Thứ Sáu, 1 tháng 8, 2014

SỰ BẮT ĐẦU CỦA KHOA HỌC TÂM LINH


Nhân loại đã bước qua thế kỷ 21, tri thức của nhân loại đã đạt tới chỗ hiểu được tính chất duy vật khách quan của khoa học đã kết thúc, không còn nữa, thực tế là không có thật.

Tiến trình này đi từ việc khám phá sự bất định của hạt photon (ánh sáng) do De Broglie, nhà vật lý Pháp, nêu ra năm 1923 (hạt photon có biểu hiện khi thì là hạt khi thì là sóng, mà hạt và sóng có thể coi là một cặp phạm trù mâu thuẫn giống như vật chất và tinh thần, nên nhớ nhà vật lý David Bohm coi ánh sáng là hiện tượng tâm lý chứ không phải là vật lý). Khám phá này kết thúc cuộc tranh luận về bản chất của vật chất là hạt hay là sóng, (hạt do Newton chủ trương và sóng do Huygens ủng hộ) đến việc khám phá ra nguyên lý bất định của Heisenberg (Heisenberg presented his discovery and its consequences in a 14-page letter to Pauli in February 1927. The letter evolved into a published paper in which Heisenberg presented to the world for the first time what became known as the uncertainty principle _ Heisenberg trình bày khám phá của mình và các hệ quả của nó trong bức thư dài 14 trang cho Pauli trong tháng 02-1927. Bức thư được công bố trong đó Heisenberg lần đầu tiên trình bày với thế giới về cái mà về sau trở thành nguyên lý bất định) điển hình là không thể xác định đồng thời xung lượng và vị trí của hạt electron,. Những phát hiện này hình thành môn cơ học lượng tử, nhận thức về thế giới chẳng những khác với Newton mà còn khác với Einstein. Rồi đến định lý bất toàn do Kurt Godel khám phá năm 1931, nêu ra sự giới hạn của tất cả tư duy lô gích, tất cả lý học. Einstein cực lực phản đối cơ học lượng tử, ông và hai nhà khoa học khác (Podolsky và Rosen) viết ra bài báo nổi tiếng mà sau này gọi là nghịch lý EPR, họ làm một thí nghiệm ảo để vạch ra sự không hoàn thiện của cơ học lượng tử. Einstein tuyên bố một câu rất nổi tiếng “Chúa không chơi trò xúc xắc với vũ trụ” (God does not play dice with the cosmos), ý ông muốn nói là vũ trụ được sắp xếp theo qui luật trật tự chứ không phải ngẫu nhiên, bất định. Nhưng những thí nghiệm thật tế, chặt chẽ và những khám phá về sau, cho thấy Einstein sai lầm. Alan Turing phát hiện sự ngẫu nhiên trong hiện tượng mà ông gọi là Sự Cố Dừng máy computer (The Halting Problem) Chaitin tiếp tục nghiên cứu sự cố dừng máy và khám phá ra số Omega, đó là một số thực (real number) xuất hiện ngẫu nhiên và không thể tính toán được. Như vậy, người ta có thể nói rằng Chúa chơi trò xúc xắc trong mọi lĩnh vực, từ vật lý (nguyên lý bất định) đến toán học (số omega) và cả trong sinh học (sinh vật đột ngột xuất hiện rất nhiều trong kỷ Cambri, phủ định Cây Sự Sống cũng tức là phủ định thuyết tiến hóa) nhiều sinh vật xuất hiện hàng trăm triệu năm mà không thấy có sự tiến hóa nào.

Các phát hiện lớn trên dẫn tới sự kết thúc của khoa học với tính cách là một bộ môn duy vật khách quan. Vì người ta nhận thấy khoa học vẫn là tùy tiện, ngẫu nhiên, chọn lấy một cái gì đó phù hợp với nhận thức chủ quan của con người rồi nói đó là quy luật khách quan, không hiểu là con người bị các giác quan của mình đánh lừa. Newton, Darwin và Einstein là những trường hợp điển hình. Sai lầm của Einstein chứng tỏ rằng tuy ông nhận thức sâu rộng hơn Newton rất nhiều nhưng vẫn còn chủ quan.

Nhân loại sắp bước vào một cuộc cách mạng khoa học mới. Đó là khoa học tâm linh có liên quan nhiều tới đặc dị công năng. Trước khi đề cập tới cuộc cách mạng khoa học mới, chúng ta hãy điểm lại tình hình nghiên cứu về khoa học tâm linh trên thế giới và cuộc tranh luận dữ dội về vấn đề này qua bài viết của tướng quân Trương Chấn Hoàn (Hội trưởng Hội Nghiên cứu Khoa học Nhân thể Trung Quốc), một người triệt để duy vật chủ nghĩa nhưng cũng sẵn lòng mở cửa cho khoa học tâm linh.

Sách Trung Quốc Bách Khoa Niên Giám năm 1981, trang 367 có giới thiệu tình hình phát triển của đặc dị công năng trong cơ thể con người trong hai năm trở lại, và chỉ ra : “Việc nghiên cứu này được sự quan tâm và đóng góp của không ít các khoa học gia Trung Quốc như Tiền Học Sâm, Kiến Thời, Vương Xương, Triệu Trung Nghiêu…Nhưng cũng có một số người vẫn còn thái độ hoài nghi đối với tính chân thực của đặc dị công năng nhân thể. Sự thực đúng là như vậy.

Mùa thu năm 1981, cuộc nghiên cứu tranh luận về đặc dị công năng nhân thể bộc phát dữ dội. Thực ra hiện tượng nhân thể đặc dị công năng, trong thư tịch cổ của Trung Quốc có ghi chép, trong dân gian cũng có truyền thuyết. Nhiều thầy thuốc Trung Y, sử học gia, nhà khí công đã sớm biết hiện tượng này. Vả lại, cũng không phải chỉ Trung Quốc mới có.

A/ Tình hình chung trên thế giới

Tại Mỹ, việc nghiên cứu về đề tài này đại khái đã bắt đầu từ thập niên 40 của thế kỷ 20, đến thập kỷ 70 đã phát triển khoảng 10 đơn vị tập thể nghiên cứu. Việc nghiên cứu đại thể chia làm ba loại, một là sau khi sự kiện phát sinh, điều tra tại hiện trường; hai là có người cụ thể có công năng đặc dị, biểu diễn tại hiện trường, thậm chí diễn xuất trên vũ đài; ba là trong phòng thực nghiệm, trong điều kiện hết sức nghiêm nhặt, dùng thiết bị khoa học quan sát trắc nghiệm nhân thể đặc dị công năng. Hiển nhiên là loại thứ nhất và loại thứ hai không đạt yêu cầu thực nghiệm khoa học. Nhưng từ thập niên 70 trở về sau, do nguyên nhân xã hội tại Mỹ, người Mỹ ngày càng thích xem biểu diễn và diễn xuất nhân thể đặc dị công năng, đại đa số là săn tìm sự kỳ lạ, khiến cho loại hai nhất thời bộc phát, nhưng người biểu diễn hoặc diễn xuất đặc dị công năng tranh nhau hơn thua ở việc kỳ lạ, lấy giả làm loạn chân, lừa dối người mà thôi. Ở Mỹ lại có một số báo chí trên trang bìa hoặc trang nhất đăng những tít thật kêu, càng tô đậm sự quái lạ, quảng cáo ầm ĩ. Sự việc này phát triển khiến cho các khoa học gia Mỹ phản ứng. Thêm nữa, nhân thể đặc dị công năng phát sinh trên cơ thể người sống, con người bị nhiều nhân tố ảnh hưởng, công năng đôi khi không ổn định, có lúc trắc nghiệm thành công, có lúc thất bại, không giống trắc nghiệm trên vật lý, hóa học hoặc trên vật chất không có đời sống mà trăm lần thí nghiệm đều cho kết quả giống nhau; đối với đặc dị công năng, sự lặp đi lặp lại không phải lúc nào cũng thực hiện được. Ngoài ra đối với các khoa học gia, nhân thể đặc dị công năng vì có tính “quái đản” nên khó tiếp thu.

Tại Tây Âu, khoa học cận đại sau thế kỷ 16, đã kinh qua nhiều lần biến đổi, giống như lực học lượng tử, biến cách của thuyết tương đối, cuối cùng cấu thành hệ thống lý luận khoa học hiện đại, thế nhưng nhân thể đặc dị công năng xem ra vẫn còn xa cách, chưa hội nhập vào khoa học hiện đại. Vì vậy không ít khoa học gia vẫn còn hoài nghi về việc nghiên cứu nhân thể đặc dị công năng. Mặc dù tại Mỹ có thành lập tổ chức học thuật gọi là Hiệp hội Cận tâm lý học (Parapsychological Association). Năm 1969, hội này đã được kết nạp vào Hội Xúc tiến Khoa học Mỹ Quốc (American Association for the Advancement of Science) cũng tức là Hội Khoa học Kỹ thuật Mỹ Quốc. Nhưng cũng giống như Hội Người Mỹ Khoa học (Scientific American), hiệp hội phổ biến khoa học nghiêm túc, cao cấp này lại một mực phản đối việc nghiên cứu nhân thể đặc dị công năng, bài xích cho rằng đó là ngụy khoa học. Vì vậy tại Mỹ, khoa học gia nghiên cứu đặc dị công năng tương đối gặp khó khăn vì không được ủng hộ. Có người nói trong năm 1973, chính phủ Mỹ dành ngân khoảng từ 1 tới 1.5 triệu đô la cho nghiên cứu, còn hiện tại mỗi năm dành 6 triệu đô la cho đề tài này. Hiện tại, 6 triệu đô la chưa bằng một nửa giá của một phi cơ tiêm kích, không phải là kinh phí lớn cho nghiên cứu. Tình hình của các quốc gia tây phương khác cũng tương tự như Mỹ.

Kể từ đầu thập niên 60 , liên tục có người nghiên cứu về nhân thể đặc dị công năng tại các quốc gia tây phương (trong số đó có người là khoa học gia, có người là phóng viên báo chí), phỏng vấn tại Liên Xô và tại các quốc gia Đông Âu khác. Theo giới thiệu của họ, tình hình tại Liên Xô và tại các quốc gia tây phương là giống nhau. Việc nghiên cứu về nhân thể đặc dị công năng chưa được quốc gia thừa nhận. Báo chí tại Liên Xô giới thiệu về hiện tượng đặc dị công năng không phải ít, nhưng các báo này đa số là báo khoa học phổ thông hoặc báo địa phương. Công tác nghiên cứu đều chỉ là hoạt động nghiệp dư của các nhà khoa học, không có sự chi viện của chính phủ. Không chỉ có thế, các báo có uy quyền của nhà nước như báo Sự thật (Pravda) thường có bài lên tiếng bài xích, tình huống bài xích thì tại Mỹ và các quốc gia Tây Âu không có. 

B/ Tình hình tại Trung Quốc

Tháng 5-1981, hội nghị thảo luận khoa học về nhân thể đặc dị công năng toàn quốc triệu tập tại Trùng Khánh. Ngày 8-8-1981, có người tại Đại học Nhân dân Trung Quốc trong khóa giảng mùa hè về “nguyên lý biện chứng duy vật chủ nghĩa” phát biểu diễn giảng về : “Dùng thái độ khoa học đối đãi triết học, giáo dục học_ kiêm luận dùng lỗ tai nhận thức chữ, loại phương pháp đấu tranh này là làm sao có thể khiến một số người công tác trong ngành triết học rời xa biện chứng duy vật chủ nghĩa”. Ngày 11-8-1981, người này tại hội nghị thường niên toàn quốc phổ biến báo chí khoa học và quảng bá học thuật truyền hình, phát biểu phê phán việc tuyên truyền giảng thoại về “lỗ tai nhận thức chữ”. Việc này nhiều lần gây ảnh hưởng tới việc công khai tranh luận về nhân thể đặc dị công năng.

Tình hình này, một mặt, có người trên các tạp chí : “Tri thức là sức mạnh”, “Bách khoa tri thức”, “Nghiên cứu Triết học” , “Trung Quốc Xã hội Khoa học”, đó là các báo toàn quốc, phát biểu một loạt bài đặc biệt, như : “Bình luận về việc tuyên truyền ‘lỗ tai nhận thức chữ’ hơn hai năm nay”, “Duy linh luận, nghiên cứu tâm linh, siêu tâm lý học, nhân thể đặc dị công năng”, “Parapsychology và biến chủng của nó, nhân thể đặc dị công năng”. Và có người còn tự tổ chức xuất bản “Tư liệu điều tra nghiên cứu về vấn đề nhân thể đặc dị công năng” để làm cơ sở cho tiến hành nghiên cứu, phủ định và phê phán. Ngày 24-02-1982 tại Bắc Kinh có triệu tập một hội nghị báo cáo khoa học, có người báo cáo chuyên đề “Phân tích khoa học đối với cái gọi là lịch sử của nhân thể đặc dị công năng”. Ngày 25-02-1982 trên Nhân dân nhật báo có đăng bài tham luận chuyên đề : “Phê phán cái gọi là ‘nghiên cứu và tuyên truyền nhân thể đặc dị công năng’” và đề xuất phê bình bằng hình thức “án đối với kẻ lừa gạt” về “nhân thể đặc dị công năng”. Cho đến nay “Tư liệu điều tra nghiên cứu về vấn đề nhân thể đặc dị công năng” đã xuất bản được 8 kỳ. Ngày 10-07-1982 sau khi xuất bản kỳ thứ 7 và thứ 8, lại có người trên tạp chí “Tri thức là sức mạnh” đăng xong phần thứ 5 và thứ 6 của bài “Bình luận tình hình tuyên truyền hơn hai năm qua về ‘lỗ tai nhận thức chữ’”.

Mặt khác, trên “Tạp chí Tự nhiên” kỳ 7 năm 1981, các đồng chí Tiền Học Sâm, Nhiếp Xuân Vinh, Hạ Sùng Dần có luận văn phát biểu về nhân thể đặc dị công năng, nói rằng đó là tồn tại khách quan. Ban biên tập của Tạp chí Tự nhiên phát hành tài liệu : “Thông tin về nhân thể đặc dị công năng”. Ngày 12-09-1981, Hội Nghiên cứu Khoa học Nhân thể Trung Quốc triệu tập đại hội trù bị toàn thể lần thứ hai tại Thượng Hải. Tháng 12-1981 phân bộ Vân Nam, Tân Cương đề xuất đề án cho hội nghị lần thứ tư, dự bị cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 5, yêu cầu chính phủ phê chuẩn, ủng hộ công tác triển khai nghiên cứu nhân thể đặc dị công năng. Tháng 1-1982 tại Bắc Kinh Hội Nghiên cứu Khoa học Nhân thể Trung Quốc cử hành hội nghị, trù bị thảo luận về Vật lý chuyên nghiệp học thuật liên quan đến nhân thể đặc dị công năng. Từ ngày 16 đến ngày 21-08-1982 đáp ứng theo yêu cầu của Tiến sĩ Puthoff thuộc trung tâm nghiên cứu Đại học Stanford của Mỹ và được sự ủy thác của những nhà nghiên cứu nhân thể đặc dị công năng Trung Quốc, hai người làm công tác khoa học của Trung Quốc, tham gia hội nghị năm thứ 25 của Hội Liên hiệp Tâm lý Đặc dị Mỹ Quốc, triệu tập tại Đại học Cambridge của Anh Quốc. Hai học giả này, tại hội nghị, giới thiệu về nghiên cứu nhân thể đặc dị công năng tại Trung Quốc, được người tham dự nhiệt liệt hoan nghinh và rất coi trọng. Từ ngày 16 đến ngày 20-10-1982 Hội Nghiên cứu Khoa học Nhân thể Trung Quốc trù bị hội nghị toàn thể lần thứ ba mở rộng, triệu tập tại Bắc Kinh.

Tiêu điểm tranh luận về nhân thể đặc dị công năng tại Trung Quốc là : 

1/ Hiện tượng đặc dị công năng trên cơ thể con người có phải là tồn tại khách quan không?

Người phản đối cho rằng : “Nhân thể đặc dị công năng căn bản là không thể được, không cần tiến hành thực nghiệm mới phán đoán được” (“Trung Quốc Xã hội Khoa học” năm 1982, kỳ 2, trang 41). “Các hiện tượng đó căn bản không phải là sự thật, là những sự việc căn bản không thể xuất hiện trong thế giới của chúng ta. Chúng ta là những người theo chủ nghĩa duy vật chỉ thừa nhận thế giới này của chúng ta. Đồng thời, các hiện tượng đó là phản vật lý học (từ đó phản nhân thể giải phẫu học, phản sinh lý học, phản tâm lý học). Các hiện tượng đó chẳng những phản lại các quy luật phổ biến của vật lý học, mà còn phản lại chủ nghĩa duy vật đặt cơ sở trên bản thân vật lý học” (tài liệu “Thảo luận nội bộ” năm 1982, kỳ 7, trang 13 của Phòng nghiên cứu chính sách thuộc Ủy ban Khoa học quốc gia)

Ngược về tháng 3-1979 khi “Tứ Xuyên nhật báo” đăng bài về sự kiện tồn tại nhân thể đặc dị công năng (Em bé Đường Vũ 12 tuổi, dùng lỗ tai nhận thức chữ), sau đó có người phê phán trên báo.

Kể từ tháng 9-1979, “Tự nhiên tạp chí” nhiều lần tường thuật các nghiên cứu trắc nghiệm về nhân thể đặc dị công năng của những người làm công tác khoa học. Ban đầu, tôi cũng không tin rằng lỗ tai có thể nhận ra chữ, đã có tranh luận, nhưng với tinh thần muốn biết mùi vị của trái lê như thế nào thì phải nếm thử, bèn làm trắc nghiệm. Ngày 27-11-1981, tôi làm trắc nghiệm đối với hai thanh thiếu niên, quả nhiên chúng có thể “dùng lỗ tai nhận ra chữ”. Trong các ngày 25 tháng 2, 27 tháng 2, và ngày 9 tháng 3 năm 1982, tại Bắc Kinh, 3 lần tổ chức trắc nghiệm nhân thể đặc dị công năng. Do quần chúng đề nghị dạng thức và trong điều kiện có giám sát, lần thứ nhất, về lỗ tai nhận chữ, viết ra chữ “đinh” 丁, biện nhận không được. Lần thứ hai tăng gia thấu thị nhân thể thì biện nhận được. Lần thứ ba, tiến hành trắc nghiệm với 6 thanh thiếu niên có nhân thể đặc dị công năng khác nhau, phân thành 3 loại công năng : nhận thức chữ, thấu thị cơ thể và di chuyển vật thể, hoàn toàn thành công. Thí nghiệm có hơn 100 đồng chí chính mắt quan sát, sự thực chứng minh nhân thể đặc dị công năng là tồn tại khách quan. Những người phê phán người khác “lấy tai thay cho mắt”, thì rõ ràng chính họ mới là người “lấy tai thay cho mắt”.

Có đồng chí nói với tôi, người tiếp nhận thí nghiệm có người làm giả dối, đó là điều chúng tôi phản đối, cần giáo dục họ thực sự cầu thị, không nên làm giả, không cần phải làm giả. Ngoài ra, trong phương pháp trắc nghiệm, nên làm sao cho căn bản không thể làm giả được.

Có người dựa trên tư liệu điều tra nghiên cứu, chuyên đăng tường thuật những trường hợp làm giả, rốt cuộc cũng không khẳng định được sự thực khách quan tồn tại, phần lớn mang tính phiến diện. Lý luận chắc chắn là rất trọng yếu, nhưng lý luận từ đâu mà ra ? nếu lý luận của bạn không phù hợp với thực tế khách quan, thì phải sửa đổi lý luận cho phù hợp với thực tế khách quan, chứ không phải bẻ cong thực tế khách quan cho phù hợp với lý luận, đúng không ? Nếu tự mình không chịu tiếp xúc với thực tiễn một lần, chỉ lo phí sức phê phán, đề cao tác dụng trọng yếu của lý tính, của tư duy, thì có được sức mạnh gì?

Không phải nói : “Làm lại một lần trắc nghiệm cũng chẳng hại gì sao ?” (mục đích này là rất rõ ràng). Được rồi, nếu có một ngày, dưới sự giám sát công minh chính trực của những người có trách nhiệm, dựa trên sự đồng ý của hai bên với thái độ khoa học nghiêm túc, làm một thực nghiệm với trình tự phương pháp bài bản. Nếu không thành, chúng tôi sẽ tự nhận sai lầm, thất bại nghiêm trọng. Nếu thành công, các anh tính sao ? sẽ tự xử lý thế nào ? Chân lý phải dựa trên kiểm nghiệm thực tiễn ! (Xem hồi 14 sách Siêu nhân Trương Bảo Thắng)

2/ Cho phép hay không cho phép tiến hành tìm tòi nghiên cứu nhân thể đặc dị công năng?

Người phản đối nói : “Nghiên cứu nhân thể đặc dị công năng, kể từ tháng 3-1979 tại Trung Quốc lưu hành một loại linh học trong một thời kỳ” (“Bách khoa tri thức” năm 1982, kỳ 1, trang 22). “ Nghiên cứu cận tâm lý (Parapsychology) và nhân thể đặc dị công năng là ngụy khoa học. Những người nghiên cứu và tuyên truyền chúng đều gọi chúng là khoa học, nhưng mà giới khoa học chúng ta không thừa nhận. Tại nước ngoài, bộ môn ngụy khoa học này tìm cách chen vào hệ thống khoa học, và trường kỳ ‘phấn đấu’ cho mục tiêu này, nhưng trước sau đều không được giới khoa học công nhận”

“Nếu muốn chúng ta, đối với Parapsychology và nhân thể đặc dị công năng, bày tỏ một thái độ về địa vị của chúng trong công tác khoa học tại nước ta, thế thì từ các chi tiết tường thuật giản yếu trên, chúng ta cho rằng có thể đưa ra câu trả lời là hoàn toàn phủ định” (“Trung Quốc Xã hội Khoa học” năm 1982, kỳ 2, trang 39-40)

Nhưng với những người làm công tác khoa học mà đại biểu là Hội nghiên cứu Khoa học Nhân thể Trung Quốc (dự bị) ắt là yêu cầu quyền lợi chính đáng cho những người tòng sự nghiên cứu khoa học nhân thể. Tại Đại học Bắc Kinh, Học viện Sư phạm Bắc Kinh, Đại học Tứ Xuyên, Đại học Trùng Khánh, Đại học Vân Nam, Đại học Vũ Hán, Đại học Cát Lâm, Đại học Công nghiệp Cáp Nhĩ Tân, Đại học Hắc Long Giang, Đại học Giao thông Thượng Hải, Học viện Trung Y Liêu Ninh, Học viện Trung Y Trường Xuân, Học viện Trung Y Vân Nam, Y Học viện Giai Mộc Tư, Đại học Y Khoa Bạch Cầu Ân, và nhiều đơn vị khác, đều có hoạt động nghiệp dư liên quan đến nhân thể đặc dị công năng, được các nhân sĩ hữu quan đồng tình tán thành và trợ giúp.

Liên quan tới việc tranh luận về nhân thể đặc dị công năng, cũng có sự quan tâm của một số học giả nước ngoài. Hong Kong “Đại Công Báo” ngày 23-01-1982 bản thứ tư, tường thuật, tại Hong Kong, trong một tụ điểm ăn trưa “có thực khách đề xuất vấn đề ‘nhân thể đặc dị công năng’dẫn đến tranh luận. Giáo sư Dương (chỉ Dương Chấn Ninh, giải Nobel Vật lý 1957) cười nói, thực ra về phương diện này tại Mỹ Quốc, đã tiến hành nghiên cứu hơn 30 năm rồi, cho đến nay vẫn chưa đưa ra được một vài căn cứ đủ để giúp làm sáng tỏ vấn đề. Ông cho rằng Trung Quốc tiếp tục nghiên cứu nhân thể đặc dị công năng cũng chẳng hại gì, nhưng tốt nhất là hạn chế trong phạm vi dân gian và nghiên cứu khoa học, các nhân sĩ tầng lớp trên có lẽ không cần biểu thị nhiều ý kiến, để khỏi “nghiêm trọng hóa” vấn đề. 

C/ Tổng Kết

Tóm lại, cuộc tranh luận về nhân thể đặc dị công năng tại Trung Quốc và nước ngoài cũng có những chỗ giống nhau, việc phát sinh tranh luận trong nước cũng không có gì lạ. Nhưng Trung Quốc là nước xã hội chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác làm tư tưởng chỉ đạo, có trung ương đảng lãnh đạo xác đáng, không cần tranh luận tới vài chục năm, mới giải quyết được hoàn toàn vấn đề. Đầu tiên cần phải xác minh, chúng tôi phản đối các hoạt động giả dối mê tín. Chúng tôi cũng phản đối các ấn phẩm xuất bản tường thuật khoa đại không có trách nhiệm, nhưng cũng không thể vì mắc nghẹn mà bỏ ăn. Cho rằng tuyên truyền và nghiên cứu nhân thể đặc dị công năng có thể dẫn tới hoạt động mê tín, là lập trường không vững, việc này so với việc không thể để giai cấp tư sản tự do hóa, quy tội với lý do giải phóng tư tưởng là một kiểu giống nhau. Chúng tôi chủ trương nghiêm túc trong công tác nghiên cứu khoa học, khuyến khích, giúp đỡ và chi viện, làm tốt việc hỗ tương giao lưu. Công tác tuyên truyền cần thực sự cầu thị, hướng dẫn chính xác, chú ý hiệu quả về mặt xã hội. Rất nhiều người không tin nhân thể đặc dị công năng, việc này cũng không có gì lạ, đều có thể lý giải. Nhưng chúng tôi không đồng ý dùng phương pháp chụp mũ, cứ lấy ý riêng của mình mà nói thành ngụy khoa học. Phải xuất phát từ sự thật, xuất phát từ nguyên tắc khái niệm, đây là điểm phân kỳ trong tranh luận của chúng ta, lấy thủ đoạn hành chính can dự vào nghiên cứu khoa học là xuẩn động, không thể lặp lại mãi. Trong quá khứ lấy phê phán chủ nghĩa tương đối mà phê phán thuyết tương đối, còn phê phán di truyền học của Mendel (Gregor Johann Mendel_1822-1884) và Morgan (Thoman Hunt Morgan, nhà sinh vật học và di truyền học Mỹ), phê phán khống chế luận (systems control do Norbert Wiener _1894-1964_ chủ trương, ông là nhà toán học ứng dụng Mỹ, cũng được coi là người khơi nguồn cho điều khiển học_Cybernetics ), chúng ta vì vậy mà bị thiếu sót và đối với công tác nghiên cứu khoa học, bị tổn hại không ít.

Nhân thể đặc dị công năng phải chăng là tồn tại khách quan, chỉ cần tôn trọng biện chứng duy vật luận và nhất là tôn trọng thực tiễn, tìm người có đặc dị công năng, trắc nghiệm theo phương pháp khoa học là thật hay giả, kết luận không cần biện luận cũng tự rõ, không cần phải phí quá nhiều bút mực môi lưỡi. Khó khăn nhất và tốn nhiều công sức nhất là giải thích khoa học như thế nào về đặc dị công năng và ứng dụng nó cho lợi ích của chúng ta.

Có người nói, nếu như thực nghiệm là chân thực, vậy thì đối với toàn bộ lý luận khoa học phải bổ sung hoặc đánh giá làm mới lại, thậm chí toàn bộ hoặc một bộ phận phải sụp đổ, việc này đối với một số định luật khoa học là xung khắc toàn diện, đó không phải là việc tệ hại sao ? Chúng tôi cho rằng đó chính là ý nghĩa trọng yếu của nó đối với sự phát triển khoa học tự nhiên (bao gồm cả khoa học nhân thể). Việc này trong lịch sử phát triển của khoa học thường thấy không ít. Vì vậy không nhất thiết phải ôm mãi trong lòng là tất yếu phải có căn cứ “khoa học”(Bởi vì có những chỗ khoa học còn chưa hiểu hết). 

Có người nói, nó đối với triết học cũng tạo thành xung khắc toàn diện. Khoa học tự nhiên hiện đại, công trình kỹ thuật, cho đến sự tiến triển nhanh chóng của khoa học xã hội đều sớm hướng đến sự “khiêu chiến” với chủ nghĩa Mác chăng ? Không phải là có vấn đề trong thông tin học, hệ thống luận và khống chế luận đó sao ? Chủ nghĩa Mác Lê hoàn toàn có năng lực “ứng chiến”, hướng dẫn chỉ đạo khái quát, đồng thời tự phát triển. Nhân thể đặc dị công năng cũng không ngoại lệ, nó chung quy cũng do vật chất sản sinh thôi, là một loại sức mạnh vật chất, chỉ có điều là cần phải thâm nhập vào hình thức tồn tại và vận động của nó, và tìm ra dạng quan hệ giữa vật chất và tinh thần mà thôi. Sự việc này cũng cần theo sự chỉ đạo của chủ nghĩa Mác Lê, thực hành nghiên cứu tổng hợp nhiều bộ môn khoa học (như sinh lý, sinh vật, vật lý, hóa học, tâm lý, y học v.v…) tổ chức hiệp đồng công phá cửa ải, len lỏi thăm dò thực hiện công tác nghiên cứu khoa học.

Trung Quốc được trời hậu đãi, lịch sử lâu dài, nhân thể đặc dị công năng từ xưa sớm đã được ghi chép, di sản văn hóa vô cùng phong phú. Một số người làm công tác khoa học kỹ thuật, đem lý luận Trung Y, kết hợp với khí công và nhân thể đặc dị công năng mà nghiên cứu, vận dụng thành tựu của khoa học hiện đại, đối với việc phát huy di sản của tổ quốc, rất có ý nghĩa quan trọng.

Nhân thể đặc dị công năng, liệu có cống hiến cho chương trình 4 hiện đại hóa của Trung Quốc (công nghiệp, nông nghiệp, quốc phòng và khoa học kỹ thuật) không ? Cái đó do trình độ nỗ lực của chúng ta quyết định. Các dạng thức đặc dị công năng hãy còn chưa được hệ thống hóa, thu thập chỉnh lý và nghiêm túc giám định. Nếu cứ để trạng thái tự phát, sẽ không tránh khỏi có chỗ không thật hoặc khoa đại, vì vậy cần phải sàng lọc, khử thô thủ tinh, bỏ giả tồn chân, hạ thủ thêm công phu, nắm bắt điển hình để có đột phá. Ví dụ con người có thể sáng tạo máy tính điện tử có khả năng tính toán siêu việt hơn khả năng tính toán của bản thân con người, nhưng muốn làm nên một cỗ máy có kết cấu tinh xảo như bộ não của con người, cần nỗ lực rất lớn, việc này cũng không trở ngại, giống như chúng ta đem chẩn đoán Trung Y kết hợp đồng thời với máy tính điện tử vậy, khiến nó có thể khám bệnh. Nhân thể đặc dị công năng cũng nên làm như thế. Công năng thấu thị có thể cùng đối chiếu với các thiết bị y học hiện đại, chỉ cần chúng ta thâm nhập vào, tích lũy nhiều tư liệu, thăm dò về các phương diện, là rất có ý nghĩa. Thêm nữa, nghiên cứu nhân thể đặc dị công năng, quan trọng nhất là ý nghĩa khoa học của nó, khoa học nhân thể hãy còn nhiều lĩnh vực còn chờ khai phá, những chỗ chưa nắm được còn rất lớn, nhiệm vụ còn nhiều và gian nan.

Trung Quốc thực hiện bốn hiện đại hóa nhờ vào các công ty xí nghiệp đồng tâm hiệp lực, cùng nhau phối hợp, điều động tất cả nhân tố tích cực, hội thành dòng chảy chung khổng lồ, trong đó bao gồm nhân thể đặc dị công năng, đều phục vụ cho bốn hiện đại hóa, nhất định sẽ mở ra cục diện mới, thì có gì là không tốt chứ ? Xem thế thì sự bày tỏ của chúng tôi ắt là thích đáng.

Kiên trì lập trường của chủ nghĩa Mác, quan điểm, phương pháp, quán triệt chấp hành kỳ họp thứ ba của Đại hội Đảng lần thứ 11, cho đến các nghị quyết của Đảng trong Đại hội lần thứ 12, chỉ có những sự vật chưa biết, chứ không có sự vật không thể biết, đó là niềm tin kiên cường của chúng ta.

“Trong khoa học, không có con đường lớn bằng phẳng, chỉ có con người không sợ lao khổ men theo con đường cao chót vót, vịn vách núi mà đi, thì mới có hi vọng lên tới đỉnh cao đầy ánh sáng”, “Đi theo con đường của bạn chọn, mặc cho người khác nói gì thì nói!”

Nhân thể đặc dị công năng là một bộ môn liên quan tới tâm linh, nghiên cứu nó như một khoa học vật lý hay tâm lý thông thường không thể có kết quả, như Dương Chấn Ninh, nhà khoa học đoạt giải Nobel Vật lý năm 1957 đã nói. Điều trớ trêu là môn khoa học tâm linh này lại do một ông tướng duy vật chủ nghĩa phát động, lý do là vì tại Trung Quốc có sự xuất hiện của 3 nhà đặc dị công năng nổi tiếng là Trương Bảo Thắng, Hầu Hi Quý và Nghiêm Tân, đủ sức thuyết phục Đảng Cộng sản.

Khoa học tâm linh hướng tới điều gì ?

- Mở ra những chiều kích mới của không gian thời gian, thấy được những cõi giới mà hiện nay chỉ có một số rất ít người thấy được, ví dụ cõi trời của chư thiên, cõi âm của vong linh người đã chết.

- Du hành được trên những chiều kích mà hiện nay là bất khả, ví dụ du hành tới thế giới quá khứ, du hành tới thế giới tương lai. Nên hiểu chiều kích mới của thời-không khác xa quan niệm hiện thời của chúng ta. Quá khứ không phải là đã qua không còn nữa, cũng như tương lai không phải là chưa xảy ra. Chính vì vậy mà con người mới có thể du hành ngược xuôi trong thời không.

- Mở ra khả năng chế tạo computer lượng tử và sử dụng công cụ này thực hiện vận tải lượng tử (quantum transportation). Nếu thành công thì con người đi tới Sao Hỏa cũng không mất thời gian vì ứng dụng được tính bất định xứ (nonlocality) của lượng tử, giống như trong hiện tượng vướng víu lượng tử (quantum entanglement). Thân thể và đồ vật được phi vật chất hóa và chuyển đi với tốc độ của ý niệm. Các nhà đặc dị công năng đã thực nghiệm được điều này.

- Mở ra khả năng sử dụng năng lượng vô hạn. Vì như Craig Hogan nói, vũ trụ là số, như vậy năng lượng cũng là số. Con người sẽ sử dụng năng lượng như chúng ta hiện nay đang sử dụng các bit thông tin để tạo ra muôn vàn ứng dụng. Như vậy sẽ không còn lo thiếu năng lượng hay thiếu không gian sinh tồn, vì con người khi đó có khả năng tạo ra mọi thứ theo ý muốn. Một trong những phát minh kỳ diệu loại này đã manh nha. Đó là máy in 3D. Thay vì in hình ảnh trên tờ giấy, máy có thể tạo ra một mô hình hoàn chỉnh trong không gian 3 chiều bằng chất nhựa dẽo dựa vào ảnh toàn ký của vật (hologram).

Máy in 3D tạo ra mô hình vật thể 3 chiều

Kết quả là con người không còn quan tâm tới việc tranh giành lãnh thổ, biển đảo hay nguồn năng lượng vì họ có khả năng tạo ra mọi thứ một cách vô hạn. Như vậy thế giới sẽ hòa bình vì không cần thiết phải tranh giành nữa. Không ai còn nghèo khổ, đói rách hay chết bất đắc kỳ tử, vì khoa học tâm linh là toàn năng, có thể điều khiển lượng tử theo ý muốn. Ví dụ một người bị chặt đứt đầu, không sao cả, khoa học tâm linh có thể ráp lại, hoàn hảo như chưa hề bị chặt. Điều này không phải là hoang đường, hiện nay một người có đặc dị công năng như Hầu Hi Quý cũng có thể làm được. Đây là câu chuyện có thật 100%.

Mùa thu năm 1984, Hầu Hi Quý cùng vợ là Hạ Linh Na đến Du Huyện thăm người bạn cũ, trước là đến nhà của Ngô Tam Dư. Hôm ấy, vợ của Ngô Tam Dư vừa mới sinh con không bao lâu, còn nghỉ hộ sản một tháng, ngẫu nhiên trùng hợp với lúc Lưu Tư Lý của Công an Cục Du Huyện đến thăm hai mẹ con. Thấy vợ chồng Hầu Hi Quý có vẻ phong trần bước vào nhà, mọi người rất vui mừng. Lưu Tư Lý đã sớm nghe Ngô Tam Dư kể qua về những chuyện “thần thoại” của Hầu Hi Quý, hôm nay may mắn được gặp, trong lòng thầm vui mừng. 

“Đã sớm nghe qua Tam Dư nói về đại danh của ông, hôm nay được gặp ông, thật là hân hạnh, xin cho tôi được mở rộng tầm mắt.” Lưu Tư Lý tràn đầy hi vọng, cười hi hi nhìn thẳng vào Hầu Hi Quý, nói.

Hầu Hi Quý từng có lúc bị giam tại Công an Cục thành phố Trường Sa vài tháng, nói gì thì nói, cũng có chút không tự nhiên, thấy Lưu Tư Lý mặc sắc phục công an, bỗng nhiên phát sinh ý nghĩ “hiển lộ công phu”, để cho anh ta khỏi coi thường người khác. Trong lúc chờ câu trả lời thì Lý Bỉnh Hiền của Cục Công an và Tạ Sơ Sinh cũng đồng thời bước vào, mọi người chào và thăm hỏi nhau rồi mới an tọa, Ngô Tam Dư mang trà ra.

“Các ông đến thật là tốt.” Hầu Hi Quý cầm chén trà để xuống bàn, sau đó nhìn thẳng vào Lưu Tư Lý, nói “Ông muốn tôi hiển lộ vài chiêu, cũng được, sẵn dịp để cho các ông thấy được một dạng công phu.”

Nói xong, Hầu Hi Quý đứng dậy, đưa bàn tay to lớn về phía Ngô Tam Dư : “Có dao xắt cải tốt không ? hãy mang ra một cây.”

Ngô Tam Dư không hiểu hết ý, vội vào nhà bếp lấy một cây dao xắt cải bén đưa cho Hầu Hi Quý.

“Có vị nào tình nguyện đến tham gia trò chơi này ?” Hầu Hi Quý quét mắt nhìn mọi người, nói, “Cây dao này rất bén, một dao chém rơi đầu là chuyện dễ dàng, nhưng mà đừng có sợ, bảo đảm là khi anh vào còn sống thì khi anh ra vẫn sống.”

Nghe Hầu Hi Quý muốn chơi trò chém đầu, mọi người nhìn nhau lấm lét, không ai dám đáp ứng.

“Nhát gan thế” Hầu Hi Quý khịt khịt mũi không thèm chấp, nhìn một vị khách trẻ tuổi của Ngô Tam Dư, nói “Anh đến đây, bảo đảm là anh không sao cả.”

Nói xong, một tay nắm đầu tóc anh thanh niên, một tay vung dao… …

Vợ của Ngô Tam Dư thấy Hầu Hi Quý muốn chém thiệt, sợ hãi, nhanh chóng quay mặt đi, quay lưng về phía mọi người.

Chỉ thấy ánh dao lóe lên, tay trái của Hầu Hi Quý đưa lên, anh thanh niên quả nhiên đầu lìa khỏi thân. Nhìn cái đầu, sắc diện không thay đổi, mắt nhìn tứ phía, trên cổ không có máu. Nhìn cái thân, vẫn ngồi thẳng trên ghế như cũ, trên cổ cũng không có vết máu. Mọi người vô cùng kinh hãi, lại thấy Hầu Hi Quý bỏ dao xuống, hai tay cầm cái đầu lâu đặt ổn định lên cổ anh thanh niên, sau đó dùng tay vỗ lên vết dao chém xoa một vòng.

“Xong rồi, đừng có sợ, có thể xem được rồi.” Hầu Hi Quý nhẹ nhàng nói, hiển nhiên là nói cho vợ của Ngô Tam Dư nghe.

Lúc nhìn anh thanh niên, anh ta đang đưa tay sờ vào cần cổ, mắt nhìn tứ phía, có vẻ như không hiểu rõ lắm đã phát sinh ra sự việc gì. Ngô Tam Dư hỏi anh ta có cảm giác thế nào, anh ta đáp giống như bị kiến cắn, còn những cảm giác gì khác thì hình như không cảm thấy. Lưu Tư Lý, Lý Bỉnh Hiền làm trong ngành công an đã lâu, thấy người chết không ít, còn việc giống như hôm nay, người bị chém đứt đầu mà vẫn sống, thì từ lúc sinh ra tới nay mới thấy lần đầu. Hai người vừa kinh ngạc vừa vui, chỉ nhìn chăm chăm vào anh thanh niên : Kinh ngạc vì sợ xảy ra sự cố, mừng vì được mở rộng kiến thức, không uổng công tới nhà họ Ngô.

Hầu Hi Quý chém đầu thật chứ không phải làm ảo thuật, nhưng ông có khả năng dùng tâm linh điều khiển lượng tử để đạt được hiệu ứng mong muốn.

Tóm lại khoa học tâm linh có khả năng làm những điều mà hiện nay con người còn xem là chuyện viễn tưởng hay thần thoại.

Người Phật giáo tin rằng có một thế giới như vậy ở cõi Tây Phương Cực Lạc do Đức Phật A Di Đà sáng lập. Trên đời cũng đã có người được phước phần đi đến đó rồi trở về kể lại. Đó là Pháp sư Khoan Tịnh.

Khoan Tịnh Đại Pháp Sư ra đời lúc 10 giờ mùng 7 tháng 7 năm giáp Tý (1924). Ngài ra đời trong căn nhà số 140 đại lộ Thành Quan Trấn Đông thuộc huyện Bồ Điền, Tỉnh Phước Kiến, Trung Quốc. Là một hộ cư sĩ Phật giáo tên thật là Phan Kim Vinh. Ngày 25-10-1967, đó là thời kỳ diễn ra cuộc “cách mạng văn hóa” ở Trung Quốc, pháp sư nhập định trong động Di Lặc, núi Cửu Tiên, dãy Quế Lạc, Công Xã Thượng Dõng Huyện Đức Hóa Tỉnh Phước Kiến, và thấy mình được Bồ Tát Quán Thế Âm dẫn đến cõi Tây phương của Phật A Di Đà. Pháp sư thấy mình thăm viếng cảnh giới Tây phương chưa tới một ngày đêm (khoảng 20 tiếng đồng hồ) nhưng người trên thế gian thấy ngài bỗng nhiên mất tích từ ngày 25-10-1967 đến ngày 8-4-1973 mới thấy ngài xuất hiện trở lại, tính ra ngài đã biến mất trong 5 năm 6 tháng. Thế gian lúc ấy không thấy dấu tích Pháp Sư đâu, đổ xô đi tìm, tăng lục cả Chùa, tìm khắp cả núi, hằng trăm cái động, lớn có nhỏ có, vẫn không thấy tông tích của Pháp Sư, thậm chí huy động cả các đội trục vớt, đội cứu nạn bãi biển, cứu nạn thác ghềnh vẫn không thấy. Một số thiện tín nhiệt thành, còn tuôn ra các huyện thành, các chợ Tuyền Châu, chợ Hạ Môn, chợ Phước Châu, chợ Nam Bình kiếm tìm, còn gởi thơ nhờ các tỉnh huyện lân cận như huyện Vĩnh Thái, Huyện Vĩnh Xuân, Đức Hóa, Phước Thanh, lăng xăng cả mấy năm dài mà vẫn không tin tức gì cả.

Thế rồi, mọi người đều nghĩ Pháp Sư đã viên tịch trong lòng thương tiếc vô cùng. Thật ra từ đầu đến cuối, nhục thân Pháp sư chưa hề rời khỏi động Di Lạc nữa bước. Do được Phật hộ, nhục thể để trong động những sáu bảy năm mà không bị phát hiện, không bị mục hư, cũng không rõ là được giấu ở đâu (rất có thể ẩn ở một dạng không gian khác), về điểm nầy có các cư sĩ ở đây xác minh được, như cư sĩ Trịnh Tú Kiên chẳng hạn.

Vậy trên thế gian có ai thành tựu được khoa học tâm linh đó không ? Xin thưa là có. Thích Ca là một trong những người đạt được thành tựu vĩ đại đó. Thích Ca để lại nhiều kinh điển trong đó chứng tỏ Ngài thông hiểu hết tất cả những vấn đề khoa học mà ngày nay con người mới nhận thức được. Ngài là người giác ngộ và có khả năng vân dụng được sức mạnh tâm linh vô hạn. Vậy tại sao ngài không giúp chúng sinh thoát khỏi khổ nạn ? Có, Ngài giúp bằng cách chỉ đường. Cuộc sống, sướng khổ của chúng sinh là hoàn toàn chủ quan, thế giới của mỗi người là do tâm của người đó tạo ra nên y phải giác ngộ và tự giải thoát, không ai giải thoát thay cho y được.

Ngoài Thích Ca, một số Bồ Tát cũng đạt thành tựu như Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Đại Thế Chí, Phật A Di Đà, Duy Ma Cật, Văn Thù Sư Lợi. Ngoài ra, một số thiền sư ngộ đạo như Vô Trước, Thế Thân, Long Thọ, Huệ Năng, Hám Sơn, Đơn Điền, Võ Khắc Minh, Võ Khắc Trường. Các cư sĩ ngộ đạo như gia đình Bàng Uẩn (4 người), nhà văn Hoàng Đình Kiên, vua Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông…

Một số người khác tuy chưa đạt thành tựu tối thượng, nhưng cũng có một khả năng phi thường gọi là đặc dị công năng như Wolf Messing (người Ba Lan), Trương Bảo Thắng, Hầu Hi Quý, Nghiêm Tân. Việt Nam cũng có, như Phan Thị Bích Hằng là người có khả năng giao tiếp với vong linh cõi âm.

Những nhân vật có thành tựu nêu trên chứng tỏ khoa học tâm linh không phải là không tưởng, đó là hiện thực cuộc sống đã có từ hàng ngàn năm nay. Điều mới mẻ hiện nay là giới khoa học thừa nhận và tham gia vào. Các nhà khoa học thường không tin Thượng Đế hay Chúa Trời, thật ra Chúa chỉ là nhân cách hóa cho người bình dân dễ hiểu một sức mạnh kỳ diệu, siêu nhiên, chính sức mạnh đó đã tạo ra vũ trụ, vạn vật và con người mà Phật giáo không nhân cách hóa, thì gọi là Chánh biến tri (cái biết cùng khắp). Như một biểu diễn sau đây của Trương Bảo Thắng chứng tỏ sức mạnh đó là có thật.

Một hôm, Trương Bảo Thắng đến nhà một vị thủ trưởng làm khách. Ngồi trên xe trên đường từ nhà thủ trưởng về, trong lúc nói đùa, cầm danh thiếp của một đồng chí khác xé nát, vo thành viên, rồi bỏ vào miệng nhai nát.

- Chết rồi ! tấm danh thiếp này có ghi thông tin về mấy anh trong thông tấn xã, không có nó tôi không thể làm việc được… Vị này nói một cách hốt hoảng.

Một đồng chí khác trong đầu có sẵn số liệu, không hoang mang, nói với Bảo Thắng : “Anh lấy giấy ghi tên, địa chỉ, số điện thoại đây này !, không có những thứ này, người ở Bắc Kinh không thể làm việc được ” Trương Bảo Thắng vừa nhai vừa nói, “lấy danh thiếp gốc bằng giấy trên đó có địa chỉ, số điện thoại đầy đủ cả.”

- Trương Bảo Thắng, xin lỗi, anh nói ai có thể chứng minh ? Giấy đã bị anh nhai nát rồi, không có cách nào phục hồi lại đúng y nguyên được. Đồng chí kia mau mắn nói

- Không sai, tôi nói bảo đảm đúng…Bảo Thắng tự biện thuyết.

- Thế này nhé, nếu anh có thể phục nguyên tấm danh thiếp để chúng tôi biết đúng thì mới có thể coi là anh nói đúng. Vị kia nói, cố ý “chiếu tướng” bắt bí

Việc “chiếu tướng” này khiến chân tướng việc anh định làm phải trụ được. Anh nói : “Để tôi thử xem”. Trong xe hơi vừa mới có không khí sôi nổi bỗng chùng xuống.

Chỉ thấy anh nhả giấy đã bị nhai nát như tương từ miệng xuống lòng bàn tay trái, nhìn trân trân một chút, rồi chú tâm thổi phù phù vào cục giấy nát đó, có vẻ vừa thổi vừa nghĩ tưởng việc gì. Sau đó dùng bàn tay phải úp lên cục giấy trên bàn tay trái, xoa xoa vài cái, rồi lại xoa vòng vòng, động tác càng lúc càng nhanh cho đến khi có tiếng tách tách, khi anh dỡ bàn tay phải lên, một tấm danh thiếp xuất hiện, chính là tấm danh thiếp đã bị anh xé nát nhai nhuyễn.

Trương Bảo Thắng sáng tạo kỳ tích này, nó được truyền đi nhưng nhiều người không tin có việc này. Một hôm, rất nhiều họa sĩ trứ danh tụ hội xem Trương Bảo Thắng biểu diễn thấu thị, di chuyển vật thể. Để tỏ lòng mến mộ anh, trong số họ có một họa sĩ xem biểu diễn xong, ngay tại hiện trường tặng anh một bức quốc họa do chính mình vẽ. Bảo Thắng tiếp nhận bức họa, xem sơ qua một cái, rồi xé nát bức họa. Lúc mọi người nghe tiếng giấy bị xé, nhìn lại thấy anh ung dung xé nhỏ từng mảnh, đều kinh ngạc đến ngây người. Mọi người biết tác phẩm của vị họa gia trung niên này có tiếng tăm tới nước ngoài, nhiều người muốn thu giữ tác phẩm của ông phải phí sức bôn ba tìm kiếm, thế mà Trương Bảo Thắng trước mặt đám đông xé hủy một tác phẩm lớn của ông, việc này khiến ông không thể bước xuống đài, ông không biết nên xử trí ra sao, nổi giận khiến mặt ông đỏ lên, không nói được tiếng nào.

Trương Bảo Thắng xé xong, dùng sức vo các mảnh vụn thành một cục tròn, ném vào chậu nước rửa mặt. “Bảo Thắng, anh làm sao vậy ?” một người bạn như ngủ mê sực tỉnh, cảnh báo anh. Chỉ thấy Bảo Thắng khom lưng vớt cục giấy từ trong chậu nước lên, dùng hai tay ép mạnh cho nước từ trong cục giấy chảy ra ngoài, sau đó để cục giấy giữa hai lòng bàn tay, xoa xoa, không lâu có tiếng sè sè phát ra, lúc anh thôi xoa, bức quốc họa khôi phục nguyên trạng như cũ. Chỉ thấy anh phất tay một cái, trải ra trên bàn, hoàn toàn đúng là bức họa đó, không chút hư hao, không sai tí nào. Lúc đó, mọi người tại hiện trường mới sôi động trở lại, nhiều người không dám tin ở mắt mình. Lúc đó có người vỗ tay, những người khác mới nhớ đến việc vỗ tay hoan hô. Vị họa sĩ đã tặng bức họa, thấy tác phẩm của mình đã bị phá hủy hoàn toàn lại phục hồi như cũ, vui mừng ra mặt, không còn giận nữa, ông mới hiểu ra là trách nhầm Trương Bảo Thắng.

Nguyên là để cảm tạ tình cảm của người tặng bức họa, đặc biệt là có ý động viên tinh thần của tác giả, anh đã dùng đặc dị công năng để đáp tạ. Vị họa gia chạy lên phía trước, nắm chặt tay anh, nói : “ Thần tiên ! thần tiên ! Tôi được xem thần tiên sống rồi !”

Trước Trương Bảo Thắng, Hầu Hi Quý cũng có biểu diễn công năng tương tự tại Cung Văn hóa Công nhân thành phố Tương Đàm, tỉnh Hồ Nam, TQ năm 1980 nhưng với chiếc đồng hồ đeo tay.

Hầu Hi Quý đến, anh không thoái thác, theo sự sắp xếp của Chu Hiệu Pháp, đồng ý biểu diễn tại Cung Văn hóa Công nhân. Đó là chủ ý hay của Chu Hiệu Pháp, ông biết rằng nếu dùng ảo thuật nhất định phải có sự phối hợp, chắc chắn phải có đạo cụ, phải đem người tới, cửa đóng chặt, không ai có thể ra vào, tự nhiên là không thể phối hợp được. Đến như đạo cụ, thì khi vào nơi biểu diễn, không cho mang bất cứ thứ gì vào, không cần phải quan tâm. Người được vào xem, thì ngoài Phó chủ tịch Công Đoàn tỉnh Hồ Nam, Long Quỳ và Trưởng ban tuyên truyền Văn Lực Sinh, còn có nhân viên tùy tùng của họ, những người lãnh đạo của Cung Văn hóa và vài vị cán bộ Công Đoàn của thành phố Tương Đàm, đều không phải là người thân quen với Hầu Hi Quý, không thể trợ giúp anh ta làm điều gian dối.

Tất cả chuẩn bị đâu vào đấy, Hầu Hi Quý hướng về Phó chủ tịch Long, hỏi mượn chiếc đồng hồ đeo tay. Ông mỉm cười không hiểu Hầu Hi Quý cần chiếc đồng hồ để làm gì, nhưng ông cũng lập tức cởi chiếc đồng hồ đưa cho anh ta. Hầu Hi Quý tiếp nhận đồng hồ, thuận tay xé một mảnh giấy, gói cái đồng hồ lại, quay đầu về phía một cán bộ ở gần đó ra dấu bảo anh ta đến giúp.

“Xin anh hãy nhặt nửa cục gạch tiểu đằng kia” Hầu Hi Quý chỉ chỉ cục gạch nằm dưới chân tường, nói với người cán bộ : “Hãy đập mạnh, đập bẹp cái đồng hồ này.”

“Đập đồng hồ ?” người cán bộ do dự, anh ta nhặt cục gạch lên nhưng không dám đập, mà nói :

“ Đập bẹp nó rồi, ai bồi thường ? Hay là anh cứ tự mình đập đi !”

“Được, tôi đập, nhưng” Hầu Hi Quý hướng về chủ tịch Long nói “Nếu đập bẹp xong, có cần bồi thường không ?”

“Đập bẹp thì cứ đập bẹp, thì nó sẽ là cái đồng hồ hư vậy, đeo nó đã lâu lắm rồi.” Long Quỳ là người phóng khoáng, nói “Không phải bồi thường đâu !”

“Vậy thì được, một lời đã định nhé.” Hầu Hi Quý giơ cao cục gạch, nhưng anh không đập xuống ngay. Những người vây quanh đều có chút căng thẳng, có người há hốc mồm, có người tròn xoe mắt nhìn, có người hít một hơi dài.

Hầu Hi Quý xuống tay xong, cục gạch đập mạnh vào gói giấy nghe một tiếng “bình !” kinh dị. Mọi người cảm thấy đáng tiếc, chiếc đồng hồ đẹp thế kia, tất yếu là vỡ ra mấy mảnh, không khỏi có tiếng xuýt xoa nổi lên.

“Mở gói giấy ra !” Hầu Hi Quý ra hiệu “xem đồng hồ !”

Không ai nhúc nhích. Cái bao giấy nhỏ cũng bị đập dẹp, phía trên hãy còn dấu vết những mảnh gạch vỡ vụn màu đỏ do sự va đập. Ai biết được cái đồng hồ đáng thương bị đập thì sẽ như thế nào ?

Hầu Hi Quý thấy không ai động thủ, dường như không sẵn sàng tình nguyện động thủ lắm. Anh chép miệng “chậc chậc !” hai tiếng, lại lắc lắc đầu, có tới 10 cặp mắt nhìn trân trân, anh cúi xuống nhặt gói giấy lên, nhẹ nhàng đặt lên lòng bàn tay, sau đó từ từ mở ra.

Cả 10 cặp mắt đều lộ vẻ khủng hoảng, đồng hồ quả nhiên bị đập bẹp, mặt kính vỡ nát, hư hỏng hoàn toàn, thành một cục sắt phế thải.

“Bẹp dí rồi, làm sao đây ?” Hầu Hi Quý hỏi to, tựa như anh cũng chưa từng dự liệu kết cục lại như thế.

“Đã tính rồi, đã tính rồi mà, đã tính là nó sẽ bẹp dí mà.” Phó chủ tịch Long Quỳ khẳng khái nói, tuy nét mặt không biến sắc, nhưng ngữ khí vẫn lộ chút vẻ bất lực không thể làm gì được.

Hầu Hi Quý khịt mũi một tiếng, gói lại cái đồng hồ bẹp dúm trước sự chú mục của 10 cặp mắt, để trong lòng bàn tay, nhè nhẹ xoa xoa một chút, sau đó thổi nhẹ một cái, đưa cho chủ nhân của chiếc đồng hồ.

“Không được, ‘ba điều kỷ luật lớn, tám đề mục phải chú ý’ đập bẹp thì phải bồi thường, đền cho ông một chiếc nè.” Hầu Hi Quý nói một câu vui đùa, cười nhìn Long Quỳ.

Trưởng ban Văn tiếp nhận gói giấy, anh ta cũng không biết kết cục của màn biểu diễn của Hầu Hi Quý là như thế nào, chỉ biết theo thói quen bình thường là mở gói giấy. 

“Úi trời !” mọi người kinh ngạc kêu lên. Họ thấy trong gói giấy là chiếc đồng hồ hoàn toàn nguyên vẹn, bên cạnh vẫn còn vài mảnh vỡ màu đỏ của cục gạch. Chiếc đồng hồ vẫn chạy “tích tắc” đều đặn. Tâm lý của người xem trong giây phút đó ngẩn ngơ tê liệt. Trong số họ, đại đa số đều giống như Long Quỳ, Văn Lực Sinh, Chu Hiệu Pháp, là những người tin tưởng ở chủ nghĩa Mác Lê Nin, là những người triệt để duy vật chủ nghĩa, nhưng bất luận thế nào, họ không cách nào liên hệ được giữa hai tình huống, một phút trước là chiếc đồng hồ hư hỏng hoàn toàn, còn bây giờ là chiếc đồng hồ hoàn hảo không chút tổn hại. Nhưng sự thực vẫn là sự thực, tiếng “tích tắc” của chiếc đồng hồ vang lên trong bầu không khí im lặng hoàn toàn trong gian phòng tách biệt với bên ngoài. 

Ý thức của Hầu Hi Quý thật ra không có khả năng làm được việc đó, nhưng ông vận dụng được Chánh biến tri để làm cái việc phục nguyên cái đồng hồ.

Nhưng một điều mà khoa học tâm linh khác hẳn khoa học khách quan, là hành giả bắt buộc phải tuân thủ đạo đức, như trường hợp của Trương Bảo Thắng và Hầu Hi Quý cho thấy rõ. Nếu họ vi phạm đạo đức, công năng của họ sẽ không còn linh nghiệm, họ không thể làm lợi mình mà hại người.

Chánh biến tri chính là lời giải tại sao trong kỷ Cambri, thời kỳ khoảng năm 570 triệu đến năm 505 triệu trước đây, tức trong khoảng 65 triệu năm đó, có tới 100 ngành sinh vật xuất hiện đột ngột trên trái đất, cũng như khoảng 200.000 năm trước, con người bỗng nhiên xuất hiện. Thuyết tiến hóa của Darwin tuy giải thích rất có lý, nhưng sự thật không phải như vậy. Từ loài vượn cách nay 7 triệu năm đến loài gọi là người đứng thẳng (homo erectus) cách nay 1,8 triệu năm và người khôn ngoan (homo sapien) tổ tiên loài người cách nay 200.000 năm, còn thiếu nhiều mắt xích không thể lấp đầy.

Chính Darwin công nhận rằng, theo giả thuyết tiến hóa của ông thì số lượng hóa thạch các loài trung gian phải rất lớn, đến ngày nay trên tổng số khoảng 100 triệu hóa thạch sinh vật đã khai quật được ít ra phải có hàng triệu hóa thạch loài trung gian. Tuy nhiên con số hóa thạch “mắt xích thiếu” trong thực tế cực kỳ ít, chỉ có khoảng vài chục mà thôi. Kỳ dị thay, tất cả các hóa thạch loài trung gian ít ỏi ấy đều bị tranh cãi gay gắt, và một số đã bị chứng minh là đồ giả hoặc là sai lầm, sau nhiều năm nằm trong sách giáo khoa và các viện bảo tàng. Ví dụ :

“Piltdown Man”: Một quai hàm đười ươi + một cái sọ người

Năm 1912, một nhà cổ nhân loại học nghiệp dư đồng thời là một bác sĩ nổi tiếng tên là Charles Dawson tuyên bố rằng ông ta đã tìm thấy một mảnh xương hàm và một mảnh sọ trong một cái hố ở Piltdown, Anh Quốc. Mặc dù chiếc xương hàm rất giống hàm vượn, nhưng răng và hộp sọ lại giống như của người. Những mẫu vật này được dán nhãn gọi là “Piltdown Man”. Được tuyên bố là 500.000 năm tuổi, chúng đã được trưng bày như thể là một bằng chứng tuyệt đối của sự tiến hóa của con người trong một số viện bảo tàng. Trong hơn 40 năm, nhiều bài viết khoa học đã viết về “Piltdown Man”, nhiều bài diễn giải, nhiều bản vẽ đã được dựng lên, và hóa thạch này đã được coi là bằng chứng quan trọng cho sự tiến hóa của con người. Có tới hơn 500 luận án tiến sĩ đã lấy đề tài này để bảo vệ (!) Trong khi tham quan Bảo tàng Anh năm 1921, nhà cổ nhân loại học hàng đầu người Mỹ là Henry Fairfield Osborn đã tuyên bố “Piltdown Man” là “một khám phá có tầm quan trọng tối cao về thời tiền sử của loài người”.

Năm 1949, Kenneth Oakley thuộc Cục cổ sinh vật học của Bảo tàng Anh, đã cố gắng sử dụngPhương pháp kiểm thử flo, một phương pháp mới – để xác định niên đại của các hóa thạch. Một thử nghiệm đã được thực hiện trên các hóa thạch của “Người Piltdown”. Kết quả đã làm người ta hết sức kinh ngạc. Trong khi kiểm thử, họ đã nhận ra rằng xương hàm của “Piltdown Man” đã không chứa chút flo nào cả. Điều này chỉ ra rằng nó mới chỉ được chôn dưới đất trong vòng một vài năm mà thôi. Chiếc hộp sọ chỉ chứa một lượng nhỏ flo, cho thấy nó không quá một ngàn năm tuổi.

Người ta đã xác định được rằng các răng trong xương hàm là của một con vượn, đã bị mài mòn một cách nhân tạo. Người ta cũng xác định rằng các công cụ “nguyên thủy” được phát hiện cùng với các hóa thạch đó là những món đồ giả, được mài sắc bằng các dụng cụ thép. Trong tài liệu phân tích chi tiết của Joseph Weiner, vụ giả mạo này đã được phơi bày trước công chúng vào năm 1953. Hộp sọ “Piltdown Man” là của một người đàn ông sống vào 500 năm trước, và xương hàm là của một con khỉ vừa mới chết! Những chiếc răng đã được sắp xếp một cách đặc biệt rồi gắn vào quai hàm, và bề mặt các răng được mài giũa để trông giống như của một con người. Sau đó, tất cả các mảnh vụn này đã được nhuộm bằng hóa chất dicromat kali để cho nó trông thật là cổ xưa. Những vết nhuộm này dần dần biến mất khi người ta nhúng chúng vào acid. Sir Wilfred Le Gros Clark, người trong nhóm phát hiện ra vụ giả mạo này, đã không thể giấu nổi sự kinh ngạc và nói: “Các bằng chứng của việc mài mòn giả tạo ngay lập tức đập vào mắt. Thực tế quá rõ ràng như vậy mà tại sao – làm thế nào trước đây họ lại có thể dễ dàng qua mặt được công chúng?”. Sau khi vỡ lở, “Người Piltdown” đã bị loại bỏ khỏi Bảo tàng Anh, nơi nó đã được trưng bày trong suốt hơn 40 năm trời.

Ota Benga, người pygmy bị đem làm bằng chứng sống của thuyết tiến hóa

“One of the most fascinating stories about the effects of evolution on human relations is the story of Ota Benga, a pygmy who was put on display in a zoo as an example of an evolutionarily inferior race. The incident clearly reveals the racism of evolutionary theory and the extent to which the theory gripped the hearts and minds of scientists.” ~Jerry Bergman, Ph.D. (Một trong những câu chuyện lôi cuốn nhất của hiệu ứng liên quan tới sự tiến hóa của con người là về Ota Benga, một người pygmy được trưng bày trong sở thú như một mẫu vật của giống người nền tảng của thuyết tiến hóa. Sự kiện này rõ ràng cho thấy chủ nghĩa phân biệt chủng tộc của thuyết tiến hóa và phạm vi mà trong đó thuyết tiến hóa đã làm tê liệt trái tim và tâm hồn các nhà khoa học – Tiến sĩ Jerry Bergman).


Ota Benga được mang tới Mỹ bởi nhà thám hiểm Phi Châu Samuel Verner. Ông trưng bày Benga cùng với 6 đàn ông và phụ nữ người Pygmy của bộ lạc Mbuti tại Hội chợ thế giới St. Louis 1904.

Sau khi Darwin xuất bản cuốn sách “Dòng dõi con người ” (The Descent of Man), nói rằng con người tiến hóa từ những sinh vật gọi là “người vượn”, ông bắt đầu tìm kiếm các hóa thạch để ủng hộ cho luận điểm này. Tuy nhiên, một số tín đồ của lý thuyết tiến hóa tin rằng những sinh vật “nửa người nửa vượn” đã được tìm thấy không chỉ trong các mẫu hóa thạch, mà còn tồn tại ở một số vùng đất khác nhau trên thế giới. Vào đầu thế kỷ 20, những cuộc tìm kiếm “những loài chuyển tiếp sống” đã dẫn đến nhiều sự việc đau lòng. Một trong những vụ việc tàn bạo nhất trong số đó là câu chuyện của một người lùn Pygmy có tên là Ota Benga.

Ota Benga bị bắt vào năm 1904 bởi một tín đồ tiến hóa ở Congo. Trong ngôn ngữ của người Pygmy, tên của anh có nghĩa là “người bạn”. Anh đã có một vợ và hai con. Anh bị xiềng xích và nhốt vào chuồng như một con vật, rồi bị đưa đến Mỹ. Ở đó, anh bị các tín đồ tiến hóa đưa ra trước công chúng tại Hội chợ Thế giới St Louis cùng với những con vượn, giới thiệu rằng anh là “loài chuyển tiếp gần với con người nhất”. Hai năm sau, họ đưa anh đến Sở thú Bronx ở New York và ở đó họ trưng bày anh như là “những tổ tiên cổ xưa của con người” cùng chuồng với một vài con tinh tinh, một con gorilla có tên là Dinah, và một con khỉ tên là Dohung. Tiến sĩ William T. Hornaday, giám đốc sở thú cũng là tín đồ tiến hóa, đã đọc nhiều bài phát biểu rất dài, về việc ông ta tự hào có “loài chuyển tiếp” đặc biệt này trong vườn thú của mình ra sao. Ông ta đối xử với Ota Benga – đang bị nhốt trong lồng – như thể anh là một con vật. Không thể chịu đựng nổi, Ota Benga cuối cùng đã tự sát.

Tính ngẫu nhiên trong toán học, tính ngẫu nhiên trong vật lý học, và tính ngẫu nhiên trong sinh vật học đã được xác nhận. Tính hợp lý, tính quy luật cũng có nhưng chỉ chiếm một phần nhỏ, chỉ là phần thế giới chứng minh được như trong sơ đồ sau :


Đức Phật trong Bát nhã Tâm kinh, nói “phi nhân duyên, phi tự nhiên” là phủ định cả hai quan điểm. Nói phi nhân duyên là phủ định sự bắt đầu của vũ trụ vạn vật, tức không có bắt đầu, vũ trụ chỉ là ảo, không có thật. Nói phi tự nhiên tức không phải khi không mà có vũ trụ, tức phải có nhân duyên, phải có bắt đầu từ đơn giản cho tới phức tạp, có nghĩa tuy các vi trần là ảo, nhưng cấu trúc của chúng là thật, thật sự có cấu trúc, cấu trúc đó là vô thủy vô minh mà ngài Lai Quả thiền sư gọi là thoại đầu, đó là cấu trúc ảo vì làm bằng hạt ảo tức không có thật, nhưng khi xuất hiện một loại cấu trúc ảo khác là lục căn, phát sinh được nhất niệm vô minh thì lập tức cấu trúc ảo được nhận thức trở thành nguyên tử, phân tử vật chất, nói chung là thành vật. Một thế giới vật chất hữu hình bỗng nhiên có sẵn từ đời nào.

Chánh biến tri có khả năng tạo ra đủ loại cấu trúc ảo vô cùng kỳ diệu, vô cùng phong phú mà khả năng giới hạn của trí óc duy lý của con người không thể nhận thức nổi, đó mới chính là thế giới hiện thực, là con voi trong câu chuyện người mù sờ voi trong Kinh Đại Bát Nhã.

Truyền Bình

Không có nhận xét nào: