Thứ Tư, 8 tháng 4, 2015

DÃY NÚI BA VÌ

Ba Vì là một dãy núi đất và đá vôi lớn trải trên một phạm vi rộng chừng 5.000 ha ở ba huyện Ba Vì (Hà Nội), Lương Sơn và Kỳ Sơn (Hòa Bình), cách nội thành Hà Nội chừng 60km. Trên Ba Vì có nhiều ngọn núi, nhưng nổi tiếng nhất là Tản Viên (còn gọi là Ngọc Tản, Tản Sơn, hoặc Phượng Hoàng Sơn). Núi này cao 1.281m, gần đỉnh thắt lại, đến đỉnh lại xòe ra như chiếc ô nên gọi là Tản. Chân núi này có đền Hạ, lưng chừng núi có đền Trung, đỉnh núi có đền Thượng là nơi thờ Sơn Tinh (Đức Thánh Tản). Ngoài Tản Viên, trên Ba Vì còn có các núi cao là Ngọc Lĩnh, Tương Miêu, U Bò, Núi Tre, Ghẹ Đùng, Trăm Voi, Ngọc Hoa (đặt theo tên của công chúa con vua Hùng thứ XVIII được gả cho Sơn Tinh), và núi Vua. Núi Vua cao nhất, tới 1.296m. Trên đỉnh núi Vua có đền thờ Hồ Chí Minh.

Ở chân núi phía Tây của dãy Ba Vì có dòng sông Đà, phía Đông có hồ nhân tạo Suối Hai dài 7km, rộng 4km với 14 đảo lớn nhỏ thực chất là những ngọn đồi nhô lên mặt nước.

Trên dãy Ba Vì còn có nhiều cánh rừng nguyên sinh. Hệ sinh thái động thực vật của Ba Vì rất đa dạng. Vườn quốc gia Ba Vì là nơi bảo tồn sự đa dạng sinh học của Ba Vì.

Ba Vì còn là một khu du lịch sinh thái nổi tiếng ở miền Bắc Việt Nam với các điểm du lịch như Khoang Xanh-Suối Tiên, khu du lịch Ao Vua, Đầm Long, Thác Đa, hồ Tiên Sa, suối nước khoáng Tản Đà, các đền thờ. Ở các độ cao 400m và 600m còn có hai khu nghỉ mát được xây dựng từ thời Pháp thuộc.

Theo sách “ Bắc – Thành Địa dư chí” của Lê Đại Cương chép : “ Núi này ở huyện Bất Bạt, phủ Quảng Oai (nay là huyện Ba Vì, Hà Nội). Hình núi tròn như cái tán nên gọi là Tản Viên, rộng rãi bao la, đứng cao hùng vĩ, làm trấn sơn cho cả một vùng, cao 2.310 trượng, chu vi 18.605 trượng, hướng tây có sông Đà chảy quanh theo, rừng cây rậm rạp, cảnh trí đẹp”. Tại Đền Và thờ Thánh Tản Viên (Sơn Tinh) có đôi câu đối:

Châu hình đẩu tiễn thiên hoành không
Hạo khí quan mang vạn cổ tồn

Có nghĩa là :

Dáng hình sừng sừng ngang trời rộng
Hạo khí mênh mang vạn thuở còn.

Núi Ba Vì nằm trong vùng đồng bằng xen kẽ đồi gò, được tạo lập bởi sự xâm thực, chia cắt các thềm đá gốc và thềm phù sa cổ sông Hồng, Địa chất ở Ba Vì rất bền vững, được hình thành từ những cuộc chuyển động kiến tạo xảy ra vào cuối Triat muộn (khoảng 210 triệu năm về trước) trong khu vực Đông Dương và Trung Quốc, hình thành từ những cuộc vận động tạo sơn Idosinias.

Theo các tài liệu nghiện cứu về khảo cổ học thì vùng đất xứ Đoài, nơi có núi Ba Vì còn rất nhiều các hiện vật bằng Đá như rìu, bàn mài, chì lưới, mũi nhọn, bàn dập, hòn kè, giáo, đục, mũi tên, đồ trang sức và nhiều các hiện vật là đồ đồng, đồ gốm có niên đại từ thời văn hóa Sơn vi, tồn tại qua bốn giai đoạn văn hóa kế tiếp nhau từ thời Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, đến Đông Sơn cách ngày nay hang nghìn năm.

Dưới triều Nguyễn, năm Bính Thân, Minh mạng thứ 17 (1836) đúc “ Cửu Đỉnh” biểu tượng cho uy thế và sự bền vững của nhà nguyện. Minh Mạng còn cho chạm hình núi Tản Viên vào Thuần Đỉnh (cao 2,32m, nặng 1.950 kg) cùng với cửa Cần Giờ và song Thạch Hãn. Đời Tự Đức năm thứ 3, Canh Tuất (1850) liệt Tản Viên vào hàng những núi hùng vĩ, giang sơn của đất nước và được ghi chép vào Tự điển để cúng tế hàng năm.

Núi Ba Vì còn chiếm một vị trí quan trọng, không những về mặt địa lý mà còn có địa vị độc tôn trong tâm linh người xưa như đỉnh Olympus (cao 2.917m) nơi ngự trị của chúa thần Deus (Dớt) của người Hi Lạp cổ. Trong sách “ Dư địa chí” Nguyễn Trãi viết : “Núi ấy là núi tổ của nước ta đó”.

Trong nhiều thế kỉ qua, nhiều sách vở, công trình nghiên cứu đã có một số kết luận về nền văn hóa dân gian xứ Đoài gắn với truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh liên quan đến núi Ba Vì.

Nhất cao là núi Ba Vì, Thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn.

Sự thực núi Ba Vì chỉ cao 1.296m, núi Tam Đảo lại cao đến 1.581m, nhưng vì núi này là nơi ngự của Thần núi (thần Tản Viên), nên được nhân dân tôn vinh thành ngọn núi cao nhất, thiêng liêng nhất. Núi cao ở đây là cao trong tâm thức, không phải độ cao thấp đơn thuần về mặt địa lý. Truyền thuyết còn kể lại rằng núi Ba Vì là do Sơn Tinh dùng sách ước nâng núi lên cao, để ngăn nước lũ chống Thủy Tinh.

Nếu lấy núi Nghĩa Lĩnh (cố đô của nước Văn Lang thời tiền sử) làm tâm điểm thì núi Ba Vì và núi Tam Đảo là hai điểm đối xứng tạo thành “Thế tay ngại” trong luật phong thủy do triều đại Vua Hùng tạo lập. Xứ Đoài đã ôm cả ba dòng sông lớn: Sông Đà, sông Thao, sông Lô. Ngã ba Bạch Hạc là nơi hợp thành của ba dòng sông ấy để rồi tụ thủy ở đầu sông Cái (sông Hồng) tạo dựng thành vùng châu thổ trù phú của đồng bằng Bắc Bộ ngày nay.

Núi Ba Vì không chỉ là ngọn núi huyền thoại về Sơn Tinh – Thủy Tinh mà còn là ngọn núi linh của xứ Đoài. Vua nhà Đường đã coi núi Ba Vì như một đầu rồng hùng mạnh, còn thân rồng chạy suốt tới phương Nam (dãy Trường Sơn ngày nay). Để nước Nam không thể phát Vương, vua Đường đã cử Cao Biền (vị tướng kiêm phù thủy) dùng pháp thuật cho đào một trăm cái giếng xung quanh chân núi Ba Vì để trấn yểm tà triệt long mạch nước ta. Nhưng cứ đào gần xong giếng nào thì giếng đó lại bị sập, nên chúng đành phải bỏ cuộc bởi dãy núi thiêng của nước Đại Việt.

Quanh núi Ba Vì nhiều tên đất, tên làng, tên vạt đồi đồng nội, tên dòng sông, khe suối, địa danh, địa hình, địa vật, đầm hồ, bờ bãi, đình, đền, miếu mạo và những con người còn in đậm trong sự tích và chuyện kể dân gian xứ Đoài gắn liền với truyền thống Sơn Tinh.

Những quả đồi Mòm, dẫy gò Choi thuộc vùng Tòng Lệnh, ở phía Bắc núi Ba Vì; những trái núi ở vùng Sụ Đá, La Phù và Thạch Khoán; những hòn núi Chẹ và dãy nũi đá Chèm ở phía Tây thuộc mạn Sông Đà; những dãy đồi Máng Sòng, Đồi Giếng ở phía Đông núi Ba Vì là những chiến tích của Sơn Tinh, ngày đêm gánh đất để lập thành phòng tuyến chống lại Thủy Tinh. Về sự tích” Đồi Đùm đứt quai, đồi Vai lọt sọt”. Chuyện xưa kể lại rằng đồi Vai cao nhất ở xã Kim Sơn là tảng đá rơi vì sọt thủng, còn dãy đồi Đùm san sát kéo dài ở xã Xuân Sơn là do đứt quang, đất đổ ra nhiều trên dọc con đường Sơn Tinh gánh đất. Chuyện cắm chông chà ở bãi Đá Chông, thả rong rào, chăng lưới ở vùng suối Cái, cho quân gieo hạt mây thành rừng quanh núi U bò, ném lạt tre tạo thành lũy tre dày ở vùng ngòi lặt, lao gỗ đá từ trên núi xuống tạo thành mười sáu ngả ở vùng Đầm Đượng v.v… là những phương kế của Sơn Tinh.

Trên bãi chiến trường xưa còn có nhiều dấu tích như suối Di, sông Tích, ngòi Tôm, đầm Mom, đầm Mít, đầm Sui, xóm Rùa, xóm Cá Sấu ở Vân Sơn xã Vân Hòa; thôn Rắn Giải ở Phụ Khang thuộc xã Đường Lâm; Thuồng Luồng ở Cầu Hang vùng sông Tích thuộc xã Thanh Mỹ; Thủy quái ở Ghềnh Bợ trên dải sông Đà… là những trận đồ tàn binh, bại tướng của Thủy Tinh. Những truyền thuyết dân gian về cuộc giao chiến giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh chững tỏ tổ tiên ta đã bắt đầu cuộc trị thủy mở mang bờ cõi từ hạ lưu sông Đà, sông Tích để tạo ra một vùng núi Ba Vì trù phú như ngày nay.

Cùng với xứ Đoài xưa, vùng núi cổ Ba Vì là cả một kho tàng thần thoại, truyền thuyết, huyền thoại, cổ tích, giai thoại v.v… rất phong phú và đa dạng, Nơi đây là vùng đất địa linh sinh ra nhiều nhân kiệt. Đất hai vua (Ngô Quyền và Phùng Hưng). Hai vị tướng là Khổng An, Khổng Thạc thời Thục Phán đã giúp vua Thục đánh tan quân Tần, quân Triệu. Bà Man Thiện thân mẫu của hai vị tướng Trưng Trắc và Trưng Nhị. Hai Bà đã dấy cờ khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Hán. Vị tướng Phùng Lộc Hộ giúp vua Trần Thái Tông đánh giặc Nguyên - Mông. Trần Quốc Trân và Trần Ngũ Nương là các danh tướng thời Trần. Tiến sĩ Lê Anh Tuấn được phong làm Hình bộ thượng thư (Tể tướng) đời Lê Hy Tông và được cử làm chánh sứ sang Tàu. Đệ nhị giáp tiến sĩ, hàn lâm viện trưởng, Đông các đại học sĩ, Lưỡng quốc thượng thư Nguyễn Sư Mạnh đời Lê. Nguyễn Công Hoàn nổi tiếng trong “Tràng An tứ hổ” là cha đẻ của Nguyễn Bá Lân làm quan đến Thái tể lục bộ thượng thư. Họ Phạm Doãn với sáu người được phong Quận công về việc phò Lê diệt Mạc. Trạng nguyên Phạm Trấn lập nên làng Đan Thê đầu thế kỷ 16. Hoàng hậu Phan Thị Uyển vợ Mai Thúc Loan. Bà Nguyễn Thị Ngọc Dong, nguyên phi chúa Trịnh Tráng, người có công tạo dựng chùa Mía (1632). Sứ thần Giang Văn Minh, người đã xóa nợ Liễu Thăng cho dân tộc với câu đối bất hủ “ Đằng giang tự cổ huyết do hồng”. Nhà thơ, nhà báo nổi tiếng Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu. Cụ Phan Kế Toại bộ trưởng Bộ Nội vụ. Cụ Hà Kế Tấn, bộ trưởng Bộ Thủy lợi cùng nhiều các quan chức danh nhân nổi tiếng các thời.

Tài nguyên thiên nhiên núi Ba Vì rất phong phú, đa dạng. Khí hậu núi Ba Vì trong lành mát mẻ. Năm 1932 thực dân Pháp đã chọn núi Ba Vì là nơi nghỉ mát lý tưởng ở đồng bằng Bắc Bộ, giống như Sa Pa ở Tây Bắc, như Đà Lạt ở Tây Nguyên. Hiện nay trên núi Ba Vì còn nhiều phế tích thuộc thời Pháp như nhà thờ đạo, Trại cô nhi viện, khu hành chính, khu quân sự và khu sinh hoạt của sĩ quan Pháp, Trại tù. Vùng núi Ba Vì có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như Ao Vua, Khoang Canh – Suối Tiên, Thác Mơ, Thác Đa, Thác Ngà, Thác Hương, núi Đá Chẹ, rừng thông Đá Chông, hồ Xuân Khanh, hồ Suối Hai, hồ Đồng Mô – Ngải Sơn, hồ Tiên Sa, hồ Suối Cả, hồ suối Bóp, hồ suối Mít, đồi cò Ngọc Nhị, khu Đầm Long v.v… Trong vườn quốc gia Ba Vì còn có Đền thờ Chủ Tịch Hồ Chí Minh, khu di tích lịch sử cách mạng và nhiều di tích, phế tích khác.

Khu vực núi Ba Vì hiện có gần 100 ngôi Đình, Đền thờ Thánh Tản Viên – Sơn Tinh như Đền Trung, Đền Hạ, Đền Thượng, Đền Đá Đen, Đền Vật Lại, Đền Măng Sơn, Đền Khánh Xuân, Đền Vật Lai, đình Yên Nội, Đình Tây Đằng, đình Mỗ Lao, đình Quất Động, đình Đông Viên, đình Quan Húc, đình Phú Thứ, đình Thanh Hùng, đình Thụy Phiêu v.v…

Núi Ba Vì là ngọn núi thần kỳ, là một trong những ngọn núi cổ nhất của nước Đại Việt. Những phát hiện về khảo cổ học vùng văn hóa cổ Ba Vì đã chứng tỏ đây là một vùng truyền thuyết lớn phát triển sớm trong lịch sử hình thành dân tộc. Núi Ba Vì còn là nơi ngự trị muốn đời của Thánh Tản Viên – Sơn Tinh, Ngài là vị thần tối linh trong “Tứ bất tử” của tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

TTđTD - Theo Wikipedia

Không có nhận xét nào: