưa ra cho cô danh sách của hai mươi lăm hay ba mươi người khác. Còn đi đến hôn nhân hay không, thì đó là vấn đề mà cô hãy tự giải quyết lấy."

Trong vài trường hợp, lời khuyên được đưa ra một cách dứt khoát như sau:

Hỏi: Tôi có nên lập gia đình với người đàn ông đã làm lễ đính hôn với tôi chăng?

Đáp: Không nên!

Tuy nhiên, trong phần nhiều trường hợp, cuộc soi kiếp vẫn để cho đương sự được hoàn toàn tự do lựa chọn. Nhưng đồng thời, ông Cayce cũng đưa ra những tiêu chuẩn để dìu dắt đương sự trong việc chọn lựa đó. Một người đàn ông hỏi: "Cô M.L. Có thể là người vợ hiền và xứng đôi với tôi chăng?" Ông Cayce đáp: "Điều đó phải tự Ông quyết định, chớ không phải tôi! Ngoài ra sự thích hợp với nhau về phần trí não và thể chất, giữa hai người có sự hòa hợp về khía cạnh tâm linh hay không? Hai người có cùng chung một lý tưởng một mục đích hay không? Nếu không, thì này ông bạn hỡi... Hãy coi chừng?"

Trong thí dụ sau đây, một người đàn bà hỏi rằng trong bốn người đàn ông muốn thành hôn với cô, cô nên chọn lựa người nào? Cuộc soi kiếp cho biết: "Điều đó tùy ở nơi lý tưởng mà cô theo đuổi. Mỗi người trong số bốn người đã có liên hệ với cô trong quá khứ, có người thì giúp đỡ nhưng có người lại làm chướng ngại cho bà. Nếu tôi khuyên cô nên tránh người nọ, hoặc nên chọn người kia, thì tức là đặt cô ở vào một vị trí sai lầm, và cũng đặt luôn cả những người kia ở cái vị trí đó nữa. Chính cô phải lựa chọn lấy, và cái tiêu chuẩn phải là hướng về một cuộc đời phụng sự. Cô hãy nhớ rằng tất cả mọi người đều tự dọ"

Căn cứ vào những tài liệu kể trên, người ta có thể suy diễn ra cái nguyên tắc chọn lựa người bạn trăm năm của mình. Người ta có thể nói rằng phần nhiều những cuộc hôn nhân đều căn cứ trên sắc đẹp và sự hấp dẫn của thể xác. Theo quan điểm những cuộc soi của ông Cayce, thì sự hấp dẫn về phần trí tuệ và sự hòa hợp tinh thần. Một cuộc hôn nhân có hạnh phúc phải căn cứ trên cái nền tảng tam giác đó, cũng như trên ba cái chân vạc vững chắc. Nếu một trong ba khía cạnh đó bị thiếu sót, thì cuộc hôn nhân ấy bị què hết một chân! Lý tưởng của một người phải tương xứng, hoặc ít nhất là xấp xỉ bằng nhau với cái lý tưởng của người bạn trăm năm, trên mỗi phần của ba phương diện nói trên; nếu không thì ngy cơ sụp đổ và thất bại chua cay đang rình rập hầu kề một bên. Kết hôn một cách vội vàng cẩu thả, không suy nghĩ chín chắn về những điều quan trọng kể trên, tức là tự chuốc lấy điều tai họa, khó khăn trắc trở vậy.

Khi chúng ta cảm thấy một sự hấp dẫn mãnh liệt đối với một người khác phái, chúng ta hãy cẩn thận đề phòng. Cẩn thận tức là phải nhìn thấy xa để khỏi tưởng lầm rằng một sự hấp dẫn thể chất và dục tình sẽ trở nên một cuộc hôn nhân hạnh phúc, và coi chừng kẻo lại vô tình mà châm lửa vào cái ngòi thuốc súng của một tình trạng quả báo sắp sửa nổ bùng!

14 - Những Thiếu Phụ Cô Đơn
Khi người ta xét vấn đề hôn nhân theo quan điểm Luân Hồi với những nhân quả, nghiệp duyên từ những kiếp quá khứ xa xôi, người ta không khỏi tự hỏi rằng tại sao có những người lại sống cô đơn mà không lập gia đình? Có nhiều phụ nữ, mặc dầu họ có một dung nhan khá đẹp và những tính nết bình thường, nhưng cơ hội kết hôn không bao giờ đến với họ. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã giải thích vấn đề này như thế nào?

Có một câu tục ngữ Pháp nói về vấn đề hôn nhân như sau: "Hôn nhân cũng ví như một thành trì bị bao vây: Những người ở ngoài thì muốn sấn vào, còn những người ở trong thì muốn chạy ra!" Câu này tuy có vẻ trắng trợn, nhưng lại rất đúng. Hôn nhân đã làm cho nhiều người đau khổ, đến nỗi người ta phải ngạc nhiên mà thấy rằng vẫn còn có rất nhiều những kẻ muốn lọt vào lòng, không màng nghĩ đến những điều hăm dọa của nó đối với sự yên tĩnh của tâm hồn, và chỉ nhìn thấy những điều vui sướng mà nó hứa hẹn! Mặc dầu người ta đã biết rằng hôn nhân có những sự khó khăn đau khổ như thế, nhưng những người độc thân nói chung thường cảm thấy rằng họ thiếu mất một cái gì quý báu, và cảm thấy đời sống khô khan, vô vị: Họ đã bỏ lỡ một cuộc đời!

Tự nhiên là trong tình trạng đó, yếu tố tình dục đóng một vai trò quan trọng. Sống độc thân, ít nhất ở những xứ gọi là "Văn minh" có nghĩa là hoàn toàn tiết dục, hay tiết dục một cách tương đối với người đàn ông. Ở xã hội Tây Phương ngày nay, sống độc thân, nhất là đối với người đàn bà, là một sự "Lỗi thời" và là một điều "Bất hạnh". Những trường hợp kể ra dưới đây đều là những trường hợp của phụ nữ, vì trong các tập hồ sơ Cayce, phụ nữ tỏ ra băn khoăn thắc mắc về vấn đề này nhiều hơn đàn ông, và những trường hợp đau khổ của họ cũng rõ rệt hơn.

Cô đơn! Có một cái gì tẻ lạnh ở trong danh từ này, một cái gì buồn thảm không thể nói ra cho xiết. Cũng như câu "Hội ngộ lần cuối cùng" có lẽ là câu nói buồn nhất trong ngôn ngữ của những kẻ yêu đương, thì câu "Tôi sống độc thân" có lẽ là câu nói buồn nhất mà một người thốt ra về cái hoàn cảnh của mình. Nếu không có một sự soi sáng tâm linh để giải pháp cho vấn đề này, thì sự độc thân có lẽ là một trong những vấn đề khó khăn, tẻ lạnh nhất của đời người.

Dưới đây là trường hợp của một người đàn bà luôn luôn cảm thấy khổ sở vì phải sống một cuộc đời quạnh hiu, đơn chiếc. Cô là một người đàn bà Na Uy rất đẹp và duyên dáng, và làm thơ ký ở New York. Cô đã trải qua hai đời chồng, người chồng trước qua đời sau khi thành hôn qua một thời gian rất ngắn; sau đó tái giá một người khác lớn tuổi hơn nhiều, những cuộc hôn nhân này lại không có hạnh phúc, và cuộc ly dị đã đến rất mau. Cô không có con, tất cả những người thân trong gia đình đã qua đời, và chỉ còn trơ trọi có một mình. Nghề làm thư ký giúp cho cô có cơ tiếp xúc với nhiều người, nhưng đó chỉ là những sự xã giao bề ngoài. Cô ước mong tái giá lần nữa, nhưng dịp may không thấy đến và nay chỉ sống cô đơn. Khi yêu cầu ông Cayce soi kiếp, những câu hỏi của cô biểu lộ một tâm sự buồn thảm và đau thương: "Tại sao tôi lại bị cô đơn tẻ lạnh như vầy? Có một lý do đặc biệt nào khiến cho tôi không thể tìm thấy một tấm lòng bầu bạn tri kỷ trong hôn nhân? Tại sao tôi lại bị thất bại như vầy?" Cuộc soi kiếp cho biết rằng tình trạng cô độc này có một nguyên nhân sâu xạ Hai kiếp về trước ở Na Uy, cô đã làm một việc lầm lạc tai hại nó gây nên cái tình trạng bi đát hiện nay: Cô đã tự tử trong một cơn thất chí! Trong kiếp trước đó, cô là mẹ của hai đứa trẻ nhỏ và chồng cô vì một lý do nào đó, bị trục xuất ra khỏi làng. Sau khi sinh con thứ hai, cô quá thất vọng và nhảy xuống vực sâu tự tử. Cuộc soi kiếp nói: "Bởi đó trong kiếp này, cô thường có những lúc hiu quạnh, sầu thảm, hầu như không thể chịu nổi!"

Quả báo trong trường hợp này thật là rõ rệt. Trong một lúc thất vọng, người đàn bà này đã tự tử, làm cho chồng con bị thiếu mất đi cái tình trìu mến săn sóc mà họ cần nơi người vợ và người mẹ. Cô đã không đếm xỉa đến bổn phận gia đình, tinh thần danh dự và trách nhiệm đối với chồng con, và bởi đó cô tạo nên cái hoàn cảnh bơ vơ lạc loài trong kiếp này. Chỉ khi nào người ta bị thiếu thốn tình cảm, thì người ta mới biết cái giá trị của nó. Đó là một trường hợp đáng cho ta suy gẫm. Nó không những xác nhận sự minh triết của Hội Thánh Gia Tô về việc cấm đoán tự tử như một tội nặng, mà còn biểu dương sự thật này là chúng ta phải trả lời về mọi hành vi của mình, mọi cử chỉ lãnh đạm, thản nhiên, bơ thờ, khinh bạc, mọi sự lạm dụng và hành vi trái đạo của mình trong đời sống hằng ngày.

Trường hợp cô đơn dưới đây cũng gần giống như trường hợp trên, tuy rằng với những chi tiết khác hẳn. Đó là một người đàn bà Anh, dạy học ở một trường mẫu giáo và rất mong muốn lập gia đình. Cha mẹ đã qua đời từ khi cô còn nhỏ; cô được các bà dì nuôi nấng, nhưng trong một bầu không khí lãnh đạm khô khan và nghiêm khắc, mà kết quả là làm cho cô không thể hài hòa với những người cùng đồng một lứa tuổi. Suốt đời cô cảm thấy cô độc đơn chiếc, cách biệt với mọi người, và những khuynh hướng của một tâm hồn khép chặt đã biểu lộ nơi cộ Cô đã trải qua một cuộc tình duyên, nhưng đó chỉ là một sự hấp dẫn về thể chất, và mối tình này đã chấm dứt khi sự khác biệt nhau về tâm tính với người yêu càng ngày càng biểu lộ rõ rệt.

Từ đó trở đi, cô cảm thấy cuộc đời dường như trống rỗng và vô vị. Cô làm việc sốt sắng và thành công về phương diện nghề nghiệp; thông minh lanh lợi và biết giúp đỡ người khác. Tuy nhiên, thỉnh thoảng có những lúc cô đắm chìm trong một cơn thất vọng sầu thảm, kéo dài nhiều tuần và khó nguôi. Trong những cơn khủng hoảng đó, cô thường nghĩ đến sự tự vẫn. Người ta không thể tưởng tượng rằng một người đàn bà vừa có nhan sắc vừa khôn ngoan lại có thể bị những cơn thất chí buồn bực sâu xa như thế.

Cuộc soi kiếp cho biết rằng bốn kiếp trước, cô sống ở Ba Tư và đã tự tử kh những bộ lạc Ả Rập tấn công xứ này. Trong kiếp đó, cô là con gái của một người tù trưởng trong xứ, và bị bắt làm tù binh của vị vương quốc Ả Rập, cùng một lượt với những người khác. Sau đó, cô bị đem gả làm hầu thiếp cho một viên phó tướng Ả Rập, sinh hạ một đứa con gái, và sau đó ít lâu bị mất trí nên tự vẫn. Đứa con gái nhỏ sống vất vưởng không người nuôi dưỡng giữa bọn tướng giặc, cho đến một khi có một vị giáo sĩ đi hành hương thấy vậy bèn động lòng trắc ẩn đem em bé ấy về nuôi cho đến khi lành mạnh. Cuộc soi kiếp cho biết rằng người mẹ đã tự tử chỉ vì không thể chịu khuất phục theo ý muốn của người khác; và "Linh hồn này đã thất bại trong sự thử thách đó, cô tự tử chỉ vì muốn thỏa mãn lòng tự kiêu của mình, chứ không phải vì lý do tự vệ để bảo tồn trinh tiết, hay giữ gìn lý tưởng." Cuộc soi kiếp không cho biết rằng người đàn bà có tâm địa kiếu căng, ngã mạn, tự tôn và thà rằng cô tự hủy mình chớ không chịu bị đè nén khuất phục, mặc dầu y còn có một trách nhiệm với đứa con gái nhỏ mới sinh ra.

Xét về tâm tính của cô trong kiếp này, nó biểu lộ dưới những cử chỉ tự do và hiên ngang như đàn ông, người ta sẽ hiểu rằng có lẽ cái thói tự kiêu của cô trong kiếp sống ở Ba Tư, chính là điều chướng ngại ngăn cách cô với phái đàn ông trong kiếp hiện tại. Chính sự thiếu mềm dẻo, tế nhị, sự cứng cỏi ương ngạnh của cô làm cho bọn đàn ông tránh xa và không muốn làm thân.

Điều lạ lùng là trong kiếp này, cô luôn luôn mong muốn có con. Nếu các bà dì của cô không ngăn cản, thì có lẽ cô đã nuôi một đứa con nuôi từ lâu. Có một điều cô mang theo từ kiếp trước, là cô thường nghĩ đến sự tự vẫn. Từ khi có cuộc soi kiếp đưa đến sự giải thích hợp lý về tình trạng của cô, cô không còn coi sự tự vẫn như một lối thoát nữa, vì hiểu rằng những gì mà cô muốn trốn tránh trong lúc hiện tại, sẽ trở lại với cô trong một tương lai về sau.

Tuy thế, trong một cuộc soi kiếp nữa, cô được biết rằng cô còn có thể hy vọng một cuộc hôn nhân trong kiếp này, nhưng vào lúc quá tuổi xuân; và trong khi chờ đợi, cô nên giúp đỡ bằng mọi cách những người mà cô tiếp xúc trong đời sống hằng ngày. Khi hỏi rằng còn bao lâu nữa cô mới có được cái hạnh phúc đó, thì được trả lời rằng: "Khi nào cô tỏ ra xứng đáng thì điều đó sẽ đến." Có những lúc khác, cô được biết rằng hiện nay cô đang ở trong một thời kỳ thử thách. Khi cô hỏi: "Tại sao trong khoảng năm năm vừa qua, cô không hề gặp được một người đàn ông nào?" thì câu trả lời đó là: "Đó là để thử thách cái mục đích chính của cô trong kiếp hiện tại."

Trên đây là hai trường hợp mà sự tự tử và bỏ con cái bơ vơ trong kiếp trước đã gây nên cái quả báo cô đơn tẻ lạnh, và thất vọng trong sự mơ ước thành lập gia đình trong kiếp này. Trong những tập hồ sơ Cayce, còn có một trường hợp thứ ba; đó là của một nữ giáo sư âm nhạc ở tiểu bang Texas, Hoa Kỳ; bà này cũng ở trong một tình trạng tương tự với những lý do giống nhau: Cô đã tự tử trong kiếp trước dưới thời kỳ quân chủ ở nước Pháp.

Tuy nhiên người ta không thể căn cứ vào ba trường hợp để đi đến một kết luận chung về quả báo của những người bị sống trong cảnh cô đơn, độc chiếc, mà sự tự tử có lẽ là nguyên nhân gây ra trong kiếp trước. Ông Manly Hall, tác giả quyển "Luân Hồi: Một lẽ Tuần Hoàn Cần Thiết Của Đời Người," nói rằng quả báo của sự tự vẫn là trong kiếp sau, đương sự sẽ bị chết vào lúc mà y ham muốn sống và yêu đời nhất. Trong các hồ sơ Cayce, không thấy có trường hợp nào xác nhận điều đó, nhưng xét ra thì nó rất hợp lý.

Tuy nhiên, sự cô đơn và không chồng trong kiếp hiện tại có thể có nhiều nguyên nhân khác. Thí dụ như trường hợp dưới đây cho ta thấy có một lý do khác hẳn. Xét về trường hợp này, người ta nghĩ đến câu nói của ông Oscar Wilde: "Trong đời chỉ có hai điều khổ: điều thứ nhất là muốn mà không được; điều thứ hai là: được như ý muốn!"

Câu nói mâu thuẫn lạ kỳ này căn cứ trên sự kiện rằng con người vì bởi vô minh nên thường xét đoán sai lầm giá trị của cuộc đời. Những chuyện đời xưa kể chuyện một bà tiên cho một người kia được đưa ra ba điều ước nguyện rồi y sẽ được như ý muốn. Câu chuyện ấy chỉ cho chúng ta thấy rằng con người thường có những ước vọng dại dột điên rồ, và phải gánh chịu lấy hậu quả tai hại của sự dại dột ấy. Câu chuyện ấy có một ý nghĩa tượng trưng rất thâm trầm về hai sự kiện này: Một là phần đông người đời không biết rõ họ muốn gì; và hai là sự đau khổ của con người là phần nhiều do bởi những sự ước vọng sai lầm, vì thiển kiến, vô minh, và thiếu óc sáng suốt.

Trường hợp sau đây đã xảy ra hồi thời kỳ ở châu Atlantide, và đương sự hãy còn chịu sự quả báo ở kiếp này. Đó là một người đàn bà độ 40 tuổi, có một thân hình nặng nề và thô kệch, nhưng điều này một phần lớn là do bởi sự thiếu thể dục và sinh hoạt cẩu thả. Bà không bao giờ dùng đồ trang sức; quần áo mặc cũng rất xuề xòa, không theo thời trang. Bà chọn y phục theo tiêu chuẩn tiết kiệm và ích lợi hơn là để chưng diện và làm đẹp. Bà có những nét mặt đều dặn và nếu được săn sóc ở mỹ viện thì bà có thể trở thành một phụ nữ rất đẹp. Ngoài ra bà cũng có những cử chỉ duyên dáng, mặn mà, dễ thương. Trình độ văn hóa chỉ đến mức tiểu học; bà làm việc trong các nhà máy và làm việc thủ công để nuôi thân. Trong một cuộc trắc nghiệm tâm lý, bà có điểm cao nhất về mặt giao tế xã hội và tôn giáo, vì những thích thú lớn nhất của đời bà là đọc các sách Thánh Kinh tôn giáo, và làm việc cứu tế xã hội dưới một hình thức nào đó. Tuy vậy, bà vẫn sống một cuộc đời cô độc, đơn chiếc. Những người trong gia đình không ai cùng chia sẻ những quan niệm của bà về tôn giáo; trong đời bà, bà không hề biết có gì gọi là hương vị ái tình, hay tình yêu lãng mạn.

Nói về quan điểm tâm lý, người đàn bà này thuộc về một trường hợp rõ rệt của sự "Phản ứng nam tính" (Protestation masculine), nghĩa là từ chối hay phủ nhận vai trò nữ tính của mình. Sự phản ứng này biểu lộ rõ rệt trong cái thái độ hiếu chiến và chống đối những gì thuộc về nữ tính của bà; thí dụ như việc không chịu trang điểm hay làm đẹp để hấp dẫn bọn đàn ông. Khoa tâm lý học có thể đưa ra một giải thích về thái độ đó, nhưng sự giải thích này vẫn còn hãy rất thiếu sót. Cuộc soi kiếp bằng Thần Nhãn của ông Cayce đã đưa ra sự giải đáp cho vấn đề này.

Trong kiếp cuối cùng của bà vừa rồi, bà là một thân nhân của Thánh Jean Bastiste, và nhờ đó bà sinh trưởng trong một bầu không khí đạo đức thâm nghiêm. Điều đó cũng là cái nguyên nhân làm cho bà có khuynh hướng tín ngưỡng tôn giáo trong kiếp này. Trong tiền kiếp kế đó, bà sinh làm đàn ông ở xứ Palestine thời cổ, tại đây y làm nghề thợ mộc và thợ đồng; điều này dường như đã để lại cho bà những quan niệm thực tế và những khả năng về máy móc trong kiếp hiện tại. Trong kiếp trước nữa, bà là một người đàn bà có địa vị cao ở châu Atlantide, tại đây, một mối tình dang dở trong đời đã đem đến cho bà một sự xáo trộn tinh thần và nhiều đau khổ. Kết quả là "Inh hồn này quyết định từ nay về sau sẽ không bao giờ yêu một người nào có thể làm cho bà bị thất vọng và gây cho bà những vết thương lòng." Và đó là cái nguyên nhân làm cho bà quyết định sống tự do ngoài vòng trói buộc và đau khổ của tình trường. Bởi đó, tình trạng độc thân và đơn chiếc của bà trong kiếp này không phải là do quả báo gây ra. Trong trường hợp này không có sự liên hệ về nhân quả như trong những trường hợp tự tử đã kể trên, mà chỉ có sự hành động của nguyên tắc liên tục, nó tùy nơi sức mãnh liệt của sự ham muốn. Ngày xưa, bà đã quyết định thái độ là sẽ không bao giờ yêu ai, nhất là không để cho tình cảm lôi cuốn bà đến bọn đàn ông. Bà có quyết định này, không phải do một điều ước nguyện tâm linh hay do lòng bác ái; mà là do ý muốn của bản ngã, quyết không bao giờ để cho bị hạ thấp nhân cách của mình vì ban rải tình yêu cho kẻ khác. Trong giai đoạn trung gian, bà không bao giờ tìm thấy có lý do nào để thay đổi thái độ. Và ngày nay, bà phải chịu những hậu quả hợp lý cua cái quyết định đó, cho đến khi nào bà có thể thay đổi ý định và thái độ xử thế về vấn đề này.

Cuộc soi kiếp không cho biết rõ rằng bà có hy vọng thành hôn hay không trong kiếp này. Nhưng ít nhất, bà đã cố gắng để có thể đem sự săn sóc và tình thương cho kẻ khác. Vì thiếu tình yêu, bà mới nhận thấy cái giá trị của nó. Trong sự cô đơn, bà đã thấy sự chai lòng, sắt đá của mình xưa kia là một điều tội lỗi cần phải được sửa đổi.

Nhà tâm lý học Carl Jung nói rằng mỗi người đều có đủ hai phần nam tính và nữ tính trong bản chất của mình, nhưng cái nọ có phần trội hơn cái kia, tùy theo trường hợp riêng của mỗi người. Linh hồn người hàm xúc những khả năng tiềm tàng chưa khai mở thuộc về phái đối tượng. Sự kiện tâm lý này, mà ông Carl Jung đã khám phá sau nhiều năm khảo cứu tìm tòi, hoàn toàn phù hợp với quan niệm trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce về nguồn gốc và sự tiến hóa của con người. Nam và Nữ đều có những đặc tính riêng; đại khái như uy lực, cương cường, tranh đấu, hung bạo, thuộc về nam tính; sự hiền từ, dịu dàng, mềm mỏng, thụ động, thuộc về nữ tính. Người thuần Nam tính là một người rất thiếu sót và bất toàn. Bởi đó y cần được bổ khuyết bằng những đức tính thuộc về phái Nữ. Trong hôn nhân, hai tính nam và nữ đều bổ trợ cho nhau đến một mực độ nào đó, do sự hội hiệp của những đức tính tương phản nhau. Trong một cặp vợ chồng, mỗi người đều dung hòa, bổ khuyết, sửa đổi lẫn cho nhau. Nhưng sự sửa đổi này vẫn hãy còn bất toàn. Trong một kiếp sống ở thế gian, một người trội hơn về phần Nam tính không đủ dung hòa bằng những đặc điểm nữ tính của người vợ y, và trái ngược lại. Nhưng nhiều kiếp sống liên tục làm đàn ông và đàn bà giúp cho con người có những kinh nghiệ bổ trợ dung hòa lẫn nhau. Một lần nữa, thuyết Luân Hồi đưa đến cho ta một giải đáp về các vấn đề khó khăn: Chính do nhiều kiếp luân hồi sinh tử mà con người mới có thể phát triển tâm linh một cách hoàn toàn.

Bất luận rằng những nguyên nhân của sự cô đơn hiu quạnh là như thế nào, dầu cho đó là sự tự vẫn, sự quyết định không yêu ai, hay một lý do nào khác, người ta phải nhìn nhận rằng tình trạng độc thân là một cơ hội để tu tiến về phần nội tâm và về phương diện tiến hóa tâm linh. Muốn có bạn, ta phải tỏ ra sự thiện chí và tình thân hữu; muốn được yêu, ta phải ban rải tình thương. Bằng cách trau dồi tình thương và lòng bác ái để cho xứng đáng với nguyện vọng mình, những kẻ cô đơn hiu quạnh có ngày cũng sẽ đạt được hạnh phúc của tình yêu.

15 - Thắc Mắc Về Vấn Đề Hôn Nhân
Khi hai người quyết định làm bạn trăm năm với nhau, họ tạo nên một sự phối hợp về nhân quả, và ùng chịu một sự tác động về tâu lý. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce về vấn đề hôn nhân đưa ta những ý niệm tổng quan về việc chọn lựa bạn trăm năm, cùng những sự liên hệ của hôn nhân trong dĩ vãng và tương lai. Chúng ta có thể nói rằng trong vấn đề hôn nhân, cũng như mọi vấn đề khác, mỗi người đều dùng ý chí tự do của mình trong việc lựa chọn bạn trăm năm. Sự lựa chọn này chẳng khác nào như người ta lên xe ô tô buýt, một khi đã lên xe, người ta phải noi theo một lộ trình nhứt định, một chiều hướng đã định saün, khác hẳn với lộ trình và chiều hướng của một chiếc xe khác. Ngoài ra, những hoàn cảnh và tiện nghi trên xe có thể không hoàn toàn đúng với sở thích của chúng tạ Người tài xế có thể là một người cộc cằn thô tục, không khí trong xe nóng nực bực bội, những cánh cửa sổ rất khó mở, hoặc người ngồi bên cạnh nói nhiều quá! Nhiều sự việc bất ngờ có thể xảy ra trên chiếc xe số 92 mà không xảy ra trên chiếc xe số 41. Nhưng thái độ và cách cư xử của chúng ta trong chuyến đi đều tùy ở nơi mình, và dầu cho hoàn cảnh xung quanh diễn ra như thế nào, rốt cuộc chúng ta đều chịu trách nhiệm về cái thái độ và cách xử thế của mình. Có nhiều trường hợp về hôn nhân mà những cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng do nghiệp quả gây nên.

Trong trường hợp lạ lùng sau đây, thật không có một bi kịch nào đau thương cho bằng, và bàn tay sắp đặt của định mệnh thật rất công bình và vô cùng mầu nhiệm. Đó là trường hợp của một thiếu phụ rất đẹp, thành hôn vào năm 23 tuổi. Nàng có đôi mắt xanh đẹp, một mái tóc vàng dợn sóng xõa xuống tận vai, một vóc người tầm thước, và một dung nhan mỹ lệ của một nữ tài tử điện ảnh. Dầu cho vào năm 40 tuổi là lúc nàng được ông Cayce soi kiếp, nàng vẫn có một vẻ đẹp tuyệt trần làm cho mọi người phải quay đầu nhìn và trầm trồ khen ngợi mỗi khi nàng bước vào chỗ đông người. Những người bạn trai giàu có sang trọng có lẽ phải lấy làm ngạc nhiên nếu họ biết được cuộc đời tư của nàng. Trong 18 năm kết tình chồng vợ với một nhà kinh doanh thương mãi rất có danh thế và tiếng tăm, nàng đã trải qua một kinh nghiệm rất khó khăn và thất vọng về phương diện tình ái. Chồng của nàng bị chứng bịnh bất lực. Người ta thấy ở đời thường có những người đàn bà không hề cảm thấy dục tình, và không bao giờ ham muốn những sự luyến ái trong khuê phòng; đối với những người ấy thì tình trạng bất lực của người chồng không phải là một điều chướng ngại quan trọng lắm. Nhưng đối với người thiếu phụ kể trên, đẹp đẽ, duyên dáng, lãng mạn đa tình và tràn đầy nhựa sống, thì đó là một cái thảm trạng thật sự! Thảm trạng này có thể giải quyết bằng một cuộc ly dị và sẽ chấm dứt dễ dàng, nhưng người thiếu phụ này lại không thể dùng cái biện pháp dứt khoát đó. Nàng vẫn yêu chồng và không muốn làm cho chồng đau khổ.

Trong những năm đầu tiên, có một thời kỳ nàng đâm ra dang díu với những người đàn ông khác, không phải vì muốn phản bội chồng, nhưng chỉ là để thỏa mãn sự nhu cầu về sinh lý và tình cảm. Nhưng lần lần, nàng chế ngự được dục tình, môt phần lớn là nhờ sự học hỏi đạo lý và tập quan thiền quán tưởng. Và cuộc đời nàng cứ trôi qua một cách bình thản như thế từ 18 năm nay, trước khi cơn khủng hoảng xảy đến. Một trong những người yêu cũ của nàng trước kia lại xuất hiện trên bước đường đời của nàng. Trong bức thơ gởi ông Cayce, nàng kể chuyện như sau:

"Khi chúng tôi gặp nhau, ngọn lửa tình lại nhen nhúm mãnh liệt trong lòng y, và tôi cũng đáp lại mối tình đó. Nhưng sức khỏe của tôi lại giảm sút trở lại như hồi trước khi tôi bắt đầu học hỏi đạo lý. Có lẽ tôi sẽ không ngần ngại mà tư tình với y nếu y không có gia đình. Tôi không muốn bỏ chồng vì những lý do mà ông có thể hiểu, và cũng vì chồng tôi đã tiến bộ rất nhiều về sự cải tao tánh tình... Có thể rằng những cảm tình của tôi đối với người đàn ông kia không phải là ái tình, mà là do tình trạng đặc biệt của gia đình tôi gây nên. Dầu sao y cũng là người có tính nết khá. Y yêu tôi từ hồi tôi còn nhỏ, nhưng tôi không hay biết gì cả và chỉ nghe mẹ tôi nói lại. Y không tỏ tình với tôi vì y tự thấy còn chưa đủ sức lập gia đình.Nhưng về sau thì đã quá trễ, vì tôi đã đính hôn với chồng tôi. Tất cả những hoàn cảnh cho tôi thấy sự hành động của luật Nhân Quả, dường như có thể truy nguyên từ ba kiếp về trước của chúng tôi. Thỉnh thoảng tôi đã cùng chung chăn gối với y, một lẽ là vì y quá yêu đương và có thể thất vọng đến hủy mình. Sau nữa, tôi hy vọng rằng làm như vậy, y sẽ được thỏa mãn dục tình, để cho y thoát khỏi sự cuồng vọng của yêu đương... Sau cùng tôi đã đoạn tuyệt với y vì tôi không muốn đóng trò giả dối với vợ y và gieo sự rối rắm trong gia đình ỵ Tôi quen biết và cũng có cảm tình với vợ ỵ Xã hội sẽ lên án những mối tình vụng trộm như thế. Tôi không muốn làm khổ một người nào. Y cũng không có sự ác cảm với vợ y, mặc dầu vợ y thường dày vò đay nghiến y suốt nhiều tuần không dứt. Vợ y có thể làm sôi nổi thành to chuyện nếu vợ y biết được câu chuyện ngoại tình này. Chồng tôi biết rằng tôi thỉnh cầu sự giúp đỡ của ông, nhưng y không biết chi cả về chuyện này."

Đó là bức thơ của người thiếu phụ để giải bày tâm sự thắc mắc trong cuộc đời của cộ Câu chuyện cũng khá bi ai; nhưng cuộc soi kiếp còn tiết lộ nhiều điều bí ẩn trong cuộc đời quá khứ của người thiếu phụ, nó tạo nên tình trạng hiện nay, và chỉ cho ta thấy hành động của Luật Quả Báo thật là vô cùng đúng đắn và mầu nhiệm. Trong hai kiếp về trước ở Pháp, hồi thời kỳ xảy ra cuộc Thánh Chiến (Croisades), người thiếu phụ này tên là Suzanne Merceilieu, cũng là vợ của người chồng cô bây giờ. Ông Merceilieu, chồng cô trong kiếp đó, là một trong những người có óc phiêu lưu, và cuộc Thánh Chiến ở vùng Cận Đông xa xôi càng nung nấu chí giang hồ của ông. Và cũng như nhiều người khác có lòng tín ngưỡng nhiệt thành, cuộc đời tư của ông lại hoàn toàn tách biệt với những nguyên tắc đạo đức mà ông tin tưởng và đề cao! Theo quan niệm của ông, thì Thánh Địa Jérusalem, nơi an nghỉ cuối cùng của Đấng Cứu Thế, phải được giải phóng khỏi sự xâm lăng của những người "Ngoại đạo." Nhưng còn vấn đề áp dụng tình bác ái mà đấng Cứu Thế đã dạy đối với vợ Ông, thì dường như ông không bao giờ nghĩ đến!

Bởi đó, khi ông sửa soạn lên đường tham gia cuộc Thánh Chiến để bảo vệ tôn giáo Gia Tô chống những kẻ "Ngoại đạo," thì đồng thời ông cũng muốn bảo vệ một chuyện khác: đó là sự mất trinh tiết của vợ Ơng. E rằng lòng tín ngưỡng tôn giáo của vợ Ông không đủ nhiệt thành để giúp cho bà ấy có một lòng hy sinh tuyệt đối, cũng như lòng hy sinh của chính ông, và thay vì sự an ủi bằng cách nương mình trong hai cánh tay khỏe mạnh của một gã đàn ông khác, ông ta bèn dùng những biện pháp cần thiết để làm cho một sự "An ủi" như thể không thể thực hiện được. Hồi thế kỷ thứ 12 ở Âu Châu, có một thứ khí cụ rất xảo diệu gọi là cái đai trinh tiết mà về sau người ta cũng được biết ở Pháp vào năm 1935 và ở New York năm 1931, ở tại đây đã xảy ra hai vụ án về việc có những người đàn bà bị chồng bắt buộc đeo cái đai trinh tiết này. Cái đai này gồm có những mảnh sắt và da kết lại, bao bọc phần dưới thân mình của người đàn bà, và được khóa lại bằng một ống khóa với một chìa khóa riêng, để cho người đàn bà không thể giao hợp với người đàn ông nào khác. Chính bằng cách đó mà ông Merceilieu muốn bảo đảm cho vợ Ông khỏi ngoại tình trong khi ông đi vắng. Cuộc soi kiếp của ông Cayce nói về vấn đề này như sau: "Linh hồn này thuộc về hạng người chồng nghi kỵ và bị bắt buộc phải đeo một khí cụ chướng ngại làm cho đương sự rất khổ sở bực bội."

Danh từ "Bắt buộc" chỉ rằng bà Merceilieu không thỏa thuận về việc này từ lúc đầu. Câu sau đó chỉ rằng về sau bà ấy còn đau khổ hơn nhiều và "Quyết định sẽ trả thù khi có dịp thuận tiện. Sự cưỡng ép phải giữ gìn trinh tiết làm cho bà ta có những quyết định tai hại; và chính những quyết định này đã gây ra cho bà ta cái tình trạng hiện nay theo sự hành động của luật Nhân Quả."

Bây giờ chúng ta hãy phân tách để tìm hiểu sự thưởng phạt công bình của luật nhân quả trong trường hợp này. Người đàn ông trong kiếp trước đã dùng loại khí cụ máy móc để gây sự chướng ngại khó khăn về tình dục cho vợ y, bị trả quả bằng cách chính y bị bịnh bất lực trong kiếp này.

Thật không có quả báo nào đích đáng hơn nữa. Mới xem qua thì hình như có sự bất công mà thấy rằng một người đàn bà bị áp chế một cách tàn nhẫn như thế, lại phải chịu thiệt thòi về phương diện sinh lý đến hai lần. Nhưng sự bất công đó chỉ là ở bề ngoài, vì tội lỗi con người gây ra không phải chỉ là do những hành động bên ngoài mà thôi, nó còn do những ý tưởng, âm mưu, ác ý, và trạng thái trong tâm hồn. Người đàn bà này đã bị chồng cưỡng ép một cách bất công. Phản ứng của nàng đối với sự nghi kị và cách đối xử tàn nhẫn đó, là một lòng căm hờn và ý nghĩ trả thù. Theo chỗ chúng ta thấy, thì lòng căm thù đó không biểu lộ ra ngoài bằng cử chỉ, nhưng quyết định trả thù vẫn có. Trong một trường hợp trước đây, chúng ta đã thấy rằng một quyết định có thể tồn tại suốt nhiều thế kỷ. Quyết định trả thù của một người sẽ tạo ra một cơ hội thuận tiện cho nàng thi hành ý định ấy. Trong kiếp này, người thiếu phụ ấy có một sắc đẹp lộng lẫy, yêu kiều, và vô cùng hấp dẫn. Nàng kết hôn với một người đã làm khổ mình trong một kiếp trước, và lần này có đủ mọi yếu tố cần thiết để làm cho chồng phải phát điên lên vì ghen tuông, để hạ nhục chồng trước những bạn bè thân thuộc, hoặc gây sự đau khổ cho chồng bằng một cuộc ly dị. Nàng còn muốn gì hơn nữa? Còn cơ hội nào thuận tiện hơn nữa để trả thù một cách hoàn toàn, đích đáng, và vẻ vang?

Nhưng, trong thời kỳ trung gian, nàng đã tiến triển về phương diện tâm linh. Từ nay nàng không thể nào có ác cảm đối với bất cứ một người nào. Những bức thư của nàng từ đầu đến cuối đều tiết lộ sự đa cảm. Nàng có thể ngoại tình dang díu với người tình nhân cũ, một sự ngoại tình mà nàng có thể dấu chồng một cách dễ dàng. Nhưng nàng không thể chịu nổi cái ý tưởng làm khổ người vợ kia, khi người này biết được câu chuyện tình vụng trộm ấy. Bởi đó, nàng cố giữ mình. Sức khỏe về thể chất và tình cảm của nàng cần có sự thỏa mãn sinh lý nhưng vẫn yêu chồng và không đòi ly dị. Nàng hy sinh sự đòi hỏi của dục tình, sắc đẹp và nhựa sống của thời son trẻ để giữ một lòng son sắc và trung thành. Theo lời lẽ bí hiểm nhưng tất có ý nghĩa trong cuộc soi kiếp, "Nàng đã gặp lại chính mình." Trong cái tình trạng hiện tại, nàng đã gặp lại sự quyết định cũ hồi thuở xưa, và đã chuộc lấy lỗi cũ. Nàng đã thành công trong sự thử thách tự đặt cho mình từ sáu thế kỷ về trước. Thánh kinh có nhắc câu Chúa nói như sau: "Sự báo thù là ở trong tay Ta: Ta sẽ trả đủ. Vì mọi sự vay trả đều phải được thanh toán sòng phẳng, và tai họa sẽ đến với kẻ nào chưa thanh toán xong những món nợ cũ!" Hai câu Thánh Kinh trên đây ám chỉ rằng người ta có thể tin cậy vào luật nhân quả để trừng phạt kẻ tội lỗi; rằng người ta không cần phải băng khoăn về sự kẻ đồng loại bằng chính bàn tay của mình. (Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là xã hội không có quyền tự bảo vệ chống lại kẻ sát nhân. Sự lên án kẻ vi phạm luật pháp là một hành động hợp lý của xã hội để duy trì nền an ninh công cộng và hạnh phúc của số đông người. Đó chỉ là sự áp dụng một cách vô tư; hành động lên án không phải là một cử chỉ báo thù.)

Trong tập hồ sơ Cayce còn có một trường hợp khác về thảm kịch gia đình cho việc dùng đai trinh tiết trong một kiếp của đôi vợ chồng nọ hồi thời kỳ Thánh Chiến. Trong trường hợp này, luật quả báo hành động có hơi khác một chút. Theo lời tường thuật của người vợ, thì chồng nàng là một người rất kiên nhẫn, dịu hiền và thông cảm. Tuy nhiên, sau tám năm chung sống gia đình, người đàn bà ấy vừa được 32 tuổi, vẫn luôn luôn sợ hãi sự chung chăn gối với chồng. Người ta có thể hiểu rằng chỉ một sự kiện ấy cũng đủ làm cho tình trạng trở nên khó khăn; nhưng nó còn phức tạp hơn vì người vợ lại thầm yêu trộm nhớ và say mê một anh chàng ca sĩ sân khấu người Ý, bạn của gia đình nàng.

Cuộc soi kiếp giải thích lý do sự sợ hãi chung chạ với chồng là do bởi kiếp trước người đàn bà này bị chồng cưỡng ép dùng đai trinh tiết trong hồi thời kỳ người chồng phải đi tùng chinh trong trận Thánh Chiến. Luật quả báo hành động thật đúng đắn vì người đàn ông này phải chịu hậu quả của hành động kể trên bằng cách có một người vợ kém cỏi về đường tình dục và rất sợ không muốn ngủ chung với y! Sự kiện rằng người vợ chịu khổ sở vì những rối rắm trong gia đình gây nên bởi sự khủng hoảng tình dục kể trên cũng là một quả báo của ỵ Đối với việc bị cưỡng ép mang đai trinh tiết hồi kiếp trước, thì phản ứng của nàng là lòng căm thù. Và lòng căm thù tạo nên dây oan nghiệt. Cuộc soi kiếp cho biết: "Những sự nghi nan và sợ sệt trong kiếp này là do bởi lòng thù hận nung nấu tiềm tàng ở kiếp trước. Cái nhân xấu đó phải được tiêu trừ bằng sự thông cảm và lòng ưu ái ở kiếp này. Vì bà phải biết tha thứ, nếu bà muốn được tha thứ. "Sự say mê anh chàng ca sĩ nguyên nhân là do bởi một kinh nghiệm khác: Người ca sĩ này là tình nhân của nàng trong một kiếp trước ở Đông Phương. Đáp lại câu hỏi "Bây giờ tôi phải làm gì?" Cuộc soi kiếp nói: "Bà hãy làm công việc gì phù hạp với cái lý tưởng mà bà đã lựa chọn."



Một lần khác, người ta lại thấy có yếu tố sợ hãi trong một trường hợp với một nguyên nhân khác hẳn. Xét về sự đau khổ do quả báo đưa đến thì câu chuyện này thật là bi đát; nhưng theo quan điểm phân tách tâm lý, thì trường hợp sau đây trình bày những tài liệu rất hay để giúp cho ta nghiên cứu sự tương quan của luật Nhân Quả, sự di truyền và ảnh hưởng của hoàn cảnh.

Hồi đó vào năm 1926, người đàn bà viết như sau:

"Tôi quá đau khổ đến nỗi tôi sắp sửa phát điên và tự tử. Tôi là người đàn bà vô phước nhất đời, và để làm dịu bớt đau khổ, tôi phải dùng chất ma túy. Mẹ tôi là người đã chịu đau đớn vô ngần vì đẻ khó hết sáu lần. Suốt đời tôi đã từng nghe mẹ tôi nói về sự đau đớn khi sinh đẻ. Vì vậy khi tôi có chồng cách 18 năm nay đến giờ, tôi sợ mang thai đến nỗi tôi phải xa chồng yêu quý của tôi vì tôi không thể chung chạ được với ỵ Tôi đã cầu nguyện; tôi đã áp dụng thử khoa tâm lý, khoa chữa bịnh thần kinh, thậm chí đến khoa học Công giáo... Nhưng không kết quả. Ông hãy xem tôi còn hy vọng nào chăng? Tôi muốn có con và tôi vẫn yêu chồng, nhưng sự chung chăn gối làm cho tôi sợ hãi, và bây giờ thì tệ hơn bao giờ hết, vì như tôi đã nói, tôi saün sàng tự tử. Tôi vừa muốn tự vẫn trong tuần này, thì nghe nói về công việc của ông làm... "

Cuộc soi kiếp truy nguyên tấn thảm kịch của người đàn bà này ở hai kiếp trước. Trong kiếp đó nàng sống một cách ích kỷ, xa hoa và say mê thú vui vật chất dưới thời hoàng triều nước Pháp. Đó là một cuộc đời nhộn nhịp vui tươi, nhưng nàng đã gieo hột giống cho tấn thảm kịch nối liền theo sau: Cùng với những nhà khai thác thuộc địa đầu tiên đến Bắc Mỹ Châu, nàng sinh hạ được sáu đứa con và về sau nhìn thấy tất cả sáu đứa con bị thiêu sống. Cuộc soi kiếp: "Linh hồn này không dứt sợ sệt suốt đời nàng kể từ khi đó. Nàng đã mất tin tưởng nơi đấng Thiêng Liêng và nuôi lòng oán hận Chúa Trời vì không che chở cho nàng và cho các đứa con. Bởi đó trong kiếp này nàng sợ có con, và chịu mọi hậu quả của sự sợ sệt đó." Tấn thảm kịch xảy ra hồi thời kỳ khai thác thuộc địa ở Bắc Mỹ có thể hiểu được. Vì chúng ta biết rằng chỉ có sự thất bại về vật chất, người ta mới quay trở về những vấn đề tâm linh. Nhưng trong khi nàng đang phải trả quả báo cũ, thì vô tình lại gây thêm nghiệp quả mới. Dầu cho đối với một người đàn bà ích kỷ, việc phải nhìn thấy sáu đứa con chết thiêu là một sự đau khổ rất lớn. Nhưng nàng không vượt qua nổi cơn thử thách đau khổ này. Y phải chọn một trong hai điều phản ứng: Một sự đành cam số phận với một lòng thương nảy nở dồi dào; hoặc một sự sợ hãi với một tấm lòng đầu oán hận; nàng đã chọn lựa cái phản ứng sau này.

Trong số những ý nghĩ mà người ta có thể có đối với tai họa xảy đến, chẳng hạn như: "Tai học này đến với ta là do ý muốn của Thượng Đế. Ý muốn đó tuy khó lường, nhưng chắc hẳn là rất công bình."

hoặc là: "Tai họa này đến với ta là do sự bất công của một đấng Thượng Đế tàn nhẫn và độc ác."

hoặc là: "Do sự tình cờ may rủi của một cái vũ trụ khô khan không mục đích và không có Thượng Đế." thì người đàn bà ấy đã lựa chọn cái ý nghĩ thứ ba và cuối cùng.

Và như thế, nàng còn có một bài học cần thiết phải học thuộc là: "Một tình thương bác ái bao la sẽ đánh đuổi sự sợ sệt." Nàng phải dứt bỏ cái quan niệm ích kỷ và duy vật đối với cuộc đời; phải tập mở lòng thương rộng lớn bao la để thương yêu người chồng; để thương yêu những linh hồn sẽ đầu thai thai và chọn nàng làm mẹ; để kính yêu cái quyền năng sáng tạo, thiêng liêng mà trời phú cho người đàn bà làm vợ và làm mẹ. Nói tóm lại, để thương yêu tất cả với tấm lòng bác ái vô biên đến nỗi những sự sợ hãi về sự đau đớn của thể xác không thể nào biểu lộ được nữa.


Phần 4
16 - Ngoại Tình Và Ly Dị
Trong tất cả những xứ theo chế độ một vợ một chồng, thì sự ngoại tình là một việc vẫn thường xảy ra. Sự giải thích căn bản của hiện tượng này có lẽ là vì lý do sinh lý, theo như câu ngạn ngữ dưới đây của một tác gia vô danh đã biểu lộ tình trạng ấy:

Higamus, pigamus (Nam đa thê)

Hogamus, pogamus (Nữ nhất phu)

Trong những nguyên nhân của vấn đề ngoại tình, ngoài ra yếu tố sinh lý lẽ tất nhiên còn có những yếu tố xã hội và tâm lý khác nữa. Những nếu muốn người ta áp dụng thuyết Luân Hồi, thì thật là một điều lý thú mà tìm hiểu xem sự ngoại tình có thể là do vấn đề nhân quả hay không? Những tập hồ sơ của Cayce có ghi chép ba trường hợp đáng kể mà sự ngoại tình dường như do nhân quả gây nên.

Trường hợp thứ nhất là của một thiếu phụ có hai con, mà người chồng đi ngoại tình với một người đàn bà khác trong tám năm. Người vợ chỉ biết được việc ấy trong hai năm sau cùng. Trong cuộc soi kiếp, nàn hỏi tại sao phải chịu một sự phụ bạc đau đớn như thế? Câu trả lời là: "Đó là trong kiếp trước bà đã ngoại tình với một người đàn ông khác."

Trường hợp thứ hai là của một phụ nữ phản bội chồng một cách trắng trợn trong kiếp trước, dưới thời Hoàng Triều trong nước Pháp. Hiện nay nàng đã sống lại những hành vi tương tự với người chồng nàng bây giờ, người này chính là tình nhân của nàng trong kiếp trước.

Trường hợp thứ ba là của một người đàn bà mà người chồng trong năm đầu tiên sau khi thành hôn, bắt đầu chè chén say sưa và chơi bời đàn điếm. Có nhiều lần, y lại đem người đàn bà khác về nhà. Người vợ vẫn trung thành và sống chung với chồng, khi chồng nàng không đem tình nhân về nhà; rốt cuộc nàng lại mắc phải bịnh phong tình do người chồng sang quạ Cuộc soi kiếp truy nguyêncái thảm trạng của người đàn bà này ở kiếp trước. Trong kiếp trước, nàng là đứa con hoang của một người thủy thủ Mỹ và một người đàn bà Nhật. Có lẽ sự kiện này gây cho nàng cái ý niệm rằng nàng là một kẻ ngoài vòng pháp luật. Khi lớn lên, nàng tự thả trôi theo một cuộc đời chơi bời trụy lạc. Không bao lâu, nàng đã gieo rắc bịnh phong tình cho nhiều người đàn ông khác. Cuộc soi kiếp nói: "Bởi những nghiệp xấu gây ra đã đem lại quả báo cho đương sự trong kiếp này."

Nói tóm lại, những trường hợp kể trên dường như chỉ rằng sự phản bội của một người chồng hay vợ là do nhân quả gây nên. Những thí dụ đó không phải để chứng minh rằng tất cả mọi trường hợp ngoại tình đều là do quả báo. Việc Dũng phản bội Tuyết có thể do nơi quả báo mà Tuyết phải chịu vì Tuyết đã phản bội Sơn trong một kiếp trước; nhưng dầu sao sự ngoại tình của Dũng cũng có thể do những khuyết điểm trong tâm tính của Tuyết bây giờ. Sự ngoại tình rất có thể chỉ là một phản ứng nhất thời đối với một tình trạng hiện tại. Muốn biết xem một trường hợp ngoại tình có phải là do nhân quả hay không, nếu chúng ta không có Thần Nhãn để xem quá khứ, thì ta cần phải xét cả những yếu tố lỗi lầm hay khuyết điểm của người vợ hay người chồng lúc hiện tại, nó làm cho đương sự đi tìm nguồn an ủi ở một người tình nhân khác.

Theo luật nhân quả, nếu một người đã ngoại tình trong quá khứ, thì phải chịu quả báo tương đương trong hiện tại. Chỉ bằng cách đó mà người ta có thể phát triển những đức tánh trung thành và tình thương đối với kẻ khác. Chính vì bởi cái lý do cần thiết đó trong sự giáo dục và đào luyện tâm tính, mà những cuộc soi kiếp của ông Cayce nhiều khi khuyên không nên ly dị. Nếu một người phải học một bài học tâm linh trong một cuộc hôn nhân đau khổ, thì nàng không có lợi gì mà đoạn tuyệt và trốn tránh, vì sớm hay muộn gì, người ấy cũng phải tự tạo lấy một sức mạnh tinh thần cần thiết để đối phó với nghịch cảnh đó.

Tuy nhiên, những cuộc soi kiếp không hề ngăn cấm sự ly dị một cách tuyệt đối, mà có nhiều trường hợp lại tán thành sự ly dị. Những tiêu chuẩn để xét đoán xem một trường hợp ly dị là nên hay không nên, dường như có hai loại: Bổn phận đối với những đứa con và bổn phận giữa hai vợ chồng lẫn nhau. Những trường hợp mà ông Cayce khuyên nên ly dị một cách rõ rệt thường là những trường hợp mà hai vợ chồng không có con. Hoặc nếu có con, thì đó là những trường hợp mà sự ly dị sẽ có lợi cho những đứa con; những trường hợp mà bài học nhân quả đã được thấm nhuần; hay là những trường hợp mà một trong hai vợ chồng không đối phó nổi với hoàn cảnh và lôi cuốn cả hai người kia xuống vực sâu.

Một trường hợp điển hình là của một người đàn bà ở tiểu bang New Jersey, 49 tuổi, không có con, và trong hôn nhân không có hạnh phúc. Cuộc soi kiếp khuyên nàng nên bỏ chồng và nên dùng khả năng của mìnhd để đi dạy học. Cuộc soi kiếp nói: "Hôn nhân là một việc tốt, đó là một đời sống tự nhiên cho một linh hồn ở trên thế gian. Nhưng khi nào đời sống giữa vợ chồng thiếu sự điều hòa đến nỗi làm ngăn trở sự thực hiện những mục đích căn bản của cuộc đời, nó là cái lẽ sống của một linh hồn ở cõi trần, và nếu sự mất điều hòa ấy quá rõ rệt, không thể sửa đổi được nữa, thì tốt hơn là hai người nên phân ly nhau. Hãy nên biết tự trong thâm tâm rằng bà nên thực hiện công việc mà bà có bổn phận phải làm ở cõi trần. Tuy rằng bà bắt đầu hơi trễ, nhưng bà còn có thời giờ làm được nhiều việc bằng cách dạy dỗ những em gái trẻ thơ... "

Một thí dụ trái ngược hẳn với thí dụ trên, là trường hợp của một người đàn bà lớn hơn chồng đến hai mươi tuổi. Giữa hai người có một sự bất hòa rất lớn; người chồng say sưa chè chén quá độ, đánh đập vợ con và có một cách cư xử rất thô bỉ. Cuộc soi kiếp không có nói đến vấn đề quả báo trong trường hợp này, nhưng không khuyên hai người ly dị. Cuộc soi kiếp nói: "Giữa hai người đã xảy ra những xung đột và bất đồng ý kiến. Hai người đừng tìm cách tránh xa nhau, mà hãy có một thái độ thản nhiên, hòa hưõn với nhau. Đừng để ý quá nhiều đến những sự khinh rẻ hay trách móc, giận hờn; mà hãy biết rằng thật ra bà chỉ gặt hái những gì bà đã gieo. Vậy bà hãy cố gắng săn sóc giúp đỡ chồng trong mọi trường hợp và làm cho người chồng tất cả những gì mà bà muốn chồng bà sẽ làm cho bà... "

Người ta có thể nghĩ rằng trong trường hợp này, đương sự có một bài học nhân quả cần phải học, hay là một món nợ quả báo cần phải trả. Vì không có đủ bằng chứng soi xét bằng Thần Nhãn về những sự việc xảy ra trong các kiếp trước, người ta nhìn nhận rằng thật không dễ gì mà biết được lúc nào là lúc nên đoạn tuyệt và ly dị. Có một định luật quân bình trong vũ trụ nó hành động một cách thường xuyên, va dầu cho ta có những hành động ích kỷ như thế nào, không có cái lò lửa nào để đốt tan sự ích kỷ đó một cách hữu hiệu hơn là cái lò hôn nhân. Bởi đó, chúng ta hãy chấp nhận những khó khăn, trắc trở trong đời sống vợ chồng với một tinh thần hy sinh và nên biết rằng cái phàm ngã của ta phải chịu những đắng cay, thử thách, để cho cái Chơn Ngã của ta có thể biểu lộ và phát triển.

Xét vì người bạn trăm năm đến với ta do bởi dây nhân duyên đã có từ trước; xét vì không phải do sự ngẫu nhiên tình cờ, mà do ý muốn của Chơn Ngã nó dìu dắt ta đến gặp gỡ và sống trong một hoàn cảnh nhất định nào đó, dầu cho đó là một hoàn cảnh khó khăn trắc trở; xét vì giữa sự bất hòa có một cơ hội cho ta tiến hóa bằng sự quên mình và hành động vị tha, nên chúng ta coi sự ly dị hầu như một điều thiếu sót. Trái lại nếu chúng ta nhìn nhận rằng không có một chế độ nào có quyền cưỡng ép bất cứ một người nào sống trong sự giam hãm trói buộc, nó là nguồn gốc của mọi sự xung đột, bất hòa và trái hẳn với tâm tình tánh chất của y; rằng những viên ngọc quý của một mối tình vị tha không nên đem quăng cho những con lợn ích kỷ, thì chúng ta sẽ hoan nghinh sự ly dị như một biện pháp hợp lý và lành mạnh, cũng như chúng ta hủy bỏ một bản hợp đồng hay khế ước không hợp pháp chẳng hạn. Như thế chúng ta đã trở về với sự quân bình, sự Ôn hòa, và theo cái luật lệ vàng của con người trung đạo.

17 - Nghiệp Quả Giữa Cha Mẹ Và Con Cái
Trong nhiều thế kỷ, gia đình là một tổ chức riêng biệt mà người gia trưởng là người cha, hay người mẹ, theo phong tục ở một vài xứ. Những tổ chức gia đình ấy vẫn luôn luôn tồn tại ở khắp nơi. Theo một quan niệm duy vật, người ta coi những trẻ con như là một sở hữu của cha mẹ của chúng: Chúng sinh ra do bởi sự mang nặng đẻ đau và hy sinh của người mẹ; chúng được nuôi dưỡng do bởi sự làm lụng khó khăn vất vả của cha mẹ. Nói về phương diện vật chất, những người làm cha mẹ có một thể chất khỏe mạnh hơn, già dặn hơn thông minh hơn những đứa con; vì lẽ đó, họ có quyền ngự trị trong gia đình.

Nhưng nói về phương diện tâm linh, thì không hề có vấn đề cha mẹ là tuyệt đối cao cả hơn con cái. Tất cả sinh linh trong Trời Đất đều là những đơn vị bình đẳng của toàn thể một cơ cấu rộng lớn. Trên bình diện tâm linh, cha mẹ không có sở hữu con cái, thậm chí cũng không phải là những người sáng tạo ra con cái. Họ chỉ là những phương tiện cho những linh hồn của những đứa con mượn chỗ đầu thai ở cõi thế gian. Một sự vận hành mầu nhiệm trong cơ thể họ khiến cho họ giao hợp với nhau trong một lúc và làm vận chuyển một cơ cấu cũng không kém mầu nhiệm, mà kết quả là sự cấu tạo và sinh sản ra một thể xác hài nhị Cái thể xác đó trở nên chỗ nương ngụ của một linh hồn khác cũng tiến hóa như chúng tạ Linh hồn ấy nhất thời bị yếu kém và không biết nói, trách niệm và bổn phận của chúng ta trong sự nuôi dưỡng cho nó lớn lên, đều là những kinh nghiệm rất quý báu cho tạ Đó là những kinh nghiệm giúp ta khai mở đức hy sinh và bác ái, với một tấm lòng thương cảm và trìu mến sâu xa thâm trầm.

Những sự việc tốt lành kể trên chỉ xảy ra khi người làm cha mẹ không có lòng chiếm hữu và áp chế con cái dưới một hình thức nào đó. Trong quyển "The Prophet", ông Khalil Gibran viết như sau:

"Con cái của anh sinh ra, không phải là của anh.

Chúng nó chỉ là con cái của "Sự sống bất diệt trường tồn"

Chúng nó do bởi anh sinh ra, chớ không phải là của anh.

Và tuy chúng sống chung với anh trong một nhà,

nhưng chúng không thuộc quyền sở hữu của anh.

Anh chỉ là những cái cung nhờ đó những đứa con anh lấy đà vùng vẫy,

chẳng khác nào như mũi tên bắn ra tận bốn phương trời.

Người Cung Thủ kéo sợi dây cung là nhằm mục đích hòa vui, và trong khi Người yeếu cái mũi tên bay, Người cũng yêu cái cung còn ở lại."

Đối với con cái, những bậc phụ huynh không nên có một thái độ áp chế của kẻ bề trên, hoặc một thái độ ganh ghét ruồng bỏ. Một thái độ bình thản ôn hòa là thái độ thích nghi nhất của người cha mẹ đối với con cái mà họ có bổn phận nuôi dưỡng chăm nom. Họ chỉ có được thái độ ấykhi nào họ hiểu biết điều chân lý căn bản này, là tất cả chúng sinh, tất cả mọi sinh linh đều bình đẳng với nhau. Nói theo danh từ thường dùng trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce, những người làm cha mẹ là những con "Kinh vận hà" để cho nguồn sinh hoạt đi xuyên qua, và nhờ đó những linh hồn có phương tiện để đầu thai ở cõi trần. Bởi vậy những cặp nam nữ sắp sửa thành hôn được khuyên nhủ và dặn dò về tánh cách thiêng liêng của sự giao hợp giữa vợ chồng. Quan điểm này đúng với quan điểm triết học Ấn Độ cho rằng vấn đề tình dục và sinh lý giữa nam nữ có một ý nghĩa thiêng liêng và cao quý. Nhưng bất hạnh thay, khoa Thần học cổ truyền của đạo Gia Tô lại coi mọi vấn đề liên quan đến sự sinh dục như là dấu vết của tội lỗi. Do một sự hiểu lầm đáng tiếc về biểu tượng diễn tả trong Chương La Genèse của bộ Thánh Kinh, toàn thể nhân loại bị coi như là kết quả của "Tội lỗi nguyên thủy" gây ra bởi ông Adam và bà Evẹ Tuy rằng lễ hôn phối hợp pháp hóa sự giao hợp giữa vợ chồng, người ta vẫn nghĩa rằng con cái được sinh sản ra trong vòng tội lỗi. Đó là những quan niệm sai lầm về vấn đề sinh lý tự nhiên của cơ thể con người theo như ý muốn của Thượng Đế. Quan niệm sai lầm ấy có những hậu quả tâm lý rất tai hại, gây nên những sự dồn ép sinh lý, ý niệm tội lỗi và những xung đột tâm lý thuộc về loại trầm trọng và tê liệt nhứt.

Tuy nhiên, giải pháp đối tượng của vấn đề này không phải là tự do luyến ái, hay tự do thỏa mãn dục tình. Giải pháp thích nghi là sự thông hiểu một cách tường tận rằng cơ năng sinh sản sáng tạo của con người là một quyền năng thiêng liêng. Một cuộc soi kiếp nói: "Ái tình và sự giao hợp với một thể xác tinh khiết là cái kinh nghiệm thiêng liêng cao quý nhất một linh hồn có thể thâu thập trong một kiếp sống ở cõi trần." Quan điểm này được nhấn mạnh trong nhiều cuộc soi kiếp, và người ta nhận thấy nó trong những trường hợp mà một người phụ nữ muốn biết xem nàng có thể nào có con được không? Trong những trường hợp đó đương sự thường yêu cầu một cuộc khán bịnh rằng Thần Nhãn để xem nàng có thể tự chuẩn bị bằng cách nào để thụ thai và sinh sản. Trong những cuộc khán bịnh đó, những phép điều trị về cơ thể nêu ra rất nhiều, nhưng không có gì khác thường. Có khác chăng là sự soi xét bằng Thần Nhãn giúp cho ông Cayce biết rõ nhu cầu của mỗi cơ thể riêng biệt của mỗi người tùy theo trường hợp. Tuy nhiên, những cuộc soi kiếp cũng nhấn mạnh về tánh cách quan trọng của sự chuẩn bị tư tưởng và tâm linh, vì thái độ tinh thần của người mẹ sẽ hấp dẫn những linh hồn cùng có một tâm trạng tương tự, theo luật "Đồng thinh tương ứng; đồng khí tương cầu."

Cuộc soi kiếp nói: Linh hồn này hãy nên biết rằng sự chuẩn bị tư tưởng và tâm linh là một việc có tính cách sáng tạo, cũng cần thiết như sự chuẩn bị về thể chất, có lẽ còn cần thiết hơn.

Đối với một người đàn bà ba mươi sáu tuổi hỏi ông rằng bà ấy còn hy vọng có con hay không, cuộc soi kiếp nói: "Bà hãy tự luyện mình thành một khí cụ tốt lành hơn về mọi mặt thể chất, trí não, và tâm linh. Người đời thường có thói quen chỉ xem sự thụ thai như một việc làm thuộc về thể chất mà thôi."

Một cuộc soi kiếp khác nói: "Do sự giao hợp, con người có dịp tạo nên một đường vận hà để cho đấng Tạo Hóa có thể hành động xuyên qua nàng bằng quyền năng Sáng Tạo của Ngài. Vậy đương sự hãy cẩn thận coi chừgn thái độ của mình và của người bạn trăm năm của mình khi các người tạo nên các cơ hội đó, vì linh hồn đầu thai vào làm con các người sẽ có một tánh tình tùy thuộc một phần nào ở thái độ của cha mẹ."

Những cuộc soi kiếp cho biết rằng những mối liên hệ giữa cha mẹ và con cái không phải do sự ngẫu nhiên tình cờ. Những sợi dây liên lạc thường đã có saün từ những kiếp trước giữa người con với người mẹ hay người chạ Trong những trường hợp rất hiếm mà sợi dây liên lạc đó không có, thì tình trạng gia đình tạo nên cái hoàn cảnh thích ứng với nhu cầu tâm lý của đứa trẻ. Những hồ sơ Cayce cho biết rằng vài đứa trẻ có một sợi dây duyên nghiệp với người cha mà không có với người mẹ, hoặc đảo ngược lại, có duyên nghiệp với người mẹ mà không có người chạ Trong những trường hợp đó, thườgn có một trạng thái dửng dưng giữa đứa con với người cha hay người mẹ mà nó mới quen biết lần đầu tiên trong kiếp này. Những trường hợp dưới đây chỉ cho ta thấy một cách đặc biệt nhiều mối liên hệ khác nhau giữa cha mẹ và con cái.

Hai mẹ con người kia có một tình mẫu tử rất khắn khít: Họ đã là hai mẹ con trong kiếp trước. Hai cha con người kia cũng có một tình phụ tử nồng nàn: Trong một kiếp trước họ đã là hai anh em trong một gia đình. Một người mẹ không hạp với con gái của bà: Họ chưa từng có sự liên hệ gì với nhau ở trong kiếp trước. Giữa một người con gái kia với người mẹ của cô ấy, chỉ có một sự dửng dưng lạnh nhạt; cuộc soi kiếp cho biết kiếp trước hai người là hai chị em ruột nhưng lại có một mối bất hòa trầm trọng: Hai người thường xung đột cãi vả lẫn nhau, và vẫn chưa hòa thuận trở lại. Hai cha con người kia kiếp trước là hai vợ chồng. Một người mẹ và con gái thường xugn đột lẫn nhau: Trong kiếp trước, họ là hai bạn gái tranh dành nhau một người đàn ông vàtranh dành địa vị. Trong hai mẹ con người, người con trai hay lấn át người mẹ: Trong kiếp trước, họ là hai cha con, với sự liên hệ gia đình trái ngược lại.

Những trường hợp đó chỉ rằng sự hấp dẫn của con cái đến với cha mẹ là do bởi sự hành động của nhiều nguyên tắc. Những nguyên tắc đó nhiều đều ẩn dấu đối với cặp mắt phàm của chúng tạ Những hồ sơ Cayce giúp cho ta có những tài liệu suy gẫm, nhưng không có đầy đủ chi tiết để cho ta có thể dịch ra thành một định luật nhất định.

Theo luật hấp dẫn, những người đồng thanh khí và giống nhau về tâm tình tánh chất thường rút lại gần nhau. Nhưng đồng thời, vì những lý do nhân quả, những kẻ thù nghịch cạnh tranh nhau và tâm tính tánh chất đối chọi nhau thường cũng hay rút lại gần nhau. Một thí dụ điển hình là trường hợp một đứa trẻ được ông Cayce soi kiếp khi mới lên năm tuổi. Cuộc soi kiếp cho biết những đặc tính của đứa trẻ là thói ích kỷ, sự thờ ơ lãnh đạm và ngoan cố không chịu phục thiện khi y có lỗi. Y có những khả năng tiềm tàng của một nhà khảo cứu khoa học. Trong một kiếp trước, y là một nhà sưu tầm về tiềm lực của hơi nước như là một khí cụ sản xuất tinh lực. Ở một kiếâp trước, y là một chuyên viên hóa học chế tạo cac loại chất nổ; trong kiếp trước nữa y là một chuyên viên ngành cơ khí; và đi lùi về dĩ vãng một kiếp nữa; người ta thấy y là một kỹ sư điện khí ở châu Atlantidẹ Bốn kiếp dành cho sự hoạt động tích cực về ngành khoa học thực dụng đã làm ch đương sự hoạt động tích cực về ngành khoa học thực dụng đã làm cho đương sự phát triển những khả năng đặc biệt, nhưng y lại quá thiên về giá trị của khoa học vật chất mà khinh rẻ giá trị của tình thương, đức tính mỹ lệ, và sự hợp nhất tâm linh của mọi loài vạn vật.

Bởi đó, y có một thái độ thản nhiên lạnh lùng đối với người chung quanh. Cuộc soi kiếp còn cho biết rằng đứa trẻ ấy sẽ thành công vẻ vang trong kiếp này nếu nó theo đuổi ngành kỹ thuật điện khí, hay cơ khí dùng sức mạnh của hơi nước, và gồm một công việc có dùng đến sự tính toán bằng phép đại số. Lời tiên tri đã tỏ ra hoàn toàn đúng. Đứa trẻ ấy bây giời đã trở nên một viên kỹ sư điện khí và những điểm chính trong tánh tình của y đều giống y như cuộc soi kiếp đã tiết lộ, tuy rằng y đã có một sự thay đổi tánh tình nhờ ảnh hưỡng của hoàn cảnh gia đình trong kiếp hiện tại.

Nếu nói rằng theo luật đồng khí tương cầu, những người giống nhau sẽ rút lại gần nhau, thì trng trường hợp này có lẽ đứa trẻ đã sinh ra trong một gia đình khoa học trí thức, mà người cha có lẽ là một kỹ sư và người mẹ là một giáo sư toán pháp ở một trườgn Đại Học chẳng hạn. Nhưng trái lại, y lại sinh ra trong một gia đình gồm những người nuôi lý tưởng vị tha, không có óc hoạt động thực tế. Người cha có óc tín ngưỡng tôn giáo và thích hoạt động xã hội; người mẹ tuy rằng bề xã giao hơi kém, nhưng có khuynh hướng hoạt động xã hội do ảnh hưởng của người chạ Người anh cả của đứa trẻ cũng là một người có lý tưởng vị tha, và sự hoạt động chính của y trong đời là giúp đỡ kẻ khác.

Xét về bề ngoài, thì sự đầu thai của một đứa trẻ như thế trong gia đình kể trên không thể nói là do nhân quả gây nên. Tuy nhiên, dường như có một nguyên tắc sửa đổi, chấn chỉnh những điều thiên lệch để đem lại sự thăng bằng trong tâm tính của một con người. Có thể rằng linh hồn đứa trẻ đã nhận thấy sự khuyết điểm của mình và đã chọn lựa đầu thai vào một gia đình có lý tưởng vị tha giúp đời, để cho y có cơ hội phát triển khía cạnh vị tha bác ái trong tâm tính của y.

Trong kiếp hiện tại, đứa trẻ luôn luôn có dịp tiếp xúc với những người mà mục đích chính trong đời là phụng sự kẻ khác. Óc thực tế của y thường ảnh hưởng đến những người khác trong gia đình một cách lành mạnh, trái lại, lý tưởng vị tha của họ hằng ngày đều nhắc nhở cho y biết rằng ngoài ra những giá trị thực tế và vật chất của cuộc đời, còn có những giá trị đạo đức tâm linh. Tuy rằng kinh nghiệm đó không có đem đến một sự thay đổi hoàn toàn trong cái giá trị căn bản của cuộc đời y là khoa học thực dụng, nhưng nó đã ảnh hưởng đến con người của y bằng cách làm cho y trở nên bớt ích kỷ khô khan và trở nên cởi mở hồn nhiên hơn về mặt giao tế ngoài xã hội.

Như thế, việc chọn lựa hoàn cảnh để đầu thai dường như đã đạt được mục đích sửa đổi tâm tính và cuộc đới của y ít nhất là một phần nào. Những tài liệu hồ sơ Cayce chứng minh một cách đầy đủ rằng những linh hồn sắp sửa tái sinh trở lại cõi trần có ít nhiều tự do trong việc chọn lựa hoàn cảnh và gia đình nào họ muốn đầu thai. Có vài bằng chứng chỉ rằng đối với những linh hồn kém tiến hóa, thì sự tự do chọn lựa ấy có giới hạn, nhưng nói chung thì sự lựa chọn cha mẹ để đầu thai dường như là một cái đặc quyền của mỗi linh hồn. Người ta không dễ hiểu lý do tại sao một linh hồn lại cố tình chịu đầu thai vào một nhà ổ chuột tôi tăm trong ngõ hẻm, với những cha mẹ bần cùng khốn khó, một thể xác yếu đuối bệnh tật, và những hoàn cảnh bất lợi khác. Xét qua bề ngoài thì dường như một sự chọn lựa như thế có vẻ vô lý; nhưng nếu xét kỹ người ta thấy rằng điều ấy cũng có một lý do sâu xa: Có khi một linh hồn cố ý chọn lựa một hoàn cảnh xấu xa bất lợi để làm phương tiện lấy đà, hầu có nỗ lực cố gắng vượt qua mọi chướng ngại và chiến thắng nghịch cảnh.

Có một điều lạ là sự tự do chọn lựa ấy dường như là có một ảnh hưởng đến tỷ lệ chết yểu của trẻ con. Nói chung thì khi sinh ra, một linh hồn có thể thoáng thấy một phần nào cái viễn ảnh cuộc đời tương lai của mình ở thế gian, khi y chọn lựa cha mẹ của y và hoàn cảnh để đầu thai. Nhưng vì con người còn có quyền xử dụng ý chí, tự do nên luật Tự Nhiên khiến cho y không thể nào biết trước tất cả mọi việc xảy ra trong tương lai. Sau khi đã chọn lựa cha mẹ và sinh ra ở thế gian, một linh hồn có thể nhận thấy rằng những người làm cha mẹ của y không ứng đáp lại đúng y như nguyện vọng của y sở cầu. Bởi đó, cái mục đích của y nhắm khi đầu thai vào làm con trong gia đình ấy đã hỏng, vì y đã gặp phải những hoàn cảnh khác hẳn, nên linh hồn bèn không muốn sống nữa và tự ý rút lui.

Dưới đây là một trường hợp một thiếu phụ mà cuộc soi kiếp cho biết rằng trong một kiếp trước, nàng đã bị chết yểu. Kiếp này nàng đầu thai trở lại một gia đình nọ do bởi sự hấp dẫn của người mẹ, nhưng sau khi sinh ra nàng được ít lâu thì người cha bắt đầu say sưa chè chén, trở nên thô lỗ cộc cằn và đánh đập vợ con. Thất vọng vì cảnh gia đình ấy, linh hồn đứa trẻ bèn quyết định không sống nữa và sau một cơn đau ốm vặt thuộc về bịnh trẻ con, nàng bèn từ giả cõi trần để trở về chốn cũ! Cuộc soi kiếp cho biết rằng những sự "Rút lui" như thế là những hiện tượng rất thông thường. Nếu như vậy, thì sự chết yểu của trẻ con, ít nhất trong vài trường hợp, có thể ví dụ như sư rút lui âm thầm của một khán giả đi xem hát, bị thất vọng khi xem một màn đầu không được hấp dẫn, bèn lẳng lặng đứng dậy bỏ ra về. Trong vài trường hợp như trường hợp kể trên, một sự rút lui như thế có thể là do sự lỗi lầm của những người làm cha mẹ; nhưng trong những trường hợp khác, nó chỉ là do sự xét đoán sai lầm của linh hồn đầu thai.

Đôi khi, sự chết yểu của một đứa con vừa sinh ra có thể được coi như một kinh nghiệm đau khổ cần thiết cho những người làm cha mẹ. Đứa con chỉ sinh ra có một lúc ngắn ngủi với một tinh thần hy sinh, để đem lại cho một bài học đau khổ mà họ cần dùng, và nhờ đó họ sẽ có cơ hội tiến hóa về tinh thần.

Một điểm lý thú khác đã được xác nhận rõ ràng và nhiều lần trong những tập hồ sơ của Cayce, là lúc thụ thai không phải là lúc linh hồn của đứa trẻ nhập vào trong bụng người mẹ. Những cuộc soi kiếp thường khuyên các bà mẹ có mang hãy giữ gìn tư tưởng trong thời kỳ thai nghén, vì những tư tưởng của người mẹ có thể ảnh hưởng đến cái bào thai, và quyết định một phần nào về loại linh hồn nào sẽ đầu thai vào làm cho con họ.

Dưới đây là một đoạn vấn đáp trong tập hồ sơ Cayce về vấn đề này:

Hỏi: "Tôi phải có một thái độ tinh thần như thế nào trong những tháng sắp tới?"

Đáp: "Điều ấy tùy nơi loại linh hồn mà bà mong muốn sẽ đầu thai làm con bà. Nếu bà muốn con là nghệ sĩ, nhạc sĩ, bà hãy nghĩ đến âm nhạc, nghệ thuật và mỹ lệ. Bà muốn có con giỏi về máy móc chăng? Như vậy, bà hãy nghĩ đến cơ khí, hoặc làm lụng, hoạt động với các loại máy móc. Bà chớ tưởng rằng điều ấy không có ảnh hưởng gì! Đây là một điều mà các bà mẹ nên biết: Tâm trạng của một người mẹ trong khi thai nghén có ảnh hưởng rất nhiều đến tánh tình của đứa trẻ sẽ đầu thai vào làm con các bà."

Theo những tài liệu của ông Cayce thì linh hồn có thể nhập vào bào thai khi còn nằm trong bụng mẹ trước khi sinh ra, hoặc ít lâu sau khi sinh ra, hoặc ngay vừa lúc mới sinh ra. Có thể sau khi sinh ra đến hai mươi bốn giờ đồng hồ, linh hồn mới nhập vào thể xác đứa trẻ; và trong vài trường hợp, cũng có sự thay đổi vào giờ chót về linh hồn nào sẽ nhập ào. Điều này mới nghe qua thì dường như không đúng với thuyết Luân Hồi nếu người ta tin rằng một thể xác có thể sống mà không có linh hồn ngự trị Ở bên trong; nhưng sự thật, điều ấy không phải là hoàn toàn vô lý. Những người Thông Thiên Học gọi thể xác là cái khí cụ của linh hồn.

Chúng ta hãy thử lấy thí dụ sau đây để giải thích vấn đề kể trên: Một chiếc xe hơi đã được chế tạo xong, giàn xe đã lắp xong xuôi, bộ đồ đèn lửa đã bắt cháy; chiếc xe đã bắt đầu quay máy và động cơ đã chạy, nhưng người lái xe vẫn chưa xuất hiện và chưa vào ngồi trong xe. Dùng thí dụ đó để so sánh thì ta có thể quan niệm rằng khi hài nhi vừa sinh ra, thể xác của nó đã được cấu tạo đầy đủ, những bộ phận trong cơ thể đã hoạt động, mặc dầu linh hồn của đứa trẻ vẫn chưa nhập vào thể xác.

Lẽ tự nhiên, sự lý luận bằng cách so sánh không phải là luôn luôn vững chắc và xác đáng, nêu chúng ta phải dùng cách lý luận đó là vì trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce, chúng ta luôn luôn gặp phải những điều lạ lùng như đã kể trên; và bởi vì sự hiểu biết của chúng ta về sự bí ẩn của đời người hãy còn thô thiển và thiếu sót để có thể giải thích một cách xác đáng theo phương pháp khoa học. Có người đưa ra cho ông Cayce câu hỏi này: "Cái gì làm cho thể xác đứa trẻ sống lại được, trước khi linh hồn nhập vào?" Câu trả lời có vẻ bí hiểm, nếu không nói là mơ màng và khó hiểu: "Đó là cái tinh thần. Vì tinh thần là nguồn gốc của vật chất, và đó chính là Thượng Đế vậy."

Về điểm này và nhiều điểm khác nữa, người ta cần có những cuộc sưu tầm bằng khả năng khiếu Thần Nhãn. Sự sinh sản không phải là một sự tình cờ, và việc một đứa trẻ lọt lòng mẹ để chào đời không phải là một điều giản dị như người ta có thể tưởng. Về vấn đề này cũng như bao nhiêu vấn đề khác trên địa hạt nhân sinh, những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã tỏ ra vô cùng lý thú và hữu ích vì nó hé mở những chân trời mới lạ để dìu dắt những cuộc sưu tầm khảo cứu của người đời nay.

18 - Vài Nghiệp Quả Gia Đình
Một trong những điều buồn thảm nhất của con người là sinh ra một đứa con tàn tật. Về phương diện vật chất, điều này là một gánh nặng về sự phí tổn tiền bạc và công lao săn sóc cho đứa trẻ. Về phương diện kinh tế, đó là một cái gánh nặng của xã hội phải nuôi dưỡng một phế nân có thụ hưởng mà không sản xuất. Về phương diện tâm linh, điều ấy gây cho con người một sự hoài nghi về lòng nhân từ của Thượng Đế, và một sự băn khoăn lo ngại cho hạnh phúc của đứa trẻ.

Đối với những cha mẹ đau khổ đó, định luật Luân Hồi có thể đem đến cho họ lòng can đảm và đức tin. Trước hết, theo định luật ấy thì tất cả mọi sự tai ương, tật ách, đau khổ của con người đều là do quả báo gây nên. Trong những tập hồ sơ của Cayce có vài trường hợp những đứa trẻ bị tật nguyền từ khi mới sinh ra, nhưng lại được coi như không phải vì lý do quả báo. Nhưng nói chung thì những phế tật đều là dấu hiệu rõ ràng của sự vi phạm hoặc lỗi lầm trong quá khứ. Kế đó, sự liên hệ giữa cha mẹ và đứa con bị phế tật cũng là do quả báo sinh ra. Những cuộc soi kiếp cho những đứa trẻ bị chứng sưng đầu, câm điếc, chương óc và những tật ách khác, đều luôn luôn nói rằng: "Đó là quả báo, vừa là của cha mẹ, vừa là của đứa trẻ."

Một trong những thí dụ xác đáng về loại quả báo này là trường hợp của một cô gái nhỏ người Do Thái mới mười hai tuổi, bị chứng động kinh từ thuở sơ sinh. Chứng bịnh này không những là phiền phức khi cô bị lên cơn, mà còn là một trở ngại rất lớn cho sự phát triển cá tính của cộ Theo cuộc soi kiếp thì người cha, người mẹ và cô gái, ba người đã từng xum họp với nhau trong kiếp trước trong một gia đình ở Bắc Mỹ hồi thời kỳ khởi nghĩa giành độc lập. Trong kiếp đó, cha mẹ cô gái nhận thấy rằng theo chế độ cũ của người Anh có lợi về tiền bạc vật chất hơn là theo phe khởi nghĩa giành độc lập. Trong kiếp đó, nên họ hoạt động để cung cấp tài liệu tin tức cho chế độ Hoàng Gia. Cô gái là một thiếu nữ đẹp và thông minh, nhưng điều này lại là những yếu tố cần thiết có thể giúp ích cho những mưu toan của cha mẹ cộ Thay vì giữ cô trong nhà, cha mẹ cô lại khuyến khích cô dùng những lợi khí sắc bén và quyến rũ kia vào những mục đích chính trị có lợi cho gia đình. Mặc dầu cuộc soi kiếp không nói cho biết kết quả tấn tuồng ám muội kia, nhưng nó đã vạch rõ những hậu quả của hành động ấy trong kiếp hiện tại. Xem xét những hậu quả này, chúng ta mới thấy rằng luật Nhân Quả hành động một cách mầu nhiệm và đúng đắn vô cùng, không hề suy chuyển. Cuộc soi kiếp cho cô gái bắt đầu như sau: "Những người cha mẹ của linh hồn này nên so sánh những kinh nghiệm đã qua của họ bằng một cuộc soi kiếp cho chính họ, để nhìn thấy những bổn phận và triển vọng của họ đối với linh hồn này. Bất cứ người nào nhìn thấy sự đau khổ hiện tại của linh hồn này đều phải nhận thức sự kiện "Nhân nào quả nấy, " và không ai có thể kiêu ngạo Chúa Trời, vì ai gieo giống nào sẽ gặp giống nấy. Sự bành trướng bản ngã và phóng đãng trụy lạc của linh hồn này trong kiếp trước đã in dấu vết trong cơ thể của cô trong lúc hiện tại, vì ai gieo gió ắt sẽ gặp bão. Những người làm cha mẹ phải chịu trách nhiệm một phần lớn về cuộc đời ô trược đó, nhằm mục đích thực hiện những lợi lộc vật chất. Bởi đó, chính họ phải chịu gánh lấy hậu quả trong kiếp này."

Nói tóm lại, người con gái ấy bị chứng động kinh trầm trọng trong lúc hiện tại là để trả quả báo về sự chơi bời dâm đãng trong kiếp trước. Thât là một điều công bình mà thấy cha mẹ cô có trách nhiệm phải nuôi dưỡng săn sóc một người con mà sự sa đọa phần lớn là do sự lỗi lầm của họ gây ra.

Một trường hợp lý thú khác là của một thiếu nữ ở New York, bị mù mắt từ khi lọt lòng mẹ. Nhìn qua các tấm ảnh của cô ta thì cũng khá đẹp. Người mẹ yêu cầu ông Cayce khán bịnh cho cô ấy, nhưng vì không có một cuộc soi kiếp nên không rõ tật ách mù lòa này nguyên nhân từ đâu. Dầu sao, người mẹ cô yêu cầu một cuộc soi kiếp cho chính bà ấy, và nhờ đó người ta mới thấy rõ mối liên hệ về nhân quả giữa hai mẹ con bà ấy. Trong một kiếp trước, người mẹ đã từng làm một giáo sự dạy học. Cuộc soi kiếp nói: "Linh hồn này đã lợi dụng một cơ hội để làm tiền và gieo sự rối rắm vào cuộc đời của một người đàn bà khác. Kiếp này hai vợ chồng y phải trả quả báo, vì thuở xưa hai người hành động theo những mục đích ích kỷ mà không kể đến luật Trời."

Người ta chỉ có thể phỏng đoán về tánh chất thật sự của tấn bi kịch này, trong đó hình như người cha cũng đóng một vai trò. Tất cả những gì xảy ra, ấy là một vị giáo chức đã khai thác một người đàn bà nọ vì lợi riêng, làm cho người kia buồn rầu và đau khổ. Chính người đàn bà bị khai thác đó, trong một kiếp trước cũng có một nghiệp ác cần phải trả, mà quả báo là tật mù mắt. Trong kiếp này cô bèn đầu thai vào làm con gái của vị giáo chức kia, nhờ đó mẹ cô đã có cơ hội để trả quả báo cũ.

Trường hợp thứ ba là một trường hợp rất lý thú về tật khật khùng của người con vì tội lỗi của một người mẹ. Trong một kiếp trước ở Palestine, người đàn bà kia đã chế nhạo những kẻ tàn tật, bởi đó cô gây ra những nghiệp ác làm cho cô sinh ra một đứa con thiếu trí khôn và khật khùng trong kiếp này.

Trong một trường hợp khác, đương sự là một thiếu nữ bị chứng to đầu vì trong óc có nước, một chứng bịnh rất kỳ lạ và ít có. Người mẹ đã chết vài ngày sau khi sinh sản, và người cha đã gởi đứa con trong một nhà từ thiện Công giáo. Khi đứa con lên bốn tuổi, người cha đến xin ông Cayce soi kiếp cho nó. Cuộc soi kiếp nói: "Em này rất thông minh, hiểu biết mọi chuyện, biết gọi tên từng người và có thể theo dõi cuộc nói chuyện lý thú. Em ấy không thể đi đứng gì được, vì đầu em quá nặng và lớn quá, và em phải chú ý giữ gìn luôn luôn cho đầu khỏi nghiêng."

Vì không có một cuộc soi kiếp nào cho em gái này nên người ta không biết rõ lý do của căn bịnh ấy. Tuy thế ông Cayce đã soi kiếp cho người cha, vì người này muốn biết sự liên hệ giữa ông với đứa con gái trong kiếp trước là như thế nào. Câu trả lời rất vắn tắt và khô khan: "Trong kiếp trước ông có phương tiện giúp đỡ kẻ khác, nhưng ông làm ngơ không chịu giúp ai cả! Vậy ông nên tập lấy tánh biết thương người trong kiếp này." Cuộc soi kiếp không có nói đầy đủ chi tiết để cho ta biết rõ tánh ích kỷ của ông là như thế nào. Chỉ nghe nói rằng kiếp trước, ông là một người lái buôn ở Fort Dearborn, và "Thâu thập được rất nhiều của cải vật chất, nhưng lại rất kém cỏi về phương diện tâm linh." Xét về trường hợp kể trên, người ta thấy rằng nếu chúng ta thản nhiên và làm ngơ trước sự đau khổ của kẻ khác, chính chúng ta sẽ bị định mệnh đem đến cho ta những đau khổ đó. Một người kia có thể không quá độc ác để tích cực gây thương tổn cho kẻ khác, nhưng ông có thể không chịu làm lành cũng như ông không làm ác. Một thái độ thản nhiên bất động như thế trước sự đau khổ của nhân loại có lẽ không phải là một tội ác lớn để gây nên một nghiệp quả tàn tật vào xác thân. Nhưng dầu sao người ta cũng phải học bài học thiện chí và thông cảm. Bằng cách này hay cách khác, người ta phải chú trọng đến những sự lầm than khốn khổ của người đời; nói tóm lại, người ta phải có lòng nhân từ và biết thương xót kẻ khác. Và vì lẽ người ta không bị quả báo tật nguyền vào chính bản thân mình, thì còn có phương tiện nào tốt lành hơn là lãnh lấy cái kinh nghiệm đau thương của người cha sinh ra một đứa con tàn phế? Do sự đau khổ nhìn thấy đứa con bị phế tật, mà người ta mới có dịp thông cảm sự đau khổ của những người làm cha mẹ Ở vào một trường hợp tương tự, và mới hiểu rõ ý nghĩa thế nào là sự đau khổ của người thế gian.

Những trường hợp vừa kể trên chỉ cho chúng ta thấy rằng giữa cha mẹ và con cái có những nhân duyên và nghiệp quả ràng buộc lẫn nhau. Ngoài ra cũng có những sợi dây duyên nghiệp giữa những anh em trong một gia đình. Trong những hồ sơ Cayce, có một trường hợp lạ lùng về sự thù nghịch giữa hai chị em nhà kia đã dẫn chứng cho điều nầy. Kể từ khi họ còn thơ ấu, giữa hai chị em nói trên đã có sự ganh ghét, đố kỵ và thù hằn lẫn nhau. Giữa hai chị em, luôn luôn xảy ra những xung đột cãi vã, thường khi chỉ vì những duyên cớ nhỏ nhặt không đâu. Sự thù nghịch đó không có xảy ra giữa những người anh em khác trong gia đình.

Xét theo quan điểm tâm lý của Freud, thì sự thù nghịch giữa hai chị em nhà này có thể truy nguyên ra bởi sự tranh giành tình thương của người chạ Nhưng theo sự quan sát bằng Thần Nhãn của ông Cayce thì giữa hai người có một sự ghen tuông sâu xa về tình: Trong một kiếp trước, người chị có chồng và giữa hai chị em đã xảy ra một sự hiểu lầm về sự giao thiệp giữa người em vợ với người anh rể.

Để cho những nhân vật của tấn bi kịch này hiển hiện rõ ràng, chúng ta hãy gọi tên cô em là Loan, gọi tên cô chị là Thúy, và Bình là chồng của Loan. Trong cuộc soi kiếp cho cô em (Loan), cô này hỏi về những mối liên hệ trong kiếp trước giữa cô với người chồng và người chị của cô ta thế nào, thì cô nghe thuật lại câu chuyện dưới đây: Ba người đã từng gặp nhau trong kiếp trước, trong kiếp đó, Bình là chồng của Thúy tức là chị của Loan bây giờ. Một khi kia Bình đau nặng, và vì một lý do nào đó không rõ, lúc ấy Bình lại ở cách xa với vợ ỵ Loan làm nghề nữ y tá, và nhờ sự săn sóc của cô nên Bình chóng khỏi bịnh và phục hồi lại sức khỏe. Sự săn sóc của Loan đối với Bình chẳng qua chỉ là bổn phận của một cô điều dưỡng, nhưng sự chăm nom tận tụy của cô đã tạo nên giữa hai người một sự thông cảm, nó làm cho người chị là Thúy phải lấy làm cay đắng khi cô khám phá ra câu chuyện. Sự ghen tuông vô căn cứ ấy không bao lâu đã trở nên lòng thù hận, và sự căm hờn uất hận đã ảnh hưởng sâu xa trong tâm hồn của người đàn bà khó tính ấy đến nỗi sau nhiều thế kỷ, nó vẫn còn biểu lộ nơi tánh của cô trong kiếp này.

Dưới đây là một trường hợp thứ hai về nghiệp quả ràng buộc giữa một người anh trai và một người em gái, hai anh em cùng sinh tại Anh quốc. Trong cuộc Thế Chiến Thứ Hai, họ được giao cho một người đàn bà Mỹ săn sóc, người này hồi đó làm giám đốc của một trường học ở tiểu bang New England. Người anh lên mười tuổn, còn cô em mới năm tuổi. Bà mẹ nuôi của hai em biết rõ tâm lý trẻ con bởi sự học về phần lý thuyết và cũng do sự thực nghiệm của một đời làm nghề dạy học. Bà ấy bắt đầu nhận thấy sự thù nghịch rõ rệt giữa hai anh em. Trong hai người thì người anh có vẻ "Ăn hiếp" và dữ nhất. Bà ấy yêu cầu ông Cayce soi kiếp cho cả hai đứa. Cuộc soi kiếp tiết lộ cho biết một sự kiện rất lý thú: Hai đứa trẻ trong kiếp trước là những người thuộc hai bộ lạc đối lập ở xứ Ecosse, hai bộ lạc này đã từng chia rẽ và thù nghịch nhau vì một sự tranh chấp từ lâu đời và đã từng đánh với nhau những trận giao phong ác liệt. Sự thù nghịch ấy tồn tại qua nhiều thế kỷ, và biểu lộ trong kiếp này qua sự thù hằn giữ hai đứa trẻ nhỏ!

Hai thí dụ trên đây cũng đủ chứng minh cho thuyết Luân Hồi quả báo và đem lại sự giải đáp cho bài toán bí hiểm về sự thù nghịch vô căn cứ giữa những anh em trong một nhà, làm cho họ bị dày vò khổ sở mà không hiểu lý do vì đâu. Mọi gia đình đều có lý do xung đột căn cứ trên những đụng chạm nhất thời. Tuy nhiên những sự đụng chạm nhất thời đó có thể truy nguyên từ nhiều thế kỷ trước.

Việc tìm ra nguyên nhân ở một kiếp trước về sự thù nghịch giữa hai người, không đủ để làm tiêu tan sự thù nghịch ấy. Nếu hai người ấy không muốn kéo dài sự thù nghịch kia từ kiếp này sang kiếp khác, thì trong kiếp này họ phải cố gắng nhẫn nại thay thế sự căm thù ấy bằng tình thương, và thay đổi sự đố kỵ chia rẽ kia trở thành một lòng ưu ái và thiện cảm. Lời khuyên trên đây không những áp dụng cho những anh em trong một nhà mà thôi, nó còn áp dụng cho mọi giao tế ngoài xã hội, cùng mọi sợi dây liên hệ ràng buộc chúng ta với tất cả mọi người trần gian.

Xét cho cùng, những sự thay đổi ngôi thường xuyên của chúng ta trong gia đình trải qua nhiều kiếp luân hồi sinh tử, chỉ rằng thật ra chúng ta không phải là những người của một gia đình riêng biệt nào cả. Chúng ta là những phần tử của đại gia đình nhân loại, và trong sự sinh hoạt hằng ngày chúng ta phải luôn luôn sống một cách có ý thức với điều Chân Lý tối trọng đó.

19 - Nhân Quả Đối Với Chức Nghiệp
Tất cả mọi người trong chúng ta đều có mang trên vai một gánh nặng gồm đủ thứ sở trường và sở đoản, cùng những đức tính tốt và thói hư tật xấu, những cái hay và cái dở, ưu điểm và khuyết điểm dồn dập tích tụ từ lâu đời.

Điều này hiển hiện rõ ràng trong những cuộc soi kiếp đặc biệt của ông Cayce, nhằm mục đích giúp đỡ trong vấn đề hướng nghiệp cho một số người. Trước đây, ta đã thấy sự hành động của "Nguyên tắc liên tục" trong việc đào tạo khả năng, và vì thế, nguyên tắc ấy đã trở nên một yếu tố quan trọng trong đời người. Một thí dụ điển hình là trường hợp của một thiếu phụ làm nghề sửa sắc đẹp ở New York. Nhà cô là một mỹ viện hạng sanh, chuyên sửa sắc đẹp phụ nữ, uốn tóc, chải đầu, cùng sửa cách ăn nói, điệu bộ. Chính chủ nhân cũng là một người có sắc đẹp và cốt cách yểu điệu. Cuộc soi kiếp cho cô tiết lộ ba kiếp trở về trước, mà dường như là chỉ có hai kiếp là có ảnh hưởng trực tiếp đến khuynh hướng nghề nghiệp của cô bây giờ. Một kiếp đó diễn ra dưới triều đại Pháp hoàng Louis 15, hồi đó cô có một ảnh hưởng lớn đối với nhà vua và hoàng triều. Trong kiếp đó, cô tập sự về nghành giao tế, lễ nghi cùng phép xã giao lịch sự, nghệ thuật trang sức và những bí quyết chưng diện sắc đẹp. Trong kiếp trước nữa, cô sống dưới thời Đế quốc La Mã, và là một trong những người đầu tiên trong hàng quý tộc đã theo đạo Gia Tộ Thụt lùi về dĩ vãng, cô đã sống ở xứ cổ Ai Cập vào khoảng 13.000 năm trước Tây Lịch kỷ nguyên, và đã từng làm việc công quả trong một ngôi đền. Trong một kiếp dưới thời hoàng triều nước Pháp, cô đã thâu thập được những kinh nghiệm về đời sống lộng lẫy xa hoa; cô đã phát triển những khả năng đặc biệt về phép giao tế và phép lịch sự trong đời sống xã hội. Những kinh nghiệm mà cô đã thâu thập được trong một ngôi đền thời cổ Ai Cập cần được giải thích rõ ràng hơn. Dường như thời kỳ đó ở Ai Cập có hai ngôi đền lớn, gọi là Đền Mỹ Lệ và Đền Hy Sinh. Người ta thấy rải rác trong vài chục cuộc soi kiếp những sự mô tả hai ngôi đền này, và do sự góp nhặt những tài liệu đó, người ta có một ý niệm khá đúng về những gì đã xảy ra ở đó.

Ngôi đền Mỹ Lệ là một loại học đường hay trường Đại học, nhưng nó không phải lo về mặt trí dục mà thôi, mà còn nhằm đào tạo nhân cách trên một phương diện đồng đều, toàn diện. Tất cả những nghệ thuật và khoa học đều được xử dụng để đào tạo nên một linh hồn cao thượng và một thể xác kiện toàn cho các học viên để chuẩn bị cho họ trở nên những người công dân có khả năng, hầu có tích cực hoạt động cho xứ sở. Ngôi đền này còn là trường huấn luyện về mặt tôn giáo và đạo đức tâm linh. Ngôi đền này có bảy trung tâm đào tạo có kỷ luật, theo quy mô của bảy Luân Xa hay bí huyệt trong trong cơ thể con người. Điều này cho ta thấy rằng chương trình học tập và kiến trúc của ngôi Đền được quan niệm trên sự hiểu biết sâu xa về khoa Huyền Môn.

Một trong những ngành hoạt động của ngôi đền Mỹ Lệ là vấn đề hướng nghiệp căn cứ trên nền tảng tâm linh. Nhiều người trong kiếp này chú trọng đến vấn đề hướng thiện, phát triển nhân cách, hoặc đào tạo nhân phẩm bằng nghệ thuật và tôn giáo, khi truy nguyên ra thì được biết rằng trong kiếp trước, họ là những giáo sư hay sinh viên đã từng theo học ở ngôi đền Mỹ Lệ hồi thời cổ Ai Cập.

Còn Đền Hy Sinh thì có vẻ giống như một bệnh viện, trong đó người ta áp dụng những kỹ thuật điện khí nhằm mục đích giải phẫu và chữa bịnh (có lẽ do người Atlante truyền lại). Phép chữa bịnh này theo một nguyên tắc chính là kiện toà thể xác và cải tiến giống nòi, vì người ta gọi trung tâm này là Đền, có ngụ ý một sự hướng dẫn tâm linh.

Dưới đây là trường hợp của một y sĩ chuyên môn chữa bịnh đau khớp xương. Cuộc soi kiếp cho biết rõ bốn tiền kiếp của ông, mà ba kiếp có ảnh hưởng đến phương diện nghề nghiệp của ông trong kiếp này. Ông đã từng làm y sĩ ở Mỹ Châu lúc ban sơ và có giao thiệp với người thổ dân xứ ấy, nhờ đó mà y học được phép chữa bịnh theo lối tự nhiên và bằng chất thảo mộc. Trong các cuộc soi kiếp, nếu người nào trước kia đã từng có tiếp xúc chặt chẽ với người thổ dân châu Mỹ, hoặc chính họ là những người thổ dân da đỏ trong kiếp trước, đều tỏ ra có khuynh hướng sống một đời sống tự nhiên nơi chốn rừng bụi, ưa thích cảnh thiên nhiên, thích làm những công việc bằng tay chân, và dùng cách chữa bịnh theo phương pháp tự nhiên.

Trong kiếp thứ hai, vị y sĩ trông coi các nhà tắm công cộng và chuyên về phép thoa bóp ở La Mã dưới thời kỳ bắt đầu kỷ nguyên Gia Tộ Trong kiếp thứ ba, y sống ở Ba Tư và trong kiếp thứ tư, đi thụt lùi về dĩ vãng, ông làm nghề ướp xác bằng dầu thơm ở xứ cổ Ai Cập, độ 13.000 năm trước Tây lịch kỷ nguyên. Có lẽ kinh nghiệm của ông trong kiếp đó đã giúp cho ông có sự hiểu biết về những bộ phận bên trong cơ thể con người cùng ảnh hưởng của chất liệu và cỏ thơm đối với da thịt con người.

Trường hợp sau đây là của một nhà mỹ nghệ Ở Hollywood, làm giám đốc chuyên môn về màu sắc trong một hãng phim điện ảnh. Cuộc soi kiếp cho biết ông đã từng sống về ngành mỹ thuật trong ba kiếp trước. Tất cả có bốn tiền kiếp đã được soi thấu: Trong một kiếp, ông làm nhà trang hoàng nhà cửa vào cuối thời kỳ khai mở thuộc địa, ở Bắc Mỹ; trong kiếp kế đó, ông làm sĩ quan trong quân đội kỵ binh ở Nga; kế đó nữa ông làm nhà trang trí mỹ thuật cho một bà Hoàng ở xứ Đông Dương; và trong kiếp xa xưa nhất, ông làm người trang hoàng bên trong của Ngôi Đền Lớn ở xứ cổ Ai Cập. Người ta có cảm tưởng rằng nhờ kinh nghiệm trong kiếp làm sĩ quan kỵ binh mà kiếp này ông phát triển những đức tánh linh hoạt, tỉ mỉ, cẩn thận và ham hoạt động, cùng với tánh thích chưng diện và lòng háo thắng. Như vậy, nhiều điểm trong tánh tình nó giúp cho công việc làm của ông ở kiếp này có thêm phần sinh khí và linh động, dường như được truy nguyên từ những kinh nghiệm ở kiếp làm sĩ quan kỵ binh, mà nghề quân nhân lại là một ngành không có liên quan gì đến mỹ thuật. Còn những kỹ thuật sắc xảo về phương diện nghề nghiệp của y thì có thể truy nguyên từ ba kiếp dành cho sự hoạt động về nghệ thuật.

Một nhà soạn nhạc tiếng tăm ở New York cũng đã có trong quá khứ những kinh nghiệm về ngành này trong nhiều tiền kiếp. Trong một kiếp trước, hồi thời kỳ khai thác thuộc địa ở Bắc Mỹ, ông đảm nhiệm những lớp dạy âm nhạc và dạy hát trong các trường. Một kiếp khác, ông là người Đức, làm nghề đẽo cây và chế tạo các loại đờn dây. Một kiếp thứ ba, ông làm hề tại triều vua Nabuchodonosor ở xứ Chaldeẹ Kiếp cuối cùng lui về quá khứ, ông là một người dân Atlante đến xứ Ai Cập và lãnh vai trò coi sóc phần âm nhạc trong những cuộc tế lễ ở các đền thờ. Sự thích thú của ông về âm nhạc trong kiếp này dường như là do bỏi kinh nghiệm của ông trong kiếp làm nghề chế tạo đờn. Tánh hài hước và trí óc linh hoạt của ông được truy nguyên ra từ kiếp trước làm hề; và những khả năng về âm nhạc của ông được truyền lại từ hai kiếp làm nhạc sĩ.

Đôi khi những thú vui tiêu khiển ngoài vòng hoạt động nghề nghiệp của một người cũng được truy nguyên ra từ những tiền kiếp. Thí dụ như trường hợp của một viên giám đốc ngân hàng, từ thuở nhỏ đã tỏ ra ham thích chơi các môn thể thao, nhứt là chơi môn quần vợt. Khi vị mục sư nhà thờ Baptiste, mà ông là một tín đồ, tỏ ý chống lại việc chơi môn đánh banh vào ngày chúa nhật, thì vị giám đốc ngân hàng liền tức khắc rời khỏi giáo hội! Ngân hàng đã trở nên ngành hoạt động nghề nghiệp của ông và nhờ đó ông đã thâu hoạch được một sản nghiệp lớn. Nhưng ông thường dùng thời giờ rảnh để tham gia một câu lạc bộ đánh quần vợt. Chúng ta hãy thử xét những nghề nghiệp của ông trong các tiền kiếp: Trước hết, ông là một trong những người khai thác thuộc địa đầu tiên, làm nghề xuất nhập cảng ở Bắc Mỹ. Trong kiếp kế đó, ông là người La Mã, đảm nhiệm việc tổ chức các trò du hí công cộng tại các vũ trường. Một kiếp nữa, ông là người tù trưởng của một bộ lạc lưu động ở Ba Tư, chuyên môn tổ chức những trung tâm trao đổi hàng hóa. Trong kiếp thứ tư, ông là quan Thủ Kho ở triều đình xứ Ai Cập thời cổ. Người ta nhận thấy rằng ba kiếp trong số đó đã trực tiếp ảnh hưởng đến nghề nghiệp và ngành ngân hàng của ông bây giờ. Kiếp thứ hai làm nhà tổ chức các cuộc du hí ở La Mã, đã giúp cho ông có khả năng lãnh đạo, nhờ đó có thể tiến lên địa vị Giám đốc ngân hàng. Đồng thời, kinh nghiệm ở kiếp đó cũng là nguyên nhân sự thích thú của y về các môn điền kinh, thể dục ở kiếp này.

Trong các cuộc soi kiếp cề vấn đề hướng nghiệp, ông Cayce thường xuyên một số người nên theo đuổi môn học chữa bịnh bằng điện lực, hóa học hay thủy lực học và âm nhạc. Môn chữa bịnh bằng điện ngày nay đã thịnh hành rất nhiều, những lời khuyên của ông Cayce đối với số người nói trên vốn căn cứ trên những kinh nghiệm trong những tiền kiếp của họ Ở Ai Cập hay ở châu Atlantide.

Dường như vào khoảng 10.000 năm trước Tây lịch, hồi thời kỳ tai biến cuối cùng trong ba cơn thiên tai lớn đã tiêu diệt châu Atlantide tị nạn đã di cư sang Ai Cập họ đã đem theo những kiến thức và tiến bộ của họ về nghệ thuật và khoa học. Tuy rằng họ không thể xây dựng trở lại nền văn minh hùng cường và cao của họ nữa, những gì còn sót lại về khoa học và kiến thức của họ đã hỗn hợp với nền văn minh Ai Cập. Trong tất cả những trường hợp mà ông Cayce khuyên đương sự nên theo đuổi ngành chữa bịnh bằng điện lực, đều có một điểm lý thú chung: Tuy rằng ngành này là một ngành hoạt động khá mới mẻ đối với thế giới hiện nay, nhưng nó là một ngành học thuật rất cổ mà ngày xưa cổ nhân đã từng biết rõ.

Trong nhiều trường hợp mà các đương sự tỏ ra thích thú say mê ngành hàng không, điện tử, vô tuyến điện ảnh, khoa thôi miên, nguyên tử lực... Sự thích thú này đều được truy nguyên từ những kinh nghiệm của đương sự trong một kiếp trước ở châu Atlantidẹ Bởi đó người ta có thể kết luận rằng khi nào một người có khuynh hướng hoặc tài năng rõ rệt về một môn khoa học hay một ngành hoạt động nào, thì chắc chắn rằng trong một hay nhiều kiếp trước, người ấy đã từng theo đuổi và thực hành môn ấy, hoặc là một ngành hoạt động tương tự.

Nhiều trường hợp khác đưa đến một kết luận rằng sự thay đổi nghề nghiệp cũng không phải là một sự thất bại, nếu sự thích thú về nghề mới chọn có căn cứ chắc chắn trong dĩ vãng, và khả năng về nghề nghiệp này đã được phát triển trong kiếp trước. Thí dụ, dưới đây là trường hợp của một người 31 tuổi, mặc dầu đã có gia đình nhưng ông lại quyết định theo đuổi việc học Y khoa. Vì những lý do nào đó, ông không thể theo ngành Y học từ thuở còn niên thiếu, mặc dầu cha ông là một bác sĩ, và ông có hoàn cảnh thuận tiện để học về ngành này. Ông yêu cầu ông Cayce dành cho một cuộc soi kiếp. Ông muốn biết xem quyết định của y có thể thực hiện được không, và sau cùng ông sẽ thành công hay không về nghề y khoa. Cuộc soi kiếp hoàn toàn xác nhận là được, và cho biết rằng sự thích thú của ông về ngành này truy nguyên ra từ hồi thời kỳ khởi nghĩa ở Mỹ quốc. Kiếp đó, y là một người línhh hầu, làm tùy phái đưa thư tín trong quân đội. Dường như nhờ lòng từ thiện chí và khả năng thông cảm nên ông được cấp trên giao cho công tác đi phủ dụ và nân đỡ tinh thần binh sĩ. Chín trong lúc đó, ông nảy sinh ra ý muốn trở nên một y sĩ. Cảnh tượng đau khổ của những thương binh ngoài mặt trận làm cho ông muốn có sự hiểu biết về phương tiện nghề nghiệp của một y sĩ để làm xoa dịu những đau khổ đó.

Điều lý thú mà ta nên nhận xét là đương sự đã chọn người cha làm y sĩ để đầu thai vào làm con trong gia đình trong kiếp này. Điều này hẳn là mộ hoàn cảnh thuận tiện để cho ông bước vào nghề y khoa. Tuy rằng người ta không biết rõ lý do vì sao ông quyết định hơi trễ để theo học về ngành này, nhưng có lẽ đó là vì y lập gia đình sớm. Có thể rằng giữa hai vợ chồng y, có một sự hấp dẫn mãnh liệt do duyên nghiệp tạo nên từ kiếp trước, và cuộc hôn nhân đó đã làm cho ông tạm gác lại các mục đích khác, nhưng điều quan trọng là cuộc soi kiếp tiên đoán trước sự thành công của ông trong một ngành mà ông mới theo đuổi lần đầu tiên.

Nói tóm lại, việc truy nguyên các khả năng nghề nghiệp của một người chỉ rằng các khả năng đó dường như đã được khai mở từ một hay nhiều tiền kiếp, trong khi đó đương sự đã từng làm nghề nghiệp đó rồi, hay là một nghề tương tự.

Một sự thích thú say mê về một ngành hoạt động phụ thuộc chỉ rằng trong kiếp trước, ngành hoạt động đó là nghề nghiệp chính của đương sự.

Nhiều nghề nghiệp mới xuất hiện trên thế giới hiện nay thật ra là sự biến thiên của những nghệ thuật và khoa học của người Atlante và Ai Cập thời cổ. Có vài người dường như mới bước vào một ngành hoạt động mới lần đầu tiên trong lịch trình tiến hóa của họ. Nếu trong dĩ vãng, họ đã từng thích thú và phát triển những khả năng về một nghề nghiệp nào, thì sự thành công trong nghề nghiệp đó ở kiếp này sẽ là một điều chắc chắn.

20 - Phương Châm Trong Việc Chọn Nghề
Những câu chuyện thuật lại về khuynh hướng nghề nghiệ trong các tập hồ sơ của Cayce có thể làm ch người sưu tầm khảo cứu phải nêu ra nhiều câu hỏi. Trước hết, có vấn đề bắt đầu làm một nghề nghiệp, một vấn đề nó làm cho các Triết gia phải lấy làm thắc mắc khi họ cố gắng truy nguyên đến tận gốc, khi linh hồn con người mới xuất hiện lần đầu tiên trên cõi trần gian. Việc gì thúc đẩy một ngành hoạt động này, và một linh hồn khác bước vào một ngành hoạt động khác? Nếu tất cả mọi linh hồn đều do Thượng Đế phát sinh từ lúc nguyên thủy, nghĩa là bình đẳng và không cách biệt, thì tại sao có người lại hướng về nông nghiệp, có người chọn thương mại, người thứ ba chọn nghề dệt cửi, người thứ tư hướng về âm nhạc, và người thứ năm chọn ngành toán học? Phải chăng trong mỗi người đều có một cái động lực tế nhị thuộc về cá tính riêng từng người, nó thúc đẩy họ vươn lên chọn lựa những ngành hoạt động khác nhau? Nếu như thế, thì cái cá tính đó đã biểu lộ bằng cách nào?

Trong những hồ sơ của Cayce, không có sự giải đáp rõ ràng những câu hổi nêu trên, nhưng lại có những tài liệu khá mỹ mãn về một điểu khác: Việc gì làm cho một linh hồn thay đổi một nghề nghiệp này qua một nghề nghiệp khác? Người ta thấy trong các hồ sơ của Cayce có nhiều trường hợp thay đổi nghiệp như vậy, và sự phân tách các tài liệu chỉ rằng sự thay đổi đó căn cứ trên hai yếu tố căn bản: Hoặc do lòng ham muốn, hoặc do luật nhân quả.

Trong nhiều trường hợp đã kể trên, chúng ta thấy rằng lòng ham muốn cũng có mãnh lực tương đương với việc gây nhân tạo quả. Một linh hồn có thể bắt đầu nảy sinh ra ý muốn có một khả năng hay một đức tính mới, khi họ chung đụng tiếp xúc vởi một người có cái khả năng hay đức tính đó. Theo ông Cayce, nhiều người mục kích tận mắt những công việc cứu độ thế gian của đức Jesus khi Ngài đi thuyết pháp giảng đạo và cứu chữa người đau ốn, tật nguyền, bỗng nhiên họ có sự cảm hứng, chẳng khác như một sự truyền nhiễm, và muốn làm y như Ngài! Cái mãnh lực của ý muốn đó thúc đẩy họ cố gắng trải qua nhiều kiếp để phát triển khả năng giáo dục và chữa bịnh. Đôi khi, lòng ham muốn không phải do nơi ảnh hưởng của một người nào, mà do bởi đương sự cảm thấy bất lực trước một tình trạng nguy cấp mà thiếu khả năng cần thiết, nên y không thể giải cứu hay làm gì được. Dầu rằng lý do như thế nào, lòng ham muốn là một yếu tố quan trọng của vận mạng con người. Lòng ham muốn đó tăng trưởng lên lần lần và nhắm những mục đích càng ngày càng rõ rệt cho đến khi về sau, bởi sự chọn lựa cha mẹ và một hoàn cảnh thích nghi, một linh hồn bắt đầu phát triển một khía cạnh mới trong tánh tình của y cho đến mực hoàn toàn.

Có lẽ phải cần đến nhiều kiếp luân hồi sanh tử, cũng như trong các trường hợp tâm tính "Khép chặt" và "Cởi mở", con người mới có thể hoàn toàn thực hiện sự thay đổi một nghề này qua nghề khác dưới mãnh lực của ý muốn. Nếu điều này là đúng, thì đó là một sự khuyến khích quý báu cho những người nào tự thấy kém cỏi trong sự hoạt động nghề nghiệp của mình. Có thể rằng lý do sự kém cỏi của họ, so với tài năng của người khác, là bởi vì họ chỉ mới bắt đầu ngành hoạt động ấy không bao lâu, và chưa đủ thời giờ để phát triển hết mọi tài năng của mình.

Ngoài lòng ham muốn, nghiệp quả cũng là một yếu tố quan trọng trong việc quyết định thay đổi nghề nghiệp.

Thí dụ: Một quả báo tàn tật về thể xác, khi đến lúc chính mùi và phải trả, có thể làm gián đoạn cuộc đời nghệ sĩ tài bà đang lên của một nhà khiêu vũ, một sự nghiệp mà ông đã dày công luyện tập và cải tiến đến mức tuyệt luân trải qua nhiều tiền kiếp. Một quả báo làm gián đoạn nữa chừng một sự nghiệp như thế, tự nhiên là đưa đến sự thay đổi qua một nghề nghiệp khác, và có thể làm thức động một khả năng tiềm tàng đã bị chôn vùi và quên lãng từ lâu.

Đó là trường hợp của một thiếu nữ bị bịnh lao xương háng, như đã kể trong Chương năm. Sau khi mắc phải chứng bịnh này một thời gian rất lâu, thiếu nữ ấy yêu cầu ông Cayce soi kiếp và cho biết xem cô có thể làm nghề gì trở nên hữu ích cho xã hội. Ông Cayce khuyên cô nên học đàn, và cho biết thêm rằng cô có thiêu tư về âm nhạc, vì trong một kiếp trước ở xứ cổ Ai Cập, cô đã từng chuyên môn về loại đờn dây. Người thiếu nữ nghe theo và nhận thấy rằng quả có một khả năng vững chắc về đờn dây, mặc dầu trước kia cô chưa hề học đàn bao giờ. Sau một thời gian, cô đã có thể biểu diễn môn đờn dây trước công chúng, và mặc dầu tài nghệ của cô chưa đủ để làm cho cô được nổi tiếng, nhưng ít nhất cô đã làm một nghề hữu ích để tìm thấy lẽ sống cùng hạnh phúc trong cuộc đời của một phế nhân. Trong những kiếp trước gần đây, cô đã làm những nghề nghiệp khác. Như vậy, trong trường hợp này, một quả báo xác thân đã xuất hiện thình lình để làm gián đoạn một sự nghiệp, và làm sống lại một tài năng đã quên lãng và bỏ phế từ lâu.

Một vấn đề khác được nêu ra: Một linh hồn phải có kinh nghiệm về bao nhiêu nghề nghiệp khác nhau trước khi sự tiến hóa của y được coi như là tròn vẹn? Để đi đến mức tuyệt đỉnh của cuộc tiến hóa, mỗi linh hồn phải trải qua rất nhiều kinh nghiệm khác nhau. Trong Thái Dương hệ, không có một linh hồn nào được coi như đã phát triển hoàn toàn về nghệ thuật chẳng hạn, nếu đồng thời y lại hoàn toàn dốt về ngành cơ khí, y học, hay xã hội học. Người ta có thể quan niệm rằng mỗi linh hồn phải trải qua ít nhiều hiểu biết và kinh nghiệm về tất cả mọi ngành học thuật và hoạt động trong hoàn vũ.

Trong rất nhiều trường hợp, có một sự liên hệ chặt cheẽ giữa vấn đề nghề nghiệp và vấn đề tâm linh. Nói một cách khác, trong nhiều trường hợp, một sự khó khăn về nghề nghiệp dường như là có nguyên nhân ở một sự khuyết điểm về tánh tình, cần phải được sửa chữa. Đó là trường hợp của một người đàn ông độc thân, bốn mươi tám tuổi, là nhân viên địa ốc, vì tánh tình khó khăn, nên càng ngày ông càng bị lúng túng trong việc hành nghề của ông. Ông yêu cầu ông Cayce soi kiếp để biết xem y có nên đổi nghề khác hay chăng, và nghề nào sẽ thích hợp với ỷ Ông Cayce cho biết rằng trong một kiếp trước ông đã làm nghề dạy học, nhưng ông có một tánh chất hung bạo, cộc cằn, và độc đoán. Ông đã mang theo cái mầm mống của tánh cah61t cứng rằng và bạo tàng đó qua kiếp này, nó làm cho ông khó hòa mình trong sự giao tiế ngoài xã hội. Ông Cayce khuyên không nên đổi nghề mặc dầu ông đang bị nhiều nỗi khó khăn trong nghề nghiệp. Cuộc soi kiếp nói: "Mặc dầu điều đó không phải dễ làm, nhưng anh đang học một bài học cần thiết."

Có nhiều trường hợp tương tự như thế trong tập hồ sơ Cayce, làm cho người ta nhớ lại một tư tưởng của Tolstol. Nhà văn hào này nói rằng những hoàn cảnh trong đời người giống như những giàn tre dùng để cất nhà. Những giàn tre này được dựng lên để làm cái sườn chung quanh, nhờ đó một ngôi nhà lầu được xây dựng lên ở phía trong. Nhưng cái sườn tre bên ngoài vốn không có một giá trị tuyệt đối và trường cửu. Khi ngôi nhà lầu đã dựng lên xong, thì người ta dẹp bỏ cái giàn tre ở phía ngoài. Có lẽ những nghề nghiệp làm ăn của con người cũng có thể được quan niệm bằng cách đó, giống như những cái sườn hay cái khuôn để nung đúc nên những điều kiện cần thiết cho sự tiến hóa tâm linh.

Một mặt khác, những khuynh hướng nghề nghiệp không phải luôn luôn đều có mục đích phát triển đức tính. Nó có thể là cần thiết cũng như bao nhiêu những ngành khác thuộc về cõi giới vật chất, mà con người phải chinh phục bằng tinh thần. Có lẽ nhờ đó mà con người phải chinh phục bằng tinh thần. Có lẽ nờn đó mà con người sẽ tập chế ngự vật chất, hiểu những nguyên tắc và định luật của đời sống và hợp tác với Thiên Cơ.

Những tập hồ sơ Cayce chứa đựng nhiều tài liệu về cuộc đời một số người, mà những khả năng đã bị quên lãng từ lâu và chôn vùi trong những chỗ thâm sâu kín đáo của tiềm thức. Cuộc soi kiếp nhắc nhở cho đương sự chú ý đến những khả năng tiềm tàng đó, và trong rất nhiều trường hợp, những khả năng một khi đã thức tỉnh, liền có thể nảy nở mau chóng để trở thành một thiên tư đặc biệt về nghề nghiệp. Người ta có thể truy nguyên khả năng đặc biệt này ở những kinh nghiệm mà đương sự đã thâu nhập được trong những tiền kiếp. Biết được điều này, tức là biết rằng mọi người trong chúng ta có dự trữ trong tiềm thức một số vốn kiến thức hay khả năng chưa được dùng đến, cũng ví dụ thình lình chúng ta được biết rằng trong một thành phố mà chúng ta ở từ thuở nhỏ, chúng ta có một số tiền dự trữ trong ngân hàng, nhưng đã quên hẳng từ lâu.

Những sự say mê thích thú của chúng ta về một ngành nào đều có thể truy nguyên từ những hoạt động của ta trong những kiếp trước về ngành ấy. Có người chỉ thích thú đặc biệt về những sự vật của xứ Tây Ban Nha; hoặc có người chỉ ưa thích những sự vật của xứ Trung Hoa, hay Nhật Bổn chẳng hạ; đó chắc là họ đã từng sống kiếp trước ở những xứ ấy. Nếu những người ấy biết trau dồi, khuynh hướng của họ bằng cách học sinh ngữ Tây Ban Nha, hoặc khảo cứu về lịch sử và văn hóa Trung Hoa hay Nhật Bản, hoặc khảo cứu về lịch sử và văn hóa Trung Hoa hay Nhật Bản, họ có thể làm thức động những ký ức sâuxa trong tiềm thức và những khả năng đã thâu nhập được trong kiếp trước ở xứ ấy. Nhờ đó, họ cũng có thể tiếp xúc với những người trong những kiếp trước đó. Sự gặp gỡ với những người mà ta đã công nhận duyên cũ từ kiếp trước có thể hoàn toàn làm thay đổi cuộc đời của chúng ta bằng cách mở cửa chúng ta bước vào những địa hạt hoạt động mà chúng ta không hề nghĩ đến. Việc làm đầu tiên trong vấn đề hướng nghiệp là kiểm điểm lại những khả năng của mình chọn lấy khả năng trội nất của đương sự.

Nhưng trong những trường hợp khả nghi không quyết đoán, hoặc cần đưa ra cho đương sự những cảnh cáo đặc biệt nào đó, thì ông Cayce thường đưa ra những nguyên tắc đại cương) của họ. Những nguyên tắc đó thường được lặp lại, nhiều lần, đến nỗi ngưòi ta có thể coi đó như những giáo điều căn bản cho việc chọn nghề nghiệp.

Nguyên tắc thứ nhất là: Hãy nêu cao một lý tưởng, định rõ mục đích sâu xa của cuộc đời mình, và tìm cách thực hiện lý tưởng đó. Sự nêu cao lý tưởng và một điều quan trọng trong vấn đề hướng nghiệp. Những cuộc soi kiếp đều nhấn mạnh rằng ta nên biết minh bạch rõ ràng về cái lý tưởng của một người thường là phức tạp nhưng chúng ta chỉ có thể đi đúng con đường của mình muốn đi tới. Sự lựa chọn nghề nghiệp phải căn cứ trên vấn đề cao lý tưởng trước nhất.

Nguyên tắc hai là: Hãy cố gắng giúp đỡ và phụng sự kẻ khác. Bằng cách nào ta có thể phụng sự nhân loại cho được hiệu quả nhất? Đó là phương châm tối hậu để làm tiêu chuẩn cho việc chọn lựa nghề nghiệp của mỗi người. Ta nên coi mình như những phần tử của nhân loại. "Phụng sự kẻ khác, tức là phụng sự Thượng Đế một cách cao cả nhất." đó là một câu thường được lập đi lập lại trong các cuộc soi kiếp. Một câu khác nữa cũng thường được nhắc lại nhiều lần: "Kẻ nào muốn trở nên cao cả nhứt trong các ngươi, là kẻ chịu làm tôi tớ phụng sự cho tất cả." "Chỉ có một lý tưởng duy nhất, là làm cho mọi lý tưởng của ta đều hỗn hợp với sức mạnh Sáng Tạo của Vũ Trụ; làm cho thể xác, trí tuệ, tâm linh của chúng ta trở nên mãnh lực tích cực hoạt động để bồi đắp, trợ giúp cái sức Sáng Tạo nói trên và cho nhân loại."

Đi kèm với phương châm này, ông Cayce còn nói rằng vấn đề tiền bạc, danh vọng ở đời phải đi sau ý muốn phụng sự, và chỉ là những vấn đề phụ thuộc mà thôi. Một đứa trẻ mười ba tuổi có nhiều khả năng và chưa biết nên theo học về ngành nào, đặt câu hỏi: "Tôi phải phát triển khả năng nào để khi đến lúc trưởng thành tôi có thể thành công về phương diện tiền bạc?" Câu trả lời là: "Em hãy quên vấn đề tiền bạc, mà chỉ nên nghĩ rằng em có thể trợ giúp bằng cách nào để làm cho cõi thế gian trở nên một cõi giới tốt lành hơn. Đừng khi nào lãng phí công lao cố gắng chỉ vì vấn đề tiền bạc. Tiền bạc sẽ đến với ta khi ta dùng khả năng của mình để phụng sự nhân loại."

Một người khác hỏi: "Tôi nên theo đuổi ngành hoạt động nào để có thể kiếm được nhiều tiền nhất?" Câu trả lời cho ông là: "Anh hãy gác lại vấn đề tiền bạc. Vấn đề tiền phải là cái hậu quả của sự thành thật cố gắng muốn sống cách nào để giúp cho kẻ khác cùng đi trên con đường tiến hóa với mình. Sự thịnh vượng về vật chất phải đi sau lý tưởng phụng sự. Chỉ có Thượng Đế mới cho ta sự phú quý thịnh vượng, nếu ta xứng đáng."

Một nhà xuất nhập cảng được lời khuyên sau đây: "Phương cah6m của ông phải là: Tôi muốn phụng sự đồng loại của tôi, để cho họ có thể dùng tôi làm cái đà tiến bước. Tiền tài danh vọng sẽ đến với tôi như những kết quả của một đời tốt lành và phụng sự; chứ ta không nên coi nó như những miếng mồi thơm vì nó mà ta phải hành động trái với lương tâm để chiếm đoạt cho được."

Nguyên tắc thứ ba là: "Hãy xử dụng những gì mình đang có trong taỵ Hãy bắt đầu từ chỗ vị trí hiện tại của mình bây giờ." Câu này dường như thừa, vì đó là lẽ hiển nhiên. Tuy vậy, cũng như những sự thật hiển nhiên khác, nó cần được lập lại, vì người ta vốn hay khinh thường những điều giản dị và gần với mình, để đi tìm những chuyện xa vời, khó khăn. Có nhiều người muốn phụng sự nhân loại, nhưng lại có một lý tưởng quá viễn vông, không thiết thực, hoặc không phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Tron khi họ nhìn thấy cái mục đích cao cả, đáng cho họ theo đuổi, thì họ lại bị mắc kẹt trong một cuộc đời phức tạp mà họ không thể nào thoát ra khỏi. Những trách nhiệm gia đình, hay những trở lực về tài chánh, làm ngăn trở sự thực hiện lý tưởng của họ. Đối với những người này, những cuộc soi kiếp thường khuyên rằng: "Người ta chỉ có thể xử dụng những gì người ta có trong lúc này." Cuộc hành trình dài muôn dặm đường chỉ bắt đầu bằng một bước chân. Bước chân đầu tiên đó, người ta phải làm ngay bây giờ ở chỗ vị trí hiện tại.

Một người đàn bà 49 tuổi hỏi ông Cayce: "Tôi phải làm công việc gì trong đời tôi?" Câu trả lời là: "Bà hãy giúp đỡ những kẻ yếu đuối và những kẻ vấp ngã; giúp thêm sức mạnh và can đảm cho những kẻ thất bại." Bà ấyhỏi: "Bằng cách nào tôi có thể làm công việc đó?" Bà hãy bắt đầu với những cơ hội hiện tại. Hãy sử dụng những gì bà đang có và bắt đầu ngay ở chỗ bà đang ở. Bà hãy tin tưởng ở nơi Thượng Đế. Bà đừng nói rằng bà muốn làm công việc gì và ở tại nơi nào, mà hãy nói rằng: Tôi tự hiến dâng cho Ngài. Ngài hãy dùng tôi vào bất cứ công việc gì, và bất cứ nơi nào Ngài muốn."

Một người đàn bà khác cũng có sự thắc mắc giống như thế. Bà ấy đã 61 tuổi, vợ của một vị lãnh sự nọ Ở một xứ Bắc Âu. Bà ta đã đi du lịch nhiều nơi ở miền Trung Đông và có nhiều kiến thức sâu rộng. Bà ấy hỏi: "Tôi phải làm gì để phụng sự nhân loại một cách hữu hiệu nhất?" Câu trả lời cũng giống như trường hợp kể trên: "Bà hãy làm bất cứ việc gì đến với bà hằng ngày. Không phải những kẻ làm nên những kỳ công hiển hách, tiếng tăm vang dội lẫy lừng như sóng cồn đại hải, mới là những kẻ làm được nhiều việc nhất; mà chính là những người biết đón nhận những cơ hội phụng sự xảy đến hằng ngày. Khi những cơ hội ấy được tận dụng triệt để, thì những dịp tốt lành hơn sẽ xuất hiện, và những công việc phụng sự lớn lao sẽ đến với họ. Đó là bởi vì khi ta dùng những phương tiện đang có trong hiện tại để phụng sự kẻ khác, thì những phương tiện ấy sẽ không bao giờ mất, mà tự nó sẽ đến với ta một cách dồi dào hơn trước."

Một người khác cũng nhận được lời khuyên: "Anh hãy bắt đầu ở chỗ vị trí hiện tại của anh. Và khi anh đã làm xong bổn phận. Ơn Trên sẽ khiến cho anh gặp gỡ những cơ hội tốt lành và lớn lao hơn!" Lời khuyên có vẻ triết lý này không những áp dụng cho những người thình lình giác ngộ và có ý muốn phụng sự nhân loại, mà cũng áp dụng cho cả những người muốn làm những việc to tát, vang dội tiếng tăm, bất cứ trên lĩnh vực hoạt động nào. Dường như sự lập đi lập lại trong các cuộc soi kiếp về việc "Người ta cần phải sử dụng những gì mình đang có trong tay và nên bắt đầu từ chỗ vị trí hiện tại của mình," là để chống lại hai khuynh hướng thường tình của người đời; đó là: Sự tê liệt, không hoạt động vì kiến thức hẹp hòi nông cạn; và sự tê liệt vì một tầm nhãn quang quá bao quát rộng lớn.

Có nhiều người biết mục đích mà họ muốn thực hiện trên các địa hạt nghệ thuật, văn hóa, khoa học hay chính trị. Nhưng vì một sự tính toán sai lầm, họ bỏ dở giữa chừng và không làm gì cả: Mục đích của họ dường như không thể thực hiện được. Vì họ không biết rõ về tính cách liên tục của mọi cố gắng và mọi sinh hoạt trong đời sống con người, nên họ không nhận thức rằng thời gian không có quan hệ gì cả, và những gì đã bắt đầu trong một kiếp sẽ đem lại kết quả trong kiếp sau. Họ lầm tưởng rằng vì thời gian ngắn ngủi, nên họ không thể thực hiện được mục đích, thí dụ như trở nên một nhạc sĩ tài hoa trong kiếp này. Họ bị tê liệt cả ý chí tiến thủ, bỏ dở việc học âm nhạc: Bởi đó họ đứng một chỗ không tiến thêm nữa, và trong những kiếp sau họ lại khởi sự học lại từ chỗ bắt đầu! Nhưng nếu họ biết áp dụng lời khuyên đầy minh triết của ông Cayce là hãy bắt đầu từ chỗ vị trí hiện tại và xử dụng những gì mình đang nắm trong tay, thì sự tê liệt kia sẽ không còn, và họ sẽ dùng nghị lực của họ để hoạt động theo đúng đường lối, với nhiều triển vọng tốt đẹp và tin tưởng nơi sự thành công trong tương lai.

Ngoài ra, có những người nhờ thuết Luân Hồi đã hé mở cho họ nhìn thấy cái viễn ảnh của một tương lai sáng lạn huy hoàng, nhưng họ lại không diễn đạt cái đức tin đó ra bằng những hành động xử thế hằng ngày. Nhiều nhà triết học và nhân chủng học mãi đắm chìm trong việc học hỏi khảo cứu các định luật thiên nhiên trong Vũ trụ, nó cai quản sự tiến hóa tâm linh của nhân loại, đến nỗi họ quên rằng sự tiến bộ của con người không phải chỉ được thực hiện bằng sự học hỏi suông mà thôi. Họ chẳng khác nào như người du khách mãi lo nghiên cứu lộ trình trên tấm bản đồ một cách chăm chú và say sưa đến nỗi họ không bao giờ cất bước ra đi! Họ mảng lo nhồi sọ với những vấn đề trừu tượng siêu hình đến nỗi khi cần phải thực hiện một sự thay đổi tâm tính hay làm một việc hữu ích để giúp đỡ nhân loại, thì lại thờ ơ chểnh mảng và hoàn toàn vô dụng.

Những cuộc soi kiếp của ông Cayce luôn luôn nhắc nhở cho chúng ta biết rằng dầu cho chúng ta sống trong hoàn cảnh nào, những hoàn cảnh đó đều hoàn toàn thích hợp với tình trạng tiến hóa tâm linh của chúng ta trong lúc hiện tại. Dầu cho chúng ta gặp phải những hoàn cảnh khó khăn trái ngược, chúng ta cũng nên coi đó như là những cái phương tiện để giúp chúng ta lấy đà tiến bước, chớ không nên coi đó như là những chướng ngại. Khi ta biết vượt qua những khó khăn trở ngại đó, thì chúng ta mới được coi như là xứng đáng nhận lãnh những hoàn cảnh tốt lành và thuận tiện hơn. Trong một cuộc soi kiếp có lời khuyên như sau:

"Anh hãy nhớ rằng dầu anh sống trong hoàn cảnh nào, điều đó cũng là cần thiết cho sự tiếp xúc hằng ngày với mọi người, và chính là nhờ sự cải thiện từng ngày, từng giờ, từng phút đó mà anh thực hiện cuộc tiến hóa dài hạn của anh trong tương lai. Chính nhờ xây từng viên gạch nhỏ, mà người ta mới dựng nên một ngôi nhà lầu nhiều tầng. Khi một linh hồn đã chuẩn bị saün sàng để phụng sự, nhờ sự công phu cố gắng cải tiến không ngừng từng giờ từng phút, mà những điều kiện cần thiết cho sự tiến hóa của y sẽ xuất hiện để giúp cho y có thể tiến hóa mau hơn, và gặp những hoàn cảnh cùng cơ hội thuận tiện hơn.

"Vậy anh hãy xây dựng tương lai của anh cũng như một toà nhà lầu, với những gì anh có saün trong tay, và tuần tự xây thành những viên gạch nhỏ. Anh chớ nên nóng nảy vội vàng và băn khoăn lo lắng: Tất cả mọi sự xây dựng chẳng phải là công trình sáng tạo thiêng liêng của Ngài ử"


Phần 5
21 - Bí Quyết Đào Tạo Khả Năng
Những điều tiết lộ của ông Cayce về những khả năng của con người và sự phát triển khả năng một cách liên tục từ kiếp này qua kiếp khác, có những ảnh hưởng rất sâu sắc về phương diện thực tế. Trước hết, nó trình bày cho ta thấy những triển vọng vô giới hạn về sự tiến hóa của con người, và điều này tùy ở sự cố gắng của từng cá nhân. Nói về những khả năng tiềm tàng được tích tụ từ lâu trải qua thời gian, thì người ta có thể xử dụng lần hồi chẳng khác nào như một số vốn cất trong ngân hàng. Lẽ tự nhiên, những nguồn tài nguyên tiềm tàng về khả năng và đức tánh của mỗi người hoàn toàn tùy thuộc nơi cố gắng mà y đã thực hiện trong dĩ vãng, và đã tích tụ trong kho tàng tâm linh của y.

Điều này cũng áp dụng cho những khả năng của ta trong tương lai. Cũng như những khả năng của chúng ta bây giờ là do sự cố gắng tích lũy từ thuở quá khứ, thì những khả năng mà ta sẽ có trong tương lai cũng là do bởi những cố gắng của ta đang làm ngay bây giờ. Những số vốn nghị lực, thời giờ và công phu khó nhọc mà chúng ta dùng để thu thập một khả năng trong kiếp hiện tại sẽ không phải là mất, mà sẽ mang lại kết quả cho ta xử dụng trong những kiếp tương lai.

Trên thế gian có hàng nghìn người âm thầm cố gắng theo đuổi một chí hướng nuôi từ thuở nhỏ mặc dầu họ biết chắc rằng họ không bao giờ thực hiện được. Xét theo lối thường tình, thì đó thật là một việc đáng buồn; nhưng sự cố gắng và thích thú say mê của họ thật ra không phải là hoài công vô ích nế người ta xét lại vấn đề dưới ánh sáng của thuyết Nhân Quả Luân Hồi.

Một ông lão cố gắng vun trồng những khóm hoa trong vườn nhà ông, có lẽ không mong ước chiếm giải quán quân về cuộc thi trồng hoa đẹp; hoặc được lời khen tặng và biểu dương trong những tạp chí nông nghiệp. Tuy nhiên, trong lúc hiện tại, ông ta đang xây đắp mầm mống cho sự hiểu biết về ngành thảo mộc học, để rồi trong một kiếp tương lai, nó sẽ đâm chồi nẩy lộc thành những kiến thức sâu rộng về ngành này và làm ông ta trở thành một nhà trồng tỉa trứ danh hay một nhà thảo mộc học uyên bác.

Những cố gắng thô thiển và vụng về của một người đàn bà đứng tuổi đang tập vẽ tranh, không phải chỉ là một đầu đề chế giễu của bạn bè thân quyến trong gia đình cô mà thôi; nó còn là những bước đầu cho một nghệ thuật già dặn và chắc chắn để làm cho cô có thể trở thành một họa sĩ tài danh trong một kiếp xa gần trong tương lai.

Ông giáo sư âm nhạc trải qua nhiều năm tận tụy với nghề dạy đờn dương cầm, vẫn cố gắng hành nghề một cách vô danh, không tên tuổi. Với thời gian trôi qua, năm tàn tháng lụn, ông không còn nuôi hy vọng trở thành một nhạc sĩ tài danh nữa, nhưng có lẽ ông ta sẽ tự an ủi nếu ông ta biết rằng chính ông ta đang lần bước đi trên con đường sự nghiệp vẻ vang trong những kiếp tương lai. Những tiếng đàn du dương gieo vào tiềm thức của ông một ý niệm chắc chắn về nhịp độ; sự lập đi lập lại những bài đàn dạy học trò, trải qua thời gian đã gieo trong tâm hồn ông những vết ký ức sâu đậm không thể phai mờ về nhạc lý. Chỉ trong một, hai, hay ba kiếp nữa, ông sẽ trở thành một thiên tài về đàn dương cầm, làm cho người đương thời phải ngạc nhiên khâm phục về tài năng xuất chúng của ông.

Nói tóm lại, theo thuyết Luân Hồi, không có một cố gắng nào là mất đi. Nếu luật Nhân Quả hành động một cách chắc chắn và vô tư để đem lại cho ta sự trừng phạt về những hành vi bất chính của mình, thì nó cũng hành động một cách vô tư chắc chắn để đem lại cho ta phần thưởng về những cố gắng công phu có tính cách xây dựng. Nếu chúng ta thật tin tưởng nơi điều quan trọng này, thì chúng ta sẽ không bao giờ bị thất vọng trên đường đời. Mỗi giờ phút trôi qua, chúng ta đều tự tạo nên tương lai của mình. Cái tương lai đó được tốt đẹp hay không, là tùy nơi trong lúc hiện tại chúng ta có những cố gắng tốt lành và xây dựng, hay là chúng ta lãng phí thời giờ vô ích để tìm những thú vui vật chất phù du giả tạm của cuộc đời trần thế.

Hiểu như thế, người ta sẽ không còn cho rằng giai đoạn cuối cùng của đời người, thường gọi là lúc "Tuổi già", là một giai đoạn bất lực và vô dụng, cần phải nghỉ ngơi, an phận, và không làm gì cả. "Tuổi già" hiểu như thế là một sự dị đoan. Theo các cuộc soi kiếp của ông Cayce, ở xứ Ai Cập cách đây độ mười ngàn năm, đời sống trung bình của con người là trên một trăm tuổi. Sự ăn uống tiết độ, đúng phép vệ sinh, và bí quyết giữ cho tư tưởng được lành mạnh trong sạch, giúp cho con người sống rất lâu, và thậm chí đến lúc tuổi già, họ cũng không đến nỗi rung rẩy lụm cụm. Khoa học hiện đại cũng đã chứng minh điều này. Khoa Tâm bịnh học (Psychosomatiquie) cũng khám phá rằng sự già nua một phần lớn do bởi một bệnh trạng tâm lý của đương sự, theo đó ý nghĩa rằng y là một người vô ích, vô dụng trong xã hội, và đã đến lúc y cần phải được thay thế bởi những người trẻ.

Sở dĩ họ có thái độ đó bởi vì họ có cái quan niệm theo "Chiều ngang" về cuộc đời, tức là một thói quen hay so sánh mình với những kẻ khác trên bình diện "Ngang" trong thời gian và không gian. Nhưng theo thuyết Luân Hồi thì quan niệm chân thật về cuộc đời phải là một quan niệm theo "Chiều dọc". Tự so sánh mình với những người trẻ tuổi hơn, không những là một điều chướng, mà còn là vô ích vì chúng ta chỉ hoạt động để tự vươn mình và tiến bộ lấy cho mình, sự tiến bộ của chúng ta không phải là tương đối với kẻ khác, mà là tương đối với chính mình và với Thượng Đế.

Hiểu như thế, ta sẽ không còn thắc mắc ganh tị với những người ở vào một hoàn cảnh tốt lành và thuận tiện hơn hoàn cảnh của ta trong hiện tại. Sự ganh tị chỉ là một ảo tưởng vật chất. Trên phương diện tâm linh, ta không đua tranh với ai cả, nếu không là với chính linh hồn mình.

Dầu sao, một người đến lúc tuổi già không nên tự coi như một phế nhân, ở ngoài lề xã hội. Trái lại, trong sự tịch mịch âm thầm, y nên dành thời giờ còn lại để trau dồi một vài khả năng mới, và học hỏi thêm những gì mà trước kia vì bận rộn công việc hoặc vì bổn phận gia đình, y không có thời giờ theo đuổi một cách tận tâm và trọn vẹn. Làm như vậy, y sẽ xây đắp nền tảng cho sự tiến bộ tâm linh của y trong những kiếp sau. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce thường nói rằng chúng ta nên sống một cách xây dựng cho đến lúc cuối cùng trong đời tạ Dưới đây là một vài đoạn có ý nghĩa:

"Anh hãy có điều độ trong tất cả mọi chuyện; không nên làm điều gì thái quá. Được như vậy, anh sẽ sống đến trăm tuổi, với điều kiện là anh sẽ sống cách nào để xứng đáng với tuổi thọ của anh. Anh có gì để ban rải cho kẻ kkhác? Nếu anh không có gì để cho ra, thì anh có quyền gì để sống cho chật đất?"

Hỏi: "Tôi phải làm sao để tự chuẩn bị cho lúc tuổi già?"

Đáp: "Cô hãy tự chuẩn bị cho lúc hiện tại. Tuổi già sẽ làm cho cô khôn ngoan già dặn thêm. Cô hãy dịu dàng, dễ thương và biết thương người, nếu cô muốn được trẻ trung mãi mãi... "

Hỏi: "Tôi phải làm gì để khỏi sự bị cô đơn khi tuổi già sắp đến?"

Đáp: "Anh hãy săn tay áo lên và bắt tay vào làm một việc gì để giúp đỡ một người nào đó. Anh hãy làm cho người khác vui vẻ hạnh phúc, và hãy tự quên mìn để giúp đỡ người chung quanh. Như thế, anh sẽ không còn sợ sệt lo âu về những gì có thể xảy đến cho mình và sẽ không cảm thấy buồn chán, cô đơn."

Hỏi: "Tôi phải làm gì để được yên ổn trong lòng và tìm thấy sự an tịnh?"

Đáp: "Anh hãy giúp đỡ kẻ khác. Anh hãy quyết định mỗi ngày làm một điều thiện, hoặc giúp một tay nâng đỡ một việc gì cho một người nào đó cần sự giúp đỡ. Thí dụ: Anh có thể đến viếng thăm một người bịnh, và trò chuyện an ủi họ. Như thế anh sẽ thấy trong lòng yên ổn, không thắc mắc, nghĩ ngợi, lo âu."

Như vậy, tính cách liên tục của đời người trở nên một sự thật đầy ý nghĩa, xét về vấn đề phát triển khả năng và đức tánh trải qua nhiều kiếp luân hồi sinh tử. Hiểu được chân lý đó, người ta sẽ không còn có sự ganh tị đối với kẻ khac, vì sự ganh tị là một điều vô ích. Triết gia Emerson nói sẽ có lúc người ta nhận định rằng thói ganh tị là do sự vô minh mà ra. Điều ấy rất đúng, nhưng nó chỉ được hiểu rõ là khi nào người ta hiểu thuyết luân hồi. Những kẻ ganhtị là những người không biết rõ sự kiện này, là bất cứ điều gì người khác làm được, ta cũng có thể làm được; tất cả những gì người khác có, như sắc đẹp, tài năng, danh vọng, giàu sang, đức hạnh... Ta cũng có thể có được, với điều kiện chúng ta chỉ cần thực hiện những cố gắng cần thiết mà thôi.

Một thái độ xử thế thích nghi về điểm này đã được diễn tả trong cuộc đời của nhạc sĩ trứ danh Paganinị Người ta thuật lại rằng nhạc sĩ này có lần bị hai năm tù vì mắc nợ không trả được. Trong khi bị giam, hằng ngày ông vẫn chơi một cây đàn vĩ cầm cũ, chỉ có ba dây. Sau khi được phóng thích, ông trình diễn đàn vĩ cầm trước công chúng với một ngón đàn sắc xảo tuyệt diệu hơn trước, làm cho cử tọa phải ngạc nhiên về tài nghệ xuất chúng của ông. Ngón đàn đặc biệt của ông là mỗi khi đến những đoạn nhạc khó khăn nhất, thì ông bèn cắn đứt sợi dây dưới của cây đàn vĩ cầm và tiếp tục kéo đàn chỉ có ba dây! Ngón đàn tuyệt luân này, ông đã học được trong thời gian hai năm ngồi tù.

Việc bị giam cầm trong khám là một điều chướng ngại khó khăn và là một nghịch cảnh, nhưng Paganini đã phản ứng một cách xây dựng, chứ không thối chí hay thất vọng. Ngày nay con người còn sống ở thế gian, thì ông còn phải bị những cảnh do quả báo đưa đến. Nhưng chúng ta không nên để ch nghịch cảnh đè bẹp hoặc làm cho ta bị điêu đứng khổ sở; mà trái lại, giữa cơn nghịch cảnh, chúng ta cũng vẫn có thể vui sống với một niều hy vọng.

Khi nghịch cảnh xảy đến không thể tránh khỏi, chúng ta có thể chấp nhận nó một cách kiên nhẫn, can đảm và vui vẻ; và như thế, chúng ta xây đắp nền tảng cho sự thành công vẻ vang trong tương lai.

22 - Tiềm Năng Của Con Người
Từ những đoạn trên, chúng ta đã thấy rằng luật Nhân Quả gồm có hai khía cạnh: Khía cạnh liên tục và khía cạnh chấn chỉnh, hay sửa đổi. Nói về khía cạnh liên tục của luật Nhân Quả, thì có nhiều khuynh hướng trái ngược từ thuở quá khứ có thể xuất hiện cùng một lượt trong kiếp này, và tạo nên một sự xung đột bên trong tâm hồn của một người.

Trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce, những khuynh hướng về khả năng hay tánh tình của một người có thể truy nguyên từ những kinh nghiệm của ông trong một kiếp trước. Thí dụ: Một người kia có những khuynh hướng về âm nhạc mà ông đã hấp thụ trong một kiếp trước, nhưng đồng thời ông cũng mang theo một khuynh hướng về ngành dạy học, từ một kiếp trước nữa. Thề là ông có cả hai khuynh hướng về hai ngành học thuật khác nhau: Aâm nhạc và giáo dục. Những khuynh hướng trái ngược này gây ra một sự xung đột âm thầm trong tâm hồn ông, khi ông phải chọn lấy một nghề nhứt định. Ông sẽ là một nhạc sĩ hay một giáo sử Trong nhiều năm, ông bị dày vò bởi một sự lưỡng lự phân vân, không biết chọn lấy nghề nào. Sau khi sự xung đột ngấm ngầm này phải được giải quyết bằng cách dung hòa cả hai khuynh hướng, hay là bỏ một nghề mà chỉ chọn lấy một nghề, tùy theo lý tưởng của đương sự đối với cuộc đời, hay là do sự nhu cầu tài chánh.

Một sự xung đột còn khó khăn hơn nữa, là trường hợp mà đươngsự chưa diệt trừ xong một tật xấu cũ. Thí dụ: Một người có thói khinh ngạo, di sản từ một kiếp trước, trong kiếp đó ông lạm dụng quyền thế một cách độc tài đối với một dân tộc bị áp chế. Trong một kiếp sau, ông đầu thai làm một đứa trẻ tàn tật sống trong một túp lều nghèo nàn. Thói khinh ngạo của ông đã bị chận đứng vì luật quả báo, và ông đã bắt đầu tập lấy thái độ khoan dung, ôn hoà với mọi người. Nhưng thói khinh ngạo của ông vẫn chưa được diệt trừ tận gốc, và hãy còn biểu lộ một phần nào. Bởi đó trong kiếp này, ông có hai khuynh hướng trái ngược lẫn nhau trong tâm tính, khi thì ông có thái độ khinh ngạo, khi thì có lòng khoan dung. Chính đương sự cũng biết rõ điều này, và mỗi khi ông nghĩ đến tình bác ái đại hồng trong nhân loại, ông sẽ bắt đầu cố gắng diệt trừ thói kinh ngạo còn tiềm tàng trong người. Nhưng phần nhiều, người ta không ý thức được vấn đề này.

Các tập hồ sơ Cayce có chứa đựng rất nhiều trường hợp như trên, mà dưới đây là một trường hợp rõ rệt nhất:

Một người kia có hai khuynh hướng trái ngược: Khi thì khép chặt, cách biệt, lạnh lùng; khi thì lại hồn nhiên, cởi mở. Theo cuộc soi kiếp, điều này được truy nguyên từ hai loại kinh nghiệm khác hẳn nhau. Trong một kiếp trước, ông là một tu sĩ trong một nhà tu kín bên Anh, chính kiếp này đã tạo cho ông một tâm hồn khép chặt và lánh đời. Trong một kiếp trước nữa, ông là một người tình nguyện tùng chinh trong cuộc Thánh Chiến hồi thời Trung Cổ; kiếp đó đã giúp cho ông có tâm hồn cởi mở và yêu đời. Sự trái ngược đó làm cho mọi người đều xa lánh, vì họ không dám chơi với một người tính khí bất thường, hôm qua vừa mới vui vẻ hồn nhiên, hôm nay đã lạnh lùng cách biệt!

Ông Aldous Huxley có thuật chuyện một tu sĩ Y Pha Nho hồi thế kỷ mười bảy tên là Pierre Claver, hy sinh tận tụy suốt một đời để phụng sự những người da đen nhập cảng từ Phi Châu thường bị ngược đãi và đối xử tàn nhẫn. Tu sĩ thường khuyên những mọi da đen này hãy ăn năn sám hối những tội lỗi của họ đã làm. Ông Huxley nói: "Lời khuyên đó có vẻ dường như không đúng chỗ, nhưng biết đâu tu sĩ có lý là vì dầu ở hoàn cảnh nào, con người cũng vẫn luôn luôn cần phải cứu chuộc lại những tội lỗi và sai lầm trong quá khứ mà họ phải chịu quả báo. Những sự ngược đãi, hung ác, bất công của người đời biết đâu chẳng là những cơ hội để nhắc nhở cho chúng ta nhớ lại những hành động hung dữ, độc ác bất công mà chính chúng ta đã làm trong những kiếp trước?"

Ông Huxley còn nêu ra một vấn đề quan trọng: đó là điều ảo tưởng nó làm cho ta nghĩ rằng mình là trong sạch và vô tội. Phần nhiều chúng ta khi lâm nghịch cảnh hay bị những nỗi đau khổ bất công, thường nghĩ rằng mình là oan ức, vô tội mà phải bị thiệt thòi, chớ không nghĩa rằng có lẽ mình đã từng gây ra những nỗi bất công đau khổ cho kẻ khác. Chúng ta luôn luôn tưởng rằng mình tốt lành và vô tội. Có lẽ là do thói kiêu căng vốn tự nhiên trong mọi người, nhưng còn một lý do khác, đó là sự lãng quên: Một định luật thiên nhiên đầy nhân từ và bác ái khiến cho chúng ta quên đi một cái dĩ vãng sai lầm và tội lỗi trong những kiếp quá khứ.

Một người đàn bà nọ phàn nàn: "Tôi luôn luôn đối xử tốt lành với tất cả mọi người; nhưng người ta đối xử tệ bạc với tôi như vậy. Con người thật là bạc bẽo và vô ơn!"

Chúng ta có thể đáp lại như vầy: "Phải, bà đã tốt lành và lương thiện trong kiếp này bởi vì bà nhận thấy rằng về phần thể chất, bà không đẹp; và bà chỉ có thể thâu phục được lòng người bằng những hành động tốt lành và vị thạ Nhưng đó chỉ là một đức tánh mà bà mới tập. Bà hãy nhình lại kiếp trước: Bà rất đẹp, với một nhan sắc đẹp duyên dáng, sắc xảo, mặn mà, nhưng lòng bà rất độc! Ngày nay, bà chỉ gặt hái lấy những gì bà đã gieo trong kiếp trước. Việc bà bị đối xử độc ác và bất công không phải là do bởi sự vô ơn tệ bạc của người đời; mà đó chỉ là những quả báo của những hành vi độc ác mà bà đã gây ra đối với kẻ khác. Bà đã trồng hoa thơm cỏ ngọt suốt đời, nhưng bà chỉ lấy gai nhọn và trái đắng là những thứ mà bà đã gieo trong kiếp trước. Mùa gặt sau, sẽ đem lại cho bà những hoa thơm trái ngọt mà bà đã gieo trong kiếp này. Trong khi chờ đợi, bà hãy vui lòng nhận lãnh những quả đắng và gai nhọn, nhưng bà đừng thối chí và hãy tiếp tục vun trồng hoa thơm trái ngọt một cách can đảm và đầy tin tưởng... ""

Những sự đau khổ và nghịch cảnh trong đời đều có một mục đích giáo dục để đào tạo tánh tình, dầu cho đó là những tai nạn bên ngoài như chiến tranh, dịch lệ, động đất, bão lụt; hoặc đó là những mối xung đột ngấm ngầm trong tâm hồn. Khi nào khoa Tâm Lý Học nhìn nhận rằng tất cả mọi sự đau khổ cay đắng, tai ương và nghịch cảnh của người đời đều có một ý nghĩa sâu xa thâm trầm để dìu dắt họ trên con đường tiến hóa, thì chừng đó ngành học thuật ấy đã tiến được một bước khác lớn.

23 - Khía Cạnh Của Luật Nhân Quả
Trước đây, chúng ta đã thấy trường hợp của người nhạc sĩ mù, mà nguyên nhân là do bởi kiếp trước, trong một bộ lạc dã man ở Ba Tư, ông đã lấy dùi sắt nhọn nung đỏ chọc vào mắt những kẻ tù binh để hành tội những người này. Trong trường hợp này, người ta sẽ đặt câu hỏi: "Tại sao ông lại chịu trách nhiệm về những phong tục bổn xứ hồi đương thời? Tại sao một người phải bị quả báo trong khi ông chỉ thừa hành chức vụ mà xã hội giao phó cho ông?"

Thí dụ, hồi xưa nước Pháp dùng những đao phủ quân để hành tội những phạm nhân trên đoạn đầu đài. Người đao phủ ấy chỉ là một công chức của Nhà Nước và làm việc ăn lương của chính phủ. Có thể nào người ấy bị quả báo khi ông thừa hành chức vụ chém đầu tội nhân do luật pháp bắt buộc chăng? Nếu là không, thì tại sao người đao phủ của bộ lạc dã man nước Ba Tư hồi thời cổ, lấy dùi sắt nung đỏ chọc vào mắt tù binh của một bộ lạc cừu địch, lại phải chịu quả báo? Trước đây chúng ta đã thấy rằng không phải hành động gây nên nghiệp quả mà chính là cái nguyên nhân làm động lực bên trong cho hành động ấy, chính cái tinh thần bên trong làm chủ động cho mọi việc làm, mới là cái nguyên nhân tạo nên nghiệp quả. Ngoài ra, còn có vấn đề trách nhiệm chung, hay nghiệp quả công cộng, nghĩa là nếu một xã hội có những tập quán xấu xa, độc ác gây nên đau khổ cho nhiều người thuộc về xã hội đó đều phải chia xẻ một phần nào trách nhiệm và quả báo của xã hội ấy gây nên. Theo ý nghĩa của nền luân lý thông thường, nếu những hành vi tàn bạo như sát phạt, giết chóc, gây thương tích cho kẻ khác, tuyệt đối là những điều ác dữ, thì tất cả những người nào thuộc về thành phần của xã hội tàn bạo đó đều phạm tội, nếu không trực tiếp thì cũng gián tiếp. Tội ác đó càng tăng nếu họ biết rằng phong tục tập quán đó là độc ác, mà họ vẫn tiếp tục tán thành và không làm gì để trừ bỏ những thói tàn bạo hung ác ấy. Và nếu họ trực tiếp nhúng tay vào những hành động hung dữ ấy, thì tội ác của họ càng tăng hơn nhiều.

Lấy dùi sắt nhọn chọc thủng mắt những người khác chỉ vì họ là tù binh của một bộ lạc cừu địch, dĩ nhiên là một hành động hung ác bạo tàn. Nếu người đao phủ tự trong lòng ông chống đối việc làm hung bạo này, và chỉ thừa hành chức vụ vì bắt buộc phải tuân lệnh thượng cấp, thì có lẽ ông không gây nên nghiệp ác. Nhưng nếu trong khi thừa hành chức vụ, tự trong lòng ông tán thành việc làm hung ác này, nghĩa là ông cũng nuôi trong lòng một sự hung ác tương đương với phong tục bổn xứ của ông, thì chắc chắn là ông phải chịu quả báo.

Vấn đề này được giải đáp một cách mỹ mãn trong kinh Bhagavad Gita của Ấn Độ: "Làm mà như không làm, tuy hữu vi mà vô vi, nghĩa là làm một cách vô tư, với một tinh thần giải thoát, không bám víu, không vụ lợi; đó tức là cái bí quyết của sự hành động cao thượng, siêu thoát, và không gây nên nghiệp quả... "

Thậm chí đến tình thương cũng phải là một tình thương vô tư, không tha thiết, không chiếm hữu, một tình thương siêu thoát, chứ nếu không, nó sẽ tạo nên những sợi dây trói buộc trong kiếp sau. Nếu người đao phủ xứ Ba Tư kể trên chỉ thừa hành chức vụ với một tinh thần hy sinh theo như việc làm của những nhà hiền triết thời xưa, không thỏa mãn dục vọng riêng, không có lòng hung dữ bạo tàn và đàn áp kẻ khác, thì ông sẽ không gây nên ác quả. Theo lý luận đó, vì lẽ người ấy đã bị quả báo mù mắt trong kiếp này, nên ta có thể kết luận rằng ông đã nuôi thói hung ác trong khi thừa hành chức vụ, theo phong tục bổn xứ của y.

Trong chương mười một, chúng ta đã thấy rằng sự hiểu biết về Luật Nhân Quả không khỏi làm cho người ta băn khoăn lưỡng lự trước một vài vấn đề xã hội, và không biết sẽ hành động như thế nào cho hợp lý. Chúng ta đã thấy rằng trong nhiều trường hợp, sự lạm dụng quyền năng trong những kiếp quá khứ đã đưa đến cảnh nghèo khổ, khó khăn trắc trỏ trong kiếp hiện đại. Nếu phần nhiều sự đau khổ buồn rầu của con người đều do bởi những việc làm ác của họ gây nên trong quá khứ thì ta phải đối xử thế nào với những kẻ hoạn nạn khốn cùng? Ta phải có thái độ như thế nào đối với hoàn cảnh khó khăn đau khổ của kẻ khác? Ta có nên ngảnh mặt làm ngơ và nói như thế này chăng: "Này ông bạn ơi, ông bạn đau khổ vì quả báo của ông bạn tự gây ra, chứ không phải oan uổng gì đâu. Tôi không còn quyền can thiệp vào sự hành động của Luật Nhân Quả."

Ta có nên nghĩ rằng sự thiện cảm là một thái độ trái mùa, và lòng nhân từ là một điều không phải chỗ của nó trước sự hành động vô tư của Luật Nhân Quả hay chăng? Có lẽ ta không nên giải đáp những câu hỏi đó một cách hấp tấp vội vàng, và với một sự cảm tình bồng bột. Chúng ta biết rằng một kẻ sát nhân nguy hiểm sẽ không học được bài học của y, nếu vì lòng nhân hậu quá đáng, người ta để cho ông được tự do có điều kiện sau một thời gian giam cầm ngắn ngủi. Chúng ta biết rằng một người học trò dốt không thể học hết chương trình lớp học của y, nếu ông giáo sư quá dễ dãi để cho y về sớm ba giờ mỗi ngày. Chúng ta biết rằng một đứa trẻ không thể biết vâng lời, nếu người mẹ luôn luôn bênh vực con, không để cho nó chịu hình phạt nghiêm khắc và roi vọt của người chạ Chúng ta biết rằng những khó khăn trắc trở và đau khổ của người đời, dưới hình thức những tật nguyền, tại nạn, nghèo khổ... Thật ra là sự biểu hiện ý muốn cải thiện và giáo dục của Thiêng Liêng. Như vậy, làm sao ta dám can thiệp vào sự hành động của Thiên Y, và phá luật lệ thiên nhiên?

Thí dụ, chúng ra thấy một người kia sống trong cảnh lầm than khốn khổ, nghèo nàn cơ cực, với một thân hình tàn phế, tật nguyền, chúng ta không khỏi động lòng thương hại. Nhưng nếu chúng ta xét mọi sự theo khía cạnh Nhân Quả, chúng ta cũng có thể nhìn thấy con người bất hạnh ấy dưới một hình thức khác. Chúng ta có thể nhìn về dĩ vãng và tưởng tượng người ấy trong một vai trò khác, với một bộ y phục khác và sống trong một thời đại khác hơn bây giờ.

Chúng ta có thể tưởng tượng con người vô phước ấy dưới những nét của một vị lãnh chúa nước Nga hồi thời Nga Hoàng; một vị lãnh chúa có một thân hình cao lớn, lực lưỡng, khỏe mạnh, nhưng lại hung tợn, độc ác và vô nhân đạo. Với những tài sản khổng lồ, giàu sang không kể xiết, ông đã tỏ ra lạnh nhạt dửng dưng trước sự đau khổ của những người nông dân đã làm việc cặm cụi suốt đời để làm giàu cho ỵ Với một thân hình tráng kiện, sức khỏe dồi dào, ông ra hiên ngang hống hách, khinh thường những kẻ yếu đuối, đối xử tàn nhẫn với đàn bà, trừng phạt thẳng tay không chút lòng thương xót đối với những kẻ đã làm mất lòng ông. Đó là hình ảnh cho người của ông trong kiếp trước. Nhìn chung quanh ông, ta thấy những nạn nhân của ông đang sống vất vưỡng, dở chết dở sống trên những vùng hoang vu lạnh lẽo ở xứ Tây Bá Lợi Á, do bởi ông đã dùng quyền lực áp chế để đày ải họ sang xứ này. Ta thấy những trẻ con xanh xao gầy còm, mặt mày ngơ ngác vì đói lạnh, bởi cha mẹ chúng là những nông dân nô lệ, suốt đời phục dịch vị lãnh chúa tàn bạo, nhưng vẫn không đủ cơm ăn áo mặc, vợ con phải chịu đói rách quanh năm.

Khi chúng ta nhìn thấy cảnh tượng kiếp trước của người ấy như thế, một cảnh tượng có thể diễn ra ở bất cứ nơi nào trên thế giới, trong những thời đại đã qua, thì chúng ta biết rằng ông sẽ có lúc phải trả quả báo về những tội ác của ông đã làm. Và ngày nay, chúng ta đã gặp lại ông trong bộ áo của một kẻ hành khất khốn khổ lầm than, thân hình tàn phế, chúng ta có thể nào còn thương hại ông được chăng? Gặp cảnh này, chúng ta đã đứng trước một vấn đề tâm lý, luân lý và xã hội có một tầm quan trọng rất lớn, một vấn đề mà chúng ta cần phải hiểu rõ trong việc xử thế hằng ngày. Người ta đã tìm thấy một phương pháp giải quyết vấn đề này trong chế độ xã hội của một xứ trên thế giới là xứ Ấn Độ.

Vấn đề mà chúng ta nêu ra khi chúng ta vừa mới chấp nhận thuyết Luân Hồi, người Ấn Độ đã từng biết rõ từ bao nhiêu thế kỷ về trước. Người Ấn Độ đã giải quyết vấn đề này bằng cách không can thiệp vào sự hành động của luật nhân quả. Điều này giải thích một phần lớn thái độ thản nhiên của họ đối với những kẻ đau khổ, hoạn nạn, khốn cùng, và cách đối xử đặc biệt mà họ dành cho những người thuộc gia cấp cùng đinh (paria)

Chế độ giai cấp ở Ấn Độ vốn căn cứ trên pháp luật của đức Manou, một luật gia và triết gia danh tiếng của Ấn Độ thời cổ. Cũng như Platon, Ngài tuyên bố rằng theo luật tự nhiên, xã hội loài người chia ra từng thành phần, tùy theo công việc hay chức nghiệp của mỗi người. Điều huấn thị này về sau trở nên một tập quán xã hội, và tập quán đó dần dần kết tinh lại thành ra một trật tự về giai cấp. Truyền thống, phong tục và thói dị đoan của một dân tộc gồm đến chín mươi phần trăm những kẻ thất học, đã làm cho tập quán nói trên trở thành bất di dịch, không thể sửa đổi.

Gia cấp hạ tiện gồm thành phần những người làm những công việc ti tiện, thấp kém nhất trong xã hội. Giai cấp này về sau trở nên thành phần "Bất khả tiếp xúc" (intouchable), do sự lý luận rằng nếu họ đầu thai làm những người thuộc giai cấp hạ tiện đó, là để trả quả báo về những việc làm xấu xa và tội ác của họ trong một kiếp trước. Bởi sử lý luận đó, người ta không can thiệp vào luật Trời khiến cho họ phải lầm than khổ sở, mà cứ dửng dưng trước sự hành động tự nhiên của Luật Quả Báo.

Nếu chúng ta chấp nhận lý lẽ thứ nhứt của người Ấn Độ, theo đó Luật Nhân Quả đặt để ta vào một hoàn cảnh hay thân phận thích nghi, tương xứng với nghiệp quả của mình, và nếu chúng ta cũng chấp nhận luôn lý lẽ thứ hai của họ về đẳng cấp trong xã hội, thì ta thấy rằng lập luận của họ rất vững chắc và rất có lý. Lập luận ấy dầu rằng có cái lý lẽ vững chắc, nhưng nếu nó đưa chúng ta đi đến kết luận là phải dửng dưng trước sự đau khổ của kẻ khác, thì đó thật là một điều đáng buồn! Tuy thế, ta cũng thấy có những người luôn luôn cố gắng hoạt động trong các công trình cứu tế để làm dịu bớt sự đau khổ của nhân loại. Đó là bởi vì họ có lòng nhân từ bác ái đến một mực độ rất cao.

Thấy vậy, lòng bác ái tức là tình thương bao la phủ nhận lý luận của những kẻ thản nhiên, bất can thiệp, mặc dầu lý luận này bề ngoài dường như có lý. Chính đó là ý nghĩa lời răn dạy của đấng Christ, vì Ngài đã dành trọn cuộc đời để đi truyền giáo và chữa bịnh cho người thế gian mê lầm và đau khổ. Cuộc đời của đấng Christ đã chứng minh rằng dầu cho tội lỗi của con người nặng đến đâu, ta cũng phải luôn luôn đưa ra một cánh tay cứu giúp.

Cuộc đời của ông Edgar Cayce tuy không thể đem so sánh với đấng Christ, nhưng ông cũng là một người cái tinh thần cứu độ chúng sinh giống như đấng Christ, vì trong bốn mươi năm, ông đã hoạt động với một tấm lòng nhiệt thành và bác ái để cứu giúp những người đau khổ từ thể xác đến tinh thần. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đều xác nhận rõ ràng quan niệm này, là đời người bị chi phối và cai quản bởi một định luật rất khoa học, đó là Luật Nhân Quả mà phương Đông đã biết rõ từ lâu đời. Đồng thời, những cuộc soi kiếp đó cũng xác nhận định luật bác ái nhân từ và lý tưởng phụng sự, là những điểm cốt yếu trong giáo lý của mọi tôn giáo.

Không cần biết về tội lỗi của người khác ra sao trong những kiếp quá khứ, chúng ra nên cố gắng giúp đỡ họ, và đừng lầm tưởng rằng làm như thế, chúng ta có thể can thiệp vào sự hành động của Luật Nhân Quả. Ngoài ra, chúng ta nên hiểu rằng dửng dưng nguội lạnh trước sự đau khổ của kẻ khác cũng là một tội ác mà chúng ta phải chịu quả báo về sau này. Một khía cạnh khác của vấn đề tế nhị này là con người có quyền tự do ý chí trong mọi hành động, và không phải tất cả mọi việc lớn nhỏ trong đời đều đã được định saün từng chi tiết theo một cái định mệnh bất di dịch.

Bởi đó, sự cố gắng của chúng ta để giúp đỡ một người đau khổ hoạn nạn, không phải chỉ là một kinh nghiệm bản thân cần thiết cho ta để tự cải thiện lấy mình trong sự thực hành tình bác ái mà thôi, nó còn là một điều quý báu có thể làm thay đổi cả một thái độ tinh thần, và cả một cuộc đời của đương sự. Xét cho cùng, ta nên hiểu rằng nghiệp quả là do tư tưởng tạo nên. Sự sinh hoạt trái đạo, cách xử thế sai lầm, nguyên nhân là do sự lầm lạc trong tư tưởng. Bởi đó, người ta chỉ có thể hoàn toàn thay đổi thái độ đối với cuộc đời bằng ách hoàn toàn cải tạo tư tưởng. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã tuyên bố một cách rất đúng rằng tư tưởng chính là sức mạnh sáng tạo, và trừ phi có sự thay đổi tư tưởng ở tự nơi mình, người ta không thể nào cứu chuộc và sửa đổi lại những nghiệp quả xấu đã gây từ trước.

Hiểu theo một ý nghĩa thần bí, các tôn giáo cho rằng Thượng đề sáng tạo ra con người; những theo ý nghĩa thiết thực thì con người tự sáng tạo lấy mình! Luật Nhân Quả là cái định luật theo đó con người tự tạo nên cái thân phận sang hèn, may rủi, tốt xấu, vui buồn của chính mình. Luật Nhân Quả đặt con người trong sự kiềm tỏa, trói buộc và đặt ông trong vòng kỷ luật để cho ông tự tu tiến lấy bản thân, nhưng đồng thời nó cũng là kẻ giải phóng và là một người bạn tốt. Biết rõ điều này, người Phật tử luôn luôn giữ thái độ hồn nhiên, thanh thoát trước mọi nghịch cảnh, mọi nỗi thăng trầm chìm nổi của cuộc đời và nói: "Phật Pháp là chỗ trú ẩn của tạ"

Đối với những người thông hiểu mục đích tốt lành của mọi định luật thiên nhiên trong Trời Đất, thì câu nói đó cũng có ý nghĩa đầy đủ với những tính cách an ủi và khích lệ như câu tương tự của người tín đồ Gia Tô Giáo: "Chúa Trời là niềm vui, là Ánh Sáng, và là đấng Che Chở của tạ"

24 - Một Phương Châm Xử Thế
Trong thời gian chữa bệnh giúp đời, ông Cayce đã nhận được nhiều thơ tín từ khắp nơi trên thế giới gửi đến. Đọc những bức thư đó, người ta không khỏi lấy làm buồn tủi, nghẹn ngào và động lòng trắc ẩn trước bao nỗi đoạn trường, đau khổ, lầm than của nhân loại. Ông Cayce đã không quản công lao khó nhọc, làm việc không tiếc thân, bất kể ngày đêm, để giúp đỡ tất cả mọi người bằng những cuộc soi tiền kiếp, giúp đỡ và bày vẽ phương pháp điều trị bịnh tật, cùng phương pháp giải quyết những nỗi khó khăn đau khổ trong cuộc đời của họ.

Có những bức thư trình bày những nỗi thắc mắc, băn khoăn của đương sự, chẳng hạn như của một thiếu phụ viết như sau: "Tôi tự hỏi không biết ông có thể dành cho tôi một cuộc soi kiếp để giúp ý kiến về đời sống tình cảm của tôi chăng? Tôi thật không còn biết tính sao? Tôi muốn tái giá và hy vọng có một gia đình ấm cúng, hạnh phúc, nhưng tôi e ngại không biết có lấy được người chồng vừa ý hay không, hay là có lẽ tôi không nên nghĩ đến việc tái giá nữa? Và chắc có lẽ cũng không có ai thương yêu tôi?"

Một người đàn bà khác viết: "Làm sao cho chồng tôi thay đổi tính tình, để cho gia đình tôi được sống trong bầu không khí yên vui và hạnh phúc?"

Những người viết thơ bày tỏ tâm sự, dầu là thông minh hay dốt nág, giàu hay nghèo, sang hay hèn, tất cả đều tiết lộ cho ta thấy sự thắc mắc băn khoăn của nhân loại. Dầu họ là những người nhút nhát, tánh tình khép chặt, cô đơn, bệnh tật, thất bại trên đường đời hoặc gia đình rối rắm, họ đều có một nguyện vọng chung, là cải tiến tình trạng hiện tại để làm cho số phận của họ trở nên tốt đẹp hơn. Trong hầu hết mọi trường hợp, họ đều được cho biết rằng nguyên nhân tình trạng đau khổ của họ là do chính họ tự gây ra. Đó là điểm đầu tiên mà đương sự phải nhìn nhận. Xét cho cùng, mỗi người tự tạo lấy những khó khăn đau khổ cho mình, và bởi đó chính họ phải tự giải quyết những nỗi khó khăn đau khổ đó.

Bất luận sự khó khăn trắc trở đó như thế nào, như khổ về sự cô đơn; hoặc vì người chồng tánh tình xung khắc, không thể cùng nhau hòa hợp; vì một đức con hư hỏng; một hoàn cảnh chật hẹp tù tùng chẳng hạn; chúng ta chỉ có thể vượt qua được sự khó khăn bằng cách tự sửa đổi lấy tâm tính của mình. Điều cần phải sửa đổi, chính là cái thái độ tinh thần và cách xử thế hằng ngày của chúng ta vậy. Hãy dẹp bỏ tánh hay chỉ trích, chê bai, saün sàng lên án những người chung quanh, tánh thù vặt, kiêu căng, ngã mạn, dửng dưng, lạnh lùng. Hãy trừ bỏ thói ích kỷ, khinh mạn, đố kỵ. Những khó khăn chướng ngại của ta chỉ có thể giải quyết được bằng cách tu sửa tánh tình, tập lấy những đức tính tốt lành, nhân đức, thuộc về địa hạt tâm linh.

Sự giáo dục tâm linh và thay đổi thái độ trong cách xử thế hằng ngày phải được đặt trong khuôn khổ một sự hiểu biết sâu xa về Vũ Trụ, cùng những mối liên quan về Vũ trụ và Con Người. Quan niệm do biểu lộ rõ rệt trong các tập hồ sơ Cayce và những cuộc soi kiếp mà ông đã thực hiện cho hằng trăm người. Quan niệm ấy gồm có những đường lối đại cương như sau:

Có một Quyền Năng Sáng Tạo vô biên mà người ta gọi là Thượng Đế.

Mỗi linh hồn là một phần tử của Thượng Đế.

Đời người có một mục đích, và diễn ra một cách liên tục. Đời sống con người vẫn tiếp tục luôn luôn sau khi chết.

Đời người được cai quản bởi những định luật Luân Hồi và Nhân Quả:

"Thực hiện lòng bác ái tức là thuận theo Cơ Trời."

"Ý chí con người tạo nên định mệnh"

"Tư tưởng có một quyền năng sáng tạo."

"Sự giải đáp cho mọi vấn đề khó khăn là ở tự nơi linh hồn mỗi người... "

Căn cứ trên những điều ấy, là những điều răn dạy sau đây:

"Ta hãy bắt đầu tìm hiểu những mối tương quan giữa mình và những Sức Mạnh Sáng Tạo của Vũ Trụ, hay Thượng Đế."

"Ta hãy đặt mục đích và lý tưởng trong đời mình, và hãy cố gắng thực hiện những lý tưởng đó."

"Hãy hoạt động, kiên nhẫn, và vui vẻ luôn luôn."

"Đừng nghĩ đến kết quả của việc làm, hãy dâng mọi kết quả lên Thượng Đế."

"Đừng trốn tránh những khó khăn xảy đến cho tạ"

"Hãy làm mọi việc lành để giúp đỡ kẻ khác."

Nhiều người phương Tây không chấp nhận quan niệm của những tôn giáo Phương Đông về Vũ trụ và nhân sinh, nhưng quan niệm này đã được những cuộc soi kiếp của ông Cayce xác nhận. Tuy nhiên, mặc dầu họ không thể chấp nhận quan niệm đó vì thiếu bằng chứng khoa học xác đáng, chặt chẽ hơn là những bằng chứng trong hồ sơ Cayce, họ cũng không thể phủ nhận một cách dễ dàng tánh cách đúng đắn, hợp lý và làm thỏa mãn lý trí của thuyết Luân Hồi, cùng lập luận vững chắc và thỏa đáng của thuyết ấy trên các phương diện tâm lý, luân lý và khoa học. Đối với người nào có thể chấp nhận thuyết Luân Hồi, thì nó đem lại cho họ một lẽ sống mới, một kim cỉ nam để soi hướng vàdìu dắt họ trên đường đời, và một sự quả quyết chắc chắn rằng họ sẽ không bị lạc bước trong chốn mê đồ gồm những sức mạnh tối tăm, cuồng loạn, và không mục đích.

25. Lời Kết
Trong những trang vừa qua, chúng ta đã đi hết một quãng đường dài, bắt đầu từ một câu chuyện nhỏ xảy ra trong một phòng khách sạn ở Dayton, Ohio, Hoa Kỳ, khi ông Edgar Cayce dùng Thần Nhãn trong lúc thôi miên, lần đầu tiên cho biết Luân Hồi là một điều có thật trong cõi Thiên Nhiên. Câu chuyện ấy và những chuyện tương tự khác nối tiếp theo sau về vấn đề Luân Hồi có vẻ dường như một nền tảng chưa đủ vững chắc để xây dựng trên đó cả một tòa lâu đài tâm lý và triết lý mà chúng ta đã thấy những nét đại cương trong quyển sách này. Tuy nhiên, xét về lịch sử khoa học, người ta thấy rằng những sự phát minh lớn lao làm đảo lộn cả một thế hệ, dường như chỉ bắt đầu bằng những câu chuyện nhỏ nhặt vô lý. Một cái đùi ếch bị điện giựt và một mẩu bánh mì mốc meo dường như là những sự vật quá nhỏ mọn không đủ dùng để phát minh ra bình điện khí và thuốc trụ sinh (Penicilline) nhưng sự thật đó chính là những nguyên nhân đưa đến hai sự phát minh kỳ diệu trên. Một ngọn đèn lồng đưa lủng lẳng trong một nhà thờ cổ ở một làng nhỏ bên Ý đã đưa ông Galilée đến việc phát minh ra một đồng hồ thiên văn. Một bồn nước tràn đã giúp cho ông Archimede tìm ra một định luật quan trọng về áp lực của chất nước.

Lịch sử đã đưa đến cho ta nhiều thí dụ tương tự. Chúng ta phải nhìn nhận sự thật có thể tìm ra được từ những chỗ rất giản dị tầm thường, và chúng ta cũng sẽ không ngạc nhiên mà thấy người học thức ít ỏi, không tài ba, thiếu văn hóa, nằm trong giấc ngủ thôi miên, lại có thể đưa ra những bằng chứng quan trọng để chứng minh cho một thuyết căn bản lạ lùng về đời sống con người.

Chúng ta hãy tóm tắt những gì đã chứng minh cho sự thật của những cuộc soi kiếp của ông Cayce, ngoài ra vô số những bằng chứng hiển nhiên khác về sự thật của hiện tượng Thần Nhãn. Có tất cả bảy điểm chính sau đây:

1.- Sự phân tách tâm lý và diễn tả hoàn cảnh bên ngoài của những người hoàn toàn xa lạ Ở cách xa hàng trăm cây số; và trong hằng ngàn trường hợp, đã tỏ ra đúng ý như thật.

2.- Sự tiên đoán về những thiên tư, khả năng và những điểm khác của đương sự, đã được chứng thực trong nhiều năm sau, không những cho người lớn, mà cũng cho trẻ sơ sinh.

3.- Những đặc điểm về tánh tình của đương sự được truy nguyên một cách hợp lý từ những kinh nghiệm thâu nhập ở các kiếp trước.

4.- Những lời tiên đoán đều đúng và không hề trái ngược nhau, không những trên nguyên tắc đại cương mà thôi, mà cũng trong từng chi tiết nhỏ nhặt, trong hằng trăm các cuộc soi kiếp khác nhau, và ở những thời ký khác nhau.

5.- Những tài liệu lịch sử lu mờ đã được kiểm điểm lại bằng cách tra cứu các văn khố; những tên tuổi của các nhân vật vô danh đã được tìm thấy tại những địa điểm mà các cuộc soi kiếp đã nêu ra.

6.- Những cuộc soi kiếp cùng những lời khuyên mà đương sự đã chấp nhận và nghe theo, đã giúp cho nhiều người thay đổi cuộc đời của họ về các phương diện tâm lý, nghề nghiệp, và sức khỏe thể chất.

7.- Những lời khuyên nhủ và răn dạy có tính cách triết lý và tâm lý trong các cuộc soi kiếp đều hạp với lẽ Đạo, đúng như nền Đạo lý cổ truyền đã từng đem giảng dạy ở Ấn Độ từ nhiều thế kỷ.

Nói tóm lại, đó là bảy điều quan trọng chứng minh cho những cuộc soi kiếp bằng Thần Nhãn của ông Cayce, và xác nhận sự thật về thuyết Luân Hồi. Người ta có thể cho rằng đó chưa phải là những bằng chứng cụ thể và mười phần xác đáng, nhưng nó vẫn có giá trị không kém. Dầu cho lập luận khoa học chứng minh rằng Trái Đất tròn, thì đó cũng chỉ là một sự phỏng đoán mà thôi, chứ chưa có ai đã thật sự thấy tận mắt hình tròn của Trái Đất. Sự thật về hột nguyên tử cũng chỉ là một sự phỏng đoán, chứ chưa có người nào đã thấy tận mắt một hột nguyên tử. Tuy vậy, căn cứ trên những sự ức đoán đó, người ta đã đi du lịch vòng quanh Trái Đất, và đã chế tạo quả bom nguyên tử, mà ảnh hưởng tàn phá mãnh liệt của nó, không ai có thể chối cãi là không có! Như vậy, thật không phải là một điều không tưởng quá đáng mà nói rằng người ta nên bắt đầu có những cuộc sưu tầm và thí nghiệm khoa học về thuyết Luân Hồi, căn cứ trên những cuộc soi kiếp bằng Thần Nhãn của ông Cayce.

Những người chủ trương thuyết Luân Hồi chỉ có thể hy vọng rằng những ai muốn tìm sự giải đáp thỏa đáng cho những điều bí ẩn của đời người, hãy chấp nhận thuyết Luân Hồi như một nguyên tắc cốt yếu cho sự tìm tòi của họ. Họ hãy sống với thuyết ấy, hãy cư xử, hành động thuận chiều với nó trong một thời gian, họ hãy tự xét mình, xét người chung quanh, và nhìn xem cuộc đời thế gian theo những nguyên tắc giản dị nhưng rất có ý nghĩa của thuyết Luân Hồi, rồi họ sẽ nhận thấy rằng đâu là Chân Lý.

Nếu quả thật thuyết Luân Hồi là một định luật của nhân sinh, do đó con người tiến hóa và trở nên Toàn Thiện; nếu quả thật đó là Chân Lý giản dị của cuộc đời, và là cái bí quyết then chốt của sự sống và của vấn đề đau khổ, thì đây là một sự kiện mới, có thể làm đảo lộn trào lưu tư tưởng của thế hệ, và làm thay đổi được cuộc đời của một số rất đông người.

Sự hiểu biết về định luật Luân Hồi sẽ đem đến cho chúng ta một nguồn khích lệ và can đảm. Nó cũng đem đến cho ta một viễn ảnh mới mẻ, tốt đẹp và huy hoàng về Vũ Trụ Nhân Sinh; một sự hiểu biết sâu xa, tế nhị và thâm trầm về cuộc đời, để giúp chúng ra có thể chịu đựng một cách vui vẻ, bình tĩnh và hồn nhiên, tất cả mọi sự thử thách đắng cay và đau khổ của định mệnh.

Hết

Không có nhận xét nào: