.... vấn đề quan trọng cần được hiểu-thấu. Tất cả những giáo lý Phật giáo luôn nhấn mạnh rằng mọi chúng sinh là: hoàn hảo trong bản chất tối thượng. Tiềm năng hoàn hảo này vẫn chưa được đánh thức và phát triển để đạt đến phẩm tính vĩ đại của quả vị Phật – hay là giác ngộ. Một chúng sinh chưa giác ngộ là vẫn trong vòng luân hồi, luôn tự huyễn hoặc mình, hay còn gọi bị trói buộc trong thế giới phàm tục. Còn những chúng sinh đã giác ngộ được biết như là các vị Phật. Từ Phật, nghĩa là con người đã tỉnh-thức hoàn toàn và phát triển trọn vẹn, một trạng thái giác-ngộ viên mãn. Khi thời điểm này đến, mọi nỗ lực sinh ra thành quả và cá nhân đó có sự tỉnh-thức trọn vẹn, khi đó là điểm đến cuối cùng – quả vị Phật đạt được.
***
Trong tu tập Phật giáo, hiểu biết sáng tỏ “bản chất của thực tại” là nền tảng cho sự giác ngộ. Chúng ta có thể đạt được “tỉnh giác” thông qua sự “chuyển hóa những tâm lý tiêu cực và nhiễm ô”. Vì quá trình chuyển hóa luôn chuyển động về phía trước, sự tỉnh giác có thể diễn ra bất kỳ lúc nào hoặc bất kỳ ở đâu.
Mọi khoảnh khắc trong cuộc đời, và các trạng thái trung gian giữa sự sống và cái chết, giữa ngủ và thức, đều là những phương tiện để đạt được tỉnh giác. Dù sai sót hay thành công, dần dần cũng đều sẽ đưa đến mục đích tối thượng. Tất nhiên, mục tiêu cuối cùng của việc học hỏi và thực hành giáo pháp, là đạt được trạng thái “tinh khiết hoàn toàn” – sự giác ngộ của một vị Phật. Trong ấy, Phật tính và Bồ đề tâm là hai khái niệm quan trọng nhất.
PHẬT TÍNH
Mọi hiện hữu đều có riêng mang một “bản chất”, một “khả năng” để tồn tại. Bản chất ấy là tính trong sáng, thanh tịnh, tinh khiết…, nó có khả năng hiểu biết sáng tỏ mọi vấn đề trong chính mình và của mọi sự vật, hiện tượng thế gian này. Do tính “bản nhiên” ấy mà Đức Phật tuyên bố: “Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiện và đạt được giác ngộ”. Đức Phật đã chia sẻ sự hiểu biết sâu sắc của Ngài về điều này, và còn dẫn dắt chúng ta đánh thức “tiềm năng bẩm sinh” ấy cho tới khi chúng ta đạt được sự tỉnh giác trọn vẹn, và tự trở thành là một vị giác ngộ.
Điều quan trọng là cần nhận thức rằng “Phật tính” không phải là điều mà chúng ta tự tưởng tượng hay tạo ra. Phật tính ấy chính là “tự tánh”, luôn tồn tại sẵn trong mỗi chúng sinh, cho nên Đức Phật dạy chúng ta phương pháp từng bước đánh thức Phật tính ấy.
Trong bài giảng đầu tiên, Đức Phật đã trình bày về Tứ Diệu Đế. Những sự thật là: – cuộc đời tràn ngập khổ đau; – tất cả khổ đau ấy đều có các nguyên nhân; – có một ý nghĩa và những đau khổ ấy có thể bị triệt tiêu, – và có một con đường, một phương pháp đang tồn tại để trừ tận gốc những nguyên nhân gây ra khổ đau.
Đức Phật dạy rằng thông qua việc giữ giới, thực hành “tỉnh thức chánh niệm”, chúng ta có thể phát triển sự tĩnh lặng và trong sáng của tâm. Bản chất này cho chúng ta sự yên tĩnh sâu xa và vĩnh cữu. Khi mọi ô nhiễm đã được loại bỏ thì “chân tính” được hiển bày mà bản chất của nó là Phật tính. Trong những bài giảng của Đức Phật, Phật tính là nền tảng, là con đường, và được miêu tả như là “bản chất”, nó không bị tì vết bởi bất kỳ sự ô nhiễm nào. Nó giống như hư không, không thể bị ô nhiễm bởi bất kỳ điều gì. Ngay cả những chúng sinh đang chịu đau khổ trong địa ngục cũng luôn sẵn có bản tính thanh khiết này.
Mọi chúng sinh đều có Phật tính, do vì vô minh che ám nên không thể nhận thức được bản tính ấy vẫn luôn hiện hữu, như một hạt giống luôn sẵn sàng để nảy mầm. Khi một chúng sinh đang phát triển, tính ấy sẽ được biểu lộ như là tri kiến, trí tuệ, thiện tâm, và các hành động thiện lành. Khi đạt đến giác ngộ, thì bản thân sự giác ngộ ấy là Phật tính bản nhiên. Không có sự khác nhau về bản chất ấy của một chúng sinh vô minh và vị Phật giác ngộ. Chỉ có khác nhau là “chúng sinh thì không nhận biết” khả năng tính ấy, và một vị “Phật là hiện thân của tính ấy”.
Kinh điển nói rằng khi tiềm năng tối thượng của từng chúng sinh được đánh thức, sẽ không có sự khác nhau giữa một người giác ngộ viên mãn và một chúng sinh hoàn toàn vô minh. Lời tuyên bố này có lẽ là khó hiểu, nếu không có sự hiểu biết về bản chất của chân lý. Có hai khía cạnh: chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối. Ở cấp độ tương đối, có các chướng ngại xuất hiện. Ở cấp độ tuyệt đối là sự tinh khiết hoàn toàn – đó là bản tính Phật. Sự hiểu biết của chúng ta về bản chất của sự thật phải nhìn qua sự tương phản này. “Tuyệt đối là sự tuyệt đối của tương đối, và tương đối là sự tương đối của tuyệt đối.” Chúng không phải là hai điều khác nhau. Do đó, không có sự khác biệt giữa những chúng sinh đang chìm trong đau khổ luân hồi với một vị Phật đã giác ngộ.
Bản chất của Phật tính là vô hạn. Nó vượt ra khỏi thời gian, khuôn khổ, chất lượng, và tất cả mọi giới hạn khác. Bản thân nó không thể bị che khuất, mặc dầu các khái niệm tuyệt đối của nó có thể bị che mờ. Do mơ hồ về phẩm chất vô hạn của mình, nên ta không nhận ra điều này, và chỉ tập trung vào “cái tôi” tương đối, nên luôn bị ngăn cản, che khuất và không nhận thức được thật tính bản nguyên, nên không giác ngộ được.
Bản chất “nhị nguyên” tạo ra có nhân duyên đối đãi, biểu hiện như là: tốt – xấu, sáng – tối, tích cực – tiêu cực… Giống như một giấc mơ dài, muốn thức tỉnh khỏi giấc mơ nhị nguyên ấy, ta cần nhiều nỗ lực bao gồm cách hành xử đúng, thanh tịnh hóa tâm trí, thực hành những phương pháp làm phát triển sự hiểu biết và nhận thức sáng tỏ mọi vấn đề. Nguyên tắc kế tiếp là phát triển lòng từ và bi mẫn. Hai đức tính này cho phép sự hiểu biết và nhận thức sâu sắc của chúng ta được phát triển. Nếu không có từ bi, sự tinh tấn của chúng ta sẽ ngưng trệ, có thể trở thành kiêu ngạo và thoái bộ.
SỰ TRỌN VẸN CỦA PHẬT TÍNH.
Chính những mê muội chấp ngã phân biệt, là nguồn gốc phát sinh tư tưởng nhị nguyên, do tâm nhị nguyên mà chúng sinh không nhận thấy được cốt lõi bản chất của họ. Tuy nhiên, tâm ấy có thể được thanh lọc, sẽ vượt ra khỏi tính nhị nguyên ấy và đạt tới giác ngộ.
Trong một kinh điển, Đức Phật đã nói: “Ta chưa bao giờ dạy điều gì”. Điều này ngụ ý rằng những lời dạy của Ngài được truyền lại, chỉ là sự hiển thị tự nhiên, không có những suy tính, lựa chọn hay phân biệt. Điều này không phải đơn giản như là một người này nói chuyện với người kia, mà sự hiển hiện này giống như ánh sáng chói lọi của mặt trời, mang những năng lượng tự nhiên tốt đẹp để trợ giúp sự tinh tấn của mọi chúng sinh. Ánh sáng mặt trời làm cùng một lúc rất nhiều điều. Nó làm ấm hạt giống để có thể phát triển rễ và bám được trong đất, giúp quả chín trên cây. Nó cho ánh sáng, làm ấm các đại dương, hơi nước bốc lên và các đám mây được hình thành. Tất cả những biểu hiện này không cần đặt kế hoạch, giống như hành động tự nhiên của một vị Phật, việc làm của Phật là bất nhị, một vị Phật có thể giúp đỡ mọi chúng sinh, mà cũng không hề có bất cứ chúng sinh nào được giúp đỡ. Hành vi của Đức Phật là vô hạn vì Ngài đã vượt khỏi tính cách của nhị nguyên, do vậy ngay cả cùng một lúc, nếu toàn bộ chúng sinh trong vũ trụ cầu nguyện xin được Ngài ban phúc, Đức Phật sẽ ban đều được cho tất cả, và những chúng sinh sẽ tùy theo căn cơ, nghiệp lực của mình mà thọ nhận.
***
SỰ CHUYỂN HÓA
Có thể nói rằng mọi chúng sinh vốn bẩm sinh là một Phật tử, bởi vì tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Do vậy, quy y chỉ mang tính cách hình thức. Cách hiểu này về Phật-giáo như là một bản-chất tồn tại của Phật-tính trong mỗi chúng sinh, nó vượt ra khỏi giới hạn quan niệm cho rằng Phật-giáo như là một loại giáo-phái hay là một tôn-giáo riêng biệt.
Thực hành Phật pháp đúng đắn không đòi hỏi phải có những cái cồng hay chuông đắt tiền, những tấm thảm và bàn chạm khắc của Tây-Tạng, những chén sứ của Trung-Hoa, hay là những bức tượng Phật cổ kính thời xa xưa nào đó. Điều quan trọng là chúng ta cần tự đánh giá trung thực: sự suy-niệm và trong từng khoảnh khắc cam kết gỡ bỏ cái kén của huyễn-hoặc. Chúng ta có thể thực hành bằng bất kỳ ngôn ngữ nào, y phục nào, trong một nơi có bất kỳ loại trang trí nào.
Tất cả mọi thực hành theo Phật giáo đều là những phương pháp chuyển-hóa, nó có thể chuyển-hóa một người vô-minh thành có trí-tuệ. Từ ngữ chuyển-hóa được sử dụng ở đây có nghĩa là một cá nhân mang tính cách thay đổi hoàn toàn. Nhưng không phải là thay đổi bản-chất cốt lõi, nguyên-sơ của cá nhân đó, mà là làm hiển lộ bản-chất tự nhiên sẵn có của chúng ta. Là một quá trình nhằm làm hiển-lộ bản tính chân thật chính mình. Cho phép nhận diện bản chất tối thượng của mình như là một vị giác-ngộ, được nổi bật ra bởi vì đã vượt qua các huyễn hoặc và những ô nhiễm vốn che khuất bản-tính chân thật ấy.
Thực hành Phật giáo không phải là thay đổi một người xấu thành một người tốt, mà là chuyển-hóa một người xấu thành một người tốt hơn. Như chúng ta biết, bản tính Phật luôn hiện hữu trong mỗi cá nhân. Về khía cạnh tuyệt đối, không có người nào xấu, và mọi người đều tốt, thông thái, và hoàn hảo. Đôi khi chúng ta có thể nhận thấy điều này, ngay cả ở kẻ thù của mình. Dù họ có thể hành động tồi tệ thế nào, hay là đã phạm những tội lỗi khủng khiếp, thì họ vẫn có thể có khả năng vượt qua được những ác nghiệp đó. Đây là một tia sáng của” bản-tính-Phật” ló ra qua những khía cạnh tiêu cực của họ. Chuyển hóa từ “huyễn-ảnh tương đối” thành “sự-thật tuyệt đối”, toàn hảo tối thượng cho chính ta và tất cả mọi người khác.
Không có sự khác nhau căn-bản giữa chúng ta và Đức Phật, nhưng về khía cạnh tương đối chúng ta có vô minh và bị huyễn hoặc, trái ngược với một vị giác ngộ viên mãn. Nhưng ở khía cạnh tuyệt đối, tất cả đều như nhau và tiềm năng chính là ở đây. Hiểu biết sự chuyển hóa những hoàn cảnh tương đối thành hiển lộ khả năng tuyệt đối là một bước chuyển vĩ đại. Mọi điều chúng ta làm đều có thể trở thành những hành động chuyển hóa. Giống như sự thay đổi mà một con sâu trở thành một con bướm phải trải qua: Tạo vật đẹp đẽ này vốn sinh ra từ một cái kén – bắt đầu cuộc sống từ một con sâu lông lá và xấu xí. Sau một thời gian đầy rủi ro và đau đớn, con bướm trưởng thành phải chọc thủng cái kén để thoát ra ngoài và bay ra với đôi cánh màu sắc rực rỡ, lấp lánh. Phật tính và sự giải-thoát cuối cùng ở bên trong tất cả chúng sinh. Sau một quá trình gian khổ hướng thượng, sự giác-ngộ kỳ diệu sẽ đến.
Mặc dù không thể biết được trạng-thái giác-ngộ là như thế nào cho đến khi chính ta đạt được giác-ngộ, nhưng đây là một vấn đề quan trọng cần được hiểu-thấu. Tất cả những giáo lý Phật giáo luôn nhấn mạnh rằng mọi chúng sinh là: hoàn hảo trong bản chất tối thượng. Tiềm năng hoàn hảo này vẫn chưa được đánh thức và phát triển để đạt đến phẩm tính vĩ đại của quả vị Phật – hay là giác ngộ.
Một chúng sinh chưa giác ngộ là vẫn trong vòng luân hồi, luôn tự huyễn hoặc mình, hay còn gọi bị trói buộc trong thế giới phàm tục. Còn những chúng sinh đã giác ngộ được biết như là các vị Phật. Từ Phật, nghĩa là con người đã tỉnh-thức hoàn toàn và phát triển trọn vẹn, một trạng thái giác-ngộ viên mãn. Khi thời điểm này đến, mọi nỗ lực sinh ra thành quả và cá nhân đó có sự tỉnh-thức trọn vẹn, khi đó là điểm đến cuối cùng – quả vị Phật đạt được.
Lượt trích ĐÁNH THỨC VỊ PHẬT ĐANG NGỦ
Nguyên tác TAI SITUPA THỨ XII – NGUYÊN TOÀN dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét