Thứ Năm, 3 tháng 4, 2014

NĂNG LỰC TRÍ TUỆ - Những Lời Dạy Căn Bản Của Phật Giáo

Phải có một động năng thúc đẩy mãnh liệt lắm thì mới có thể bước vào con đường tâm linh, bởi vì sinh ra là chúng ta đã bị hướng dẫn vào con đường chấp ngã. Do đó, vì ước muốn thực hành Đạo pháp để đạt kết quả tốt nên ngay từ khi bắt đầu chúng ta không nên lo sợ bị dính mắc, bị lệ thuộc. Chúng ta nên cố gắng tiếp tục thực hành với một động lực càng trong sạch càng tốt, hãy mong muốn thật nhiều ơn ích cho muôn loài chúng sinh.
Tài liệu đính kèm: Tải về

BƯỚC VÀO CON ĐƯỜNG TÂM LINH

1. MỤC ĐÍCH CỦA THIỀN ĐỊNH

Tôi muốn nói vài lời giới thiệu về sự thực hành thiền. Rất nhiều người trên thế giới này, Đông phương cũng như Tây phương, thích thiền. Họ bị lôi cuốn vào sự thực hành thiền và họ thực sự tha thiết với nó. Nhưng, gia nhập thì nhiều mà thực sự hiểu nó thì quá ít.

Mỗi người trong chúng ta ở đây đều có một thân xác được cấu tạo bởi xương, thịt, máu huyết ...vân vân... Ngay hiện tại, chúng ta không thể hoàn toàn kiểm soát tất cả thân xác của chúng ta như ý muốn, chúng ta luôn luôn có những vấn đề.

Một nhà tỷ phú có thể sở hữu rất nhiều tài sản trên thế giới, nhưng, hãy tạm quên sự giầu sang của ông ta đi, nếu tâm của ông ta bị nhốt trong một thân xác không thể kiểm soát được thì chắc chắn ông ta sẽ đau khổ lắm lắm. Dù giầu hay nghèo, không một người nào trong chúng ta có thể trốn thoát được những vấn đề.

Cho dù có cố gắng bằng nhiều cách, chúng ta cũng không bao giờ có thể ngăn cản được những điều khó khăn hay những vấn đề xẩy ra cho chúng ta. Nếu chúng ta thanh toán được vấn đề này, vấn đề khác đã tự động đến thay thế. Những bất mãn và đau khổ tràn ngập thân xác của chúng ta ở bất cứ nơi nào chúng ta đến.

Nếu chúng ta dùng trí tuệ để nhìn thật sâu vào trong trái tim của chúng ta về những vấn đề này và hiểu tường tận đường đi nước bước của chúng thì chúng ta sẽ nhanh chóng phát giác được những tình trạng bất mãn khủng khiếp này. Một điều cũng rất rõ và cần biết là nếu chúng ta không có một thân xác không được kiểm soát như thế thì chúng ta cũng sẽ không có một cách nào để kinh nghiệm được những sự đau khổ liên hệ đến nó.

Vấn đề căn bản mà tất cả chúng ta đều có là chúng ta đã không đạt được những gì chúng ta ước muốn nên chúng ta đau khổ. Đó là những gì chúng ta cần cho đời sống vật chất như cơm ăn áo mặc nhưng chúng ta lại muốn tự hào hoặc thích thú về chúng, chúng ta lại muốn có những lời khen tặng và được tâng bốc.

Có nhiều cảnh khổ chúng ta có thể nhìn thấy ngay, như một người đói rách vô cùng nghèo túng. Nhưng một cách nào đó, tất cả chúng ta đều là những kẻ đói khát và không thể kiểm soát được những gì chúng ta ước muốn.

Hãy lấy một thí dụ, có những người tốt phước được sinh ra trong một gia đình giầu có. Trong cả cuộc đời của anh ta, có thể anh ta sẽ không kinh nghiệm được một chút gì về sự thiếu thốn vật chất. Anh ta có thể mua được bất cứ gì anh ta muốn và được tự do đi du lịch ở bất cứ nơi nào anh ta thích để hưởng được tất cả những thú vui mà các nền văn hóa khác nhau đem đến.

Rồi khi mà không còn một nơi nào để đi, không còn một cái gì để sở hữu, không còn một thú vui nào để hưởng, anh ta vẫn cảm thấy thiếu, vẫn cảm thấy không thỏa mãn nên anh ta vẫn than khổ. Trong trạng thái bất an như vậy, trong tâm trạng bất mãn như vậy, nhiều người đâm ra điên loạn, họ không còn kiểm soát được tình trạng này và bắt đầu thấm mùi tê tái của khổ đau.

Như vậy, một đời sống hoàn toàn sung túc, tràn đầy thú vui thì đau khổ vẫn có ở đó, vẫn hiện diện ngay ở đóù. Sự thật là càng sở hữu vật chất bao nhiêu thì tâm bất mãn càng tăng lên bấy nhiêu, bởi vì sự sở hữu vật chất không có một chút khả năng nào ảnh hưởng đến hoặc cắt đứt được cái mầm mống căn để của khổ đau. Một dòng liên tục của bất mãn, lầm lạc, lo lắng và những liên hệ với chúng vẫn còn đó.

Nếu sự tích tụ tất cả những tiện nghi vật chất ở bên ngoài mà thực sự có khả năng loại bỏ được khổ đau thì khổ đau phải chấm dứt và bất mãn phải ngưng đọng mới được. Nhưng cho đến khi nào tâm của chúng ta còn bị ràng buộc với cái thân xác, vẫn còn liên hệ với cái thân xác không thể kiểm soát này thì đau khổ vẫn còn liên tục tiếp diễn. 

Thí dụ, để bảo vệ đôi chân khỏi giẫm phải đá nhọn trên đường chúng ta phải mang giầy dép. Nhưng sự kiện này không hoàn toàn chấm dứt vấn đề. Chính đôi giầy cũng thường mang lại cái đau. Chúng có thể làm đau những ngón chân hoặc cho chúng ta những lúc không thoải mái. Đây hoàn toàn không phải lỗi lầm của những bác thợ giầy.

Nếu chân của chúng ta không dài quá, lớn quá, nhậy cảm quá thì những đôi giầy thời trang kia phải hoàn toàn thoải mái cho chúng mới đúng. Như vậy, nếu chúng ta nhìn sâu vào vấn đề chúng ta sẽ khám phá ra cái nguồn gốc không thoải mái này không phải tại những lý do ở bên ngoài mà thực sự những nguyên nhân đang nằm sâu trong cơ thể và tinh thần của chúng ta, chính cơ thể và tâm thần của chúng ta tạo ra tình trạng không thoải mái này.

Đây chỉ là một thí dụ về kinh nghiệm đau khổ qua thân xác của chúng ta. Từ khi sinh ra đến khi lìa cõi đời này, chúng ta đã phải dùng biết bao nhiêu sức lực để bảo vệ cái thân xác này khỏi đau khổ. Thật ra, tất cả mọi người chúng ta chỉ dùng thời giờ để bảo vệ cái thân xác này một cách vô ích, không hữu hiệu, hoàn toàn không mang lại một kết quả nào. Mục đích của thiền không phải để bảo vệ cái thân xác này.

Không bao giờ nên nghĩ như vậy. Nó có một mục đích cao hơn, giá trị hơn. Dùng thiền để chữa bệnh thân xác hay mưu cầu lợi ích bề ngoài thì thật là vô nghĩa lý và làm mất đi sự diệu dụng của một phương tiện thiện xảo, dùng như vậy nó chỉ cho chúng ta một giá trị nhất thời giống như dùng thuốc aspirin để chữa bệnh nhức đầu. Bệnh nhức đầu có thể hết nhưng không có nghĩa là chúng ta được bảo đảm hoàn toàn.

Một thời gian sau nó sẽ trở lại bởi vì phương pháp điều trị này không có khả năng chấm dứt tận gốc rễ của vấn đề, vì thế sự giải quyết chỉ có tính cách tạm thời. Vì sự dễ chịu nhất thời và sự giảm đau tạm có thể dùng những phương tiện bên ngoài, nên không cần phải dùng đến thiền định hay bất cứ một sự thực hành tâm linh nào cho mục đích đó. Chúng ta không nên phung phí sức mạnh của thiền định cho những mục đích hạn hẹp như vậy.

Mục đích chính của thiền là trị bệnh tâm. Mặc dầu thân xác và tâm của chúng ta có những liên hệ nội tại nhưng chính chúng cũng có những hiện tượng hoàn toàn khác nhau. Thân xác của chúng ta là một đối tượng mà mắt của chúng ta có thể nhìn thấy được, nhưng tâm thì không như vậy.

Những thành phần trong một gia đình có thể có những nét giống nhau, nhưng mỗi một đứa trẻ lại có một cá tính khác nhau, đức tính khác nhau, sở thích khác nhau...vân vân... Mặc dầu cùng học chung một trường nhưng sự thông minh, sự hấp thụ bài học của mỗi học sinh lại hoàn toàn khác nhau, vì chúng ảnh hưởng từ cha mẹ hay ông bà chúng. Sự khác biệt tinh thần không thể giải thích bằng những phương pháp vật lý.

Một điều cũng cần nói đến ở đây, có những đứa trẻ nhớ rất rõ và chính xác những gì xẩy ra trong kiếp trước của chúng. Chúng có thể nói nơi nào chúng đã sinh ra, chúng sinh sống như thế nào ...vân vân... chúng còn có thể nhận diện được người và sự vật trong kiếp trước của chúng. Những sự kiện này có thể kiểm chứng được, đây là những bằng chứng hiển nhiên và xác thực cho bất cứ người nào muốn nghiên cứu lãnh vực này với một tâm vô tư không thiên kiến.

Trong bất cứ trường hợp nào cũng đều có một lý do ẩn sâu khác biệt ở tính bẩm sinh của mỗi thành phần trong gia đình, ở mỗi người và đặc biệt ở một số trẻ chúng nhớ được những kiếp trước của chúng, tất cả những sự kiện này cho chúng ta biết một sự thật: tâm của chúng ta không có một chỗ bắt đầu nhất định. Kiếp trước thật sự có.

Chúng ta không đi sâu vào vấn đề huyền bí ở đây về sự tiếp nối của kiếp này và kiếp khác, một điều quan trọng cần nhớ là: tâm của chúng ta liên tục từ kiếp này qua kiếp khác, vậy thì nó có thể mang những gì ở hiện tại qua tương lai. Đời sống của chúng ta trong hiện tại là kết quả từ những hành động, của cả tinh thần lẫn thể xác, mà chúng ta đã tạo ra trong kiếp trước.

Cũng như thế, những hành động của chúng ta đang làm trong kiếp này sẽ xác định đời sống cho kiếp sau của chúng ta. Vì thế, trách nhiệm hình thành tất cả những gì trong cuộc sống đang nằm trong tay của chính chúng ta. Thật là vô cùng quan trọng khi nhận ra được vấn đề này nếu chúng ta muốn đi tìm những ý nghĩa đích thực cho việc cắt đứt toàn diện những đau khổ tinh thần lẫn thể xác.

Mỗi một người chúng ta đã từng sinh ra làm người. Như vậy, chúng ta có cơ hội đem lại cho đời sống của chính chúng ta một ý nghĩa và mục đích. Để chiếm lấy tất cả những lợi ích này, chúng ta cần phải đi ngược lại những gì mà loài thú thấp hơn có thể làm được. Nhờ hiểu biết về sự tái sinh và nhờ kiểm soát được tâm của chính mình, chúng ta có thể kiếm tìm được căn nguyên của tất cả mọi đau khổ.

Chúng ta có thể giải thoát khỏi vòng luân hồi chết và tái sinh chỉ trong một vài kiếp sống. Chúng ta cứ phải trôi lăn vào vòng sinh tử mà không có một sự lựa chọn hay kiểm soát nào, nó là như vậy, chúng ta đã kinh nghiệm biết bao nhiêu là đau khổ về một cái thân xác không thể kiểm soát được.

Nhưng với một ý chí quyết tâm thực hành, cái vòng luân hồi này sẽ bị phá hủy hoàn toàn, chúng ta sẽ được giải thoát khỏi đau khổ và bất mãn một cách trọn vẹn viên mãn.

Tuy nhiên, chỉ chạy trốn khỏi luân hồi sinh tử cho chúng ta thôi thì không được, chưa đủ. Đây không phải là một cách áp dụng khôn ngoan cho đời sống làm người của chúng ta. Không phải chỉ một mình chúng ta bị đau khổ và bất mãn mà tất cả những chúng sinh khác cũng đang chịu như chúng ta. Nhưng, hầu như họ thiếu trí tuệ -con mắt Đạo pháp- để tìm con đường đúng mà chấm dứt hoàn toàn đau khổ.

Không trừ một ai, tất cả mọi chúng sinh trên mặt đất này đều dành trọn vẹn cả cuộc đời để tìm cách thoát khỏi khổ đau, tìm kiếm hạnh phúc và an lạc. Nhưng tâm của họ tràn đầy u minh tăm tối, sự kiếm tìm của họ rơi vào hão huyền lạc lõng.

Tâm vô minh, thay vì hướng dẫn họ đi tới mục tiêu phúc lạc, nó lại dẫn họ từ khổ đau này đến bất mãn khác. Họ cố gắng loại bỏ những nguyên nhân của khổ đau, nhưng bất hạnh thay mỗi ngày họ lại đi xa niết bàn hơn.

Tất cả chúng sinh đều bị khổ và đều mong muốn thoát khổ như chính chúng ta. Nếu chúng ta nhận thức được điều này, chúng ta sẽ hiểu được sự ích kỷ của chúng ta khi chúng ta chỉ mong giải thoát, vào niết bàn một mình. Tốt hơn chúng ta hãy cầu mong cho tất cả đều được giải thoát.

Nhưng trước khi có thể dẫn dắt người khác vào con đường chấm dứt khổ đau, chính chúng ta phải là người giác ngộ trước. Nói khác đi, chính chúng ta cần phải tinh tiến trên con đường tu tập giải thoát để có thể hướng dẫn người khác.

Vấn đề này có thể cắt nghĩa như sau: gỉa sử chúng ta muốn đem một người bạn đi ngắm cảnh ở một công viên nào đó, nếu chúng ta bị mù thì không có cách chi chúng ta có thể dẫn cô ta đến đó được, mặc dầu chúng ta muốn lắm. Điều kiện tiên quyết là chúng ta phải có một cặp mắt tốt và phải biết đường đi đến công viên.

Cũng giống như vậy, chúng ta phải có kinh nghiệm về con đường giác ngộ trước khi chúng ta có thể chỉ cho người khác, mỗi người sinh ra khác nhau, từ tính tình cho đến đời sống, nên con đường dẫn đến giải thoát cũng khác nhau.

Vậy, mỗi khi nói về mục đích của thiền định là chúng ta nói về sự đạt giác ngộ, một sự thành đạt chẳúng những cho chính chúng ta mà còn cho tất cả những người khác nữa. Đây là mục đích và cũng là lý do chính yếu khi chúng ta bước chân vào con đường thiền định. Tất cả các vị đạo sư du gìa cũng như tất cả các bậc thầy về thiền định trong qúa khứ đều đã thực hành Đạo pháp theo tâm nguyện đó.

Giống như vậy, khi chúng ta bước chân vào con đường thiền định - theo Đức Phật, có hàng ngàn hàng ngàn phương pháp thực tập thiền định khác nhau, tùy theo căn cơ của mỗi người - chúng ta nên có những động năng thúc đẩy này.

Sự thực hành tâm linh thật là cần thiết. Chúng ta không thiền chỉ vì bắt chước một phe nhóm nào, một người nào hay ngay cả vì Thượng đế. Nhưng chỉ vì trách nhiệm của chúng ta đối với chính sự đau khổ của chúng ta, chính chúng ta chịu trách nhiệm bảo vệ chúng ta.

Chúng ta tự đứng lên đi tìm hiểu chính mình và cũng chính chúng ta tạo ra hoàn cảnh cho mình để tự giải thoát. Do đó, vì đau khổ đã dày vò cuộc đời chúng ta, nên chính chúng ta phải làm một cái gì cho cuộc sống hàng ngày của chúng ta. “Một cái gì” này chính là sự thực hành tâm linh, hay nói một cách khác, chính là thiền định.

Nếu chúng ta không quay trở vào bên trong để huấn luyện tâm ta mà cứ dồn hết năng lực vào việc sắp xếp rồi lại sắp xếp những chương trình cho cuộc đời vật chất hiện tại này thì khổ đau vẫn còn đó, cứ mãi mãi tiếp tục. Khổ đau không có chỗ bắt đầu, nếu không thực hành một phương pháp tâm linh hữu hiệu thì khổ đau cũng không có chỗ chấm dứt.

Nói một cách tổng quát, thật là khó thực hành Đạo pháp trong một môi trường sống tràn đầy vật chất như ngày nay. Vì có qúa nhiều trở ngại, có qúa nhiều điều hấp dẫn hơn sự tu tập thiền định. Tuy nhiên, căn bản của những điều cản trở này lại không phải là nguyên nhân và môi trường của chính nó.

Khổ đau không tại những nhà máy trong khu kỹ nghệ, nó không phải tại đồ ăn thức uống của chúng ta, cũng không phải tại bất cứ cái gì khác. Nó đang nằm ngay trong tâm của chính chúng ta.

Đây là điểm rất ngạc nhiên cho tôi trong thời gian này, chuyến thăm viếng đầu tiên của tôi qua Tây phương, để thấy tận mắt bên cạnh sự tiến bộ vật chất là sự thích thú thực hành Đạo pháp và thiền định trong nhiều chiều hướng khác nhau của người Tây phương.

Có rất nhiều người chân thành đi tìm một ý nghĩa cao cả hơn cho cuộc đời của con người, họ cố gắng chuyển hóa mỗi ngày. Với lòng ngưỡng mộ đặc biệt, tôi nghĩ rằng đây là một việc làm rất khôn ngoan khi con người biết cố gắng hoà hợp đời sống vật chất và đời sống tinh thần, có một đời sống sâu xa về nội tâm cũng như một đời sống đầy đủ tiện nghi cho thể xác.

Với những người như vậy đời sống chắc chắn không phải là một sự hứa hẹn trống rỗng.

Món ăn mà được chế tạo bởi nhiều thực phẩm khác nhau thì chắc chắn phải ngon. Cũng vậy, nếu chúng ta có những công việc làm, có những hoạt động và cố gắng thật nhiều cho việc kiện toàn con đường tâm linh theo Đạo pháp thì đời sống của chúng ta thật là phong phú. Sự lợi lạc, ơn ích mà chúng ta có được nhờ biết kết hợp hai lãnh vực này thì thực là vĩ đại bao la.

Có một sự khác biệt rất lớn giữa tâm, xúc cảm và những kinh nghiệm của một người biết áp dụng Đạo pháp vào cuộc đời của họ và một người không biết áp dụng. Trong lúc phải đương đầu với những khó khăn của cuộc sống tràn đầy vật chất này, người biết áp dụng Đạo pháp sẽ ít lầm lẫn hơn và kinh nghiệm cuộc đời ít đau khổ hơn.

Họ biết kiểm soát tâm và biết phải làm gì ở bên trong tâm của họ để sẵn sàng giải quyết những vấn đề xẩy ra một cách thành thạo, khôn ngoan. Sự áp dụng này không phải chỉ cần cho đời sống thường ngày của họ mà đặc biệt ngay cả trong lúc họ chết.

Nếu chúng ta không bao giờ thực hành đời sống tâm linh thì chúng ta sẽ không bao giờ huấn luyện được tâm của chúng ta qua kỷ luật thiền định, rồi khi sự chết đến, chúng ta sẽ phải chiến đấu rất gay go. Sự lợi ích quan trọng nhất mà một người thực hành Đạo pháp có được là họ coi cái chết như là một cuộc hành trình đầy vui thú trở về nhà.

Nó giống như là đi đến dạo chơi trong một công viên tuyệt đẹp. Và ngay cho cả những người chưa đạt giác ngộ trong thiền định thì cái chết đối với họ cũng nhẹ nhàng, không đáng sợ hãi.

Có những người đối diện sự chết --chúng ta không thể tránh được -- với một cái tâm thật bình thản. Họ không sợ hãi chút nào, không lo âu về những điều mà họ sẽ gặp hay về những người thân yêu, về của cải và ngay cả về chính thân xác của họ. Trong cuộc đời này chúng ta đã kinh nghiệm sự sinh ra và bây giờ chúng ta đang kinh nghiệm về tiến trình gìa.

Chỉ duy nhất có một sự kiện mà tất cả chúng ta đang phải đi đến chính là sự chết. Vì thế, sự thực hành tâm linh sẽ giúp chúng ta đối diện với một sự kiện không thể tránh được một cách bình thản an nhiên, như vậy sự thực hành thiền định mới có ích lợi -- mặc dầu nó còn có những mục đích cao hơn nữa mà chúng ta có thể áp dụng.

Để tóm tắt, không còn một sự kiện bên ngoài nào của thiền định có vẻ quan trọng hơn nữa. Mặc dù chúng ta ngồi xếp tay theo kiểu này hay xếp chân theo kiểu kia thì cũng chỉ có một chút ảnh hưởng mà thôi. Điều vô cùng quan trọng trong con đường tu tập là kiểm soát xem, theo dõi xem phương pháp thiền định mà chúng ta đang áp dụng có thực sự giải thoát chúng ta ra khỏi đau khổ hay không.

Nó có chấm dứt những sự kiện hão huyền, huyễn ảo đang diễn ra ở trong tâm của chúng ta không? Nó có chấm dứt được tham sân si không? Nếu nó thực sự giúp chúng ta giảm được những thái độ tiêu cực của tâm thì đó là sự thiền định hoàn hảo, sự thực hành đúng và có giá trị.

Nhưng, nói một cách khác, nếu nó chỉ làm tăng thêm những thái độ tiêu cực, xấu (như tăng lòng kiêu mạn,) thì đó lại là một nguyên nhân khác đem lại đau khổ. Trong trường hợp này, dù chúng ta có nói là chúng ta đang thiền, đang tham dự những khóa tu tập, thì đó chẳng phải là thực hành tâm linh hay thực hành Đạo pháp một chút nào.

Đạo pháp hướng dẫn chúng ta ra khỏi khổ đau, ra khỏi những sự rắc rối. Nếu sự thực hành không dẫn chúng ta theo đường hướng này thì đã có một cái gì sai lầm trong đó mà chúng ta cần phải khám xét lại.

Thực ra, cốt tủy của việc thực hành Đạo pháp của tất cả các vị hành gỉa là khám phá xem những hành động nào của họ mang lại khổ đau và những hành động nào của họ là nguyên nhân của hạnh phúc. Từ đó, họ áp dụng sự thực hành vào việc tránh khổ đau và tạo thêm hạnh phúc càng nhiều càng tốt. Đây mới là cốt tủy của thiền định, đây mới là tinh yếu của Đạo pháp.

Tóm lại, tất cả chúng ta là những người bắt đầu bước chân vào con đường thực hành Đạo -- bắt đầu thiền định và thực tập kiểm soát tâm -- chúng ta cần phải tin tưởng vào những nguồn giáo lý, những sự dậy bảo.

Chúng ta nên đọc những cuốn sách có giá trị, khi có sự nghi ngờ hay thắc mắc, chúng ta nên hỏi những bậc thầy, những bậc đã thực sự tu tập, chuyên cần thực hành và đã có những chứng nghiệm trên con đường tâm linh mà họ đi.

Đây là một điều vô cùng quan trọng. Nếu chúng ta chỉ theo sự chỉ dẫn của sách vở thì đây là một việc vô cùng nguy hiểm cho con đường tu tập của chúng ta. Ngay cả việc chọn lựa một vị thầy, một vị đạo sư hay một vị lạt ma. Hãy chọn cho đúng. Họ phải là những người có thực chứng, đã từng thực hành và sống trong Đạo pháp.

Sự thực hành thiền định của chúng ta, sự thực hành con đường tâm linh của chúng ta không thể tiêu cực, không thể có những thái độ thụ động được.

Chúng ta không thể nào phá vỡ được sự kiên cố của đau khổ bằng một sự mù quáng, nhẹ dạ khi đặt niềm tin vào một vị nào đó --ngay cả một đại sư -- bảo chúng ta làm điều này, việc kia. Tốt hơn chúng ta nên sử dụng sự thông minh nội tâm của chính chúng ta để xác nhận, để tìm kiếm những phương pháp thích hợp hầu mang lại nhiều kết qủa hơn.

Nếu chúng ta đã có đầy đủ những lý do tốt lành để tin tưởng rằng sự dậy bảo này có giá trị và hữu ích thì chúng ta nên thực sự thiết tha và chân thành theo đuổi nó. Giống như việc chọn thuốc, một khi chúng ta đã chọn được đúng loại thuốc chữa lành căn bệnh của chúng ta thì chúng ta phải dùng ngay lập tức.

Nếu không, chúng ta cứ uống đại bất cứ loại thuốc nào mà chúng ta có thì chúng ta chẳng những không khỏi bệnh mà còn mang thêm bệnh vào người.

Đây là lời khuyên cuối cùng của tôi cho những người nào muốn bước chân vào con đường thiền định và tu tập Đạo pháp. Con đường tâm linh rất là thâm diệu bao la, nếu chúng ta không thể thực hành Đạo pháp mà chỉ học hỏi tìm hiểu nó thôi thì nó cũng hữu ích cho cuộc đời của chúng ta rất nhiều. Đó là tất cả những gì tôi muốn chia sẻ.

Cám ơn qúy vị rất nhiều.

2. ĐỂ TIẾN TỚI VIỆC NGHIÊN CỨU PHẬT PHÁP

Tôi rất hân hạnh được gặp Trungpa Rinpoche (Rinpoche là danh từ Tây tạng chỉ những bậc thầy đáng tôn qúi, thường là những vị tái sinh -Dg) và tất cả qúy vị ở đây. Tôi được Trungpa Rinpoche cho biết qúy vị rất mong muốn tìm hiểu con đường dẫn đến giải thoát, sự giải thoát nội tâm.

Tôi rất thích khi được biết như vậy. Thực ra, tôi không có ý thuyết giảng cho qúy vị ngày hôm nay. Tôi chỉ đến đây để thăm viếng tu viện Naropa và như qúy vị đã biết người đi du lịch thường hay nói những gì!

Tất cả qúy vị ở đây thật có phước. Qúy vị đến với trí tuệ của Phật và chắc chắn qúy vị sẽ có cơ hội để thực hành trí tuệ này. Rất nhiều người đã không hiểu được những cơ duyên và những cơ hội hiếm có khi được tiếp xúc với Phật Pháp. Họ cho rằng đây chỉ là một sự tình cờ có được một tư tưởng hay được gặp một người.

Nhưng không phải như vậy. Không có gì xẩy ra mà không có nguyên nhân, cái gì cũng có nhân và qủa. Vì thế qúy vị đừng nên nghĩ và đón nhận Phật Pháp như là một món qùa tặng. Bởi vì rất khó và rất hiếm mà có được, nên qúy vị hãy đón nhận nó bằng tất cả tấm lòng chân thành và trân qúi của qúy vị.

Cũng có thể có những sự hiểu lầm về những kết qủa khi tiếp xúc với Phật Pháp. Như nghĩ: “Hôm nay tôi được dậy bảo nhưng phải đợi đến một năm nữa tôi mới thực sự nhận ra nó, mới chứng nghiệm được nó.” Họ thất vọng vì con đường đạt giác ngộ qúa xa.

Người thời nay không nhận ra được cái gì đang ở ngay trước mắt của họ! Mỗi khi chúng ta đến với Phật Pháp, nếu chúng ta mở hết tâm hồn của chúng ta ra bằng một tấm lòng thực sự chân thành thì chúng ta sẽ nhận được sự đáp ứng ngay lập tức.

Chúng ta sẽ nhận ra một cái gì mới lạ và sâu đậm về chính chúng ta, về thế giới chung quanh chúng ta và về hiệu qủa của những gì chúng ta đang suy niệm. Nếu chúng ta suy gẫm những lời dậy bảo vào buổi sáng, có thể buổi chiều chúng ta đã nhận ra kết qủa. Không cần phải đợi đến tương lai mới nhận ra nó.

Qúy vị là những người thực sự có diễm phúc được đến với Phật Pháp qua vị Rinpoche khả ái của qúy vị nên qúy vị không nên chậm trễ trong việc thực hành. Nếu qúy vị chỉ lo sưu tầm tích trữ Đạo Pháp thì qúy vị đã tạo thêm rắc rối cho qúy vị rồi đó. Nếu như vậy thì những lời dậy bảo đầy minh triết và đầy lý luận cũng sẽ chỉ là sự thông minh và lý luận mà thôi.

Chúng ta thường bị quyến dũ bởi những triết thuyết uyên thâm của Đạo Phật và bởi những danh từ chuyên môn huyền bí phức tạp của nó, phần đông chúng ta hăng say đón nhận những lời giải thích về Đạo pháp theo chiều hướng này. Những kiểu thông minh như vậy, những lối đón nhận Đạo Pháp mà không thực hành Đạo Pháp thì chỉ tích tụ thêm những nguyên nhân tạo thêm rắc rối, tạo thêm bất mãn trong tâm mà thôi.

Rất dễ có loại hiểu lầm này khi đến với Phật Pháp. Chúng ta thường quan tâm hay thường chỉ để ý đến những danh từ và sự diễn dịch của nó mỗi khi chúng ta học hỏi một vấn đề gì.

Nhưng trong một Đạo viện, như Đạo viện Naropa này, thì vấn đề từ ngữ không nên qúa coi trọng. Chúng thuần túy chỉ là những tấm bảng chỉ đường đi đến trí tuệ mà thôi, chúng không phải là trí tuệ. Mục đích chính trong việc học tập ở đây là có được những chứng nghiệm Đạo Pháp ở nội tâm.

Qúy vị phải tự chứng nghiệm những lời dậy bảo trong tâm của qúy vị thay vì đợi Đạo Pháp mang ơn ích lại cho tâm của qúy vị. Nếu qúy vị ý thức sâu xa được vấn đề này và chân thành mở thật rộng tâm hồn ra thì sự giải thoát sẽ đến một cách dễ dàng. Hoàn toàn tùy thuộc vào sự ý thức và tỉnh thức của qúy vị.

Chiếc chìa khóa để thâu thập kết qủa trong Đạo Pháp là luôn luôn cố gắng tìm hiểu xem làm thế nào những lời dậy bảo có thể đem áp dụng thích hợp cho mọi sinh hoạt trong đời sống thường ngày của chúng ta.

Nếu chúng ta đón nhận Đạo Pháp chỉ bằng trí thông minh khô cằn thì những triết giáo chúng ta học hỏi được cũng chỉ mang lại cho chúng ta những cảm nghĩ mâu thuẫn và những cảm thọ xung khắc mà thôi. Vì thế, thay vì tinh tấn trong tinh thần thì lại bị bệnh tâm thần. Kết quả này không phải tại giáo pháp.

Nó cũng không có nghĩa là có một cái gì đó sai quấy trong sự trong sáng và minh triết của tư tưởng, nó chỉ là sự khác biệt của loại trí thông minh khô cằn. Nguồn gốc của vấn đề là thái độ thu nhận Đạo Pháp. Nếu chúng ta thực sự chân thành tiếp nhận những lời dậy bảo bằng cả tâm hồn mở rộng của chúng ta để tự chứng nghiệm những gì đã học hỏi được thì giáo pháp và những triết thuyết sẽ ơn ích vô cùng.

Càng học hỏi, càng có nhiều ơn ích. Không có gì phức tạp khó hiểu cả. Nhưng, nếu chúng ta đọc vội vàng, ngấu nghiến những lời dậy bảo mà không chịu ngừng lại để tiêu hóa chúng thì chúng ta chỉ kinh nghiệm được khổ đau trong một tinh thần chất đầy bất mãn mà thôi.

Thí dụ, quý vị có thể hãnh diện về những tài liệu, sách vở và sự hiểu biết mà quý vị tích trữ, thâu thập được; một cách không cần tiêu hóa chúng, quý vị tuyên bố rằng qúy vị biết nhiều về Đạo Phật, quan niệm của quý vị tốt hơn, vượt xa những người khác. Quan niệm này sẽ chẳng hướng dẫn quý vị đến đâu cả mà chỉ gây thêm rắc rối cho chính quý vị và cho những người khác.

Tại sao những loại thông minh này lại đang gây rắc rối cho thời buổi này? Có thể một vấn đề nào đó đang hoành hành ở thời đại phát triển vật chất ngày nay. Người ta vẫn tiếp tục ham muốn những cái gì mới lạ, mà không bao giờ bằng lòng với những sản phẩm mà kỹ thuật tân tiến đang cung cấp cho.

Vì thế, người ta thích chạy theo những tư tưởng khích động lòng ham muốn của họ rồi họ bị mê mệt bởi những mục tiêu không giới hạn mà họ nghĩ rằng họ có thể chiếm đoạt được. Họ cảm thấy không có gì là nguy hiểm khi buồn bực và khó chịu, bởi vì sự học hỏi thì cứ tiến tới không giới hạn và không ngừng.

Với một thái độ như vậy mà hướng về một cái tâm có khả năng bất tận thì cũng chẳng có giá trị gì với trí tuệ -sự thông minh chân thật. Nó chỉ mang lại những mê tín về chân tính mà thôi. Loại thông minh vồ chụp này chỉ phản ảnh những gì đang nằm sâu trong sự mê tín mà nó đã được tích trữ từ lâu để mang lại những niềm vui, sự an toàn và ngay cả sự giải thoát tạm thời.

Đừng coi những lời nói của tôi như là một sự khủng hoảng. Điểm mà tôi muốn nhấn mạnh là chúng ta nên kiểm điểm tâm ta một cách vô cùng khôn ngoan và sâu thẳm.Tại sao chúng ta lại muốn tìm hiểu học hỏi những lời dậy bảo của Đức Phật, và chúng thực sự có ý nghĩa gì trong những sinh hoạt hàng ngày của chúng ta?

Chúng ta có thể nghĩ rằng chúng ta đang theo đuổi con đường dẫn đến giác ngộ, nhưng khi thực sự đi vào vấn đề thì chúng ta thực hành nó ra sao? Nếu chúng ta thực tình đi sâu vào vấn đề, có thể chúng ta sẽ nhận ra được những gì chúng ta đã thực hiện.

Nhưng nếu chúng ta đã kiểm soát kỹ rồi mà chúng ta vẫn không nhận thấy chúng quan trọng, chúng chỉ là những khía cạnh của cuộc đời, thì có lẽ chúng ta đã không tiêu hoá những lời dậy bảo mà chúng ta đã nhận được.

Chúng ta đang nghiên cứu học hỏi và thực hành Phật pháp, nhưng chúng ta đã chẳng bao giờ tự hỏi chúng ta cái ý nghĩa chân thực của qui y Phật, Pháp và Tăng là gì? Nếu chúng ta đã suy nghĩ về những điều này và đã có ngay một câu trả lời - như chúng ta đang viết một bài khảo luận- thì có lẽ cũng chẳng có gì xảy ra nơi tâm của chúng ta.

Rồi chúng ta vội vàng đi đến kết luận là qui y chẳng có ý nghĩa gì hết. Đây là một sai lầm đáng buồn. Mặc dầu chúng ta có thể có hàng chuỗi dài những định nghĩa bóng bảy đi nữa, sự qui y cũng vẫn chẳng có ý nghĩa gì với chúng ta nếu chúng ta không qui y bằng cả trái tim chân thành mở rộng của chúng ta.

Như vậy, sự tìm hiểu chân thật sẽ cho chúng ta hiểu được rằng chúng ta đã không tiêu hoá cái gì mới thực sự là qui y. Chúng ta đã tự loại bỏ chúng ta ra khỏi sự độ trì và an bình của Tam Bảo.

Nếu chúng ta nghiên cứu Phật Pháp bằng một cái tâm hoàn toàn cởi mở và chân thành, cố gắng đi tìm những câu trả lời cho những vấn đề hàng ngày của chúng ta, thì qui y thực sự đem lại rất nhiều ý nghĩa. Từ những kinh nghiệm riêng của chúng ta, chúng ta đã biết được những gía trị thăng tiến vượt bực của Đức Phật về một tâm toàn giác.

Chúng ta sẽ nhìn thấy một cách vô cùng trong sáng thế nào là lòng từ bi giác ngộ, nó vượt xa những gì gọi là ràng buộc và ham muốn thường tình, nó cho chúng ta những khả năng đem lại hạnh phúc cho chính mình và cho những người khác. Bằng cách này, câu trả lời cho câu hỏi qui y sẽ đến ngay từ trái tim của chúng ta chứ không phải bằng môi miệng.

Điều này không có nghĩa là chúng ta nên chấp nhận một cách mù quáng, đơn giản vì nó là những lời dạy bảo của lạt ma. Đây là một sự sai lầm trầm trọng như chính những sự thông minh hoá. Điều vô cùng quan trọng là chúng ta nên hiểu những lời dậy bảo bằng chính sự tỉnh thức sâu xa của chúng ta.

Chúng ta phải kiểm chứng những sự thật mà chúng ta đã và đang được dậy bảo, không nên chấp nhận nó chỉ vì nó được nói ra bởi những người mặc chiếc áo thầy tu, hay hoàn toàn ôm giữ nó bằng trí thông minh của chúng ta.

Không có một chỗ nào trong Phật giáo dành cho những kiểu mơ mộng hão huyền của loại tâm linh siêu thị. (Đệ nhất nguyên nhân gây khổ đau cho chúng sinh là vô minh, ý nghĩa đơn giản của vô minh là không sáng suốt, không biết, không hiểu mọi hiện tượng xẩy ra.

Vì thế, chiếc chìa khóa đầu tiên và duy nhất để đối trị căn bệnh này chính là trí tuệ, ý nghĩa đơn giản của trí tuệ là hiểu mọi hiện tượng như nó là.

Trí tuệ chỉ đến sau khi chính mình -không phải ai khác- thành tâm thực hành Đạo Pháp, trí tuệ không đến qua kinh sách, lạt ma, đền chùa hoặc bất cứ sự kiện bên ngoài nào; nếu có thì đây chỉ là trí thông minh bình thường mà thôi, không phải trí tuệ -Trí Bát Nhã - trí thông minh cũng chỉ đem lại khổ đau, một loại vô-minh-thông- minh. - Dg)

Khi chúng ta đã nghiên cứu học hỏi lâu rồi mà vẫn còn trở ngại với những kinh nghiệm cảm thọ thường tình, chúng ta có khuynh hướng đi khiển trách vị lạt ma hay vị thầy của chúng ta. Trong lúc này chúng ta nên tự vấn chính mình xem chúng ta có làm một điều gì hơn sự đòi hỏi của tri kiến hay không.

Thái độ của chúng ta có hoàn toàn thay đổi không? Trong trường hợp này có thể chúng ta đã đầu độc tâm ta. Để tránh sự ô nhiễm này, Đạo Pháp đặc biệt chú trọng đến vấn đề học tập và thực hành không được xa rời nhau.

Cái gì chúng ta đã thực hiện qua thân khẩu và ý của chúng ta thì quan trọng hơn những gì chúng ta đã sưu tập được từ sách vở rất nhiều, hay ngay cả từ những điều học hỏi được ở những vị lạt ma, những vị thầy, những vị đạo sư hoặc từ bất cứ ai. Trách nhiệm về sự giải thoát và giác ngộ nằm ngay trong ta, không phải ở một vị lạt ma hay ở bất cứ một vị thầy nào.

Sự đạt đạo được lớn mạnh từ cá tính và khả năng của chính ta chứ không phải từ bất cứ ai. Thật là sai lầm khi chúng ta khấn xin, “Lạy lạt ma, con có thể làm gì đây?” Đây là một sự thật, hãy làm với tất cả những gì chúng ta có -bằng chính khả năng của chúng ta - điều này xác định hiệu qủa của sự thực hành tâm linh.

Theo ý nghĩa thâm sâu của Đạo Pháp, chẳng những chúng ta phải chịu trách nhiệm về những bối rối lầm lẫn và đau khổ của chúng ta mà chúng ta còn phải chịu trách nhiệm cho cả những sự buông xả của chúng ta nữa. Nếu sự học hỏi Phật Pháp mang lại những phẫn uất cho tâm của chúng ta thì đó chính là chúng ta đã thất bại trong việc phát triển sự học hỏi đó ra trong ý nghĩ và hành động của chúng ta.

Tuy nhiên, nếu chúng ta biết làm thế nào tiêu hoá được những gì chúng ta đã học, ngay cả một điều nhỏ mọn, thì nó cũng mang lại rất nhiều ơn ích cho tâm chúng ta. Giống như một miếng chocolate hay một miếng bánh rất ngon; sự hiểu biết tầm thường không thể so sánh được với nó. Sự hiểu biết tầm thường không thể cho một hình ảnh nào về sự chân thực, về thực tướng, vì thiếu trực giác.

Như tôi đã nói, nếu chúng ta đem thực hành những gì chúng ta đã học hỏi được thì chúng ta không cần đợi kết qủa. Ơn ích sẽ đến ngay. Tôi qủa quyết rằng những người nào trong qúy vị ở đây đã có kinh nghiệm về thiền định đều nhìn nhận tất cả những khó khăn xảy ra thường ngày đều được giải quyết một cách tốt đẹp, nhanh chóng.

Sự thật đã xảy ra như vậy, mặc dầu chỉ có một thời gian thiền định ngắn thôi cũng mang lại sự bình an lâu dài, qúy vị đã có những kinh nghiệm này, phải không? Mỗi khi chúng ta có sự an tĩnh tại nội tâm, mỗi khi chúng ta đem áp dụng sự bình an nội tại này là chúng ta thực sự tu tập, vì thế chúng ta sẽ dễ dàng giải quyết được những vấn đề.

Không có sự an bình này, việc tu tập chỉ đem đến cho chúng ta những xung động mà thôi. Vì nội tâm luôn bận rộn với những ý tưởng xung đột nên nó không còn một chỗ nào cho Đạo Pháp.

Những lời dạy bảo của Đức Phật rất đơn giản và ngay thẳng. Nếu chúng ta thấy nó phức tạp chỉ vì chúng ta đã tạo ra như vậy.

Có thể chúng ta nghĩ, “ Tôi có bằng tiến sĩ, tôi hiểu tất cả những tư tưởng này, nhưng tôi vẫn không tìm ra được một phương pháp nào để thực hành Đạo Pháp.”

Liều thuốc để chữa căn bệnh này là hãy tự nhìn sâu hơn vào nội tâm của chính chúng ta. Hãy cố gắng quan sát những ý niệm tâm linh bệnh hoạn của chúng ta và hãy khám nghiệm những nguồn năng lượng thân khẩu và ý của chúng ta xem có chỗ nào bị tắc nghẽn và bị hướng dẫn sai lầm không.

Để làm công việc này có kết qủa, chúng ta cần có một chút kinh nghiệm về sự kiểm soát tâm. Chúng ta cần có tinh thần kỷ luật, luật tâm linh để giúp chúng ta thực hành một cách sống động linh hoạt hơn.

Nếu chúng ta không bắt đầu có hoặc bắt đầu phát triển ngay bây giờ một kỷ luật tâm linh thì chúng ta sẽ mất, sẽ hoang phí rất nhiều thời giờ trong cuộc đời cho một cái tâm vô kỷ luật. Không có chánh kiến từ khởi đầu nên lực vô minh cứ dẫn chúng ta tái sinh vào vòng luân hồi hết kiếp này đến kiếp khác mà không có quyền lựa chọn.

Chúng ta đã mở cửa để tất cả những ảnh hưởng xấu tự do thấm nhập vào cả trong tâm hồn lẫn ngoài thân xác của chúng ta. Động từ “MỞ” ở đây mang một ý nghĩa thụ động. Tuy nhiên, với một sự áp dụng đúng đắn luật tâm linh, với một tinh thần kỷ luật cao độ, chúng ta có thể “MỞ” trong ý nghĩa tích cực.

Tinh thần kỷ luật không phải là sự siết chặt thần kinh như chúng ta nghĩ. Nó hoàn toàn không có nghĩa là chúng ta nhốt chúng ta vào một nhà tù mất hết sự tự nhiên và không còn sáng tạo. Nó chỉ có nghĩa là chúng ta nên tỉnh thức trong tất cả mọi hành động của chúng ta.

Một cách từ từ và kiên nhẫn, chúng ta nên cởi bỏ, tháo gỡ tất cả những nút thắt về những ý niệm sai lầm của chúng ta, từ đó chúng ta giải phóng chúng ta khỏi tất cả những năng lượng thụ động mà nó đã cột chặt chúng ta từ muôn kiếp.

Những lý thuyết phức tạp không cần thiết cho tiến trình tinh tiến này. Điều vô cùng quan trọng là chúng ta phải chấm dứt ngay tình trạng vô ý thức, tình trạng không thức tỉnh trên tất cả những thói quen thường ngày của chúng ta.

Một số người nghĩ rằng giữ kỷ luật sẽ làm chúng ta mất hết sự cởi mở và tính tự nhiên. Họ cho rằng chúng ta nên thoải mái và hãy để cho mọi thứ trôi chảy một cách tự do. Hành động như vậy chẳng có gì ngược lại với kỷ luật. Nhưng thực ra, giữ kỷ luật lại giúp chúng ta cởi mở một cách chân thật hơn.

Nhiều khi chúng ta phải dẹp bỏ ý thức để được tự nhiên và nhiều lúc chúng ta lại phải liều lĩnh để hành động. Khi chúng ta sống trong kỷ luật trí tuệ của Đạïo pháp, chúng ta sẽ không còn bị ảnh hưởng của vọng tưởng và vô minh nữa.

Nếu chúng ta cố gắng hành động một cách tự do không cần kỷ luật thì thay vì cởi mở với hoàn cảnh đang đối diện, chúng ta lại bị bưng bít bởi những sự lầm lẫn, bối rối của chính chúng ta. Vì thế, để được tự nhiên chúng ta phải có một tinh thần kỷ luật từ sự thức tỉnh và trí tuệ. 

Rất nhiều người phàn nàn rằng nếu liên tục chú ý vào những hành động của thân khẩu và ý thì khó qúa. Nhưng thực ra nó chỉ khó khi nào họ không chú ý đến luật nhân qủa. Tất cả những thói quen của chúng ta ở hiện tại sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến những gì sẽ xẩy ra trong tương lai. Cũng giống như vậy, những gì chúng ta đang gặp phải bây giờ đều là kết qủa của tất cả những gì chúng ta đã làm trong qúa khứ.

Nếu chúng ta nhận thức được điều này, chúng ta sẽ thận trọng với những hành động hiện tại của chúng ta một cách sâu xa hơn vì đây là trách nhiệm của chính chúng ta chứ không phải của bất cứ ai khác. Chúng ta sẽ nhận thức được hạnh phúc hay đau khổ là do quyết định của chính chúng ta. Nếu chúng ta là người tử tế, dễ thương và cởi mở trong tinh thần kỷ luật thì kết qủa là chúng ta sẽ có hạnh phúc thật .

Nếu chúng ta là người độc ác, ích kỷ và hẹp hòi, chúng ta sẽ chỉ gặp những khó khăn và đau khổ. Do đó, kỷ luật chỉ khó khăn đối với người nào không biết hoặc không sợ luật nhân qủa, nên họ cũng chẳng có một sự thúc đẩy nào đến với con đường tâm linh.

Nếu chúng ta hiểu được sự liên hệ tự nhiên giữa những hành động và những ảnh hưởng của nó đối với chúng ta và những người khác thì chúng ta sẽ tự động phải ý thức và cẩn trọng trong mọi hành vi của chúng ta. Đây là lý do tại sao chúng ta phải thức tỉnh.

Mỗi khi chúng ta tỉnh thức trong từng hành động của chúng ta là chúng ta phát triển thêm trí tuệ. Từ đó chúng ta kiểm soát được luật nhân qủa. Nói cách khác, khi đó chúng ta có thể thanh tẩy được nghiệp của chúng ta. Vì thế, với sự tỉnh thức, chúng ta sẽ có những ý thức chân thực khởi phát chứ không phải do vô minh mà ra.

Mật chú thường được dùng để khai mở những buổi pháp đàm, như Om muni muni maha muniye svaha, ý nghĩa sâu xa của ba lần lặp lại Muni là để “kiểm soát.” Muni đầu tiên để kiểm soát tam độc ở tâm - tham, sân, si - ba thứ này mang lại đau khổ cho cuộc đời.

Muni thứ hai để thanh tẩy ô nhiễm và nghiệp, kể cả những hạnh nghiệp tốt mang lại niềm vui cho nhân loại, vì những thứ này cũng làm cho tâm không thanh tịnh (nghiệp có nghiệp xấu và nghiệp tốt, nghiệp nào cũng làm cho tâm không còn cân bằng thanh tịnh, Phật và chúng sinh tính thường rỗng lặng, rỗng lặng thì không có tốt không có xấu, tâm rỗng lặng chỉ nhìn sự vật như thị, như nó là, không có kiểu,” A, cái này tốt tôi nên giữ; ô cái kia xấu quá, bỏ đi.” --Dg)

Với sự kiểm soát như vậy, giúp chúng ta thoát khỏi luân hồi. Nhưng chúng ta không thể phát triển sức mạnh này hay niềm an lạc này trong một khoảng khắc mà nó sẽ đến từ từ, từ từ, rất chậm trong tiềm thức của chúng ta để rồi một ngày nào đó sẽ trở nên hoàn hảo.

Maha muniye, đại thanh tẩy, sự kiểm soát toàn diện, thanh tẩy tất cả những dấu ấn của ảo vọng và nghiệp lực nằm rất sâu trong thể vi tế nhị nguyên của tâm ta. Trong sự phát triển cao độ này, trong sự giác ngộ này, chúng ta có khả năng tỉnh thức trọn vẹn (toàn giác) để mang lại ơn ích cho muôn loài chúng sinh. 

Nhưng trước nhất chúng ta phải bắt đầu, từ từ, tinh tấn đều đều, đều đều, không hấp tấp, không vội vàng. Đừng làm những bước nhảy vọt. Hãy áp dụng, hãy thực hành một cách vững chắc. Nếu chúng ta bắt đầu tiến hành từ từ như vậy, chúng ta sẽ có khả năng tiếp tục lâu dài một cách rất dễ dàng và rất thoải mái.

Chúng ta sẽ thức tỉnh và kiểm chứng được tất cả những gì chúng ta đang thực hành trong từng giây phút. Nếu chúng ta nhảy vọt ngay từ lúc bắt đầu chúng ta sẽ bị gẫy chân; lúc đó nếu có lạt ma đến để chia sẻ với chúng ta về sự tiến bộ, về những chứng nghiệm Đạo pháp thì chúng ta đã bị què mất rồi, chẳng còn chia sẻ gì được. Trách nhiệm về sự thực tập lời dạy bảo này chẳng phải ở ông thầy mà tại chính chúng ta.

Khi chúng ta qui y Phật, Pháp và Tăng là chúng ta quyết liệt với nghiệp của chúng ta. Có nghĩa là chúng ta sẵn sàng canh giữ ba cửa ngõ thân khẩu ý của chúng ta và chúng ta tiếp tục tỉnh thức trong từng hành động của chúng ta. Phương pháp để hoàn thành công việc này là thiền định.

Nếu chúng ta đã quyết định và đã có một phương pháp thích hợp thì sự học hỏi triết lý và giáo pháp mới có ích lợi. Lúc đó càng học hỏi về thiền định và biết thiền định trên những vấn đề gì, thì sự thực hành càng có kết qủa. Đời sống của chúng ta và sự thực hành tâm linh của chúng ta sẽ dẫn chúng ta đến những bước cao hơn, do chính sức mạnh và kết qủa của sự cố gắng này.

Để chứng nghiệm Đạo Pháp, cần hai điều kiện: học hỏi và thực hành. Không áp dụng hai điều kiện này thì sự nguy hiểm nằm ngay trong phương pháp đó. Nếu chúng ta đến với Đạo và học Đạo bằng cái “tôi” của chúng ta thì chúng ta sẽ chẳng thâu thập được gì mà lại còn chuốc thêm đau khổ bởi chính sự ô nhiễm tinh thần này.

Thí dụ, chúng ta sẽ chỉ trở nên một người rất tinh thông về những danh từ và ý niệm mà thôi. Nếu chúng ta học và thực hành không trọn vẹn, sự kiện này sẽ là nguyên nhân gây đau khổ cho cái bản ngã kiêu mạn của chúng ta. Vì thế, mặc dầu Đức Phật có xuất hiện ngay trước mặt chúng ta mà giảng dạy Đạo Pháp cho chúng ta, chúng ta cũng nhún vai mà nói với Ngài rằng:

“ Tôi biết rồi, ông không phải nói với “Tôi” những điều này nữa.” 

Thay đổi thái độ tâm linh này rất khó. Sức mạnh tinh thần của chúng ta có thể cấu tạo một hàng rào hoài nghi rất vững chắc để bảo vệ chặt chẽ những ý niệm sai lầm “dễ thương” của chúng ta. Cái thái độ sắt thép này chẳng những ngăn cản chúng ta tiếp xúc với người khác mà nó còn phá hủy hoàn toàn những gía trị căn bản của một con người.

Bởi vì chúng ta cho rằng chúng ta biết tất cả mọi thứ nên chúng ta bị cầm giữ trong vô minh, như vậy chúng ta sẽ chẳng còn một cơ hội nào đánh thức tâm ta để trốn thoát khỏi khổ đau.

Do đó, chúng ta cần nhiều cố gắng để thực hành những gì chúng ta đã học hỏi được. Thực hành những gì chúng ta đã nghe, đã đọc và đã làm, đã nghĩ bằng tất cả năng lực của chúng ta. Đó là tất cả những gì tôi muốn nói. Hãy coi chừng nghiệp của chúng ta. Nghiệp là một danh từ Phật giáo, tiếng Phạn là Karma, đây là một danh từ Aán độ, ý nghĩa rất phức tạp.

Hàng ngày chúng ta ăn, uống, ngủ, đi và nói chuyện với người khác. Tất cả những hành động ấy tạo ra nghiệp, là nghiệp. Nói một cách đơn giản, tất cả những năng lượng phát ra từ thân khẩu và ý đều là nghiệp. Tất cả nghiệp lực đều có phản ứng, rồi nó lại tạo ra những phản ứng khác nữa, khác nữa, khác nữa....

Chúng ta không cần đi sâu xa, phức tạp hơn nữa. Như vậy cũng đã qúa đủ để xác định khi vui sướng là nghiệp qủa của những động lực lành mạnh đã được tạo ra từ trước, khổ đau là kết qủa của những hành động bất thiện. Để nói về nghiệp, có khi phải cần cả một ngày, một tuần, một tháng hoặc cả năm mới luận bàn hết được.

Tuy nhiên, lời dậy bảo đơn giản bao giờ cũng thấm hơn là những bài thuyết trình cầu kỳ bóng bảy, toàn là những lời trống rỗng, trò chơi của chữ nghĩa. 

Từ khi sinh ra đến bây giờ, những gì chúng ta đã nói, đã nghĩ, đã làm đều là những cơ hội tạo ra nghiệp cho tương lai. Không có một giây phút nào mà chúng ta không tạo ra nghiệp, chúng ta tạo nghiệp trong từng giây từng phút. Có thể chúng ta không tin nghiệp và luật nhân qủa.

Nhưng dù tin hay không tin, nó vẫn ở đó, như chiếc kim đồng hồ không ngừng di chuyển. Cho tới khi nào chúng ta hiểu được tiến trình tạo nghiệp này, chúng ta mới tỉnh thức về tất cả những hành động xấu mà chúng ta đã tạo ra do thói quen, lúc đó chúng ta mới dễ dàng nhận ra bao nhiêu là rắc rối mà chính chúng ta đã mang lại cho chúng ta.

Mỗi một phút chúng ta tạo ra hàng trăm thứ nghiệp, có nghiệp chúng ta đã cố tình tạo ra.

Trong sự yên tịnh của thiền định, chúng ta có thể nghe được tâm ta, đây là nguồn gốc và nơi chốn của tất cả mọi hoạt động. Ở đây chúng ta có thể học hỏi, kinh nghiệm và nhận diện được mọi hành động của chúng ta từ rất xa, sâu thẳm mà chúng ta không hề biết trước kia.

Công việc tự tỉnh thức này dẫn đến việc tự kiểm soát, đây là khả năng làm chủ nghiệp lực của chúng ta thay vì để nó điều khiển chúng ta.

Phật giáo Đại thừa dậy rất rõ ràng minh bạch về con đường chuyển hoá tất cả những sinh hoạt hàng ngày thành những phương tiện thiện xảo đưa đến giác ngộ. Ngay cả những năng lượng tiêu cực cũng có thể chuyển thành những kết qủa tích cực.

Điều này có thể thực hiện được bởi vì tất cả những năng lượng này đều là sự diễn dịch của những thái độ tinh thần, những thái độ này có thể dẫn đến mục đích đạo đức hoặc không đạo đức. Tất cả đều đòi hỏi một sự tỉnh thức cao độ.

Vì hiểu và sinh hoạt với những nguồn năng lượng của chúng ta mỗi ngày nên chúng ta có khả năng tạo được những bước rất dài trên con đường tâm linh. Không cần chúng ta phải cắt bỏ những hoạt động hàng ngày của con người để đi đến một nơi nào đó tu dưỡng tâm linh.

Chúng ta có thể học hỏi ở mọi nơi mọi lúc. Phật giáo là con đường trung đạo, nó tránh tất cả những gì gọi là cực đoan. Vì thế, nếu chúng ta thực sự chân thành muốn thực hành Đạo pháp trong đời sống hàng ngày của chúng ta, chúng ta thực sự cần một đời sống quân bình.

Đừng thẩm định qúa thấp hoặc quá cao công việc gì mà chúng ta muốn hoàn thành, hãy cố gắng làm việc ở trong nội tâm càng nhiều càng tốt.

Nếu thực sự chân thành thực hành Đạo pháp trong đời sống hàng ngày, chúng ta sẽ được đổ đầy lòng nhiệt tâm. Nếu chúng ta là những người có tuổi thì tâm hồn chúng ta sẽ trở nên trẻ trung và tươi mát như một thiếu niên 15 tuổi. Còn không, thân xác và tâm hồn chúng ta sẽ bị gìa đi và suy nhược chung với nhau.

Chúng ta sẽ chẳng có trí tuệ, chúng ta sẽ sống quãng đời còn lại rồi chết đi trong sự sợ hãi và ngu muội.

Vậy, chúng ta hãy cố gắng sống trong sự bình an của tâm hồn càng nhiều càng tốt. Hãy cố gắng sống vui vẻ. Có qúa nhiều cơ hội sống tốt đẹp ở xã hội này, vậy hãy dùng nó cho khôn ngoan. Hãy nhớ rằng mục đích chính của một xã hội đầy máy móc là để tiết kiệm thời gian.

Vậy hãy tổ chức đời sống sao cho có thật nhiều giờ dành cho thiền định. Rồi, khi nào bắt đầu biết để ý đến nghiệp lực được tạo như thế nào qua thân khẩu và ý thì lúc đó là lúc chúng ta mới thực sự thực hành Phật Pháp. Ngoài ra, mỗi khi chúng ta cố gắng ngồi thiền chúng ta chỉ ngồi đó mà chẳng thực hiện được một kết qủa hữu dụng nào.

Ngồi, tự nó chẳng phải là thực hành.Tinh tấn và chuyển hoá mới thực sự là thực hành. Khi tinh tấn, chúng ta cảm nhận được.

Không cần phải hô hoán lên,

“Ô Lạt ma, con đang học Phật Pháp, con có tiến bộ không?”

Sự cảm nhận chỉ có thể được chứng nghiệm bởi chính anh, không phải Lạt ma hay bất cứ người nào khác. Chúng ta mỗi người đều có khả năng nhận ra sự tinh tấn này.

Tôi nghĩ rằng tôi đã nói quá nhiều, nhưng tôi cũng nghĩ rằng tôi đã nhấn mạnh một điều gì đó. Bây giờ chẳng còn gì để nói với quý vị nữa. Ước mong rằng sự gặp gỡ hôm nay sẽ mang lại một nghiệp qủa tốt và tạo nhiều ơn ích. Nếu được như vậy, xin đừng phí phạm. Hãy hồi hướng tất cả những thành qủa này cho muôn loài chúng sinh. Cám ơn qúy vị.

Tôi rất sung sướng vì ở Hoa kỳ có rất nhiều người mong muốn đi tìm sự bình an trường cửu để đạt giác ngộ. Thật là may mắn cho qúy vị được chia sẻ nghiệp qủa với Trungpa Rinpoche.

Mong rằng sự cố gắng của ngài và sự thực hành liên tục của qúy vị sẽ mang lại hạnh phúc và sự an lành cho tất cả mọi người.

3. TÌM HIỂU NGUYÊN NHÂN CỦA BẤT HẠNH

Sự thấu hiểu bản tính thật hay chân tính của những hiện tượng ở nội tâm có sức mạnh cắt đứt tất cả những tình trạng mê mờ ảo vọng của tâm. Giống như một lưỡi kiếm cắt đứt những vọng tưởng. Lưỡi kim cương sắc bén này có khả năng phá hủy trọn vẹn những nguồn năng lượng tiêu cực.

Với sự hiểu biết sâu xa của trí tuệ, tâm chúng ta sẽ tự nhiên đi vào trạng thái trong sáng thanh tịnh, khi đó cảnh bình an chân thật của nội tâm sẽ được thành lập. Chính vì lý do này mà Phật Pháp không chấp nhận một tình trạng hiểu biết mù quáng. Điều vô cùng quan trọng là chính cá nhân chúng ta phải tự thẩm định và tự chứng nghiệm sự thật về những lời dậy bảo ở trong chính tâm hồn của chúng ta, chứ không phải nhắm mắt tin vào giáo điều.

Sự thành đạt trí tuệ như vậy mới mang lại kết qủa thực sự cho việc huấn luyện tâm để đạt tới mục tiêu. Chúng ta sẽ chẳng có tinh tấn trên con đường học đạo nếu trí tuệ của chúng ta không làm việc một cách sắc bén.

Điều này đi ngược lại với sự nhận xét của một số người về tôn giáo -- theo họ, tôn giáo có những tín điều không thể thay đổi hoặc không được chống lại vì nó ở bên ngoài tất cả những lý lẽ, thắc mắc, bàn luận và nghiên cứu khoa học.

Đáng tiếc thay, những tư tưởng suy đồi trong hệ thống tín lý của tôn giáo lại làm vững mạnh thêm cho những quan niệm độc đoán một chiều này. Ở đây tôi không đề cập tới những hình thức thoái hóa của tôn giáo vì thực ra nó chỉ là những mê tín dị đoan. Đúng ra, tôi chỉ muốn nhấn mạnh đến khả năng kỷ luật của nội tâm, nó có thể tạo được sự bình an thật cho chính tâm mình và người khác.

Thật là sai lầm khi nghĩ rằng người có đạo nên tránh những điều mới lạ và những cơ hội có thể làm lay chuyển đức tin của họ. Một tôn giáo đúng nghĩa thì tràn đầy trí sáng suốt, tại sao tín đồ lại phải sợ bóng tối? Aùnh sáng thực sẽ không bao giờ bị ảnh hưởng bởi bóng tối. Giống như thế, tâm trong sáng của trí tuệ không hề bị quấy nhiễu bởi một cái tâm mù mờ và lầm lẫn.

Cũng như sự nghiên cứu theo đúng tinh thần khoa học dù dưới bất cứ hình thức nào cũng không đi ngược lại sự chân thật của tôn giáo. Nói cho cùng, bất cứ sự nghiên cứu nào của khoa học cũng không chối bỏ được ánh sáng của mặt trăng và mặt trời, thế thì tại sao họ lại chối bỏ ánh sáng của nội tâm?

Những kẻ yếu đuối - những ai thiếu con mắt phân biệt của trí tuệ - chấp nhận giáo lý một cách thụ động. Họ không có nền tảng triết học và hoàn toàn không có gì bảo vệ cho những điều họ tin, vì thế khi có ai thắc mắc lòng tin của họ là họ sẽ khó chịu ngay. Những người như vậy thường có một đời sống hay đắn đo, hoang mang, sợ hãi bất cứ người nào hay bất cứ gì có thể ảnh hưởng đến căn bản tinh thần mập mờ của họ.

Tuy nhiên, thái độ này không phải tại tôn giáo nhưng tại sự hiểu biết qúa hẹp hòi của họ. Đạo pháp luôn luôn hướng dẫn chúng ta đi con đường ngược lại với thái độ này. Đạo pháp có khả năng hướng dẫn một người biết phối hợp tất cả những kinh nghiệm trong đời sống vào một sựhợp nhất toàn thể (một là tất cả, tất cả là một ), từ đó sẽ không còn sợ hãi và bất an.

Dĩ nhiên, loại triết lý và luận lý của đức tin tôn giáo không hoàn toàn giống như những loại được dạy ở trường học. Thí dụ, loại lý luận toán học ở trường học dạy chúng ta giải quyết những vấn đề có tính cách bên ngoài sao cho hợp lý. Còn nguồn gốc sâu thẳm ở bên trong thì lại không được chú ý đến hoặc nếu có thì nó cũng chỉ đem lại những kết qủa giới hạn mà thôi. Ngược lại, Đạo Pháp có một giá trị cao hơn và có tính cách bao trùm.

Nó trực diện thẳng với những vấn đề ẩn sâu trong nội tâm và thường được dùng để giải quyết những vấn đề quan trọng trong cuộc sống như : Làm thế nào để tìm kiếm hạnh phúc, tránh khổ đau cho chính mình và cho những người khác.

Khi chúng ta giải quyết những rắc rối trong đời sống qua Đạo pháp, chúng ta sẽ không thuần túy chỉ đề cập đến một vấn đề hoặc ở một khía cạnh mà chúng ta phải khám phá ra tất cả những liên hệ giằng co ở sâu thẳm bên trong của toàn thể vấn đề.

Đây là điều kiện cần phải có cho những người nào muốn liên tục khám phá và tìm hiểu những lý do “tại sao” và “thế nào” mà họ đã thiếu sót. Kết quả là chúng ta sẽ hài lòng hơn rất nhiều với lối giải quyết này vì nó ảnh hưởng đến toàn thể những gía trị của đời sống con người.

Làm thế nào để áp dụng kiểu lý luận nội tâm theo Đạo pháp? Có thể qúy vị không được hài lòng, và có thể sự chán ghét đang nổi lên trong tâm của qúy vị. Thay vì quan sát hiện tượng này một cách thụ động hoặc bỏ qua một bên, qúy vị hãy tự hỏi và tìm hiểu xem cái gì đang xẩy ra trong tâm của chúng ta, tại đây, ngay bây giờ.

Hãy cố gắng khám phá xem tại sao anh không hạnh phúc, anh không hài lòng để có tình trạng chán ghét xẩy ra. Nói cách khác, hãy tự hỏi chính mình nếu phải làm một điều gì, liệu tôi có tinh tiến hay không. Phân tích như vậy không phải là một hành động bấn loạn thần kinh. Nhưng, đây chính là đường lối giải quyết vấn đề của chúng ta.

Hỏi như vậy là tạo ra một tiến trình cho nguyên nhân để dần dần dẫn đến một giải pháp. Nó giống như tiến trình thí nghiệm đi thí nghiệm lại của một nhà khoa học để dần dần chứng minh cho một vấn đề mà ông ta đang nghiên cứu. Trong lúc tạo những kinh nghiệm nội tâm, chúng ta nên hỏi chúng ta thật nhiều câu hỏi cho cùng một vấn đề.

Bằng cách này, chúng ta sẽ phát triển và sẽ trưởng thành trong tâm linh, kết qủa là những sự khó chịu và những bất mãn của chúng ta đang từ từ bị loại bỏ. Thí dụ, chúng ta sẽ phân tích được sự chán ghét đang nổi dậy trong chúng ta và sẽ khám phá ra chẳng những nguyên nhân của nó mà cả kết qủa của nó để chúng ta biết cách mà hoá giải nó.

Chúng ta thường bị đau khổ vì những tham vọng qúa lớn hoặc bám víu chặt vào cái gì đó. Đây là kết qủa của những kinh nghiệm cảm thọ “hài lòng” không được kiểm soát, không tỉnh thức trước kia mà bây giờ chúng đang có liên hệ tới đối tượng này bây giờ. Mỗi khi cảm thọ này nổi lên, chúng ta nên quan sát nó và nhìn cho thật rõ cái gì đang xẩy ra, đang dấy lên trong tâm của chúng ta.

Đây là một điều vô cùng quan trọng để thẩm định lý do tại sao cảm thọ hài lòng lại sản xuất ra, lại là nguyên nhân cho những tình trạng khó chịu của lòng ước muốn và tham lam. Cũng giống như vậy, mỗi khi sầu khổ, mỗi khi có chuyện bực mình, hãy cố gắng khám phá xem tại sao cảm thọ này lại tự động dẫn đến sự thù hận, oán hờn và ganh ghét.

Đôi khi chúng ta có những cảm thọ không vui cũng không buồn trên một vài sự kiện nào đó. Những loại cảm thọ này thường dẫn đến tình trạng mờ mờ ảo ảo, một tình trạng vô minh ngu ngơ làm chúng ta không muốn để ý đến đối tượng một chút nào.

Cả ba loại phản ứng này về những kinh nghiệm của chúng ta, chúng không luôn luôn xuất hiện một cách rõ ràng, thiết thực hoặc sống động, nhưng nó thường xuất hiện một cách rất tế nhị, ở thể vi tế.

Là một con người, chúng ta bị chúng chi phối thường xuyên không ngừng, ngay cả lúc chúng ta không để ý đến chúng. Vì thế, nếu chúng ta muốn huấn luyện tâm, chúng ta cần phải mài sắc trí tuệ của chúng ta và luôn luôn tỉnh thức: “cái gì đang thực sự xẩy ra ở bên trong tâm của tôi?”

Mỗi khi chúng ta nhìn thẳng vào bản tính của những cảm thọ và quan sát xem chúng hoạt động như thế nào, chúng ta sẽ khám phá ra rất nhiều điều thú vị. Nếu tôi tạo ra một vài tâm trạng ở đây thì qúy vị sẽ thấy tất cả những rắc rối tâm lý đều do những cảm thọ mà ra. Khi một cảm giác vui sướng xẩy ra thì cái tâm không thức tỉnh của chúng ta liền bị quay cuồng, bị đưa đẩy bởi chính những cảm giác vui sướng này.

Khi một cảm giác khó chịu xẩy ra, tâm chúng ta liền bị mất thăng bằng, liền bị mất kiểm soát và những rắc rối liền xuất hiện tiếp theo đó. Ngay cả những cảm thọ trung tính, không vui không buồn, tơ lơ mơ cũng dẫn chúng ta đến khổ đau hoặc trở ngại.

Vì chúng ta muốn bỏ qua những gì đang phát khởi ra ở giữa những cảm thọ này nên chúng ta đã bỏ qua thực tính của chúng. Kết qủa của những gì chúng ta đã bỏ qua, đã nhắm mắt lại trước các hiện tượng xẩy ra lại là nền tảng của vô minh, và nó hoàn toàn đi ngược lại với việc phát triển trí tuệ giải thoát.

Như vậy tham lam, ganh ghét và những rắc rối tâm lý khác đúng là do cảm thọ gây ra, nhưng thực sự ra đây mới chỉ là một nửa mà thôi. Những tình trạng tâm lý này lại thay phiên nhau trở lại để quấy rầy những cảm thọ khác nữa. Đây chính là cái vòng luẩn quẩn xấu xa. Cái này là nguyên nhân của cái kia, chúng quay vòng vòng trong tâm thức của chúng ta không bao giờ ngừng, chúng quấy phá cuộc đời chúng ta và những nguồn năng lượng của chúng ta.

Thật là ích lợi biết bao nếu chúng ta tìm hiểu gần hơn, sâu xa hơn về thực tính của những cảm thọ của chúng ta. Hãy quan sát xem cái gì đang xẩy ra trong ý thức, trong tư tưởng, trong tâm của chúng ta, qúy vị gọi nó bằng bất cứ tên gì cũng được. Đây là một việc làm rất có gía trị, có ai phản đối không?

Chúng ta nên tự hỏi: những phương pháp mà giáo lý tôn giáo dậy có hiệu quả cho việc tìm kiếm sự bình an thật ở tâm hồn không? Khoa học và triết học có đi ngược lại những phương pháp khám nghiệm này không? Không, hoàn toàn không.

Sự thật là, nền tảng của triết học, như tôi đã trình bày trước kia, chỉ làm mạnh thêm cho những ý thức phát khởi từ nội tâm.

Không có niềm tin vững chắc đó, chúng ta sẽ không có một câu trả lời xác thực mỗi khi có người nào hỏi chúng ta về nó. Một giải quyết tinh thần không được mập mờ, không được lúng túng như vậy.

Chúng ta hãy tìm hiểu gần hơn, sâu xa hơn về bản tính của những cảm thọ của chúng ta. Cho dù chúng vui, buồn hay không vui không buồn, hầu như tất cả đều là kết quả của những sự phân biệt sai lầm. Sở dĩ có những sự phân biệt sai lầm vì chúng đặt căn bản trên những vọng tưởng của tâm, mà những vọng tưởng này lại luôn luôn che mắt chúng ta, không cho chúng ta nhìn đúng sự thật.

Đây là sự thật của bất cứ một hiện tượng nào, dù ở bên trong hay ở bên ngoài, dù có sinh khí hay không có sinh khí, dù hoạt động hay bất động. Cảm thọ không chỉ phát khởi khi một người phản ứng với một người khác. Chúng xuất hiện khi có sự liên hệ với bất cứ cái gì (duyên khởi).

Trong hầu hết các nghịch cảnh đều có một đối tượng mà những cảm thọ bị quấy rầy lại chính là chủ nhân. Điều này cho chúng ta thấy rằng chúng khác biệt hay tách biệt với cái khác, ví dụ một người nói, “Tôi ghét thằng đó,” nhưng thực ra, một cách nào đó, cảm thọ của anh ta đã tạo ra đối tượng này.

Vì thế tôi muốn nói rằng đối tượng của những cảm thọ của chúng ta không thể gây ảnh hưởng đến thực tính của bất cứ một hiện tượng bên ngoài nào. Đó thuần túy chỉ là những lớp sơn vọng tưởng của một cái tâm phân biệt một cách mù quáng mà ra.

Do đó, thực là dễ dàng, thực là đơn giản để đối diện, để đối đầu với những nguồn mâu thuẫn tinh thần có thể xẩy ra. Chỉ cần nhớ bất cứ cái gì đến quấy rầy những cảm thọ nội tâm của chúng ta đều là những ý niệm sai lầm của tâm vọng tưởng. Quan sát những đối tượng này sẽ giúp chúng ta có một cái nhìn sáng tỏ hơn về những sự việc đang xẩy ra mà không cần phải dùng đến những phương pháp phức tạp nào khác.

Chỉ cần chiêm nghiệm đời sống của chính chúng ta. Bất cứ cái gì chúng ta đang nhận thức, đang sinh hoạt, đang cảm nhận, hãy chiêm nghiệm ngay xem có phải chúng ta đang lừa dối chính mình không.

Hoặc nói một cách chính xác hơn, hãy quan sát xem tâm của chúng ta có đang gán ghép, có đang phóng đại một nhận xét không có thực cho đối tượng mà chúng ta đang nhận thức hay không, có thể nó đang lừa dối chúng ta vì một lý do mâu thuẫn và nhiễu loạn.(Nhiều khi chúng ta nói sai sự thật cho một người hay cho một sự kiện mà chúng ta đã gặp vì một lý do nào đó. --Dg)

Chúng ta thường nghĩ rằng những rắc rối của chúng ta là do người khác đem lại hoặc họ chiếm mất hạnh phúc của chúng ta. Tuy nhiên, khi nhìn sâu xa hơn thì chẳng kiếm thấy một kẻ thù nào cả. Từ vô thuỷ, qua biết bao nhiêu kiếp và từ khi sinh ra cho đến bây giờ, chúng ta đã tự đánh lừa chính mình qúa nhiều rồi.

Có thể chúng ta nghĩ, “ Tôi không bao giờ hành động như vậy, tôi là một người tốt.”

Nhưng chúng ta sẽ chẳng bao giờ hiểu được sự thật nếu chúng ta cứ mãi nhìn sự kiện theo chiều hướng này. Hãy khám xét những thái độ tinh thần của chúng ta mỗi khi đối diện với sự kiện và hãy tìm hiểu xem chúng ta đã gán ghép, đã phóng đại sai lầm cho những người mà chúng ta đã gặp hay cho những hiện tượng xẩy ra trong cuộc sống như thế nào.

Hầu như lúc nào chúng ta cũng sơn phết cho mọi vấn đề: chúng ta tự diễn dịch mọi hiện tượng theo lối nhìn hạn hẹp của chính chúng ta. Chúng ta có thể khám phá ra xu hướng này một cách dễ dàng, không cần phải dùng tới những phương pháp phân tích đặc biệt. Chỉ cần dùng luật tương đối, sự xuất hiện rất bình thường của sự vật, hãy tự hỏi chính mình:

“ Tôi là ai? Tôi là cái gì?”

Một vài hình ảnh về cái tôi mà chúng ta nghĩ chúng ta sẽ là sẽ xuất hiện ngay, nó rất tương đối với sự thật. Hãy tự nhìn cho thật rõ chính mình.

“Đây chính là tôi ư?

Đây thực sự là tôi sao?

Tôi luôn luôn xuất hiện như thế này với tất cả mọi người ư?”

Khi thật sự quan sát mình một cách vô cùng thành thật, chúng ta sẽ nhận ra lớp sơn kia là giả dối. Chúng ta sẽ nhìn thấy chúng biến mất trong sự gỉa dối. Chúng ta sẽ khám phá ra chính chúng ta đã bóp méo tất cả những nhận thức của chúng ta về những hiện tượng ở bên ngoài.

Chúng ta sẽ nhìn thấy lớp sơn của chúng ta, một thế giới cảm quan toàn là những vọng tưởng sai lầm và chúng ta sẽ nhìn ra được những cảm thọ được khởi lên bởi những vọng tưởng hư ảo đưa đẩy chúng ta tới lui giữa những hứng khởi và tuyệt vọng. Cái vòng bất toàn này, căn bản là hư ảo, được gọi là luân hồi, sự nghiên cứu và quan sát của chúng ta chỉ cho chúng ta biết đây chỉ là những ảo cấu của tâm chúng ta.

Nếu chúng ta huấn luyện chúng ta nhìn sự vật theo chiều hướng này, chúng ta sẽ không còn bao giờ nghĩ rằng những rắc rối của chúng ta là do lỗi lầm của xã hội, của quê hương hay của cha mẹ chúng ta nữa. Chúng ta sẽ công nhận những vấn đề này là của tâm chúng ta, xẩy ra ở trong tâm của chúng ta.

Để sửa soạn cho phương pháp phân tích này, trước nhất chúng ta cần phải biết làm thế nào suy nghĩ một cách rõ ràng trong sáng. Phương pháp này giúp chúng ta biết sắp xếp những hiện tượng khác nhau mà chúng ta muốn nghiên cứu học hỏi. Lại nữa, sự thật không hiển lộ ngay lập tức, mà tùy theo sự tin tưởng của chính chúng ta.

Có nghĩa là chính chúng ta phải đi trên tiến trình học hỏi này. Bởi vì chính sức mạnh của trí tuệ không lầm lẫn của chúng ta là lực thúc đẩy chúng ta trong sự học hỏi và tìm hiểu này, nó sẽ cho chúng ta rất nhiều năng lực để chúng ta kiểm soát cuộc đời của chúng ta.

Không có gì nguy hiểm khi chúng ta chấp nhận khảo nghiệm đời sống hàng ngày của chúng ta bằng chính những kinh nghiệm của chúng ta. Không có gì lừa dối và hướng dẫn sai lầm trong triết lý thực hành này. Chúng ta sẽ nhìn ra được tất cả những rắc rối tinh thần của chúng ta, chúng đều được tạo ra bởi lớp sơn vọng tưởng của thế giới cảm quan.

Vì bị u mê bởi ảo vọng, chúng ta đã phán đóan sai lầm cái này tốt cái kia xấu. Nhưng thế giới ảo tưởng không phải là thế giới của con người. Nó là thế giới của ai? Chúng ta hãy tự khám nghiệm lấy! Cái nhìn của tôi về “California” không phải là cái nhìn của người khác.

Đây là lý do tại sao Phật giáo giám mạnh dạn mà nói rằng, tất cả những hiện tượng đều do tâm của chính chúng ta tạo ra. Lời nói này là một sự thật, ý nghĩa cốt tủy của nó không thể phát sinh bởi những kẻ đạo đức giả hay bởi một cái tâm bị ô nhiễm.

Chúng ta nên khám nghiệm và tự kinh nghiệm lấy bản tính huyễn ảo trong những vọng tưởng của chúng ta. Chỉ bằng cách này chúng ta mới có thể khám phá ra sự thật đang nằm sâu ở bên trong.

Truy tìm, khám nghiệm chính là thực hành. Thiền định không có nghĩa là ngồi yên trong một góc nào đó mà không làm gì cả. Hoàn toàn không phải như vậy. Không cần biết anh đang làm gì, cũng chẳng cần biết anh thuộc môn phái nào, anh có thể khám nghiệm bất cứ lúc nào, phải không? Đây là một việc có thể làm được ở bất cứ lúc nào, ở bất cứ đâu.

Thật là vô cùng sai lầm khi nghĩ rằng thiền định của Phật giáo chỉ dành cho những kẻ lười biếng, không muốn làm gì cả. “ Tất cả những thiền gỉa chỉ là những người ngồi không, ăn, ngủ và đi cầu !” Những người không hiểu biết có thể nghĩ như vậy, một số thiền gỉa cũng có thể nghĩ như vậy.

Nhưng những vị chân thiền giả là những người hoàn toàn chịu trách nhiệm về tất cả con đường tinh tiến và phát triển của họ. Họ không sợ bất cứ gì nên cũng chẳng cần phải dấu diếm điều gì trong một góc nhà nào đó. Đức Phật không dậy thiền như vậy. Sự hiểu biết nông cạn và bất hảo về Đạo pháp hay về tôn giáo có thể là nguyên nhân dẫn đến sự bất toàn và xa rời sự thật.

Sự chân thành thiền định là một sự thực hành nghiêm chỉnh, một sự đối chất ngay thẳng để phá tan lớp mây mờ ảo vọng mà tiến đến trái tim của chân tính.

Hãy nhớ rằng cảm thọ bao gồm luôn cả những cảm xúc. Chúng có thể là những cảm thọ tinh thần, có thể là những xúc động hay ngay cả những niềm tin nhảm nhí. Tất cả những hiện tượng đang diễn ra đều là đối tượng của cảm thọ. Tuy nhiên hầu như trong mọi lúc chúng ta chẳng biết chúng ta đã cảm nhận chúng như thế nào.

Đó là lý do tại sao chúng ta hãy luôn luôn quay vào trong mà kiểm soát chính mình. Bằng cách này chúng ta sẽ từ từ phát triển được trí phân biệt tối thượng. Với trí tuệ phân biệt này, chúng ta có khả năng kiểm soát được những cảm thọ không trong sáng và những cảm thọ rối loạn để giải thoát chúng ta khỏi vòng cương tỏa của chúng.

Người ta thường nói: “Đừng phân biệt ! Phân biệt là nguồn gốc mọi rắc rối .”

Tuy nhiên, chúng ta đều biết thế giới này luôn có hai ý nghĩa khác nhau. Sự phân biệt sai lầm phát khởi khi lớp sơn huyễn ảo của tâm vọng tưởng nhầm lẫn về chân tính, nó làm chúng ta nghĩ,

“Tôi thích cái này,”

“Tôi ghét cái kia,”

“Ông ta đúng,” “

Cô ta sai,” ...vân vân...

Những phản ứng này tuyệt nhiên không có gì liên hệ đến chân tính nên loại phân biệt này hoàn toàn là giả dối, lường gạt.

Nhưng loại phân biệt đúng đắn lại là bản tính của trí tuệ. Nó biết cái gì là sự thật và luôn luôn giúp tâm chúng ta hoạt động một cách trong sáng. Nếu không như vậy, sự vật sẽ luôn xuất hiện một cách lung tung lẫn lộn. Ngay ở trong bình diện thế tục, trí phân biệt này cũng cần thiết, nếu không có nó làm sao chúng ta có thể chuẩn bị được bữa cơm trưa nay.

Nếu chúng ta nghĩ, “Tôi đã thoát ra khỏi mọi sự phân biệt, tôi có thể trộn tất cả mọi thứ vào cái bát này,” như vậy bữa ăn của chúng ta sẽ tệ lắm phải không qúy vị?

Vậy, để nhìn sâu vào những thái độ tinh thần của chúng ta, để khám phá xem cái gì mạnh mẽ, cái gì cần được kiểm soát, dĩ nhiên chúng ta cần sự phân biệt. Nếu không, ai sẽ kiểm soát chúng ta? Ví dụ như khi chúng ta đi sâu vào thiền định, một phần tâm của chúng ta nên ở bên ngoài để chú ý theo dõi những giá trị của thiền định.

Nó phải quan sát xem các sự kiện có tiến triển đúng hay không? “

Các nguồn năng lượng có đi đúng hay không?”

“ Tôi có bỏ rơi đối tượng của thiền định không?”

Nếu chúng ta không làm như vậy, cái tâm không được kiểm soát của chúng ta sẽ đi lang thang lung tung trong hàng ngàn hướng khác nhau. Rất nhiều người nghĩ rằng thiền định sâu có nghĩa là tâm không còn biết phân biệt gì nữa cả. Không bao giờ chúng ta được rời xa sự chú tâm.

Không cần biết chúng ta đang làm gì - kiểm chứng một điểm nào đó trong Đạo Pháp, cố gắng nhất tâm thiền quán, thực hành sâu xa hay đắm chìm trong đại trí -- thì sự thiền định và sự chú tâm trong vấn đề đó cũng phải đồng điệu hoà nhập với nhau. Đây là điểm vô cùng quan trọng và thực sự có gía trị để giữ cho sự tỉnh thức luôn luôn có ở tâm của chúng ta.

Hãy thử nghĩ xem, chúng ta đã tiêu hết bao nhiêu năng lượng cho các siêu thị. Đứng trước bức tranh quảng cáo chiếc răng trắng long lanh của hãng bán thuốc đánh răng, hình như chúng ta đã phải dùng trí lực để so sánh chọn lựa mua cái nào cho đúng,

“Tôi có nên mua cái này hay không?

Có lẽ loại kia mới tốt. Cái nào rẻ hơn?

Hộp kia trông hấp dẫn hơn...vân vân....”

Hao tốn qúa nhiều năng lượng! Khi đứng trước những đối tượng hào nhoáng không thể quyết định, hãy tự hỏi cái nào thực sự đem đến sự thoải mái cho chúng ta: những món hàng trong siêu thị hay sự hiểu biết của tâm? Siêu thị chỉ đem lại những thoải mái giới hạn và nhất thời.

Nhưng sự hiểu biết sâu xa của trí tuệ sẽ đem lại sự thoải mái lâu dài và sự an lạc vĩnh cửu.

Đây là một sự thật. Nói xa hơn nữa, không ai có thể phá hoặc quấy rầy sự hạnh phúc mà chúng ta có được từ trí tuệ, bởi vì nó ở trong này, trong tâm của chúng ta. Chỉ cần chúng ta biết huấn luyện, biết tu tâm thì sẽ không bao giờ xa rời niềm hạnh phúc này.

Chúng ta có rất nhiều cơ hội, có rất nhiều may mắn để thực hiện sự thật này trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Nhưng trước khi chúng ta chấp nhận sự thực hành Đạo Pháp, thực hành một giáo lý tôn giáo hoặc bất cứ một hình thức văn hoá nào, chúng ta nên suy nghĩ và quyết định một cách vô cùng sáng suốt, nó có thực sự đem lại hạnh phúc cho cuộc đời của chúng ta không.

Chúng ta có thực sự tin rằng chúng ta có thể tìm được hạnh phúc trong những mê hoặc của ước muốn trần gian không, hay chúng ta lại phải tìm kiếm sâu xa hơn nữa cho sự viên mãn trường cửu?

Nếu chúng ta không phân biệt được và không thể thông suốt được vấn đề này thì sự chọn lựa con đường đạo --một tôn giáo hay bất cứ gì--chỉ là một việc làm mù quáng mà thôi. Con đường phát triển tâm linh chỉ tinh tiến rất hạn hẹp nếu không có một căn bản cốt tủy nằm sâu trong cá tính của chính chúng ta.

Sẽ chẳng có một ơn ích nào phát khởi trong tâm chúng ta vì nó vẫn còn bị che phủ bởi một lớp mây mù và những cảm thọ đầy mâu thuẫn. Vậy, chúng ta cần phải nhìn vào bên trong, trong sâu thẳm tâm thức của chúng ta xem cái gì mới thực sự tốt nhất cho chúng ta, hãy cố gắng khám phá ra bản tính chân thật của tâm chúng ta.

5. TÌM HIỂU ĐAU KHỔ VÀ KIỂM SOÁT TÂM

Mục đích của những bài giảng về Đạo Pháp là để giúp chúng ta nhận ra được những điểm sai lầm trong từng hành vi, trong từng hành động của chúng ta và tìm cách giải quyết những vấn đề trong cuộc sống. Đó là lý do quý vị đến đây để nghe và cũng là lý do tôi đến đây để nói.

Nhưng Đạo Pháp chỉ thực sự có gía trị khi người thầy chính là một thí dụ sống động cho những gì ông ta giảng dậy. Đáng tiếc thay tôi không đáng được qúy vị tôn kính như vậy. Tôi không biết gì về Đạo Pháp vì tôi cũng ăn, uống, bài tiết và ngủ như qúy vị.

Nhưng tôi được may mắn học hỏi từ những vị đã ngộ đạo nên tôi chỉ xin tường trình với qúy vị những gì tôi đã học hỏi được. Vì thế những bài giảng này có giúp ích cho qúy vị hay không lại do những nguyên nhân khác.

Hiểu được mục đích của Đạo Pháp là một điều vô cùng quan trọng. Tại sao chúng ta thiền, tại sao chúng ta theo con đường tâm linh, tại sao chúng ta lại muốn sống một đời sống đạo? Chỉ vì chúng ta mong muốn một cái gì khác với những sinh hoạt thường ngày. Nếu không vì mục đích đó, chúng ta không cần phải tham dự những buổi diễn giảng này.

Tất cả những tôn giáo, triết học, hệ thống đạo đức...vân vân... trên thế giới đều có những tên khác nhau và hoàn toàn có những phương pháp giảng dậy khác nhau. Nhưng dù khác nhau chúng đều có chung một nguyên lý, một mục đích.

Nếu tất cả những hệ thống tư tưởng này có giá trị, thì nó phải quan tâm, nó phải làm dịu đi những đau khổ tinh thần và vật chất của muôn loài chúng sinh.

Nó phải cung cấp những giải pháp thâm sâu hữu hiệu để xoá tan đi những nỗi thống khổ của nhân loại. Bởi vì tất cả những phương pháp hiện có chỉ chú trọng đến sự giải quyết bên ngoài, chúng đã cho chúng ta biết không có một chút hiệu qủa nào. 

Từ khi có sự sống xuất hiện trên qủa đất này, tất cả những tư tưởng lớn của cá nhân hay của đoàn thể đã nỗ lực không ngừng để cải tiến những điều kiện sinh sống của chúng ta. Ngay hiện tại, ở mỗi quốc gia trên thế giới đều có rất nhiều hoạt động của các tổ chức nhắm vào việc cải tiến nhân sinh.

Mặc dù rất nhiều người trong xã hội đã nắm vững mục đích và đã cố gắng hoạt động không ngừng, nhưng thế giới vẫn chưa tiến gần đến hoà bình và hầu như con người chưa bao giờ được hưởng một nền hoà bình chân thật.

Ngược lại, có nhiều triệu chứng cho biết chúng ta đang bị thoái hoá. Tại sao sự tin tưởng vào những tiến bộ khoa học vật chất lại không được thoả mãn, lại không mang lại nền hòa bình vĩnh cửu?

Nguyên nhân chính yếu là chúng ta cứ nghĩ rằng những vấn đề, những khó khăn đều ở bên ngoài, chúng đang hiện diện đâu đó ngoài kia chứ không phải trong tâm của chúng ta, chúng không có liên quan gì đến tâm của chúng ta. Do đó, chúng ta nghĩ sự giải quyết mà chúng ta có thể tìm được cũng đang ở bên ngoài kia.

Mặc dầu tất cả những sự giải quyết này có thể tạm thời hóa giải được một phần nào, nhưng những khó khăn rắc rối lại xuất hiện, lại xuất hiện, lại tiếp diễn. Vì thế, những cố gắng của chúng ta coi như có đem lại thay đổi nhưng thực ra nó không có một chút tác dụng sâu xa nào vào tận gốc rễ của vấn đề, nó đã không có khả năng nhổ đi tận gốc rễ của vấn đề.

Rất nhiều người có thành tâm thiện chí muốn cải tiến toàn thể tình trạng nhưng thực ra lại làm cho vấn đề càng ngày càng thêm mạnh, càng ngày càng thêm u tối, càng thêm phức tạp. Thí dụ như việc phát triển nguyên tử năng.

Mặc dầu ngay từ lúc khởi đầu, các nhà bác học và các kỹ sư nguyên tử lực đều can đảm nhận lãnh trách nhiệm của họ trong sự phát minh và trong sự ứng dụng nguyên tử, nhưng sự phát triển này đã gây ra rất nhiều tử vong, đã đem lại nhiều kết qủa nguy hiểm cho thiên nhiên, cho môi sinh và cho sự bảo trì nền hòa bình của nhân loại mà họ và chúng ta không thể tiên đoán được. 

Tại sao niềm mơ ước hòa bình cho toàn thế giới không thể thực hiện được? Tại sao chúng ta cứ mãi bị tước đoạt đi công việc tìm kiếm chấm dứt khổ đau và những lỗi lầm? Thực ra chúng ta không thiếu lòng thành tín và không thiếu những tư tưởng mưu tìm sự hòa đồng giữa con người.

Có thể chúng ta đã cố tình không hiểu hoặc không quyết tâm thi hành, bởi vì chúng ta đã không cố gắng đủ trong việc kiếm tìm lợi ích cho chính mình hoặc cho những người khác nên đã chẳng có một dấu hiệu tinh tiến nào. Điều vô cùng thiếu sót trong kế hoặch tìm cầu hạnh phúc cho nhân loại trong đời sống hàng ngày là không có một phương pháp thực sự hữu hiệu để đem lại kết qủa cho mục đích của chúng ta.

Một phương pháp thực sự mang lại kết qủa nếu nó cắt đứt được toàn diện gốc rễ của những vấn đề của chúng ta. Phương pháp tối cần thiết là phải tiêu hủy tận bên trong chứ không phải bên ngoài.

Tại sao một phương pháp hữu hiệu lại phải ở bên trong chứ không phải ở bên ngoài? Tại vì sự đau khổ mà chúng ta muốn loại bỏ nó không chỉ ở bên ngoài mà thôi. Nếu chúng ta nghĩ rằng tất cả những rắc rối của chúng ta chỉ ở bên ngoài, vậy chúng ta hãy thử loại bỏ, hãy thử thay đổi hoặc hãy làm bất cứ cách nào xem sao.

Tuy nhiên, kết qủa đã cho thấy thực là nhỏ bé so với vấn đề, so với những khổ đau; bởi vì gốc rễ của khổ đau không ở bên ngoài mà chúng hiện đang nằm sâu trong tận tâm khảm của mỗi người chúng ta.

Mặc dầu chúng có thể xuất hiện với những đối tượng bên ngoài -- qua người, qua sự vật hoặc qua hoàn cảnh mà chúng ta gặp trong cuộc sống -- nhưng chúng không phải là những nguyên nhân chính yếu của bất mãn hay khổ đau của chúng ta.

Thí dụ, có một số người đi du lịch họ rất thích những nơi mà họ đã chọn cho những kỳ nghỉ hè.

Nhưng với một số người khác tuy cùng một trình độ, một giai cấp mà họ đã không hài lòng chút nào với những nơi trên. Kinh nghiệm không hài lòng này, sự bất mãn này đã nằm sẵn trong đầu họ nên họ không thể hoàn toàn đổ cho những hoàn cảnh ở bên ngoài. Nếu thực sự chỗ đó không tốt, không đẹp, không hấp dẫn thì chẳng ai muốn tới đó để nghỉ hè.

Cũng giống như vậy, thức ăn hàng ngày trong gia đình, có người thích có người lại không hề chạm đũa vào. Tại sao lại có tình trạng này, cùng một món ăn mà người thích, người ghét?

Một thí dụ khác về sự liên hệ giữa người với người, nếu là người chúng ta thích, chúng ta sẽ coi anh ta/chị ta là một người rất tốt, rất dễ thương. Bất cứ khi nào gặp họ, chúng ta cũng cảm thấy thoải mái trong tâm của chúng ta.

Nhưng chính người dễ thương này lại gây nhiều bất mãn, khó chịu cho một số người khác khi họ xuất hiện. Có thể anh ta/chị ta lại là một người rất đáng ghét. Vì thế, một người có thể rất hấp dẫn với chúng ta nhưng lại là người đáng ghét cho người khác.

Không cần phải so sánh cảm tình của chúng ta với những kinh nghiệm của người khác chúng ta mới nhìn ra được sự khác biệt như thế nào trong phản ứng này. Hãy nhìn ngay vào phản ứng của chính chúng ta đối với những người khác trong qúa khứ. Lúc đầu anh ta là người xa lạ với chúng ta, rồi có thể chúng ta đã hoàn toàn quên anh ta.

Nhưng rồi một thời gian sau anh ta lại trở nên một người bạn thân của chúng ta. Sau một thời gian quen biết chúng ta nhận thấy anh ta là một người rất tốt và khó có thể quên được anh ta, anh đã là một tri kỷ. Không còn nghi ngờ gì nữa, anh ta thật tốt, thật dễ thương, thật đạo đức. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng sự kiện này bởi vì chất keo gắn liền chúng ta và anh ấy đã qúa chặt.

Nhưng rồi hoàn cảnh đã thay đổi với thời gian. Có thể anh ta đã nói một câu nào đó làm chúng ta không bằng lòng hoặc có một cử chỉ hành vi nào đó của anh ta làm chúng ta bất mãn. Rồi không cần biết vì lý do gì --dù là một lý do rất tầm thường -- chúng ta cho rằng anh ta đã hoàn toàn thay đổi, anh ta đã trở mặt.

Giọng nói của anh ta không còn đúng điệu, thái độ của anh ta có vẻ hung hăng, ngay cả bộ mặt của anh ta sao dữ tợn qúa. Anh ta đã thay đổi hoàn toàn, không còn một chút gì của con người ngày xưa nữa, rồi bao nhiêu gắn bó của chúng ta dành cho anh ta trước kia bây giờ trở thành hận thù.

Khi chúng ta bắt đầu ghét anh ta là sân hận và những ý nghĩ xấu ở trong tâm của chúng ta về anh ấy cũng bắt đầu được hình thành và lớn mạnh. Kết qủa là chúng ta sẽ cảm thấy rất khó chịu, rất bực mình mỗi khi gặp anh ta.

Như vậy, rất dễ nhận diện được những đau khổ của chúng ta, không cần đến những thay đổi ở bên ngoài, không cần đến sự thay đổi của đối tượng, bởi vì chính thái độ ở bên trong của chúng ta đã thay đổi. Vì những trạng thái khác biệt của tâm thức nên chúng ta nhìn sự vật cũng khác biệt như vậy, mặc dù vẫn cùng một đối tượng. Nói rộng hơn, tất cả đời sống của chúng ta đã chất đầy những kinh nghiệm như thái độ vừa trình bày ở trên.

Những sự thay đổi này xẩy ra rất thường và rất nhanh. Có khi ngay trong lúc chúng ta đang tức giận một người thì hình ảnh tốt đẹp của họ trong qúa khứ hiện ra trong tâm của chúng ta.

Chúng ta sực nhớ họ đã giúp chúng ta trong qúa khứ, họ đã đối xử rất tốt với chúng ta. Trong khoảng kháéc ngắn ngủi đó của trí nhớ, có thể chúng ta không còn tức giận họ nữa mà coi họ như một người bạn rất thân.

Kinh nghiệm này --thường có ở chúng ta-- cho chúng ta biết rằng chúng ta nên thận trọng chẳng những với những thay đổi thường xuyên trong tâm của chúng ta mà chúng ta còn phải biết kiểm soát những tiến trình thay đổi này để mang lại hạnh phúc hơn cho cuộc đời của chúng ta.

Nếu chúng ta thường tỉnh thức về những gì xẩy ra trong tâm của chúng ta, chúng ta sẽ có khả năng chuyển hoá tất cả những tư tưởng tiêu cực, những ý nghĩ xấu của chúng ta trước khi nó gây ra phiền phức hoặc đau khổ cho chúng ta. Thật ra có rất nhiều cách để nghĩ tốt cho người khác thay vì nghĩ xấu cho họ.

Nếu chúng ta đã biết phát triển những kỷ luật tâm linh cần thiết và thực sự biết tỉnh thức trên tất cả những gì xẩy ra trong tâm thì không có một lý do nào có thể ngăn cản công việc phát huy những tư tưởng này để mang lại hạnh phúc cho chính mình và cho những người khác.

Có thể cả thế giới sẽ chống lại chúng ta, nhưng nếu khả năng kiểm soát tâm của chúng ta được phát triển đúng mức và tốt đẹp, chúng ta vẫn có thể coi mọi người đều là bạn thay vì chống lại họ, ghét họ hoặc sợ họ.

Nếu chúng ta thực sự kiểm soát được tâm của mình, thử tưởng tượng một nền hòa bình vĩ đại trên thế giới sẽ xẩy ra! Sẽ không còn nghi ngờ gì cả và cũng chẳng còn bất cứ vấn đề gì cho chính chúng ta và cho người khác nữa. Kinh nghiệm thâm sâu về cuộc đời chính là kết qủa của sự thực hành Đạo Pháp. Nó có thể xảy ra cho bất cứ ai biết quay vào con đường tâm linh ở bên trong mà tìm hiểu chính mình.

Giải quyết những vấn đề bằng sự kiểm soát tâm chẳng những mang lại nhiều kết qủa khi đối diện với những sự khó khăn mà nó còn là phương pháp dễ dàng nhất, ít nguy hiểm nhất. Qua phương pháp này chúng ta có được sự bình an thật trong tâm của chúng ta mà không làm tổn thương bất cứ ai.

Qua phương pháp này chẳng những chúng ta hạnh phúc mà còn mang hạnh phúc đến cho những người khác nữa. Ngược lại, nếu chúng ta cho rằng nguồn gốc của những vấn đề ở bên ngoài kia thì chúng ta phải tiêu diệt tất cả những ai là kẻ thù của chúng ta, lúc đó chúng ta mới cảm thấy an tâm.

Nhưng dù chúng ta có dùng phương pháp này mà đối diện với những vấn đề, với những khó khăn rắc rối thì cái tâm bấn loạn cũng vẫn có đó. Vì thế nếu không có một phương pháp nội tại nào để tẩy sạch những vấn đề lầm lẫn này thì chúng ta cũng vẫn còn đau khổ cho dù không còn kẻ thù.

Như vậy, để đạt được những kết qủa tốt khi đối diện với những vấn đề, công việc đầu tiên của chúng ta là phải khám phá ra được và phải nhận định ra được những yếu tố tinh thần hiện đang ở trong chúng ta, đây mới là nguyên nhân sâu xa của tất cả đau khổ. Phương pháp của chúng ta cũng giống như phương pháp của một vị bác sĩ chữa bệnh cho bệnh nhân.

Nếu ông ta không hiểu nguyên nhân của căn bệnh thì ông không thể chữa lành bệnh được.

Do đó, việc làm đầu tiên của ông ta là phải chẩn bệnh, phải tìm hiểu rõ ràng căn bệnh của bệnh nhân, sau đó ông mới có thể cho những viên thuốc thích hợp để trị. Cũng giống y như vậy, nếu chúng ta muốn giải quyết những vấn đề của chúng ta theo phương pháp tinh thần nội tâm, trước tiên chúng ta phải hiểu thấu đáo, phải có một hình ảnh trong sáng rõ rệt về cái gì đang làm chúng ta khổ.

Nếu không như vậy chúng ta sẽ bị đè bẹp, sẽ bị áp đảo, sẽ bị che dấu bởi chính cái bản tính nhẹ nhàng vuốt ve thương thân trách phận của chúng ta, chúng ta phải trực tiếp đối diện với những vấn đề của chúng ta. Chỉ như vậy chúng ta mới có thể thanh tẩy trọn vẹn từng vấn đề một trong toàn thể.

Chúng ta hãy bắt đầu tìm hiểu sơ qua về những hình ảnh đau khổ qua những kinh nghiệm về bào thai và trẻ sơ sinh. Chúng ta thường không nghĩ về những khổ đau xẩy ra cho bào thai trong sự sinh nở, đây là một sự thật. Bởi vì tâm của người mẹ và thai nhi không giống nhau, người mẹ cũng không hoàn toàn cảm thông được cái tinh thần của thai nhi đang ở trong tử cung của bà ta. Cái bào thai đó hiện đang ở trong một hoàn cảnh tinh thần và thể chất không được thoải mái.

Đứa trẻ cảm thấy bị gò bó trong một khung cảnh chật hẹp, mất hết tự do. Một cái di chuyển nhẹ của bà mẹ cũng gây biết bao phiền toái khó chịu, không kể đến đồ ăn khi qúa nóng khi qúa lạnh hoặc qúa cay; bên cạnh những mùi ô uế của đồ phế thải của bà và những biến chuyển không tiên đoán trước được trong hệ thống tiêu hóa của bà ta.

Những khổ đau này hầu như không được chúng ta để ý đến, quan tâm đến, nhưng những đau đớn của bà mẹ trong lúc sinh đẻ lại dễ dàng được chú ý hơn. Khi đến thời kỳ sinh nở, thai nhi bị thúc đẩy, bị dồn ép hơn bất cứ sự kiện nào mà nó đã kinh nghiệm. Nó được di chuyển dần dần ra âm đạo, nó cảm thấy đau đớn như bị ghiền giữa hai cục đá. Sự đau đớn này chỉ có thể chấm dứt khi nó đã hoàn toàn lọt khỏi lòng mẹ.

Da của nó qúa mềm mỏng đến nỗi không khí ấm cúng của phòng sinh cũng làm nó cảm thấy giá lạnh cắt da. Đứa bé được cuốn trong những tấm khăn mềm mại nhất nhưng nó cũng tưởng chừng như đang bị trăm ngàn mũi gai nhọn đâm thấu thịt da. Thêm vào những cái đau của thể xác, đứa bé nhìn thấy những linh ảnh được tạo ra giống như những hình ảnh đã được nhìn thấy trong lúc chết. Vì thế khi chúng ta nhìn thấy đứa bé vừa mới chào đời chúng đã khóc thét lên, tiếng khóc này không phải là không có lý do.

Hầu như tất cả chúng ta đã không nhớ được kinh nghiệm trong lúc chào đời. Điều này không có nghĩa là chúng ta đã được thoải mái trong bụng mẹ và thảnh thơi khi sinh ra. Chúng ta đã quên tất cả những kinh nghiệm này cũng như chúng ta đã quên hoặc không có ý thức trên rất nhiều sự kiện đã xẩy ra trong đời.

Tâm vô minh của chúng ta đã tạo ra biết bao ô nhiễm cho cả bên trong tâm lẫn bên ngoài thân xác, vì thế những cảm nhận của chúng ta về chân lý đã bị những đám mây dầy đặc che dấu. Mỗi khi chúng ta trực nhận ra được những sự kiện không vừa ý, ngay cả những cái vụt thoáng qua trong đầu, chúng ta không nên ngạc nhiên vì chúng toàn là những kinh nghiệm trước kia của chúng ta.

Ngay khi vừa sinh ra là những đau khổ trong tiền kiếp bắt đầu được khơi dậy. Thân xác của chúng ta trải qua hết khó chịu này đến khó chịu khác như những bệnh tật trong thời thơ ấu và những chuỗi dài phiền não trong cuộc đời tiếp tục kéo đến. Chúng ta không cần phải chống cự lại sự nhiễm trùng chúng ta mới có kinh nghiệm đau đớn của bệnh tật. Chỉ lo lắng và sợ hãi bị bệnh thôi cũng đủ làm chúng ta thực sự đau khổ.

Nếu chúng ta có thể sống đến gìa để kinh nghiệm được những khổ đau của tuổi gìa thì tất cả những kinh nghiệm, những sự đổi thay của cuộc đời mà chúng ta đã trải qua sẽ làm chúng ta tăng thêm phiền muộn. Sức khoẻ của chúng ta, thị giác của chúng ta, thính giác của chúng ta sẽ mất dần, tất cả những sinh hoạt của chúng ta thời trẻ sẽ không bao giờ có được nữa.

Thể xác của chúng ta sẽ không còn cử động như ý muốn, ngay cả tinh thần của chúng ta cũng chẳng còn tinh tường, tất cả sẽ trở nên vô dụng.

Tất cả những kinh nghiệm về khổ đau trong cuộc đời chỉ làm cho chúng ta thêm khổ đau vào lúc chết. Tất cả mọi người chúng ta ai cũng sợ chết. Khi tử thần đến, sự sợ hãi càng trở nên vĩ đại hơn, thực hơn.

Mặc dù chúng ta không muốn rời khỏi thân xác của chúng ta, của cải của chúng ta, những người thân yêu của chúng ta, nhưng một điều vô cùng thật và rất rõ ràng là chúng ta phải từ gĩa tất cả những thứ thân yêu này.

Hơn nữa, chúng ta chẳng biết sự việc gì sẽ xẩy ra cho chúng ta, tâm thức của chúng ta sẽ đi về đâu, chính sự vô minh này sẽ đẩy chúng ta vào một tình trạng trầm thống bối rối hơn nữa.

Giường chết đang được bao quanh bởi những bác sĩ giỏi, bởi những người thân, nhưng chúng ta chẳng nói được gì với họ. Khi mà giờ chia tay giữa thân xác và linh hồn đến, sẽ chẳng có bất cứ một cái gì, một người nào có thể giúp chúng ta được. Chúng ta phải ra đi, chúng ta chết --tuyệt đối không còn một sự chọn lựa nào.

Đã qua bao nhiêu năm trong cuộc đời, chúng ta o bế, chúng ta nâng niu, chúng ta săn sóc cho cái thân xác này, nhưng giờ đây, trong giờ phút khủng khiếp này, dù còn một chút sức lực nào đi nữa cũng chẳng níu kéo sự sống được thêm một phút một giây.

Chúng ta không còn một chút khả năng nào để kiểm soát cái gì đang từ từ đến với chúng ta, chỉ có sự khổ đau đang tràn ngập như chưa bao giờ thấy. Chúng ta sẽ đi vào một nơi mà chúng ta chưa hề biết đến với một tâm trạng chỉ có sợ hãi và lo lắng.

Tất cả chúng ta ở đây đã có kinh nghiệm khi đi vào cuộc đời này, sống trong cuộc đời này và cũng đang kinh nghiệm về cái già đang từ từ đến, nhưng kinh nghiệm về sự chết thì chưa có. Nó đang chờ chúng ta, sự đau đớn trong giờ của tử thần đang đợi chúng ta. Như vậy, cuộc đời của chúng ta sẽ qua đi, nó sẽ chấm dứt như nó đã bắt đầu --- trong khổ đau !

Thêm vào những nỗi khổ trong lúc sinh ra, bệnh tật, già yếu, chết, chúng ta còn rất nhiều những cái khổ khác nữa, cuộc đời tràn đầy bất mãn. Thí dụ, chúng ta luôn luôn cố gắng, càng nhiều càng tốt, đạt cho được những điều ước muốn, chúng có thể là những món ăn khoái miệng, quần áo đẹp đẽ, người tình hấp dẫn...vân vân...

Chúng ta luôn luôn tìm sự khoan khoái trong đối tượng nhưng chẳng bao giờ chúng ta nhìn ra được đau khổ đang nằm sâu trong đó. Chúng ta ham muốn chúng nhưng rồi chúng ta lại thất vọng về chúng. Sự đau khổ vì bất mãn là một trong những đau khổ tàn hại nhất bởi vì nó liên tục hướng dẫn chúng ta bám víu hết đối tượng này đến đối tượng khác, sự thèm khát xẩy ra liên tục không ngừng nghỉ.

Nó thúc đẩy chúng ta trong suốt cả cuộc đời, nó không còn dành cho chúng ta một khoảng trống nào để nghĩ đến con đường tâm linh, thiền định, thực hành Đạo háp hầu giúp chúng ta thoát khỏi những đau khổ trong đời.

Chẳng những chúng ta không tìm được bất cứ gì chúng ta mong muốn mà chúng ta cũng chẳng chạy thoát được những gì chúng ta không mong muốn. Từ tinh thần đến thể xác, chúng ta toàn gặp những kẻ thù, hoàn cảnh ngang trái, bất mãn triền miên, thức ăn không hợp khẩu vị....Những đau khổ này đem đến cho chúng ta hết lầm lẫn này đến những sai lạc khác trong cuộc đời.

Sự không được hài lòng và những bất mãn trong cuộc đời sẽ ngăn cản chúng ta đến với bất cứ một loại an bình nào. Không cần biết chúng ta đã có những gì, không cần biết chúng ta đã sở hữu những tài sản nào, lòng ham muốn của chúng ta vẫn tiếp tục. Chúng ta làm việc và đặt kế hoạch, chúng ta bày mưu đặt kế để chiếm thêm, chiếm thêm, làm như chúng ta sẽ sống cho đến muôn đời hoặc ít ra cũng thêm vài thế kỷ.

Hãy nhìn cho kỹ, tất cả những gì chúng ta đang lo lắng để chiếm đoạt, toàn là cho cái thân xác này ! Tất cả những gì chúng ta đang cố gắng học hỏi trong cuộc đời chỉ để đủ điều kiện đi xin việc làm. Đủ điều kiện để có thêm một chút tiền. Chúng ta không thể hy vọng để sống thêm 50, 60 hay 70 năm nữa, bằng đó năm cũng chỉ để cho bằng đó hoạt động. Mục đích gì đây?

Chúng ta đã dùng năng lực của đời ta cho nhiều thứ. Chúng ta lo lắng cho thân xác khỏi bị đói khát, lạnh lẽo, bệnh tật, an toàn và, cuối cùng, chết. Cả đời đã phải tranh đấu để khỏi bị nguy hiểm, cả đời đã phải hy sinh rất nhiều thứ để nô lệ cho những mục đích này. Có thể chúng ta đã tự lừa dối chính mình, nhưng trong tận sâu thẳm của nội tâm chúng ta nó có thể nhìn thấy tất cả những hoạt động này toàn mang lại khổ đau.

Mặc dầu chúng ta đã làm việc rất nhiều năm để có được sự an toàn, nhưng hoàn cảnh chỉ thay đổi một chút thôi chúng ta cũng bị đau ốm, bị bệnh tật hoặc gặp phải những sự không may. Để được an toàn thì thật là khó mà khổ đau thì đến luôn luôn. Ngay cả những điều may mắn xẩy ra trong đời, tưởng rằng sự may mắn này giúp chúng ta thăng tiến cuộc đời nhưng có ngờ đâu nó lại là nguyên nhân mang lại nhiều đau khổ.

Thí dụ, tưởng rằng để dành tiền đi nghỉ hè vui chơi, nào ngờ tai nạn khủng khiếp đã xẩy ra; chọn một nhà hàng sang trọng để ăn nào ngờ bị ngộ độc. Đau khổ đến không chọn lựa ai cả.

Nếu chúng ta ghi lại tất cả những đau khổ đã xẩy ra trong đời, cái danh sách đó chắc dài bất tận. Những gì được nói ra ở đây chỉ là tượng trưng. Tuy nhiên, tất cả mọi hình thức đau khổ đều có thể xếp vào một trong ba nhóm: đau khổ của đau khổ, đau khổ của sự thay đổi (hay thay thế) và đau khổ hiểu một cách rộng rãi. Chúng ta sẽ tìm hiểu sau đây.

Những kinh nghiệm đau buồn trong qúa khứ không còn diễn ra bây giờ nữa nhưng chúng vẫn làm chúng ta đau khổ. Không có gì là hài lòng với bệnh tật, lo lắng, đau đớn, sợ hãi hoặc những gì giống như vậy. Bất cứ sự kiện nào đã làm chúng ta không hạnh phúc, không vui vẻ đều được coi như là đau khổ của đau khổ.

Những sự kiện khác, như thức ăn ngon miệng, quần áo đẹp hoặc những cái giống như vậy, chúng ta có thể đo lường được sự vui thích, sự thoả mãn. Nhưng nếu tìm hiểu sâu xa hơn, chúng ta có thể nhận thấy rằng chính những cái thỏa mãn này cũng có thể đem lại đau khổ.

Vì chúng chỉ cho chúng ta những thú vui tạm thời, trong một thời gian ngắn nào đó mà thôi. Chúng không có khả năng tồn tại lâu dài.

Thí dụ như ăn một món ăn ngon miệng. Hầu như tất cả chúng ta đều cho rằng đây là hạnh phúc thật sự, không có một chút gì buồn khổ trong đó. Nhưng nếu thực sự nó là như vậy -- ăn thức ăn ngon là hạnh phúc thật-- thì càng ăn nhiều càng có thêm hạnh phúc mới phải.

Ngược lại, nó không phải như vậy. Nếu chúng ta tiếp tục ăn sau khi đã no, thì sự khoan khoái đã nhanh chóng biến thành những cơn đau bụng. Chính vì lý do nó chỉ cho chúng ta những thoả mãn nhất thời, tạm bợ nên chúng ta gọi nó là đau khổ đến thay thế.

Nếu chúng ta ngồi lâu trong một tư thế, chúng ta sẽ cảm thấy mỏi mệt, chúng ta muốn đứng lên đi dạo một chút. Khi hành động như vậy chúng ta cảm thấy khoan khoái dễ chịu. Nhưng thực ra nó chẳng phải thật sự khoan khoái. Sở dĩ chúng ta cảm thấy như vậy vì sự mệt mỏi lúc ngồi đã biến mất khi chúng ta đứng lên. Và chúng ta tưởng rằng cảm nhận này là sự khoan khoái, nhưng cứ cho nó là như vậy đi, thì nó cũng chẳng được dài lâu.

Khi chúng ta đã đi mệt thì cái mà chúng ta gọi là khoan khoái trước kia lại biến thành đau đớn. Như vậy, không cần biết chúng ta nghĩ, chúng ta cảm nhận như thế nào, chẳng có gì trong cuộc đời của chúng ta mang lại cho chúng ta sự khoan khoái thật, chẳng có gì mang lại cho chúng ta chân hạnh phúc. Mọi cảm nhận thoải mái chỉ là nhất thời, ngắn ngủi rồi mau chóng chuyển thành chán chường, mỏi mệt, đau buồn.

Về nhóm đau khổ thứ ba, rộng rãi bao la hơn, chúng nằm sâu trong hai thứ đau khổ vừa trình bày ở trên. Đó chính là đau khổ vì có một thân xác và có một cái tâm, chúng là chủ thể hấp dẫn cho đau khổ, giống như cục nam châm hút sắt; đã có thân xác và có tâm thì tất nhiên phải khổ, cũng như đã là nam châm thì phải hút sắt. Thí dụ, đau khổ vì bao tử là sự đau khổ tất nhiên phải xẩy ra của cái đau (đau khổ thuộc về tâm, cái đau thuộc về thân xác --Dg).

Sự khỏi đau tạm thời hay sự thoải mái tạm thời mà chúng ta cảm nhận được sau khi dùng thuốc, rồi lại đau trở lại, là sự đau khổ đương nhiên phải xẩy ra của sự thay đổi (dùng thuốc). Thật ra bao tử của chúng ta phải phản ứng như thế vì nó sẽ và có thể lại trở nên đau, đây chính là cái đau tất nhiên của sự đau khổ rộng lớn, bao trùm.

Ngay cả thú vật cũng có thể nhận ra được cái đau như thế nào. Vì thế khi chúng ta nói sự thành đạt của con đường tu tập phần lớn tùy thuộc vào sự hiểu biết thấu đáo về đau khổ là không đúng, thực ra nó không phải như vậy, nó không có nghĩa như vậy.

Cái ý nghĩa đích thực, bản tính thật của đau khổ chỉ được khám phá ra khi nào chúng ta trực nhận ra rằng tất cả những sự khoan khoái, tất cả những sự vừa lòng toại ý tạm thời chỉ là một hình thức khác của đau khổ, và hơn nữa sự sở hữu một cái thân bất tịnh, một cái tâm ô nhiễm là đã sở hữu sự bất mãn, là đã không thoải mái và đã là đau khổ.

Chỉ khi nào chúng ta thấu hiểu, chỉ khi nào chúng ta xác nhận một cách vững chắc được hai nguyên nhân căn bản của đau khổ này --nhất là căn nguyên thứ hai, sở hữu một thân tâm bất tịnh -- thì lúc đó chúng ta mới mong, mới có thể vượt thắng được khổ đau, mới có thể kiểm soát được bất mãn.

Tất cả những sự khổ đau một cách tự nhiên, một cách tất nhiên này đều là do chúng ta có một thân xác và có một cái tâm. Cả thân và tâm bị ô nhiễm đều bắt nguồn từ những yếu tố nội tâm là ảo vọng và phiền não. Theo tâm lý học Phật giáo, có 84,000 loại tâm bệnh khác nhau. Chúng bắt nguồn từ 6 loại ảo vọng chính: tham lam, kiêu mạn, nóng giận, do dự ngờ vực, quan niệm sai lầm (bất chánh kiến) và vô minh.

Theo kinh điển, nguồn gốc của ảo vọng và bất chánh kiến là tin vào những điều sai lầm, không thật và không tin vào những điều chân thật. Không tin vào những điều chân thật như: từ chối những qui ước hiện hành của con người, những hiện tượng là căn nguyên của khổ đau, sự chấm dứt của chúng, sự liên tục nối tiếp hết đời này qua kiếp khác của chúng và không tin vào luật nhân quả. 

Năm nguyên nhân đầu của ảo vọng, tất cả những dục vọng và tất cả những khổ đau đều bắt nguồn từ không thấu hiểu đúng đắn về sự hiện hành của chúng. Vì thế vô minh được coi là căn bản, là “nguồn gốc của luân hồi”. Luân hồi là cảnh giới của khổ đau mà tất cả chúng sinh đã tự tạo ra cho chính mình.

Đó là những chu kỳ không có lựa chọn mà phải sinh ra, chết đi và tái sinh lại trong khổ đau, ở trong đó tất cả chúng ta cần phải thanh tẩy tâm cho sạch hết ô nhiễm. Sân hận, tham lam, kiêu mạn và cố chấp là những ảo vọng cũng bắt nguồn từ vô minh. Đây là những hành vi, những thái độ xấu, chúng là những đám mây đen che khuất chân tâm như mây đen che khuất bầu trời trong sáng.

Tại sao chúng ta lại gọi nó là những thái độ xấu? Vì những thái độ này được tạo thành do ảnh hưởng của nghiệp lực và của ảo vọng, chúng đem chúng ta đến đau khổ. Bất cứ người nào hành động dưới một cái tâm như vậy đều kinh nghiệm được những đau khổ là do chính họ tạo ra.

Đây chính là con đường của luân hồi, vòng khổ đau và vòng tái sinh được thành lập. Như vậy tất cả những hành động sản xuất ra những kết quả này và tất cả những ảo vọng tác động lên những hành động này đều được gọi là xấu, tiêu cực.

Nếu chúng ta thực sự muốn đạt chân hạnh phúc, sự bình an miên viễn, chấm dứt hoàn toàn mọi khổ đau, chúng ta phải thanh tẩy tâm chúng ta cho sạch hết tất cả những sự xấu xa, ô nhiễm này. Chỉ có cách này mới có thể thanh toán được những vấn đề, những rắc rối của chúng ta.

Thí dụ, nếu chúng ta khó chịu vì bụi dơ bám vào vật gì đó thì chúng ta phải lau sạch, phải rửa sạch những lớp bụi này đi thay vì phá hủy hoặc đập vỡ vật đó đi. Sau khi đã rửa sạch, chúng ta mới thưởng thức nó một cách trọn vẹn. Một công viên tuyệt đẹp không thể luôn luôn có được.

Một công trình xây cất không phải lúc nào cũng hấp dẫn tất cả mọi người. Chúng cần được bảo trì, tu sửa, trang hoàng và làm sạch luôn luôn thì mới hấp dẫn, mới lôi cuốn được du khách.

Hãy áp dụng giống như vậy cho tâm của chúng ta. Nếu những suy nghĩ tính toán của chúng ta gây đau khổ phiền phức cho chúng ta thì chúng ta phải chấm dứt suy nghĩ ngay. Tốt hơn chúng ta nên sử dụng những phương pháp nội tâm để thanh tẩy tất cả những xấu xa khởi phát ra từ vô minh của chúng ta.

Nếu chúng ta làm được như vậy, chúng ta sẽ có sự an bình chân thật. Sự an bình này vượt xa những sự thoải mái, những sự dễ chịu bình thường, như đã trình bày ở trên, kiểu hạnh phúc bình thường này cũng chỉ là những hình thức vi tế của khổ đau mà thôi. Vì chấm dứt hoàn toàn những nguồn gốc của khổ đau nên chúng ta có được chân hạnh phúc.

Khi gốc của đau khổ đã bị cắt đứt, thì đau khổ không thể trở lại. Lúc đó chúng ta sẽ kinh nghiệm được, sẽ chứng nghiệm được thế nào là hạnh phúc thật, thế nào là viên mãn, không gì có thể so sánh với nó.

Bây giờ chúng ta đã hiểu tại sao không có một con đường nào khác có thể giúp chúng ta đạt được chân hạnh phúc nếu chúng ta không thanh tẩy những vọng tâm của chúng ta. Cho tới khi nào tâm của chúng ta còn đắm chìm trong vô minh và dục vọng thì không có gì có thể mang lại cho chúng ta chân hạnh phúc, nhưng toàn là đau khổ.

Bởi vì chúng ngăn cản sự kiểm soát của chúng ta và chúng áp chế tâm của chúng ta, như đã trình bày ở trên chúng chính là những sự đau khổ tất nhiên. Bất cứ gì hiện hành ở trong tâm thái này là tự nhiên bị đau khổ.

Thí dụ, giả thử có một cây độc mọc trong vườn của chúng ta. Nếu chúng ta không muốn nguy hiểm, dĩ nhiên chúng ta sẽ không chỉ cắt tỉa bớt lá, bớt cành của cái cây này. Một cách duy nhất để tẩy trừ tất cả những chất độc của nó phát ra từ thân, lá, cành, rễ... là đốn bỏ, đốt toàn thể cái cây này đi.

Chúng ta đào cho thật sâu để phá hủy tất cả những chiếc rễ mà nó đã sản xuất ra chất độc. Chúng ta cũng nên dùng đường lối làm việc này cho tâm của chúng ta để giải thoát chúng ta khỏi khổ đau và chặt đi tất cả những gì còn có thể sản xuất ra khổ đau.

Nếu chúng ta không quyết tâm mạnh mẽ như vậy, thì những gì chúng ta áp dụng chỉ đem lại những niềm vui nhất thời, tạm bợ, rồi khổ đau lại ào ào kéo đến, trở lại. Nếu chúng ta muốn thoát khỏi sinh tử luân hồi, chúng ta phải chấm dứt tất cả những nguyên nhân gây ra đau khổ, đó chính là vô minh.

Ngược lại với vô minh là trí tuệ. Trí tuệ là sự thấu hiểu sâu xa tận gốc rễ sự vật, hiện tượng xuất hiện và chúng hiện diện như thế nào. Thường thường chúng ta rất mù mờ, không thực sự hiểu sự vật hiện hành như thế nào. Như tôi đã trình bày, chúng ta thường lầm tưởng rằng căn nguyên của đau khổ cũng là căn nguyên của hạnh phúc.

Chúng ta đã không nhận diện được vô minh, ảo vọng và ngay cả những khổ đau riêng tư của chính chúng ta mỗi khi nó xuất hiện. Chúng ta đã đeo đuổi vô minh, đã phục tùng chúng như là những vị thầy hoặc những hướng đạo viên của chúng ta.

Tâm trong trạng thái mê ảo thì luôn luôn tưởng tượng ra những ảo mê về thực tại, về chân lý, rồi trong sự mù quáng đó chúng ta mơ tưởng, chúng ta ước ao chúng chính là sự thật, chúng có thật (nhưng chúng chỉ là giả, vọng tưởng; dưới bóng mây đen thì cái gì cũng đen tối, đeo kính màu gì thì chỉ nhìn thấy sự vật màu đó, dưới bóng của vô minh, của mê ảo thì sự vật, hiện tượng cũng hiện hành là ảo, ngỡ là sự thật nhưng chính là mê ảo. Chỉ khi nào bỏ kính vọng tưởng ra thì mới thấy màu thật của sự vật –Dg)

Sự Thiền định của chúng ta, về Đạo pháp, chỉ có thể có kết quả trong việc gỉai quyết những vấn đề, những rắc rối, nếu chúng ta đặt trọng tâm vào việc tẩy trừ vô minh. Con đường của một tôn giáo duy nhất phải có chính là con đường xóa bỏ tận gốc rễ của đau thương.

Bộ mặt thật của vô minh mà chúng ta cần phải đối diện với và cần phải phá hủy tan tành tận gốc rễ của nó chính là “chấp ngã, chấp cái tôi, TÔI” hay “tâm-thức-tôi.”

Nếu chúng ta tự chiêm nghiệm, tự quán xét nội tâm của chính chúng ta trong từng giây phút, chúng ta sẽ nhận ra một cách rất rõ rệt là chúng ta luôn luôn bị ảnh hưởng của tâm-thức-tôi này. Chính là nó, bởi vì chúng ta thiếu sự tỉnh thức của trí phân biệt nên chúng ta không nhận diện được toàn thể tâm của chúng ta đang bị ảnh hưởng bởi căn nguyên mê mờ ảo vọng này.

Tâm-thức-tôi có thể được giải thích như sau. Không cần biết chúng ta đang làm gì –như đang nghe thuyết giảng-- chúng ta có một cảm giác nào đó về ai hay cái gì mà chúng ta đang là, về cái “TÔI”. Rất mạnh mẽ, chúng ta tin chắc chắn rằng cái “TÔI” là một cái gì độc lập, tự hiện hữu, đứng tách biệt ra khỏi những cái khác.

Chúng ta luôn luôn nghĩ rằng nó biệt lập với thân xác, với tâm hay với bất cứ cái gì khác. Cái “TÔI” này xuất hiện một cách vĩ đại, vững chắc và độc lập. Cảm giác này luôn luôn có ở chúng ta và chúng ta chấp, chúng ta bám vào ý niệm này một cách vô cùng mạnh, vô cùng chặt.

Trong chiều hướng này, ý tưởng “Tôi là, Tôi...” trở nên rất quan trọng, hơn bất cứ một sự kiện nào khác. Đây chính là khuynh hướng chuyển cái “TÔI” thành một cái gì đó để thành hình vô minh rồi nhốt chúng ta vào đau khổ.

Chúng ta có thể nhận ra phản ứng của cái tôi rất dễ dàng mỗi khi chúng ta nghe những lời nói không lịch sự, lỗ mãng. Người ta nói chạm tự ái của chúng ta, nhừng lời chê bai, những lời chế diễu, những lời chọc tức...vân vân... khi nghe những lời này là ngay lập tức chúng ta nổi nóng, chúng ta tức giận, tính xấu của chúng ta tự nhiên phát khởi và chúng ta không còn tự chủ được nữa.

Ngay lúc đó, cái “TÔI” của chúng ta trở nên mạnh mẽ và cao hơn cả dãy Hy Mã Lạp Sơn. Con mãnh thú “TÔI” dồn vào trái tim của chúng ta uất ức, tức bực, nó phừng phực, nó khó thở, nó nghẹn ngào để rồi bao nhiêu cái xấu xa trầm ẩn nổi ra cho hết, tất cả những sự kiện này sản xuất ra đau khổ.

Trong trường hợp này, bất chánh kiến về chính chúng ta, cái nhìn vô minh về chính chúng ta càng độc lập, càng bảo thủ bao nhiêu thì rắc rối càng đến bấy nhiêu, càng mạnh bấy nhiêu.

Chúng ta cho là tất cả những gì chúng ta nhận được đều bị bóp méo. Khi nghĩ về chúng ta, chúng ta luôn luôn ở trong chiều hướng muốn bảo vệ cái tôi của mình, bám vào cái tâm-thức-tôi của chính mình. Đứng trên căn bản của quan niệm sai lầm này, chúng ta thực sự đã bám vào cái “TÔI” của chúng ta.

Bởi vì chúng ta quan niệm thân xác “của tôi”, tâm “của tôi”, và tài sản “của tôi” là những thực thể độc lập, tự hiện hữu, có thật, chúng ta bám chặt vào chúng, từ đó rất nhiều tính xấu bắt đầu khởi lên, xuất hiện ra đều có liên hệ đến chúng.

Giống như thế, vì chúng ta quan niệm tất cả mọi hiện tượng là tự có và độc lập nên chúng ta nghĩ nó đẹp và hấp dẫn, do đó sự mong ước chiếm đoạt chúng được khởi lên trong tâm của chúng ta.

Tâm bất mãn và bất an của chúng ta hướng dẫn chúng ta bám chặt vào những đối tượng được coi là tự hiện hữu này, nhưng sự thoải mái và hạnh phúc mà chúng ta đã đặt tin tưởng vào chúng lại không bao giờ xảy ra. Vì thế, đau khổ của chúng ta cứ lớn dần, lớn dần thay vì giảm bớt đi.

Không những sự bám víu của chúng ta mà cả sân hận, kiêu mạn và tất cả những ảo vọng, dục vọng khác cũng đều khởi phát ra từ căn bản vô minh này. Bởi vì chúng ta nghĩ chúng ta, những đối tượng ở bên ngoài và tất cả những người khác hoàn toàn là những cá thể độc lập, nên chúng ta muốn chiếm đoạt, đề phòng hoặc có những thái độ tâm đóng kín đối với chúng.

Chúng ta tấn công, chê bai chỉ trích hoặc mất thiện cảm với bất cứ ai không làm vừa lòng chúng ta hoặc ngăn cản chúng ta, trong khi đó chúng ta lại bỏ qua cho những ai giúp đỡ và đồng tình với chúng ta. Chúng ta đánh giá và xếp loại từng người ai là “bạn”, ai là “thù”, ai là “kẻ xa lạ” rồi chúng ta cho bảng xếp loại này là sự thật, là có thật.

Trong trường hợp này, bên trong tâm của chúng ta sẽ khởi lên một sự sai lầm trầm trọng về tình bằng hữu, tình con người. Thái độ của chúng ta bị tô mầu xấu xa, kết quả là những hành vi cử chỉ của thân khẩu và ý của chúng ta sẽ không còn tốt đẹp và đạo đức nữa. Như đã trình bày ở trên, những hành động thiếu đạo đức này sẽ hướng dẫn chúng ta tạo ra nghiệp lực để thắt chúng ta mỗi ngày mỗi chặt hơn vào vòng luân hồi của đau khổ.

Như vậy, một lần nữa, chúng ta cần hiểu rõ nguồn gốc của tất cả những đau khổ là do vô minh, chúng ta đã thực sự không biết sự vật hiện diện như thế nào, hiện tượng xuất hiện như thế nào.

Giá trị đích thực của bất cứ một tôn giáo nào, dù thiền định hay dù áp dụng bất cứ phương pháp nào, đều tùy thuộc vào khả năng của nó có giúp con người cắt đứt được những căn bản vô minh hay không, để con người có thể thoát khỏi những đau khổ do ảo vọng mà ra hay không. Bất cứ tôn giáo nào, bất cứ triết thuyết nào mà cung cấp những phương pháp tẩy trừ vô minh đều là tôn giáo thật, đều là chánh Pháp.

Qua lịch sử, đã có rất nhiều vị thầy vĩ đại chỉ cho chúng ta những con đường thanh tẩy vô minh để chấm dứt đau khổ. Nếu sự thực hành của chúng ta có hiệu quả trong việc cắt đứt căn nguyên vô minh thì chúng ta có thể tin tưởng một cách mãnh liệt rằng chúng ta đang theo chánh Pháp, không cần biết nó có tên là gì, được gọi như thế nào.

Đạo Pháp, Phạn ngữ Dharma, có nghĩa là “cầm giữ, nắm giữ.” Theo ý nghĩa đó, chúng ta nắm giữ cái bình để nó khỏi rơi, khỏi bị bể vỡ, sự chân thành thực hành Đạo Pháp giữ chúng ta khỏi những sự nguy hiểm và sai lầm dẫn chúng ta đến đau khổ.

Như vậy, bất cứ cái gì chúng ta làm –có thể là thiền định, có thể là một đường hướng sống hay là một phương pháp hướng dẫn cuộc đời chúng ta—mà chữa được bệnh vọng tâm của chúng ta thì đó chính là tinh túy của sự thực hành Đạo pháp. Phương pháp đó không phải là đặc quyền của một truyền thống nghi lễ riêng biệt nào.

Nó cũng chẳng tổn hại gì, cho dù hành giả đó thuộc Hồi giáo hay Do thái giáo, Thiên chúa giáo hay Ấn độ giáo, Phật giáo hay một thuyết giáo nào hoặc bất kỳ một tôn giáo nào. Nếu phương pháp mà chúng ta đang thực hành giúp chúng ta phá tan được ảo vọng và cắt đứt được tận gốc rễ của khổ đau của chúng ta thì đó chính là tinh túy của việc thực hành tâm linh, nó gọi là Đạo Pháp.

Có rất nhiều cấp độ ảo vọng khác nhau nên cũng có nhiều cách thực hành Đạo pháp khác nhau để chấm dứt ảo vọng. Tất cả những con đường tu tập chấm dứt ảo vọng đều nằm trong Đạo pháp. Qua sự chân thành áp dụng những phương pháp thiền định có hệ thống, chúng ta xóa bỏ khỏi tâm chúng ta những quan niệm sai lầm, những thái độ nhị nguyên và những thói hư tật xấu của chúng ta.

Chúng ta sẽ đạt giác ngộ, sự toàn mãn. Sự thành đạt chắc chắn sẽ đến bởi vì tâm ảo vọng (vọng tâm) không phải là tâm bản nhiên, bởi vì những gì xuất hiện ra trong tâm không phải là tâm. Tâm chỉ nhất thời chạy theo ảo vọng cũng giống như một chiếc bình có một vết bẩn mà thôi. Một vết bẩn không phải là chiếc bình, nó có thể được rửa sạch.

Giống như vậy, tâm bản nhiên của chúng ta vốn trong sáng, nhất thời bị ảo vọng che khuất, nó có thể được tẩy sạch.

Sự chấm dứt hoàn toàn đau khổ và giác ngộ là sự thành đạt rất cao quí, giá trị của nó không gì sánh bằng nên chúng ta phải dồn hết năng lượng của chúng ta vào con đường tâm linh. Hơn nữa, sự thực hành và sự học hỏi của chúng ta tùy thuộc vào sự lắng nghe và vào sự nghiên cứu chân tính của bất cứ những gì chúng ta được dạy bảo.

Như vậy, sự học hỏi và kết quả của nó cũng vô cùng quan trọng và cần thiết cho con đường tâm linh. Nếu chúng ta học hỏi nghiên cứu phương pháp Đạo pháp trong nội tâm rồi đem áp dụng những điều học hỏi đó ở ngoài cuộc sống thì đời sống của chúng ta thực sự có một ý nghĩa và tràn đầy ơn ích cho chính mình cũng như cho những người khác.

Nếu chúng ta theo một phương pháp toàn hảo, chúng ta sẽ không thất vọng vì để mất thời giờ. Còn nữa, trong giờ phút cận tử, giờ phút của sự chết, chúng ta sẽ không sợ hãi và lo lắng bối rối. Vì đã phát triển phương pháp liên hệ với nội tâm nên chúng ta có thể kiểm soát được tiến trình của tâm linh, chúng ta có thể đối diện với tử thần một cách bình tĩnh thanh thản, tự chủ và an nhiên.

Biết rằng chúng ta đã sống một đời tốt đẹp nên chúng ta sẽ có tự tin, vững chắc tin tưởng hạnh phúc và an lạc sẽ đến.

Tất cả những gì tôi trình bày ở đây đều là những kinh nghiệm của các vị thiền giả và những vị đã và đang thực hành Đạo pháp. Có rất nhiều vị đã đạt giác ngộ, đã thành công trong vấn đề thanh tẩy tâm. Họ đã áp dụng phương pháp này để thanh tẩy những ý niệm sai lầm và những thói quen xấu của họ, chúng ta cũng có thể thực hành như vậy.

Khi đạt đến trình độ phát triển này, chúng ta có thể đem lợi ích đến cho người khác và giúp những người khác trên con đường thực hành Đạo pháp. Vì lòng vị tha, chúng ta sẽ biết hướng dẫn những người khác cùng thoát khổ tùy theo cá tính riêng của họ. Không còn một mục đích nào khác trong cuộc đời cao đẹp hơn thế nữa.

Để kết luận, đây là phương pháp tối thiện xảo mà chúng ta có thể dùng để đối diện với những vấn đề của chúng ta. Nếu tâm của chúng ta đầy dục vọng, chúng ta sẽ gặp rất nhiều đau khổ mỗi khi chúng bị ngăn cản. Nhưng nếu chúng ta biết cách áp dụng Đạo pháp, chúng ta có thể hướng dẫn tâm của chúng ta vào con đường thực hành Đạo pháp trong đời sống, chúng ta sẽ có những chứng nghiệm hạnh phúc và an lạc ngay cả trong những lúc gặp cảnh khó khăn.

Mặc dầu chúng ta chưa phát triển thâm sâu Đạo pháp, chỉ mới bắt đầu thực hành một chút, chúng ta cũng vẫn kinh nghiệm được sự an lạc trong đời sống thường ngày của chúng ta. Do đó, hãy quan tâm đến tất cả muôn loài chúng sinh –ngay cả đến một con vật nhỏ li ti – để phát triển chân hạnh phúc và để giải thoát khỏi đau khổ, đây là điều vô cùng có giá trị trên con đường thực hành Đạo pháp, trên con đường phát triển khả năng tâm linh của chúng ta.

Cám ơn quý vị nhiều lắm. Chúng ta vẫn còn giờ, quý vị có thể đặt câu hỏi.

Hỏi: Thưa ngài, chúng tôi bắt đầu thực hành như thế nào?

Trả lời: Trước nhất hãy học hỏi Đạo pháp. Nếu chúng ta không có căn bản, chúng ta sẽ không biết thanh tẩy như thế nào. Do đó, trước hết chúng ta hãy tìm một phương pháp đúng và thích hợp để học. Chúng ta hãy lắng nghe những lời giải thích của những vị thầy có kinh nghiệm. Họ phải là người đã và đang thực hành những lời dậy bảo này.

Vì theo học những vị thầy như vậy, chúng ta mới vừa học hỏi những lời dậy bảo vừa kiểm chứng họ đồng thời chúng ta cũng phải tự chứng nghiệm được những lời dậy bảo này. Rồi chúng ta thiền định trên những gì đã được học hỏi, hãy đem tất cả những cái đó ra thực hành trong đời sống thường ngày của chúng ta. Như vậy, trí tuệ của chúng ta sẽ từ từ phát triển.

Hỏi: Vì Đạo pháp bắt nguồn từ văn hóa Đông phương, phải chăng Đạo Phật cũng có thể thích hợp cho người Tây phương?

Trả lời: Như tôi đã trình bày, thực hành Đạo pháp không bắt buộc phải có một quy luật nhất định cố chấp nào đó. Đạo pháp không phải là một cái gì có khuôn khổ cứng ngắc. Mặc dầu có những người ngồi thiền khoanh chân nhắm mắt, nhưng những thế ngồi này tự nó không phải là tinh túy của Đạo pháp.

Một hành động được coi là thực hành Đạo pháp chân thật khi nó thực sự tác động đến tâm. Nếu ảo vọïng được nhổ đi tận gốc và đau khổ hoàn toàn biến mất khi chúng ta thực hành một cái gì đó thì cái đó chính là Đạo pháp. Như vậy, chúng ta vẫn có thể thực hành Đạo pháp cho dù chúng ta làm việc trong văn phòng tại một thành phố đông người hay chúng ta là một lao công ngoài đường phố. Vấn đề chính yếu là ảo vọng của chúng ta có giảm đi hay không.

Bất cứ một hành động nào cũng có thể chuyển thành sự thực hành Đạo nếu nó được hoàn thành bởi một động lực đúng và chân thành. Nếu chúng ta quyết tâm làm việc để tẩy trừ vô minh của chúng ta và chúng ta có thể giúp những người khác thắng được những đau khổ của họ thì đó là Đạo pháp, bất kể nó là phương pháp nào.

Đạo Phật, một trong những đạo chính của thế giới, giảng dậy rất nhiều phương pháp để thanh tẩy những động năng của chúng ta.

Nó được áp dụng và có khả năng thích hợp với tất cả mọi hoàn cảnh của bất cứ xã hội nào, Đông cũng như Tây. Do đó, một người Tây phương hiểu được tinh túy của Đạo pháp và hình thức văn hóa mà nó sẽ hội nhập vào, thì họ có thể mang lại rất nhiều ơn ích cho chính họ và cho những người khác bất kể những gì họ học được.

Hỏi: Có sự liên hệ gì giữa triết lý mật tông và sự thực hành Đạo pháp?

Trả lời: Không có bất cứ một sự thực hành mật tông nào mang lại kết quả nếu chúng ta không có căn bản về Đạo pháp. Chính mật tông là sự thực hành Đạo pháp, nên đừng nghĩ rằng có một sự thực hành nào đó ở bên ngoài Đạo pháp.

Nếu chúng ta kiếm được một văn bản nào đó nói về mật tông rồi thử áp dụng nó mà không thấu hiểu Đạo pháp thì không thể có kết quả. Đây là sự thật, thay vì những sự thực tập mang đến những kết quả tốt, giảm bớt u mê ảo vọng thì nó lại làm tăng thêm vô minh và càng đi sâu vào sai lầm nhiều hơn nữa.

Mục đích của mật tông cũng giống như Đạo pháp, là để thoát khỏi khổ đau, bằng cách bỏ đi những chướng ngại tinh thần (sở tri chướng.) Mật tông được coi như một phương pháp rất thâm sâu bởi vì nó là một phương pháp rất nhanh trên con đường tiến tới giác ngộ.

Nhưng động năng thúc đẩy vào con đường thực hành mật tông chính là sự ước muốn đạt giác ngộ càng nhanh càng tốt để cứu độ muôn loài chúng sinh càng mau có kết quả. Chỉ có sự thúc đẩy của một Bồ đề tâm bao la mới mong thực hành mật tông có kết quả.

Như vậy, mục đích và động năng thúc đẩy của mật tông hoàn toàn giống như Đạo pháp, nó là một thành phần của Đạo pháp, sự dậy bảo cao thâm này nương theo sự dậy bảo tổng quát. Nếu nghĩ nó là một thành phần riêng rẽ biệt lập thì nó sẽ tạo thêm những rắc rối, những vấn đề khác nữa, khác nữa.

Hỏi: Ngài có coi việc dùng thuốc (ma túy) là con đường thực hành tâm linh không?

Trả lời: Không, tôi không cho là những người chân thành thực hành Đạo pháp lại nghiện ngập. Tuy nhiên, tôi không phủ nhận có một số người trong lúc bắt đầu phát triển, một vài kinh nghiệm nào đó của thuốc có thể giúp họ.

Thí dụ, tâm của một số người rất hạn hẹp, không được cởi mở, họ không tin vào bất cứ sự hiện hành nào của hiện tượng mà nó xuất hiện qua bình diện vật chất. Vì thế, nó có thể giúp họ nhận ra được sự thật trong một chiều hướng khác với chiều hướng bình thường, có giới hạn. Sự kiện này có thể mở cho họ một khả năng phát triển tâm mà những người khác không biết.

Như vậy, sau khi sự phát triển đã được chứng nghiệm mà họ vẫn còn tiếp tục dùng thuốc thì họ đã tạo ra thêm ấn tượng cho ảo tưởng, thực ra sự kiện này đã chẳng giảm bớt vô minh. Kinh nghiệm dùng thuốc có giúp gì được hay không tùy theo người dùng thuốc. Tôi không coi việc dùng thuốc là một phương pháp tốt khi bước vào con đường tâm linh. 

Hỏi: Khi bước chân vào con đường tâm linh, vị thầy quan trọng như thế nào?

Trả lời: Ngay cả làm một việc nhỏ mọn tầm thường, như đi du lịch từ nước này đến nước khác chúng ta cũng cần phải có người đã có kinh nghiệm hướng dẫn. Nếu chúng ta muốn học một ngoại ngữ, chúng ta cũng cần phải có một ông thầy hiểu và nói được thứ tiếng đó. Đây là một sự cần thiết, một sự hướng dẫn rất thông thường mỗi khi chúng ta muốn học hỏi nghiên cứu một vấn đề gì.

Đây là một sự thật dành cho tất cả mọi vấn đề học hỏi, như vậy học hỏi Đạo pháp lại còn cần thầy hơn nữa. Tại vì con đường Đạo không quen thuộc với chúng ta, nó hoàn toàn xa lạ mà nó lại có liên hệ đến rất nhiều khía cạnh của chính chúng ta và với những hiện tượng khác nữa.

Lý do chính yếu mà chúng ta đau khổ là chúng ta có thói quen nhìn sự chân thật qua cái lăng kính bệnh hoạn ngã chấp độc tôn của chúng ta. Nếu chúng ta muốn tẩy sạch những ảo vọng, những u mê trong tâm của chúng ta, chúng ta cần phải có một vị thầy đã có nhiều kinh nghiệm trong vấn đề này, đã có thực chứng về vấn đề này.

Vì tính cách quan trọng trong việc theo đuổi con đường tâm linh, vị thầy hướng dẫn tâm linh của chúng ta phải là một vị thầy hoàn hảo. Họ phải là người sống cho Đạo pháp, phải là một thí dụ điển hình của Đạo pháp. Điều vô cùng quan trọng là tâm của họ đã có những chứng nghiệm, đã hoàn toàn lãnh hội được những trạng thái thực hành đúng và họ đã nắm vững những sự hiểu biết không sai lầm.

Nếu chúng ta nhận được những lời giải thích đúng đắn chân thật của vị thầy, rồi nghiên cứu, chiêm nghiệm và thiền định nghiêm túc trên những lời dậy bảo đó, chúng ta sẽ đạt được thành quả theo ý muốn. Ngược laiï, nếu chúng ta tin tưởng vào vị thầy không có đủ khả năng thì rất nguy hiểm, sự thực hành của chúng ta sẽ đi vào hết lầm lẫn này đến lầm lẫn khác, để rồi cuối cùng chẳng đi đến một kết quả nào.

Hỏi: Làm thế nào để tránh được trường hợp chấp, bám víu vào con đường thực hành tâm linh?

Trả lời: Có những người muốn theo đuổi con đường tâm linh để quyến rũ người khác. Họ thích được gọi là một người thánh thiện hoặc một người có đời sống tâm linh. Đây là một sự hiểu lầm Đạo pháp, đây là sự lợi dụng Đạo pháp. Nhưng nếu thành tâm muốn chấm dứt khổ đau và muốn cho tâm mình và tâm những người khác được an tịnh thì ước muốn này không xấu.

Đây không phải là trường hợp chấp hoặc bám víu mà nó có thể gây rắc rối phiền muộn cho chúng ta. Ngay từ lúc bắt đầu bước chân vào con đường mà đã có nguyện ước như vậy thì đã có ơn ích rất nhiều rồi, đây không phải là bám víu, chúng ta không cần phải lẩn tránh.

Những bám víu xấu luôn luôn dẫn đưa chúng ta đến đau khổ. Với những động năng tham dục, chúng ta sẽ tạo ra những hành động không đạo đức, nó sẽ đem lại khổ đau cho chính chúng ta và cho những người khác. Nhưng lòng ao ước thực hành Đạo pháp không được coi là tham dục.

Nó hoàn toàn khác. Động năng thúc đẩy chúng ta thực hành Đạo pháp khuyến khích chúng ta đi vào sự thực hành để giảm bớt, không tăng lên, những đau khổ. Không có sự thực hành này, chúng ta sẽ bị trói buộc vào vòng luân hồi và chẳng được hưởng một chút ơn ích gì trong kiếp người.

Phải có một động năng thúc đẩy mãnh liệt lắm thì mới có thể bước vào con đường tâm linh, bởi vì sinh ra là chúng ta đã bị hướng dẫn vào con đường chấp ngã. Do đó, vì ước muốn thực hành Đạo pháp để đạt kết quả tốt nên ngay từ khi bắt đầu chúng ta không nên lo sợ bị dính mắc, bị lệ thuộc.

Chúng ta nên cố gắng tiếp tục thực hành với một động lực càng trong sạch càng tốt, hãy mong muốn thật nhiều ơn ích cho muôn loài chúng sinh.

Cám ơn quý vị nhiều lắm.

Nguyên tác: WISDOM ENERGY, BASIC BUDDHIST TEACHINGS
Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche - Vô Huệ Nguyên dịch
Wisdom Publications xuất bản

Không có nhận xét nào: