Thứ Ba, 4 tháng 7, 2017

Đức Phật khai ngộ về tính thấy

Tính Thấy: Là một thực tại có tự tính từ vô thuỷ đến vô chung, không không gian không thời gian, không phải CÓ, không phải KHÔNG, là tính tuyệt đối |0|. Tất cả mọi sự vận động tương tác trong vũ trụ có thể tính đều là đối tượng của Tính Thấy và không phải Tính Thấy.

Nếu một người bay tận Cung Quảng Hàn, nghe thấy tiếng từ vạn dặm, nhìn thấu xuyên không gian thì có thể gọi là Thần, Nhưng không: Đấy chỉ là một phi công vũ trụ với phương tiện nhận biết khác người mà thôi. Trong cổ học Đông phương, cụ thể là trong kinh Dịch cũng nói đến hiện tượng khởi nguyên của vũ trụ là Thái Cực. Hoặc trong Đạo Đức Kinh nói đến sự khởi nguyên của vũ trụ là Đạo. Tất cả chỉ là những danh từ khác nhau chỉ một thực tại mà Đức Thích Ca đã minh giảng: Tính thấy.

Những đoạn dưới đây được trích dẫn trong “Kinh Thủ lăng nghiêm trực chỉ” do thành hội Phật giáo T/p HCM xuất bản 1994.

Đoạn III- Chỉ hai món căn bản chia riêng mê ngộ

Đức Phật bảo Anan: “Tất cả chúng sinh từ vô thủy đến nay, các thứ điên đo giống nghiệp tự nhiên nhóm lại như chùm ác xoa. Các người tu hành không thành được đạo Vô Thượng Bồ Đề, mà chỉ thành Thanh Văn, Duyên giác, ngoại đạo, chư thiên, ma Vương và quyến thuộc của ma, đều chẳng biết hai món căn bản, tụ tập sai lầm. Cũng như nấu cát muốn thành cơm thì dù trải qua nhiều kiếp trọn không thể được.
Thế nào là hai thứ căn bản? Anan! Một là căn bản sinh tử từ vô thuỷ. Chính hiện nay ông và chúng sanh đang dùng tâm phan duyên làm tự tánh. Hai là Bồ Đề Niết Bàn nguyên thể thanh tịnh từ vô thuỷ, tức là cái thức tinh nguyên minh này, nên trọn ngày trong động dụng mà chẳng tự biết, uống trôi vào trong các cõi."

* Qua đoạn trích dẫn trên, các bạn cũng nhận thấy rằng: Đức Phật khẳng định tính căn bản từ vô thuỷ và nhắc tới nguyên thể thanh tịnh từ vô thuỷ, tức là nhắc tới sự khởi nguyên của vũ trụ.

Đoạn IV - Nương cái thấy để gạn cái tâm

“Anan, nay ông muốn biết con đường tu thiền định để mong ra khỏi sanh tử, tôi lại hỏi ông...”

Liền khi ấy đức Như Lai đưa cánh tay sắc vàng co năm ngón lại hỏi ông A Nan: “Nay ông có thấy chăng?”

Anan thưa: “Thấy”

Phật hỏi: “Ông thấy cái gì?”

Anan thưa: “Con thấy Như Lai đưa cánh tay, co năm ngón lại thành nắm tay sáng chói chiếu vào tâm mắt của con.”

Phật hỏi: “Ông lấy cái gì để thấy?”

Anan thưa: “Con và cả đại chúng đều dùng mắt để thấy.”

Phật bảo Anan: “Nay ông trả lời tôi hỏi. Nay Như Lai co năm ngón tay lại thành nắm tay sáng chói chiếu vào tâm mắt ông, mắt ông có thể thấy. Vậy ông lấy cái gì làm tâm để biết được nắm tay sáng chói của tôi?”

Anan thưa: “Hôm nay Đức Phật Như Lai gạn hỏi tâm ở chỗ nào? Con dùng tâm suy xét tột cùng để tìm kiếm, tức là cái suy nghĩ đó, con cho là tâm của con”.

* Ngài Anan cho rằng suy nghĩ (Tư duy – ý thức: phi vật chất theo quan niệm hiện đại phổ biến) là tâm.

Đoạn V - Chỉ cái hay suy nghĩ có thật thể

Tiết 1 - Bác cái hay suy nghĩ

Phật bão: “Sai rồi Anan! Cái này chẳng phải tâm của ông!”

Anan giật mình, rời chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay bạch Đức Phật: “Cái này chẳng phải tâm con. Vậy nên gọi nó là cái gì?"

Phật bảo Anan: “Cái này là những tưởng tượng hư vọng của tiền trần, làm mê lầm chân tính của ông. Do ông từ vô thủy đến nay, nhận giặc làm con, bỏ mất chân tính bản nguyên thường trụ nên phải chịu luân chuyển”.

* Đoạn này bạn đọc cũng nhận thấy Đức Phật không cho ý thức là Tâm và xác định thuộc tính vật chất của ý thức qua câu: “Những tưởng tượng hư vọng của tiền trần.”

Tiết 2 - Cầu xin chỉ dạy

Ông Anan bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Con là em yêu của Phật. Vì tâm mến Phật nên con xuất gia. Tâm con chẳng riêng gì cúng dường Đức Như Lai, cho đến trải khắp hằng hà sa số cõi nước phụng thờ chư Phật và Thiên Tri thức, phát tâm đại dũng mãnh như làm tất cả các pháp sự khó làm, con đều dùng tâm này. Dẫu cho con có hủy báng chánh pháp, bỏ mất căn lành cũng từ tâm này. Nếu Phật phát minh nó chẳng phải tâm, hoá ra con không có tâm, đồng như cây đất. Vì ngoài cái hiểu biết này ra con không còn gì nữa. Tại sao Đức Phật Như Lai bảo cái ấy chẳng phải là tâm? Con thật kinh sợ và trong đại chúng đây đều nghi ngờ. Cúi mong Đức Từ Bi mở lòng chỉ dạy cho kẻ chưa ngộ!”

Qua đoạn trích dẫn ở trên – người viết nhận thấy rằng: Ý thức và những hiện tượng liên quan đều có thuộc tính vật chất. Hay nói một cách khác: Ý thức và những hiện tượng liên quan đều là sự tương tác kết hợp của vật chất, mà diễn đạt theo Phật pháp thì chúng đều do nhân duyên giả tạm không phải thật tính, không phải là tính nhận biết. Tức là chúng chịu sự tương tác mang thuộc tính của vật chất. Sự tương tác này có tính quy luật có khả năng nhận thức được và sự tiên tri trên cơ sở nhận thức đó. Chính sự tương tác vô thường này, mà Đức Phật gọi là những tưởng tượng hư vọng của tiền trần. Đây chính là yếu tố Định Mệnh của thế nhân. Nhưng vấn đề này là: Nếu ngay cả ý thức và những hiện tượng liên quan đều có thuộc tính vật chất mà ngài A Nan gọi là : “đồng như cây đất. Vì ngoài cái hiểu biết này ra con không còn gì nữa” thì cái gì sẽ nhận biết những thuộc tính vật chất đó. Đây cũng là điều mà Đức Thế Tôn chỉ dạy từ hàng ngàn năm trước. Đây cũng là câu trả lời: “Có hay không một lý thuyết thống nhất vũ trụ” mà S. Hawking đặt câu hỏi và cũng là câu trả lời: Định mệnh có thật hay không?

Chúng ta xem tiếp những đoạn trích dẫn sau đây trong kinh Lăng Nghiêm:

Tiết 3 - Chính chỉ toàn tánh

Bấy giờ Đức Thế tôn muốn chỉ dạy ông Anan và đại chúng, khiến cho tâm vào “Vô sanh pháp nhẫn”, nên ở trên tòa Sư tử xoa đầu ông Anan mà bảo rằng: “Như Lai thường nói: Các pháp sanh ra chỉ từ tâm hiện. Tất cả nhân quả thế giới vi trần nhân nơi tâm mà thành thể. Này Anan, như tất cả sự vật có ra trên thế giới trong ấy từ ngọn cỏ, sợi dây và cái gút... tìm cội nguồn của nó đều có thể tính, dầu cho đến hư không cũng có tên gọi và tướng mạo. Huống chi tâm thanh tịnh sáng suốt nhiệm mầu này là tâm tánh của tất cả mà tự không thể tánh hay sao?

Nếu ông chấp nhặt cái phân biệt hiểu biết quyết cho là tâm, thì tâm này khi rời tất cả các trần sắc, hương, vị, xúc riêng có toàn tánh. Như nay ông nương nơi nghe pháp của tôi, đây ắt nhân nơi tiếng mà có phân biệt. Dầu cho dứt hết tất cả thấy nghe hiểu biết, giữ cái thầm lặng lẽ bên trong vẫn còn là việc phân biệt bóng dáng của pháp trần.

Chẳng phải tôi bảo ông chấp là chẳng phải tâm, nhưng ông đối với tâm này phải chín chắn và xét cho kỹ. Nếu rời tiền trần mà có tính phân biệt, tức thật là tâm ông. Nến tánh phân biệt rời tiền trần không có thật thể thì đó là việc phân biệt bóng dáng của tiền trân. Trần thì chẳng phải thường trụ, nếu khi nó biến diệt thì tâm này đồng với lông rùa sừng thỏ, ắt pháp thân của ông cũng đồng với đoạn diệt. Vậy ông lấy cái gì để tu chứng Vô sanh pháp nhẫn?”

Qua đoạn trích dẫn trên, chứng tỏ Đức Phật đã chỉ thẳng ra rằng:

1- Tính thấy có thể tính và là một thực tại. Câu: “Huống chi tâm thanh tịnh sáng suốt nhiệm mầu này là tâm tánh của tất cả mà tự không thể tánh hay sao?” chứng tỏ điều này.

2- Sự tồn tại của ý thức mang thuộc tính vật chất. Ngài nói: “Nếu tính phân biệt rời tiền trần mà không có thật thể thì đó là việc phân biệt của tiền trần”. Ở đây có lẽ không phải bàn sâu, vì ai cũng hiểu rằng khái niệm “thật thể” chính là cách gọi khác của sự tồn tại có thuộc tính vật chất: “Rời tiền trần không có thât thể” thì chỉ là sự phân biệt giữa “Có” và “Không”, tức là “Việc phân biệt bóng dáng của tiền trần”. Chính vì vậy, Đức Thế Tôn chỉ ra: khi một dạng tồn tại của vật chất tan biến – “Trần chẳng thường trụ nếu khi nó biến diệt...” – thì cái “Tâm Không” đối đi với cái “Có” của vật chất cũng sẽ biến mất. Ngài đã chỉ thẳng đó là một sự sai lầm nếu cho rằng: Tâm vốn “không” khi đối đãi với vật chất và sự tương tác của nó vốn “có” thì “...tâm này đồng với lông rùa sừng thỏ...”, tức là không có thật.

Đến đây, người viết cũng xin lưu ý với bạn đọc là chữ Tâm mà Đức Phật nói không đồng nghĩa với chữ Tâm trong cụm từ “duy tâm” thường dùng. Ngay cả câu trong kinh Phật “Vạn pháp duy tâm biến hiện” cũng không hề đồng nghĩa với khái niệm “duy tâm” trong triết học hiện đại. Chữ “Tâm” trong Phật học để chỉ tính nhận biết trong mỗi một con người, mà một trong nhiều nghĩa của nó có thể hiểu là trạng thái “phi ý thức”, chứ không phải là “phi vật chất”. Nhưng “Tâm” – tính nhận biết – tính thấy là gì? Nó có sự tương tác hay không đối với quy luật vận động của vật chất?

Nếu nói là “Có” thì đây chỉ là tên gọi khác của “ý thức” với khái niệm “phi vật chất” đầy đủ nhất của nó từ trước đến nay. Trong trường hợp này định mệnh sẽ không có thật. Mọi giá trị tiên tri sẽ không tồn tại, mọi lý thuyết khoa học vĩ đại nhất sẽ sụp đổ. Bởi vì lúc đó khoa học chỉ còn mang tính thực chứng và kinh nghiệm. Nhưng nếu nói là “Không” thì cái gì sẽ nhận biết tất cả những quy luật vận động của vật chất? May mắn thay! Đức Như Lai đã khai ngộ điều này. Chúng ta sẽ tiếp tụ quán xét những đoạn kinh tiếp theo đây:

Đoạn VI - Hiển bày tính thấy chẳng phải mắt

Tiết 1- Trách nghe nhiều

Bây giờ ông Anan và đại chúng im lặng, ngơ ngác.

Phật bảo ông Anan: “Tất cả các người tu hành trên thế gian, hiện tiền tuy được “Cửu thứ đệ định” mà chẳng được lậu tận thành A la hán, đều do chấp vọng tưởng sinh tử này lầm cho là chân thật. Thế nên, nay ông tuy học rộng nghe nhiều mà chẳng thành thánh quả.

Tiết 2- Bày chứng cầu chỉ dạy

Ông Anan thưa: “... Bạch Đức Thế Tôn ! Nay chúng con bị hai thứ chướng trói buộc, do chẳng biết tâm tánh vắng lặng thường hằng. Cúi xin Đức Như Lai thương xót kẻ nghèo khổ này phát tâm khởi nhiệm mầu sáng suốt để mở bày con mắt đạo của chúng con.

Tiết 3- Phóng quang tiêu biểu nói pháp

Khi ấy từ chữ vạn trên ngực của Đức Như Lai phóng ra hào quang báu. Hào quang ấy rực rỡ có trăm ngàn màu sắc sáng khắp một lúc cả 10 phương thế giới của Phật như số vi trần, rót khắp trên đỉnh của các Đức Như Lai ở các cõi nước 10 phương và xoay về soi đến ông Anan và cả đại chúng. Phật bão ông Anan rằng: “Nay tôi vì ông mà dựng đạo pháp tràng lớn, cũng khiến cho tất cả chúng sinh 10 phương được tâm tính nhiệm mầu, sâu kín trong sạch sáng suốt và con mắt đạo thanh tịnh.”

* Các đoạn trích dẫn ở trên có thể coi như là sự đặt vấn đề của Đức Phật với chúng đệ tử về bản chất của Tâm, mà diễn đạt theo một cách khác: “Nếu ý thức có thuộc tính vật chất thì cái gì nhận thức điều đó?” . Các đoạn trích sau đây, Đức Phật chỉ rõ điều này.

Tiết 4 - Chỉ chính cái thấy là Tâm

a) Lấy nắm tay lệ cho cái thấy

Anan! Trước ông đã trả lời tôi là thấy được nắm tay sáng chói, vậy nắm tay này nhân đâu mà có? Ông đem gì thấy?”

Ông Anan thưa: “Do toàn thân Phật như Diêm Phù đề sáng chói ngời dường núi báu, từ thanh tịnh sanh ra sáng chói. Con thật dùng mắt xem thấy năm ngón tay của Phật co lại đưa cho người xem, nên có tướng nắm tay.”

Phật bảo Anan: “ Hôm nay Như Lai thật bảo ông: Những người có trí thiết yếu phải dùng thí dụ mà được khai ngộ. Anan! Thí dụ như nắm tay của tôi, nếu không có bàn tay thì chẳng thành nắm tay. Nếu không có con mắt của ông thì không thành cái thấy của ông. Lấy con mắt của ông so với nắm tay của tôi, nghĩa ấy có đồng không?

Anan thưa: “Bạch Thế Tôn! Đúng như vậy. Nếu không có con mắt của con thì cái thấy của con không thành. Lấy con mắt của con đem so sánh với lắm tay của Đức Như Lai nghĩa ấy đồng nhau”.

* Phật thí dụ về những điều kiện nhận biết: Mắt, nắm tay....

b) - Chỉ cái thấy tối không phải không có thấy Phật bảo Anan: “ Ông nói đồng nhau nghĩa đó không đúng. Vì sao? Như người không bàn tay, nắm tay hẳn là không. Còn người không con mắt hoàn toàn không phải họ không có cái thấy. Bởi tại sao? Ông thử ra đường hỏi những người mù mắt: Anh có thấy gì chăng? Các người mù kia ắt sẽ đáp với ông: Nay đối trước mắt tôi chỉ thấy tối đen, lại không thấy gì khác. Dùng nghĩa ấy để quán xét thì tiền trần tự tối chứ cái thấy đâu có thiếu kém”.

* Phật chỉ rõ sự sai khác giữa phương tiện nhận biết (mắt) và đối tượng nhận biết (nắm tay) – vốn có thuộc tính vật chất – với tính Thấy.

c) Dùng đèn so với con mắt để hiển bày cái thấy

* Nghi thấy tối chẳng phải là thấy

Ông Anan thưa: “Những người mù trước mắt họ chỉ thấy tối đen đâu gọi là thấy?”

d) Dụ tối sáng không khác, chỉ cái thấy là tâm

Phật bảo Anan: “Những người mù chỉ thấy tối đen, cùng với những người mắt sáng ở trong phòng tối, hai cái tối đó khác nhau hay không khác?”

- Bạch Đức Thế Tôn, đúng như vậy! Người sáng ở trong chỗ tối cùng với người mù thấy tối, hai cái tối đó không khác.

Anan! Nếu người mù bỗng nhiên được sáng mắt, đối với tiền trần thấy các sắc tướng gọi là mắt thấy. Người sáng ở trong nhà tối, bỗng có đèn sáng cũng đối với tiền trần thấy các sắc tướng, lý ưng phải chăng gọi là đèn thấy? Nếu đèn thấy thì đèn chính là cái thấy tự chẳng gọi là đèn. Lại nữa, nếu đèn thấy thì chẳng can hệ gì đến việc của ông. Thế nên phải biết đèn hay hiển sắc, còn cái thấy là mắt chẳng phải đèn. Mắt hay hiển sắc còn cái thấy là tâm chẳng phải mắt.

Ông Anan và đại chúng tuy được nghe lời mà miệng vẫn lặng thinh, tâm chưa khai ngộ, còn mong Đức Như Lai dùng lời lành chỉ dạy thêm, nên chắp tay lắng lòng trông chờ Phật xót thương dạy bảo.

* Qua đoạn trích dẫn trên, cho thấy Đức Phật đã chỉ ra rằng: Có sự phân biệt giữa điều kiện nhận biết và tính nhận biết. Điều kiện nhận biết mà Ngài thí dụ ở trên gồm: phương tiện nhận biết (con mắt, ngọn đèn...) và đối tượng nhận biết: Nắm tay của Ngài... Phương tiện nhận biết và đối tượng nhận biết có thể thay đổi (Cảnh giới tiền trần trụ và diệt) Nhưng tính nhận biết không thay đổi khi có đầy đủ điều kiện nhận biết.

Bởi vậy, nếu chúng ta đặt ví dụ: “Vật thể đi với tốc độ ánh sáng, con người có thấy không?” Câu hỏi này giống như: Với cuộc sống con người cách đây 100 năm, nếu có người hỏi: Với khoảng cách 100 cây số, con người có nhìn thấy nhau được không?”. Vào thời điểm không thời gian cách đây 100 năm, câu trả lời sẽ là “Không!” – vì thiếu phương tiện nhận biết. Nhưng ở thời điểm không, thời gian hiện tại, câu trả lời sẽ là “Có!” – Vì con người có đầy đủ phương tiện nhận biết. Do đó, khi đặt vấn đề một vật thể đi với tốc độ lớn hơn tốc độ ánh sáng (Đối tượng nhận biết) thì ở những trường hợp không có phương tiện nhận biết câu trả lời sẽ là “Không thể thấy!”. Như vậy, vấn đề: Có hay không nhận biết được (Thấy được) chỉ phụ thuộc vào phương tiện nhận biết. Còn vấn đề mà Đức Thích Ca chỉ dạy trong Kinh Lăng Nghiêm là “tính nhận biết”. Hay nói cách khác: Đức Phật chỉ ra bản chất thật của thể tính. Những đoạn trích dẫn tiếp theo đây chứng tỏ điều này.

Tiết 3- Lấy cái động tĩnh để hiển bày cái thấy

A- Tay xoè nắm để gạn cái thấy thường còn

Khi ấy Đức Như Lai ở trong đại chúng, co năm ngón tay lại và xoè nắm bàn tay.

Ngài hỏi ông Anan: “Ông thấy cái gì?”.

Ông Anan thưa: “Con thấy bàn tay trăm báu của Đức Như Lai xoè nắm!”.

Phật bảo ông Anan: “Ông thấy cái tay tôi xoè nắm là do cái tay xoè nắm hay do cái thấy của ông xoè nắm?”

Ông Anan bạch Phật: “Tay báu của Đức Thế Tôn có xoè nắm. Chẳng phải tính thấy của con có xoè nắm!”.

Phật hỏi: “Cái nào động cái nào tĩnh?”.

Ông Anan thưa: “Tay của Phật không dừng, tánh thấy của con còn không tịnh thì đâu có gì động!”.

Phật nói: “Đúng như vậy!”.

* Đoạn này ông Anan nhận thức được đối tượng nhận biết động so với tính thấy.

B- Phóng quang để gạn hỏi cái thấy không động

Bấy giờ trong lòng bàn tay của Đức Như Lai phóng một luồng hào quang báu soi đến vai bên phải ông Anan, làm ông Anan quay đầu ngó sang bên phải. Phật lại phóng hào quang qua vai bên trái ông Anan. Ông Anan lại xoay đầu ngó sang bên trái.

Phật bảo ông Anan: “ Đầu ông hôm nay nhân gì lại dao động?”.

Anan thưa: “Con thấy Như Lai phóng hào quang báu đến hai vai, con nhìn qua hai vai để xem. Nên đầu con tự dao động.

Phật hỏi: “ Ông nhìn hào quang của Phật, nên đầu quay qua phải và trái. Vậy đầu ông động hay cái thấy của ông động?”.

Ông Anan thưa: “Bạch Thế Tôn! Đầu con tự động, mà tính thấy của con không có dừng, huống là có động!”

Phật nói: “ Đúng như vậy!”

Qua đoạn trích dẫn trên, cho thấy: Với câu: “...Tính thấy không dừng, huống chi có động...” diễn tả hai trong nhiều trạng thái của “tính thấy”:

* Tính liên tục không ngừng nghỉ, không chia cắt: “Tính thấy không dừng”

* So với cái động (Động là thuộc tính của vật chất). Tính thấy, tính nhận biết không động so với cái động (Với bất cứ tốc độ vũ trụ nào mà khoa học có thể tìm thấy hoặc sẽ thấy trong tương lai).

* Đối tượng nhận biết: Hào quang Đức Phật phóng ra, phương tiện nhận biết: đầu ông Anan đều động. Nhưng tánh thấy không động so với cái động. Nhưng cũng không phải là tĩnh vì tính thấy không dừng. Không dừng, không động chính là sự tuyệt đối. Như vậy, “Tính thấy”, tính nhận biết chỉ giải thích là một trạng thái tồn tại bao trùm vũ trụ, nhưng không đồng nghĩa với hư không. Điều này có thể sẽ dẫn đến khái niệm Thái Cực trong Kinh Dịch, hoặc Đạo trong Đạo Đức Kinh.

C) Chính chỉ tính thấy không có động tĩnh co mở

Khi ấy Đức Như Lai bảo khắp đại chúng:”Nếu lại có chúng sanh cho cái dao động đó gọi là trần, cái chẳng dừng đó gọi là khách. Các ông xem đầu ông Anan tự dao động, mà tánh thấy không có dao động. Lại các ông xem tay tôi co mở mà tính thấy không có co mở. Tại sao các ông lại lấy động làm thân, cái động làm cảnh. Từ thuỷ chí chung, niệm niệm sanh diệt sót mất chân tánh. Nhận vật làm mình luân hồi trong đấy, tự nhận sự lưu chuyển”.

* Động là một thuộc tính của vật chất. Bởi vậy sự vận động của tư duy mang thuộc tính vật chất, tất yếu nó phải chịu sự tương tác của các vật thể dù lớn như các Thiên hà hoặc nhỏ hơn cả siêu hạt Quak; dù xa đến tận cùng vũ trụ, dù gần đến ngay trong ta. Sự vận động này mang tính quy luật đó là nguyên nhân dẫn đến khả năng tiên tri và vấn đề Định Mệnh. Nhưng con người không phải là robot. Cái gì nhận biết tất cả sự vận động của vật chất? Mà theo cách diễn tả của ngài Anan thì con người không thể “Đồng như cây đất”. Đức Thế Tôn đã chỉ ra tính nhận biết tất cả sự vận động và tồn tại vật chất. Ngài đã nhắc nhở: Tính thấy không phải là cái “Không” đối đãi với cái “Có” (Cái hiện hữu tồn tại và vận động dù nhỏ nhất của vật thể). Vì khi đối đãi như vậy, “cái có” tự hoại thì “cái không” biến mất. Tính thấy không phải “Tĩnh” so với “Động” vì tính thấy “không dừng”. Không động mà cũng không dừng thì chính là sự tuyệt đối! Nói theo ngôn ngữ toán học thì vận tốc = |0|. Tính thấy có từ khi vô thuỷ và có trong những sinh thể đầu tiên tồn tại cho đến nay. Vậy nó phải có từ khởi nguyên vũ trụ. Từ vô thuỷ đến vô chung, không không gian, không thời gian, không lượng số. Dịch viết: “Ở xa thì nói tới cái vô biên của vũ trụ, ở gần thì tĩnh là chính, ở giữa thì bao trùm tất cả”. Đức Phật đã chỉ thẳng chân tính để thoát khỏi luân hồi, vượt qua định mệnh. Nhưng thật khó lắm thay!

Luân hồi nếu nói theo ngôn ngữ hiện đại gần đồng nghĩa với “quy luật” . “Luân”: sự tiếp nối, vận động; “hồi”: quay trở lại. Cũng như Chu Dịch: Chu là vòng tròn, Dịch là sự vận động. Chu dịch nghĩa là sự vận động có tính quy luật chu kỳ.

Những lời chỉ dạy của đức Thích Ca về một thực tại có khả năng nhận biết (Tính thấy – tính nhận biết) tất cả mọi sự luân hồi, nhân quả mà có thể diễn dịch bằng ngôn ngữ khoa học hiện đại là tính quy luật. Nhưng tính thấy phải chăng chỉ là một “Thực tại khác” mà nhà vật lý Fritjof Capa nói đến. Có thể hiều như thế cũng được, nhưng không rối ráo. Bởi vì một thực tại khác là gì khi cho đến nay ý niệm về sự tồn tại của vật chất vẫn chưa vượt quá khái niệm về sự tồn tại của những siêu hạt? Hay tính thấy chính là “Tinh – Khí – Thần” theo khái niệm phổ biến thuộc văn minh Đông phương chăng? Cũng không phải! Bởi vì, khi chúng ta biết/thấy được Tinh/Khí/Thần thì nó không phải là tính thấy. Vậy “tính thấy” là “tâm” chăng? Cũng chẳng phải! Vì cái tâm vẫn còn phân biệt chính tà thì cái tâm nào là cái thấy của cái tâm kia? Phật pháp có câu: “Trực chỉ nhân tâm; kiến tánh thành phật” tự nội cung của nó đã cho thấy: Cái tâm cũng chỉ là một phương tiện, một yếu tố cần để “kiến tánh”. Có người cho rằng: “Thiên Địa huyền hoàng” là lý. Nhưng trong Thiên/ Địa còn phân biệt “Thiên” và “Địa”. Vậy giữa “Thiên” và “Địa” đâu là cái tuyệt đối? Cái gì thấy được cái kia? Rốt ráo là: “Nếu Thiên và Địa là cái lý thì cái gì thấy được cái lý ấy?”. Nhưng định nghĩa thế nào là “tính thấy” mới thật khó làm sao? Hay nói một cách khác: Nếu chúng ta định nghĩa được “tính thấy” thì tức là chúng ta sẽ “thấy” nó. Vậy thì nó không còn là tính thấy nữa, vì còn một cái thấy khác thấy nó. Thật may mắn thay! Những lời chỉ dạy của Đức Phật trong kinh Lăng Nghiêm đã tiếp tục chỉ rõ điều này:

Tiết 5- Gạn hỏi sự biến đổi trong nhục thân

Phật bảo: “Đại Vương! Thân ông hiện đang sống đó! Nay tôi lại hỏi ông: Thân thể ông là như kim cương không hoại hay bị biến hoại?”.

“Bạch Thế Tôn! Thân con hiện nay rốt cuộc cũng thay đổi hoại diệt”.

Phật bảo: “Đại Vương! Thân ông chưa từng hoại diệt, sao biết hoại diệt?”

- “Bạch Thế Tôn! Cái thân vô thường biến hoại này của con tuy chưa từng diệt. Nhưng con xem hiện tiền, mỗi niệm dời đổi mãi mãi không dừng. Nên con biết thân này quyết phải theo đó mà diệt mất”.

Phật nói: “Đúng vậy!”

Tiết 6- Chính chỉ thấy không sinh không diệt

Phật bảo: “Đại Vương! Ông thấy sự biến hoá thay đổi không dừng, nên ngộ biết thân ông hoại diệt. Ông có biết trong thân ông có cái gì chẳng hoại diệt chăng?”.

Vua Ba Tư Nặc chắp tay bạch Phật: “Thật con chẳng biết”.

Phật bảo: “Nay tôi chỉ cho ông tính chẳng sinh diệt. Đại Vương! Khi ông được bao nhiêu tuổi thì thấy nước sông Hằng?”

Vua thưa: “Con được ba tuổi, mẹ con dẫn đến lễ ra mắt thần Kỳ Bà Thiên. Đi ngang qua dòng sông ấy, đó là lần đầu tiên con thấy dòng sông này”.

Phật bảo:” Đại Vương! như ông đã nói, khi 20 tuổi đã già hơn 3 tuổi, cho đến 60 tuổi năm tháng ngày giờ niệm niệm dời đổi. Vậy so với khi ông ba tuổi đến 13 tuổi ông thấy nước sông Hằng thế nào?”

Vua thưa: “Khi con ba tuổi rõ ràng không khác. Đến nay con 60 tuổi cái thấy vẫn không khác”.

Phật bảo: “Nay ông tự cảm thương tóc bạc mặt nhăn, tướng mạo thay đổi. Vậy cái thấy của ông hiện nay xem thấy sông Hằng, so với khi xưa còn trẻ xem thấy sông Hằng, cái thấy đó có già trẻ không?”

Vua thưa: “Bạch Thế Tôn! Không vậy!”

Phật bảo: “Đại Vương! Mặt ông tuy nhăn mà tính thấy chưa từng bị nhăn. Cái bị nhăn thì biến đổi, còn cái chẳng bị nhăn thì không biến đổi. Cái biến đổi phải chịu hoại diệt, cái chẳng biến đổi kia vốn không sinh diệt, làm sao trong ấy lại chịu nhận cái sinh tử của ông?”

* Như vậy, qua đoạn trích dẫn trên Đức Phật đã chỉ ra. “Tính thấy không sinh diệt”. Bởi vì, nếu tính thấy sinh diệt thì cái gì nhận biết tính sinh diệt của nó. Nếu có một thực tại khác nhận biết – thấy – được cái sinh diệt của tính thấy thì cái tính thấy sinh diệt đó không còn là cái thấy nữa. KHÔNG SINH – KHÔNG DIỆT, như vậy nó phải tồn tại từ vô thủy đến vô chung. Hay tường theo một lẽ khác, nói theo ngôn ngữ khoa học hiện đại. Nó phải có trước Bigbang và chính là giây |0| của vũ trụ.

Tiết 9- Chính chỉ cái điên đảo hiện tại

Ông Anan từ trong chỗ ngồi lễ Phật, chắp tay quỳ dài bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn! Nếu cái thấy nghe này hẳn là không sanh diệt. Tại sao Đức Thế Tôn gọi bọn chúng con sót mất chân tánh, làm việc điên đảo. Cúi mong Đức Thế Tôn rủ lòng từ bi rửa sạch trần cấu cho chúng con”.

Liền khi ấy Đức Như Lai buông xuôi cánh tay sắc vàng, năm ngón chỉ xuống đất bảo Anan rằng:

“Nay ông thấy cánh tay của tôi xuôi hay ngược?”.

Ông Anan thưa: “Chúng sanh trong thế gian cho đây là ngược. Riêng con chẳng biết cái nào là xuôi, cái nào là ngược!”.

Phật bảo Anan: “Nếu người thế gian cho đây là ngược, vậy họ cho thế nào là xuôi?”

Ông Anan thưa: “Đức Như Lai dựng cánh tay lên, ngón tay chỉ hư không là xuôi”.

Phật liền dựng cánh tay lên bảo ông Anan: “Cái điên đảo là như thế. Chỉ là đầu đuôi hay thay đổi lẫn nhau, mà các người trong thế gian đều xem thấy thế ấy”.

* Đức Phật dùng cánh tay để minh hoạ cho bản chất tự nhiên không có xuôi ngược, nhưng con người đặt ra xuôi ngược và tin (“chấp”) vào điều đó. Đây là hiện tượng mang tính minh triết để tìm bản chất của sự việc, chứ không phải sự phủ nhận tính qui ước.

Đức Phật bảo: “Nên nhận biết thân ông với pháp thân thanh tịnh của các Đức Như Lai so sánh để biết: Thân Như Lai gọi là Chánh Biến tri, thân của các ông gọi là tính điên đảo. Ông nên xét kỹ thân ông và thân Phật cái điên đảo ấy ở chỗ nào?”

Khi ấy ông Anan và đại chúng sửng sốt nhìn Phật không nháy mắt, chẳng biết nơi thân tâm này điên đảo ở chỗ nào? Phật khởi lòng từ bi thương xót Anan và cả đại chúng. Ngài phát ra tiếng hải triều bảo khắp hội chúng:

“Này các thiện nam tử! Tôi thường nói: Sắc tâm, các duyên và các tâm sở sử đều do tâm hiện. Thân ông, tâm ông đều là vật ở trong CHÂN TÂM DIỆU MINH hiện ra. Tại các sao các ông lại bỏ sót mất tâm tính vốn nhiệm mầu sáng suốt ấy mà nhận cái mê trong cái ngộ? Mờ tối thành có hư không. Trong cái hư không mờ tối ấy, kết cái mờ tối làm sắc, sắc xen tạp với vọng tưởng, lấy cái tướng của vọng tưởng làm thân. Nhóm các duyên dao động bên trong, dong duổi theo cảnh vật bên ngoài, rồi lấy cái tướng mờ mịt lăng xăng đó làm tâm tánh thì quyết định lầm cho tâm ở trong thân. Chẳng biết sắc thân cho đến núi sông, hư không và thế giới bên ngoài đều là vật ở trong DIỆU MINH CHÂN TÂM. Tỷ như bỏ đi cả trăm ngàn biển lớn trong lặng, chỉ nhận một bọt nổi cho là nước biển cả. Các ông thực là một nhóm người trong mê, như cánh tay tôi rủ xuống không khác. Như lai nói là đáng thương xót!”

* Qua đoạn trích dẫn trên. Đức Phật chỉ ra rằng: Ngay cả những cái gì mà thế nhân thường nhận là Tâm (Tư duy, ý thức...) đều là VẬT ở trong CHÂN TÂM DIỆU MINH, tức là: Sự nhận biết là Sắc tâm; sự tương tác giữa nhận thức, tức là suy nghĩ tư duy là Các duyên; khả năng tư duy là Các tâm sở sứ đều có thuộc tính vật chất và không phải chân tính. Bởi vì đã là vật thì có sinh diệt, phân biệt và không phải bản tính nhận biết tất cả những sự vận động có thuộc tính vật chất đó. Nhưng qua đoạn trích dẫn trên cũng cho thấy Đức Phật đã chỉ ra: Con người có khả năng nhận thức (Ngộ) được chân lý tuyệt đối. Nói theo ngôn ngữ khoa học hiện đại là: Lý thuyết thống nhất vũ trụ mà các nhà khoa học hàng đầu đang mơ ước. Khi chúng ta nghe được, đọc được một quyển sách hay, một lời nói có ý nghĩa, một ý tưởng tốt mà chúng ta hiểu ra (hoặc biết được đúng sai) thì có thể gọi là “ngộ” ra vấn đề. Trong Phật pháp, khi chúng ta được nghe các vị thiền sư chánh đạo thuyết giảng và hiểu – ngộ – được thì ngay cả cái gọi là “ngộ” đó cũng không phải là tính nhận biết, không phải đã đạt được chân tính. Thậm chí – giả thiết – ngay cả khi Đức Phật hiện tiền trực tiếp dạy chúng ta và chúng ta hiểu được ngay thánh ý của Ngài, thì cũng không phải là đã đạt tới Chân Tính, mà chỉ là hiểu được mà thôi. Điều này Đức Phật đã nói rất rõ trong đoạn trích dẫn sau đây:

Đoạn X: Giản trạch tâm duyên (*) để chỉ tính thấy không chỗ trở về.

* Chú thích: Cụm từ “Giản trạch tâm duyên” tương tự như khái niệm loại suy trong phương pháp lý luận hiện đại. ở đây có thể hiểu là: “Loại trừ tâm duyên”.

Tiết 1- Trước bày chỗ ngộ chẳng dám tự nhận

Ông Anan bạch Phật: “Tuy con nghe lời Phật dạy ngộ được (biết được) tâm thanh tịnh sáng suốt viên mãn thường trụ sẵn có. Song con ngộ được (Nghe được) pháp âm của Phật cũng dùng tâm phan duyên mà thoả mãn chỗ ước mong mà chưa dám nhận là bản tâm vốn sẵn có. Cúi mong Đức Phật tuyên lời chỉ dạy”.

Tiết 2- Trách nhận ngón tay dùng để giản trạch tâm phân biệt đều có chỗ trở về.

Phật bảo ông Anan: “Các ông còn dùng tâm phan duyên để nghe pháp, thì pháp này cũng là vọng (sở duyên) chẳng phải pháp tính. Như người dùng ngón tay để chỉ mặt trăng cho người khác. Người kia phải nhận ngón tay mà nhìn lên mặt trăng. Nếu lại xem ngón tay chính là mặt trăng thì người này đâu những chỉ quên mặt trăng mà cũng quên luôn cả ngón tay. Vì sao? Bởi lẽ cho ngón tay chỉ là mặt trăng sáng thì đâu những chỉ quên ngón tay mà cũng chẳng biết tối sáng. Vì sao? Vì lấy thể ngón tay chỉ cho là tính sáng của mặt trăng thì cũng không rõ được tối sáng.

Đoạn kinh văn trên là một trong những đoạn nổi tiếng của Phật Pháp. Ngón tay thì không phải mặt trăng, điều đó đã rõ ràng. Ví như sự nhận thức được Pháp lý là sự tiếp thu tri kiến chứ tự nó không phải “Tính nhận biết” – chân tính. Do đó, nếu nhầm lẫn giữa sự tiếp thu tri thức và bản chất của hiện tượng thì luôn luôn sẽ là sự sai lầm. Sai lầm này có thể dẫn đến: Hoặc là phủ nhận chính tri kiến tiếp thu được do không hiểu bản chất của hiện tượng; hoặc là dẫn đến niềm tin không từ trí tuệ, mà đời thường gọi là “mê tín dị đoan”. Những phương pháp bói toán hiện nay, một thời bị coi là mê tín dị đoan, chính vì chưa ai giải mã được nguyên nhân nào để có những phương pháp bói toán này (Bản chất của hiện tượng). Trường hợp này có thể lấy làm ví dụ cho ngón tay chỉ và mặt trăng. Những người phủ nhận phương pháp bói toán thường nhân danh khoa học. Họ cho rằng bói toán là mê tín dị đoan, là không có cơ sở khoa học. Nhưng chúng ta thử nghĩ lại: Có một lý thuyết khoa học nào lại không có khả năng tiên tri. Sự tồn tại của các phương pháp tiên tri hàng thiên niên kỷ ở Đông phương, có phương pháp luận hẳn hoi, cho thấy một lý thuyết khoa học đứng đằng sau nó mà con người chưa phát hiện được. Điều này chứng tỏ đã có một lý thuyết khoa học bị thất truyền. Sự nhận thức khoa học chỉ là thực nghiệm và căn cứ vào những lời dự báo sai thì chỉ là nhận thức ngón tay (tính thực nghiệm và chứng nghiệm của khoa học), chứ không phải một tinh thần khoa học thật sự được thể hiện qua những tiêu chí của nó. Cũng không thể lấy tính thực nghiệm dự đoán sai của người ứng dụng phương pháp để phủ nhận (người dự đoán sai và phương pháp sai là hai vấn đề khác nhau. Bói toán có phương pháp quy tắc và mê tín dị đoan cũng là hai vấn đề rất khác nhau). Chính vì chỉ nhận thấy ngón tay chỉ vào khoa học chứ không phải bản chất tinh thần khoa học, nên khi có những hiện tượng bất thường: Nhỏ thì như quả trứng đứng trên cái đũa khi tìm mộ huyệt, hoặc lớn hơn như sự tiên tri thần khốc quỷ sầu của bà Vanga – những người có tri kiến khoa học nửa vời này sẽ hoang mang và dẫn đến trạng thái: Hoặc không còn tin vào khoa học, hoặc phủ nhận tất cả những gì ngoài tri kiến của họ. Như vậy, tiếp thu tri thức chỉ là sự tương tác có điều kiện của thể tính, không phải tính nhận biết. Những điều minh giảng của Đức Thích Ca rất quan trọng trong việc tìm về một chân lý tuyệt đối: Lý thuyết thống nhất vũ trụ và lý giải luận đề định mệnh có thật hay không? Không phải là ngẫu nhiên mà Anhxtanh cho rằng: Phật giáo chính là tôn giáo của tương lai. Chúng ta tiếp tục quán xét lời của Đức Phật.

Tiết 3- Chỉ tính thấy không chỗ trả về

a) Hỏi chỗ không trở về

Ông Anan thưa: “Nếu tâm tánh của con đều có chỗ trả về thì tại sao Đức Như Lai dạy tâm diệu minh sẵn có không trả về đâu? Cúi mong Đức Phật thương xót chỉ cho điều ấy!”

b) Chỉ tính thấy không phải bóng.

Phật bảo Anan: “Vả lại, cái tánh thấy vốn sáng suốt của ông thấy tôi thì cái tính thấy này tuy chẳng phải là cái diệu tinh minh tâm. Nó như mặt trăng thứ hai chẳng phải bóng trăng”.

* Đức Phật cho rằng: Trong mỗi con người thực sự có một tính thấy riêng mà Ngài ví như “mặt trăng thứ hai”, nhưng đó không phải bản chất của Tính thấy: “Cái tính thấy này tuy chẳng phải Diệu tinh minh tâm”.

c) Nêu tám thứ trần tướng....

“Ông hãy nghe cho kỹ, nay tôi sẽ chỉ cho ông chỗ không thể trả về. Này Anan! Cửa đại giảng đường này mở rộng về phương Đông, khi mặt trời lên thì chiếu sáng. Giữa đêm không trăng, mây mù mờ mịt tối tăm, chỗ có các cửa thì thấy thông suốt, khoảng tường ngăn thì thấy bít lấp, chỗ phân biệt được chỉ thấy các cảnh sắc duyên, trong chỗ trống rỗng thì thấy toàn là hư không, cảnh tượng mịt mù lại là bụi tối, mưa tạnh trời thanh lại thấy trong”.

d) Chỉ tám thứ trả về.

Này Anan! Ông hãy xem các tướng biến hoá này, nay tôi đều trả về bản nhân của nó. Thế nào là bản nhân? Anan! Các tướng biến hoá này, sáng trả về cho mặt trời. Vì nguyên nhân cái sáng thuộc về mặt trời. Cái tối trả về cho đêm không trăng, thông suốt trả về cho cửa, ngăn bít trả về cho tường vách, sắc duyên trả về cho phân biệt, trống rỗng trả về cho hư không, mù mịt trả về cho bụi, trong sáng trả về cho trời tạnh. Tất cả vật có trong thế gian đều không ngoài các thứ này.

e) Chính chỉ cái không thể trả về

Còn tính thấy sáng suốt của ông thấy tám thứ kia, ông muốn trả về đâu? Vì sao? Vì nếu trả về cho sáng thì đến tối chẳng thấy tối. Tuy sáng tối mỗi đều sai khác, nhưng cái thấy không sai khác. Các thứ có thể trả về được tất nhiên chẳng phải ông. Cái ông không thể trả về được, nếu không phải là ông thì gọi là gì? Ắt biết tâm ông nhiệm mầu thanh tịnh sáng suốt mà ông tự mê muội, bỏ mất tính bản nhiên, đành chịu luân hồi, thường bị trôi nổi chìm đắm trong sinh tử. Thế nên Như Lai nói là đáng thương xót vậy.

Đoạn XI

Lựa riêng trần cảnh để nêu ra tánh thấy

Tiết 1 - Vật không phải ta.

Anan thưa: “ Con tuy biết tánh thấy này không thể trả về đâu, nhưng làm sao mà biết nó là Chân tính của con?”

Phật bảo Anan: “Nay tôi hỏi ông, hiện nay ông chưa được quả Vô Lậu Thanh Tịnh, do nương theo oai thần của Phật mà thấy được cõi Sơ Thiền không bị chướng ngại, Ông A Na Luật Đà thì thấy cõi Diêm Phù Đề như xem trái yên ma la để trong bàn tay, các vị Bồ Tát..v.v.. thấy cả trăm ngàn thế giới. Mười phương Như Lai đều thấy cùng tận các cõi nước thanh tịnh như số vi trần không sót chỗ nào, còn chúng sanh xem chẳng quá gang tấc.

* Đức Phật miêu tả khả năng nhận biết khác nhau trong điều kiện phương tiện nhận biết khác nhau. Các từ như: “Diêm phù đề”, “mười phương cõi nước”... là những thí dụ.

Anan! Nay tôi với ông cùng xem cung điện của Tứ Thiên Vương, ở khoảng giữa xem những vật dưới nước, trên mặt đất và trong hư không (thuỷ lục không hành), tuy có nhiều hình tượng sáng tối khác nhau, nhưng đều là cảnh tiền trần phân biệt ngăn ngại. Ông hãy ở nơi đó phân biệt cái gì là mình, cái gì là vật? Nay tôi cho ông lựa trong cái thấy, cái gì là Tâm Thể của ông (ngã thể), cái gì là hình tượng của sự vật? Anan, cùng tột sức thấy của ông từ mặt trời, mặt trăng, chính là vật chẳng phải ông, cho đến Thất Kim Sơn xem xét cùng khắp, tuy có những thứ hào quang cũng là vật chẳng phải ông, lần lần xem đến mây kéo, chim bay, gió động, bụi dày, cây cối, núi sông, rau cỏ, người, thú thảy đều là vật chứ chẳng phải ông.

Tiết 2- Hiển bày tánh thấy chẳng phải vật

Anan! Tánh chất của các vật xa gần tuy có sai khác, nhưng đều là vật do tánh thấy trong sạch của ông xem thấy. Vậy các vật kia tự có sai khác, mà tánh thấy của ông không sai khác. Tánh thấy sáng suốt nhiệm mầu này quả thật là tánh thấy của ông. Nếu tánh thấy là vật thì ông cũng có thể thấy được cái thấy của tôi, vậy khi tôi không thấy, sao ông không thấy chỗ không thấy của tôi? Nếu ông không thấy được cái không thấy của tôi, thì cái thấy bản nhiên không phải là vật, sao lại không phải là ông?

Qua đoạn trích dẫn trên, Đức Phật đã chỉ ra rằng:

1) Tất cả mọi trạng thái ý thức – suy nghĩ, tiềm thức... đều có thuộc tính vật chất (vận động tương tác), tính thấy là cái nhận thức được tất cả những cái đó. Vấn đề còn lại là phương tiện nhận biết (khả năng tư duy hay phương tiện tự tạo hoặc sẵn có như giác quan...)

2) Tính thấy? Phi vật chất, nhưng là một thực tại có từ vô thuỷ đến vô chung, không sanh diệt, không không gian, không thời gian (Không ở trong ông Anan và cũng không ở trong Đức Thích Ca... “Chúng sinh đều có Phật tính”. (Đoạn sau Đức Phật chỉ rõ hơn điều này).

Tính thấy là một thực tại và có khả năng phân biệt:

“...Như thế cho đến cái phân biệt đều không, chẳng phải sắc, chẳng phải không, mà bọn Câu Xá Lỵ... lầm là Minh Đế. Nếu rời các pháp trần cũng không có tánh phân biệt thì tâm tính của ông đều có chỗ trả về, vậy lấy cái gì làm chủ?”.

Tính phân biệt Đức Phật nói ở đây là khả năng của tính thấy chứ không phải là sự phân biệt trong tính thấy. Tính thấy là một thực tại không có phân biệt: Không Âm không Dương, tự nhiên như có từ vô thủy, trước Bigbang.

Tiết 3- Chỉ rõ vật và ta không lẫn lộn

Đức Phật nói: “Lại như cái thấy là vật thì đương khi ông thấy vật đó, ông đã thấy được vật, thì vật cũng thấy được ông. Thế thì thể tánh xen lộn, ông và tôi cùng các thế gian không thành lập được. “Anan, nếu khi ông thấy thì chính ông chứ chẳng phải tôi, tánh thấy trùm khắp đó chẳng phải ông chứ ai? Tại sao tự nghi Chân tánh của ông. Tánh của ông mà ông chẳng tự nhận lấy, lại cầu tôi chỉ dùm cho ông?”

* Đến đây cho thấy, Đức Phật đã chỉ ra rằng: Tất cả sự hiện hữu có thể tính (vật chất: nhỏ như hạt quak hoặc nhỏ hơn mà nhân loại có thể tìm ra trong tương lai) và mọi thuộc tính của nó đều là đối tượng của tính thấy và không phải tính thấy. Tính thấy phi vật chất nhưng là một thực tại. Nếu tính thấy là vật thì sẽ phải có cái thấy được của nó. Bởi vậy, Đức Như Lai nói: “Thể tính xen lộn, ông và tôi cùng các thế gian không thành lập được”. Ngài chỉ ra tính bất hợp lý của sự suy nghiệm không thể tự chứng được bản ngã (Nếu bạn tu tập); hoặc không thể có một lý thuyết khoa học nào có thể tồn tại trên tính phi lý, (Nếu bạn là nhà nghiên cứu khoa học). Nhưng khi chứng tỏ rằng: tính hợp lý là điều kiện nhận biết thì chúng ta đã thừa nhận tính quy luật của tất cả mọi sự kiện, kể cả trong lĩnh vực tiên tri. Đây là yếu tố tạo thành ý niệm Định mệnh. Câu minh giảng của Đức Phật Như Lai: “...Ông và tôi cùng các thế gian không thành lập được” còn cho chúng ta thấy: Đức Phật không cho rằng Ngài là những người sáng tạo vũ trụ, mà chỉ là một người sinh ra trong sự vận động của vũ trụ nhưng giác ngộ được “Vô thượng chánh đằng giác”. Điều này khác hẳn quan niệm của Hegen khi cho rằng: Vũ trụ này được tạo ra bởi “ý niệm tuyệt đối” hoặc của Jean Guitton cho rằng: “Chính Thượng Đế đã tạo ra vũ trụ ở giây 0 trước Bigbang và những qui luật vũ trụ hiện nay là ý muốn của ngài”, trong cuốn “Thượng Đế và Khoa học”. Đây cũng là điểm rất căn bản và đáng chú ý trong minh triết và huyền thoại Đông phương: Thượng Đế thuộc thần thoại Đông phương là người cai quản vũ trụ, nhưng không sáng tạo ra vũ trụ.

Tiết 5 - Chỉ tiền trần làm ngăn ngại

a) Dụ đồ vật và hư không
Phật bảo Anan: “Tất cả các thứ trong ngoài lớn nhỏ ở thế gian đều thuộc về tiền trần, chẳng phải tính thấy co giãn. 
Tỷ như món đồ vuông, trong ấy thấy hư không vuông. Nay tôi lại hỏi ông: Trong món đồ vuông này, nhìn thấy hư không vuông là nhất định vuông hay không nhất định vuông? Nếu không nhất định, thì khi ở trong món đồ vuông, đáng lẽ hư không chẳng vuông. Ông nói nghĩa tính này thế nào. Nghĩa tính là như thế sao còn hỏi là thế nào?”
b) Bỏ đồ vật trong vuông tròn
Anan! Nếu muốn được tính không vuông tròn của hư không thì chỉ cần trừ bỏ cái vuông tròn của đồ vật, sẽ biết thể của hư không vốn không vuông tròn. Không nên hiểu là phải bỏ cái tướng vuông tròn của hư không.

* Đức Phật lấy hư không làm hình tượng ví dụ cho thấy thể tính tiền trần là nguyên nhân ngăn ngại của phương tiện nhận biết. Thời xưa thì các giác quan hoặc kinh nghiệm (Mây đen thì mưa chẳng hạn...) và khả năng tư duy vốn có thuộc tính vật chất như đã tường ở trên chứ tính thấy không có ngăn ngại. Hư không trong trường hợp này chỉ là thí dụ cho tính thấy và không phải tính thấy (Đã tường ở trên: Nếu tính thấy là cái không so với cái có không còn, cái không cũng không tồn tại. Điều này hiển nhiên là phi lý. Tính thấy là một thực tại).

Đức phật nói: “Nếu như ông hỏi: Khi vào nhà thấy rút nhỏ lại. Vậy khi ngước xem mặt trời, há ông kéo cái thấy dãn ra ngang với mặt trời ? Nếu bị tường vách ngăn ép thì tánh thấy bị đứt đoạn, vậy khi soi một lỗ nhỏ sao không thấy dấu nối? Nghĩa ấy không đúng! Tất cả chúng sinh từ vô thủy đến nay, mê mình là vật, bỏ mất bản tâm (Chân tâm sẵn có: Tính thấy), bị vật xoay chuyển, nên trong ấy lại xem có lớn nhỏ. Nếu chuyển được vật tức đồng Như Lai. Thân tâm tròn sáng chẳng rời nơi đạo tràng. TRÊN ĐẦU MỘT MẢY LÔNG CÓ THỂ CHỨA ĐỰNG CẢ MƯỜI PHƯƠNG CÕI NƯỚC.”

* Câu “Trên đầu một mảy lông có thể chứa đựng cả mười phương cõi nước” là một câu nói nổi tiếng của Đức Như Lai. Tính thấy vô lượng, vô biên, không không gian, không thời gian, không lượng số. Chính là Thái Cực, chính là Đạo: “Đón không thấy đầu, theo không thấy đuôi, ở trên không sáng ở dưới không tối” (Đạo Đức Kinh), là sự khởi nguyên của vũ trụ với giá trị = |0|. So với cái vô cùng (|0|) mọi cái hữu hạn - “Mười phương cõi nước” đều nhỏ bé. Thái cực là một khái niệm giải thích sự khởi nguyên của vũ trụ theo thuyết Âm Dương Ngũ hành là giây |0| trước Bigbang chính là chiếc bánh Dầy của văn minh Lạc Việt, chính là “Mẹ tròn” trong câu tục ngữ nổi tiếng “Mẹ tròn con vuông” của người Việt Nam. Nhưng Thái cực là gì, tất nhiên không phải là vô cực như Chu Hy nói. Bởi vì, nếu có một sự tồn tại gọi là Vô Cực đối đãi với Thái Cực thì chính sự đối đãi này đã phân Âm Dương; Cần gì phải nói “Thái Cực sinh Lưỡng Nghi” (Âm Dương) nữa. Đó chính là lý do mà Giáo sư Nguyễn Hữu Lượng cho rằng: "Hiền tài như Chu Tử mà cũng chẳng tránh khỏi quanh co khúc thuyết...” (Kinh Dịch với vũ trụ quan Đông phương). Chúng ta tiếp tục quán ngộ lời minh giảng của Đức Như Lai về tính thấy để rõ thêm về điều này.

MỤC III: Nân tánh thấy ra ngoài nghĩa phải và chẳng phải

Đoạn I - Nghi cái thấy hiện ở trước mắt

Ông Anan bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, nếu tánh thấy này nhất định là tánh nhiệm mầu của con, thì diệu tánh đó phải hiện ở trước mắt con, cái thấy đó hẳn thật là con, vậy thân tâm con hiện này là vật gì?
Nhưng hiện nay thân tâm con thật có phân biệt, còn cái thấy kia không phân biệt được thân con. Nếu thật là tâm con, khiến cho con hiện nay có thấy, vậy tánh thấy ấy thật là con, còn thân tâm này không phải con, thì khác nào trước kia Đức Như Lai gạn hỏi: “Vật hay thấy được con”. Cúi mong Đấng Đại Từ chỉ bày cho chỗ chưa ngộ”.

Trong đoạn này, ông Anan cho rằng: Cái thấy ở bên ngoài thân tâm (Vì nhìn thấy vật thể bên ngoài thân tâm: Trời, trăng, mây, nước...). Sự sai lầm trong nhận thức này khiến ông thắc mắc: Cái thấy trong tâm ông và cái thấy mà ông cho rằng ở bên ngoài, cái nào là thật tính?
Khái niệm thân tâm mà ngài Anan dùng ở đây, có thể hiểu là tâm ở trong thân, đối đãi với Tính thấy mà ngài cho ở ngoài thân. Ngài Anan đã nhầm lẫn giữa phương tiện nhận biết có thuộc tính vật chất: tương tác vận động, tư duy, khả năng nhận thức.. được cấu tạo và vận động tương tác trong thân thể con người và sinh vật với đối tượng nhận biết là tính thấy. Bởi vậy, khi ngài cho rằng: Tính thấy- tính nhận biết ở bên ngoài thì phải nhận biết thân tâm của ngài. Thực ra tính thấy hằng có thường tồn, bao trùm tất cả, không ở trong, không ở ngoài. Nhưng trong cơ thể sinh vật, nó hiển thị qua phương tiện nhận biết có trong cấu trúc cơ thể. Riêng ở con người thì phương tiện nhận biết còn do tự tạo.

Đoạn II: Chỉ ra “ Không có cái gì tức là cái thấy” 

Tiết 1 - Nêu tướng để gạn hỏi cái thấy

Phật bảo Anan: “Nay ông nói cái thấy ở trước mặt ông, nghĩa ấy không đúng! Nếu thật ở trước mắt ông và ông thật thấy, thì tánh thấy này đã có chỗ nơi đều chỉ ra được. Vậy nay tôi cùng ngồi trong rừng Kỳ Đà xem khắp rừng suối, nhà cửa; phía trên đến mặt trời, mặt trăng, phía trước là sông Hằng.. ..Nay ông ở trước toà sư tử của tôi, hãy đưa tay chỉ rõ các thứ tướng ấy: chỗ mát là rừng cây, chỗ sáng là mặt trời, chỗ ngăn lại là vách, chỗ thông suốt là hư không, như thế cho đến cỏ cây mảy mún lớn nhỏ tuy có sai khác, nhưng đã có hình tướng đều có thể chỉ ra được. Nếu nhất định cái thấy kia hiện trước mắt ông, ông nên lấy tay chỉ rõ cho chính xác cái nào là cái thấy? Anan, ông nên biết, nếu như hư không là cái thấy thì đã thành cái thấy rồi, cái gì là hư không? Nếu vật là cái thấy, đã là cái thấy thì cái gì là vật? Ông nên chín chắn phân tích trong muôn vật lựa ra tánh thấy sẵn có sáng suốt thanh tịnh nhiệm mầu để chỉ rõ cho tôi, cùng các vật kia một cách rõ ràng không lầm lẫn”. 

Tiết 2 - Đáp không phải cái thấy

Anan thưa: “Nay con ở trong giảng đường này, nhìn xa thấy sông Hằng, trên thấy mặt trời, mặt trăng, đưa tay chỉ ra, dẫu dùng mắt nhìn xem chỗ chỉ ra được đều là vật không phải là cái thấy.
Bạch Thế Tôn, đúng như lời Phật vừa dạy, chẳng những hàng Thanh Văn sơ lược hữu lậu chúng con, cho đến Bồ Tát cũng không thể đối trước hiện tượng của muôn vật vạch ra được cái thấy, rời tất cả vật riêng có Tự tánh”.
Phật nói: “ Đúng thế! Đúng thế!”.

* Qua đoạn trích cho thấy Đức Phật chỉ ra rằng: Cái thấy không phải vật (Tất cả dạng tồn tại của vật chất từ siêu hạt đến thiên hà khổng lồ, mà nhân loại đã tìm ra hoặc sẽ tìm ra trong tương lai, cùng với những thuộc tính của nó). Tính thấy là một thực tại: Riêng có tự tính.

Đoạn III - Chỉ ra không có cái gì ngoài cái thấy
(Vạn vật trong cái thấy - người viết)

Tiết 1- Nói cái không phải để đổi lại gạn hỏi cái gì chẳng phải cái thấy.

Phật lại bảo Anan: “Như ông đã nói, không có cái thấy rời tất cả vật riêng có tự tánh, thì trong tất cả vật ông đã chỉ ra được, chỉ là vật chứ không phải là cái thấy. Nay tôi lại hỏi ông? Ông cùng Như Lai ngồi trong Kỳ Đà lại xem vườn rừng, cho đến mặt trời, mặt trăng, các thứ hình tượng sai khác, nhất định không có cái thấy mà ông có thể chỉ ra được. Ông hãy phát minh trong các vật này cái gì chẳng phải là cái thấy?”

Tiết 2 - Đáp không cái gì chẳng phải cái thấy.

Anan thưa: “Con thật xem khắp khu rừng Kỳ Đà này chẳng biết trong ấy cái gì chẳng phải là thấy. Vì sao? Nếu cây chẳng phải cái thấy thì làm sao thấy được cây? Nếu cây là cái thấy thì sao gọi là cây? Như thế cho đến nếu hư không chẳng phải là cái thấy thì làm sao thấy được hư không? Nếu hư không là cái thấy thì sao gọi là hư không? Con lại suy nghĩ, trong muôn vật đây chín chắn phát minh, không có cái gì chẳng phải cái thấy”.
Phật nói: “Đúng thế! Đúng thế”.

* Đoạn trước, ngài Anan chấp tính thấy ở ngoài thân thể ngài, Đức Phật đã phản bác. Nay Đức Phật lại hỏi có cái gì không có tính thấy trong muôn vật ở trước mặt. Ngài Anan ngộ ra rằng: Tính thấy có trong muôn vật, kể cả hư không. Bởi vì tính thấy phải bao trùm vạn vật, có trong vạn vật: Nhỏ như vi trần, lớn như thiên hà thì các phương tiện mới thấy được (Phương tiện bao gồm cả ánh sáng...). Nếu tính thấy không bao trùm tất cả thì mọi sự tương tác có thuộc tính... vật chất đều vô nghĩa. Đây cũng là điều đã được nhắc tới trong Kinh Dịch: “ Dịch lớn thay! Rộng thay! ở xa thì đến tận cùng vũ trụ. ở gần thì tĩnh mà chính. Trong khoảng trời đất thì bao trùm tất cả”.

Đoạn IV
Ngài Văn Thù thỉnh Phật phát minh hai nghĩa.

Tiết 1- Đại chúng lo sợ.

Khi ấy trong đại chúng những vị chưa chứng quả vô học nghe Phật nói lời này đều mờ mịt chẳng biết nghĩa ấy trước sau thế nào, nên đều lo sợ mất chỗ bình thường.

* Sở dĩ mọi người sợ hãi chính vì chưa chứng quả vô học. Nói theo ngôn ngữ hiện đại tức là không có tinh thần khoa học thực sự. Chưa thực sự ngộ ra rằng những điều ta biết rất nhỏ bé trong biển trí mênh mông, cho nên gặp một cái khác thường với tư duy cố hữu thì hoang mang sợ hãi. Điều này giống như người phát minh ra trái đất tròn thì bị phản đối. Bởi vì trái đất vuông đã trở thành nếp nghĩ cố hữu. Nếp nghĩ này nó cân đối với tri thức hạn hẹp, nhưng phổ biến thời bấy giờ. Nay trái đất tròn thì người ở phía dưới rơi đi mất thì sao? Nhưng thực tại trái đất tròn trong điều kiện kiến thức thời đại trái Đất vuông – có cái hợp lý với chính nó là lực hút của trái Đất và lực hấp dẫn của các thiên thể – mà người thời đó không nhận ra được. Cái không nhận ra được những tính chất hợp lý liên quan mà chỉ thấy hiện tượng khác biệt với tư duy cố hữu, chính là quả vô học. Đức Như Lai đã dạy: “Những điều ta nói chỉ như nắm lá trên bàn tay của ta. Nhưng tri kiến như lá cây trong rừng”.

Tiết 2 - Phật nói lời thật để an ủi

Đức Như Lai biết đại chúng lo sợ, nên sinh lòng thương xót, liền an ủi ông Anan và cả chúng rằng: “Các Thiên nam tử ! Đấng Vô Thượng Pháp Vương nói lời chân thật, như tánh Chân Như mà nói, đều chẳng hư dối, chẳng phải như bọn Mạt Già Lê dùng bốn thứ luận nghị “kiểu loạn bất từ”. Ông nên chín chắn suy nghĩ, chớ phụ lòng thương mến của tôi!”.

Tiết 3- Ngài Văn Thù thỉnh Phật phát minh

Khi ấy, Ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử thương xót bốn chúng, ở trong đại chúng từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật chấp tay cung kính bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Đại chúng đây không nhận được chỗ Đức Như Lai phát minh hai nghĩa “phải và chẳng phải”, (thị phi thị) nơi hai thứ “cái thấy” và “sắc không”.
Bạch Thế Tôn! Các hiện tượng sắc không....nơi tiền cảnh, nếu là cái thấy thì đáng lẽ có chổ chỉ ra được, nếu chẳng phải là cái thấy thì đáng lẽ không thể thấy. Mà nay chẳng biết nghĩa này về đâu nên mới có lo sợ, chứ chẳng phải vì trước đây căn lành mỏng ít. Cúi mong Đức Như Lai mở lòng đại từ chỉ rõ các vật hiện tượng này và cái thấy nguyên là vật gì mà trong ấy không có cái “phải” và “chẳng phải”.

Đoạn V: Chỉnh chỉ cái thấy không có cái “phải “ và “chẳng phải”.

Tiết 1 - Hội chung kiến và tương nguyên là bồ đề.

Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi và cả đại chúng: “Mười phương
Như Lai và Đại Bồ Tát khi tự trụ trong chánh điện kia, cái thấy và cảnh bị thấy cùng với các tướng tưởng đều như hoa đốm giữa hư không vốn không thật có. Cái thấy và cảnh bị thấy này (duyên), nguyên là thể giác ngộ nhiệm mầu thanh tịnh sáng suốt. Cớ sao trong ấy lại có cái nghĩa “phải” và “chẳng phải”.

Tiết 2- Phật dạy ngài Văn Thù để tiêu biểu không hai tướng

Đức Phật hỏi: “Này Văn Thù!Nay tôi hỏi ông! Như ông là Văn Thù, lại có Văn Thù phải chăng Văn Thù hay không Văn Thù?”.
“Đúng như thế, bạch Thế Tôn! Con nay thật là Văn Thù, không có phải là Văn Thù. Vì sao? Vì nếu có phải là Văn Thù thì có hai Văn Thù. Song con hiện nay chẳng phải là không Văn Thù, trong ấy thật không có hai tướng “phải” hay “chẳng phải”.

* Qua đoạn trích trên, Ngài Văn Thù Sư Lợi đã chỉ ra tính biểu kiến, qui ước của thế nhân quán xét tiền trần, thực tại đang hiện hữu trong nhận thức của con người. Nếu ngài Văn Thù không phải là Văn Thù thì còn ai vào đây? Cũng như tôi thì đúng là tôi không thể là ông hàng xóm. Nhưng đấy chỉ là tính quy ước, biểu kiến trong quán xét của thế nhân. Cái “tôi” đích thực với tất cả sự minh triết của nó không thể chỉ ra được, mà chỉ là sự tổng hợp những cái của tôi do nguyên nhân giả hợp tác thành (Kể cả tư duy...) Bởi vậy, nếu khẳng định “Văn Thù là Văn Thù” thì chỉ mang tính qui ước, biểu kiến cho một thực tế hiện hữu. Chính ngài Văn Thù qui ước, biểu kiến trên một thực tại xác thân đó với tính thấy trong ngài sẽ nhận ra ngài. Bởi vậy, xét về ý nghĩa minh triết: Nếu khẳng định Văn Thù thì sẽ có hai Văn Thù: Một Văn Thù thân xác qui ước/ biểu kiến và một Văn Thù (tính thấy thông qua phương tiện nhận biết trong cấu trúc thân xác của ngài Văn Thù) nhận ra Văn Thù kia. Nếu bảo |KHÔNG PHẢI| Văn Thù thì không đúng - so với tính qui ước/ biểu kiến thành thói quen của thế nhân với một thực tại đang hiện hữu. Nhưng nếu bảo |PHẢI| thì sẽ không đúng với tính minh triết của nhận thức và tính phát triển của nó. Đó chính là lý do thứ nhất – có tính khách quan – từ một sự quán xét bên ngoài, mà đối tác của sự quán xét đó chính là ngài Văn Thù. Từ đó: ngài Văn Thù nói: “Trong ấy, thật không có hai tướng phải hay chẳng phải”.
Lý do thứ hai – mang tính chủ quan – Khi ngài Văn Thù tự quán xét mình thì không thể trả lời ta chính là ta hay không phải ta. Ngài Văn Thù lúc này là duy nhất đối với chính ngài Văn Thù. 
Bởi vậy, khi TÍNH THẤY là duy nhất và bao trùm tất cả không gian, thời gian là một thực tại riêng có tự tính, là cái nhận biết tất cả mọi sự vận động và tương tác của vật chất: Từ những siêu hạt nhỏ nhất mà loài người đã và sẽ tìm ra, từ vô cơ đến hữu cơ, từ sinh vật bậc thấp đến sinh vật bậc cao, cho đến những thiên hà khổng lồ và cả sự vận động của vũ trụ bao la thì ở trong đó không thể chỉ ra cái |PHẢI| hay |KHÔNG PHẢI| chính nó. Tương tự như ngài Văn Thù không tự chỉ ra |PHẢI| hay |KHÔNG PHẢI| Văn Thù.

Tiết 3- Chính phát minh tánh thấy đã chỉ ra nghĩa “Phải” hay “chẳng phải”.

Phật dạy: “Tánh thấy nhiệm mầu sáng suốt này, cùng với hư không và tiền trần cũng lại như vậy. Vốn là chân tâm giác ngộ vô thương thanh tịnh tròn sáng nhiệm mầu, mà vọng làm ra sắc, không và thấy nghe. Ví như (người dụi mắt thấy) mặt trăng thứ hai thì cái nào phải mặt trăng, cái nào không phải mặt trăng? Nầy Văn Thù, chỉ có một mặt trăng thật, trong ấy không có phải mặt trăng hay không phải mặt trăng.
Thế nên hiện nay ông xem cái thấy và trần cảnh, các thứ phát minh đều gọi là vọng tưởng, Không thể ở trong ấy chỉ ra nghĩa |PHẢI| VÀ |CHẲNG PHẢI|. Tánh Giác sáng suốt nhiệm mầu ấy, hay khiến cho ông ra ngoài nghĩa “chỉ ra được hay chẳng chỉ ra được”.

Đoạn trích dẫn trên cho thấy: Khi cái CÓ ra đời thì mới có sự đối đãi với cái KHÔNG. Nhưng trước cái có thì không thể bảo là KHÔNG. Nếu trước cái CÓ là cái KHÔNG thì làm sao CÓ. Đó chính là cái lý “Thái Cực sinh lưỡng nghi”, Âm Dương trong Dịch vậy. Khi Thái Cực – Cái tuyệt đối (|0|) chưa phân Âm Dương (Giây 0 trước Bigbang) thì không thể lấy cái CÓ/KHÔNG để phân biệt. Tức là “Không thể ở trong ấy chỉ ra nghĩa phải và chẳng phải”. Đây chính là ý nghĩa “Mẹ tròn/ Con vuông” trong Minh Triết Lạc Việt, được biểu tượng trong chiếc bánh chưng, bánh dầy. Mẹ tròn là cái có trước nên gọi là Mẹ, thuộc Dương–khi phân Âm Dương–sinh con vuông thuộc Âm cái có sau. Do đó, trong nguyên lý Âm dương thì Âm phải Động và Dương phải tịnh, khác hẳn quan niệm cố hữu từ hàng ngàn năm nay trong cổ thư chữ Hán cho rằng: Dương động/Âm tịnh. Thế giới/ Vũ trụ chúng ta đang sống là cái có sau kể từ khởi nguyên vũ trụ (Thái cực là cái có trước) nó đang vận động chính là một minh chứng cho Âm Động. Nếu từ nguyên lý Âm tịnh trong cổ thư chữ Hán thì thế giới không hình thành theo thuyết: “Thái Cực sinh lưỡng nghi” Linh diệu thay! Đây chính là sự minh triết của chiếc Bánh chưng, Bánh Dầy với “Mẹ tròn con vuông” thuộc về nền văn minh Lạc Việt: Nguyên lý của một lý thuyết thống nhất vũ trụ mà những nhà khoa học hàng đầu đang mơ ước.

Mục IV:
Bác thuyết nhân duyên, tự nhiên để hiện bày nhận thấy thật tướng của tánh thấy

Đoạn I: Nghi tánh giác đồng với tự nhiên như thần ngã

Ông Anan bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, thật như Đấng Pháp Vương đã nói, tánh Giác duyên khắp mười phương cõi nước vắng lặng thường trụ, tánh Giác ấy chẳng sanh chẳng diệt.
(Điều ấy) so với thuyết của Phạm Chí Ta Tỳ Ca La ngày xưa nói về Minh Đế, hay các thuyết ngoại đạo như Đầu hôi.... nói có chơn ngã đầy khắp cả mười phương có gì sai khác? Ở núi Lăng Già, Thế Tôn cũng từng vì ngài Đai Huệ..v.v.. giảng rộng nghĩa nầy: bọn ngoại đạo kia thường nói tự nhiên, còn tôi (Phật) nói nhân duyên chẳng phải cảnh giới của ngoại đạo kia.
Nay con xét kỹ tánh giác này tự nhiên, chẳng sanh, chẳng diệt, xa lìa tất cả hư vọng, điên đảo, in tuồng chẳng phải nhân duyên mà cùng với thuyết tự nhiên của ngoại đạo kia. Xin Thế Tôn chỉ dạy thế nào để chúng con khỏi rơi vào các tà kiến được Tâm Tánh Chân Thật Giác Ngộ trong sạch nhiệm mầu sáng suốt”.

Đoạn II Chỉ ra chẳng phải tự nhiên

Phật bảo Anan: “ Nay tôi dùng phương tiện chỉ dạy như thế, chân thật bảo ông mà ông còn chưa ngộ, là cho là tự nhiên. Anan, nếu nhất định là tự nhiên, thì ông phải xét rõ cái thế tự nhiên.
Anan! Ông hãy xét trong tánh thấy sáng suốt nhiệm mầu nầy, lấy cái gì làm tự thể? Hay lấy tối làm tự thể? Lấy hư không làm tự thể hay lấy ngăn bít làm tự thể? Anan! Nếu lấy sáng làm tự thể thì đáng lẽ (khi tối đến) chẳng thấy tối. Nếu lại lấy hư không làm tự thể, thì đáng lẽ chẳng thấy ngăn bít. Như thế cho đến lấy các tướng tối không làm tự thể, thì khi sáng Tánh thấy phải diệt mất, làm sao thấy sáng?”.

Khi Thái Cực (Tính Thấy/ Tính nhận biết/ Mẹ tròn/ Bánh Dầy – cái có trước). Vì Tuyệt đối nên sinh cái tương đối (So với nó). Vì chí Tịnh nên Động. Tịnh/Động phân biệt nên Thái Cực / Tính Thấy/ Mẹ tròn – Cái tuyệt đối/ Cái có trước, đối đãi thành Âm/ Dương. Thái Cực vốn KHÔNG PHẢI KHÔNG/ KHÔNG PHẢI CÓ, KHÔNG ĐỘNG/ TỊNH trở thành Dương khi cái có đối đãi với nó, tức là khi có cái Động Âm ra đời, Con Vuông- bánh chưng. Khi Đông/ Tịnh – Âm / Dương phân biệt tương tác/ đối đãi thành vũ trụ như hiện nay. Bởi vậy tất cả những cái gì chúng ta đã thấy hoặc sẽ thấy đều chỉ nằm trong thế giới tự nhiên đối đãi/ tương đối này. Do đó, nếu chúng ta lấy bất cứ một thực thể nào làm tự thể (Cái thấy/ Tính thấy) sẽ là sự phủ định cái đối đãi với nó.

Đoạn III: Nghi nhân duyên.

Ông Anan thưa: “Tánh thấy nhiệm mầu này chắc chẳng phải là tự nhiên. Nay con xét thấy là nhân duyên sinh, nhưng tâm vẫn còn chưa rõ. Xin hỏi Đức Như Lai nghĩa ấy thế nào cho hợp với tánh nhân duyên?”

Đoạn IV: Chỉ ra tánh thấy không phải nhân duyên và kết luận tánh thấy rời khỏi danh tướng.

Phật bảo: “Ông nói nhân duyên, tôi lại hỏi ông: Nay ông nhân thấy, Tánh thấy hiện tiền. Vậy cái thấy này nhân nơi sáng mà có thấy, hay nhân nơi tối mà có thấy, nhân nơi hư không mà có thấy, hay nhân nơi bít lấp mà có thấy? Này Anan, nếu nhân nơi sáng mà có, thì đáng lẽ chẳng thấy được tối. Như nhân nơi tối mà có, đáng lẽ chẳng thấy được sáng. Như thế cho đến nhân nơi hư không, nhân nơi ngăn bít cũng đồng như sáng và tối. 
Lại nữa Anan! Cái thấy này lại duyên nơi sáng mà có thấy, hay duyên nơi tối mà có thấy? Duyên nơi hư không mà có thấy, hay duyên nơi bít lấp mà có thấy? Anan! nếu duyên nơi hư không mà có, đáng lẽ chẳng thấy chỗ bít lấp. Nếu duyên chỗ bít lấp mà có, đáng lẽ chẳng thấy hư không. Như thế, cho đến duyên nơi sáng, duyên nơi tối cũng đồng như hư không và bít lấp. Phải biết tánh thấy nhiệm mầu sáng suốt này chẳng phải nhân, chẳng phải duyên, cũng chẳng phải tự nhiên, chẳng phải chẳng tự nhiên, không có cái chẳng phải (phi) và chẳng chẳng phải (bất phi), không có cái phải (thị) và không phải (phi thị), rời tất cả các tướng, tức tất cả pháp (sự vật). Nay ông làm sao ở trong ấy lầm đem các danh tướng lý luận thế gian mà dùng tâm phân biệt được? Như lấy tay chụp bắt hư không chỉ thêm tự nhọc, hư không làm sao để cho ông nắm bắt!”

Đoạn V: Lại nghi nhân duyên

Ông Anan bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, Tánh Giác nhiệm mầu này nhất định chẳng phải nhân, chẳng phải duyên. Tại sao Đức Thế Tôn thường chỉ dạy các thầy Kỳ Kheo: Tánh Thấy có đủ bốn thứ nhân duyên, nghĩa là nhân hư không, nhân ánh sáng, nhân tâm, nhân mắt. Nghĩa ấy thế nào?

Đoạn VI: Phật lại bác nhân duyên tự nhiên để nêu ra tánh thấy rời cả bốn tướng.

Phật bảo: “ Anan! Tôi nói các tướng nhân duyên trong thế gian, chứ chẳng phải nghĩa đệ nhất.
Anan! Nay tôi lại hỏi ông, các người trong thế gian nói “Tôi hay thấy”, thế nào gọi là thấy? thế nào là chẳng thấy?”
Anan thưa: “Bạch Đức Thế Tôn! Người trong thế gian có ánh sáng mặt trời, mặt trăng và đèn mà thấy các tướng, gọi là thấy. Nếu lại không có ba thứ ánh sáng này thì không thể thấy”.

“Này Anan! Nếu khi không có ánh sáng gọi là không thấy, thì đáng lẽ không thấy tối. Nếu thấy tối thì chỉ là không có ánh sáng, sao gọi là không thấy? Anan, nếu khi tối vì không thấy sáng mà gọi là không thấy, vậy nay trong lúc sáng không thấy tướng tối, lại cũng phải gọi là không thấy. Nếu hai tướng sáng tối tự lấn át nhau , thì tánh thấy của ông ở trong ấy không phải tạm không. Như thế, ắt biết cả hai đều gọi là thấy, tại sao nói là không thấy?
- Thế nên! Anan! Nay ông phải biết: Khi thấy cái sáng (Thì) cái
thấy không phải là sáng, khi thấy tối (thì) cái thấy không phải là tối, khi thấy hư không cái thấy không phải hư không, khi thấy bít lấp cái thấy không phải bít lấp.

Đoạn III: Chỉ thẳng thấy được thật tướng của tính thấy

Bốn nghĩa đó thành tựu, ông lại nên biết khi nhận thấy tánh thấy thì tánh thấy chẳng phải là cái thấy. Tánh thấy còn rời cái thấy và cái thấy còn không đến nơi cái thấy được.

Đoạn kinh văn trên lời dịch hơi trúc trắc thành khó hiểu. Có thể diễn đạt nội dung trên theo một lẽ khác như sau:

Bốn nghĩa đó (Hư không, ánh sáng, tâm, mắt) kết hợp thì tạo nên sự nhận biết. Nhưng Tính Thấy không phải sự nhận biết (Cái Thấy). Từ sự nhận biết đến chứng ngộ được Tính Thấy còn là một khoảng cách lớn lao (Người viết).

Làm sao ông còn nói nhân duyên tự nhiên và tướng hoà hợp. Các ông là hàng Thanh Văn hẹp hòi không biết, chẳng thể nào thông đạt được tướng thanh tịnh. Nay tôi dạy bảo, ông phải khéo suy nghĩ, không nên trễ nải trên đường giác ngộ nhiệm mầu.

* Đoạn kinh văn này Đức Phật giảng rõ hơn những yếu tố tương thích tác hợp (Nhân Duyên) để dẫn tới sự nhận thức (Cái Thấy) và Tính Thấy. Nhân duyên để có sự nhận biết gồm: Phương tiện nhận biết: Các giác quan và điều kiện nhận biết tương thích với phương tiện nhận biết, mà Đức Phật biểu tượng bằng bốn tướng phổ biến trong cuộc sống của gần 3000 năm trước là: Hư Không – để có sự phân biệt, ánh sáng – điều kiện nhận biết, tâm – Khả năng tư duy và nhận thức, mắt (giác quan) – Phương tiện nhận biết (Thời hiện đại phương tiện nhận biết còn là ĐTDĐ, Ti Vi, ống nhòm...). Tất cả những yếu tố này có thuộc tính vật chất và đối tượng của tính nhận biết (tính thấy). Bởi vậy, Đức Phật khẳng định không phải tính thấy.

Tính Thấy: Là một thực tại có tự tính từ vô thuỷ đến vô chung, không không gian không thời gian, không phải CÓ, không phải KHÔNG, là tính tuyệt đối |0|. Tất cả mọi sự vận động tương tác trong vũ trụ có thể tính đều là đối tượng của Tính Thấy và không phải Tính Thấy.

Nếu một người bay tận Cung Quảng Hàn, nghe thấy tiếng từ vạn dặm, nhìn thấu xuyên không gian thì có thể gọi là Thần, Nhưng không: Đấy chỉ là một phi công vũ trụ với phương tiện nhận biết khác người mà thôi. Trong cổ học Đông phương, cụ thể là trong kinh Dịch cũng nói đến hiện tượng khởi nguyên của vũ trụ là Thái Cực. Hoặc trong Đạo Đức Kinh nói đến sự khởi nguyên của vũ trụ là Đạo. Tất cả chỉ là những danh từ khác nhau chỉ một thực tại mà Đức Thích Ca đã minh giảng: Tính thấy. Đấy chính là sự diễn đạt sự khởi nguyên của một LÝ THUYẾT THỐNG NHẤT VŨ TRỤ sẽ nói rõ hơn ở phần sau.

Như vậy, để kết luận cho phần này, chúng ta từ một vấn đề được đặt ra: Tử Vi và tất cả những khoa dự đoán Đông phương–có phương pháp, có chuẩn mực, hệ thống và qui tắc nói chung–là những hiệu ứng vũ trụ tác động có tính qui luật lên con người và tạo nên khả năng tiên tri cho số phận con người thì điều kiện rất cần và đủ và rất nghiêm túc việc lý giải câu hỏi từ ngàn xưa của con người: “Định mệnh có thật hay không ?” sẽ là:
Những hiệu ứng đó có tác động lên trạng thái ý thức của con người hay không? Chúng ta đã đi tìm bản chất của ý thức trong sự tương tác với hiệu ứng vũ trụ- yếu tố quyết định để mở cánh cửa bí ẩn của Định Mệnh. Và đã tìm thấy trong sự minh giảng của Đức Thích Ca và trong những phát kiến thuộc về khoa học hiện đại: Ý thức có thuộc tính vật chất và tất yếu của nó phải chịu sự tương tác của vũ trụ. Nhưng Đức Thích Ca cũng chỉ ra một cứu cánh: Đó là bản tính Chân Như/ Tính Thấy có trong mỗi con người và vạn vật. 
Vi diệu thay! Một hình tượng tuyệt vời của trí tụê Lạc Việt trong “Truyện Cây Nêu”. Cây Nêu là một biểu tượng độc đáo của nền văn hiến Lạc Việt (Tất cả các nền văn hoá cận Lạc Việt về không/ thời gian lịch sử đều không có cây Nêu). Hình tượng cây Nêu phủ áo cà sa của Đức Phật che bóng khắp thế gian, đó là hình ảnh của lòng nhân ái và trí tuệ. Cây Nêu là một trong những biểu tượng của văn hoá Việt, trong sự che chở của Phật pháp từ bi qua những thăng trầm của lịch sử Lạc Việt.

Vòng luân hồi, nhân quả diễn đạt theo ngôn ngữ hiện đại chính là những qui luật vận động và tương tác có thuộc tính vật chất trong vũ trụ. Đức Thích Ca đã chỉ rằng: “ Không có định mệnh!” . Đây chính là lời kết luận cuối cùng cho câu hỏi: “Định mệnh có thật hay không?” và chưa phải là sự kết thúc cho đề tài này. Bởi vì sự kết luận của Đức Thích Ca và sự phủ nhận định mệnh của thế nhân khác rất xa về khoảng cách trí tuệ. Đức Thích Ca phủ nhận định mệnh vì ngài ngộ được tính tuyệt đối (Thoát khỏi luân hồi/ nhân quả; nói theo ngôn ngữ hiện đại là qui luật vận động tương tác.). Còn thế nhận phủ nhận định mệnh chỉ vì họ biết họ đang nghĩ gì và chẳng bao giờ tự hỏi rằng: “Tại sao con người lại biết được sự suy nghĩ của chính mình!”. Điều căn bản khác nhau nữa giữa sự kết lụân giống nhau này chính là: Những lời minh giảng của Đức Thích Ca đã chỉ ra điều kiện cần và đủ là phải có trí tuệ và tự chứng ngộ. Không có được sự chứng ngộ này thì con người vẫn đang sống trong thế giới của những qui luật tương tác và vận động của vũ trụ, nguyên nhân hình thành khái niệm Định mệnh. Thế giới ấy trong nhận thức của con người sẽ là: “Có hay không một Lý thuyết thống nhất?”. Nếu không tồn tại lý thuyết này trên thực tế thì sẽ không thể có những lời tiên tri và vấn đề đặt ra: “Định mệnh có thật hay không” sẽ hoàn toàn vô nghĩa, hay diễn đạt theo ngôn ngữ của Đức Thích Ca: “Chuyện lông rùa, sừng thỏ”. Có thể nói rằng: Cho đến những thập kỷ cuối của thế kỷ XX, ý niệm về một lý thuyết thống nhất mới được đặt ra. Các nhà khoa học hiện đại đang mơ ước.

“Tạo ra một lý thuyết thống nhất các định luật vũ trụ! Một siêu công thức bao trùm mọi định luật của thiên nhiên, hoàn toàn có thể giải thích được mọi sự kiện bao quanh con người, từ những hạt vật chất cực nhỏ đến những thiên hà khổng lồ”.

Nhưng liệu một lý thuyết như thế có tồn tại trên thực tế? (Còn việc tìm ra nó hay không lại là chuyện khác).Trong cuốn“Lược sử thời gian”, phần: “Lý thuyết thống nhất của vật lý học”, SW Hawking nhà vật lý thiên văn hàng đầu thế giới đã viết như sau:
“Mặt khác có thực tồn tại một lý thuyết như thế hay không? (Lý thuyết thống nhất. Người viết) Hay chúng ta đang chỉ săn đuổi một ảo ảnh? Có thể có ba khả năng:

1- Quả thực tồn tại một lý thuyết thống nhất hoàn chỉnh mà chúng ta một ngày nào đó sẽ phát minh ra, nếu chúng ta có đủ tài năng.
2- Không tồn tại một lý thuyết tối hậu của vũ trụ, chỉ tồn tại một chuỗi vô cùng các lý thuyết mô tả vũ trụ ngày càng chính xác.
3- Không tồn tại một lý thuyết nào về vũ trụ, các sự cố không thể tiên đoán vượt quá một thời gian hạn nào đó, chúng xảy ra một cách ngẫu nhiên, tuỳ tiện.
Với sự ra đời của cơ học lượng tử, chúng ta phải thừa nhận rằng các sự cố không thể được tiên đoán với độ chính xác hoàn toàn mà luôn tồn tại một độ bất định. Nếu muốn người ta có thể gán sự ngẫu nhiên đó cho sự can thiệp của Chúa, song đấy quả là một sự can thiệp kỳ lạ: không có một chứng cứ gì cho thấy can thiệp đó được định hướng đến bất kỳ một mục đích nào. Thực vậy, nếu có một mục đích, thì không còn là ngẫu nhiên nữa. Trong thời đại hiện nay, chúng ta đã loại bỏ hữu hiệu khả năng thứ ba bằng cách định nghĩa lại mục đích của khoa học: mục tiêu của khoa học là: xây dựng một bộ định luật có khả năng cho phép chúng ta tiên đoán có các sự cố chỉ trong giới hạn xác định bởi nguyên lý bất định.
Khả năng thứ hai, khả năng tồn tại một chuỗi vô cùng những lý thuyết ngày càng tinh tế, rất phù hợp với kinh nghiệm của chúng ta. Nhiều lần chúng ta đã tăng độ nhạy các phép đo và thực hiện nhiều loại thí nghiệm mới chỉ với mục đích phát hiện những hiện tượng mới không tiên đoán được bởi nguyên lý hiện có và để mô tả những hiện tượng đó chúng ta phải phát triển một lý thuyết tiên tiến hơn. Vì vậy không có gì đáng ngạc nhiên nếu thế hệ hiện tại các lý thuyết thống nhất phạm sai lầm khi khẳng định rằng không có điều gì căn bản mới xảy ra giữa năng lượng cỡ 100 GeVcủa lý thuyết thống nhất yếu điện tử và năng lượng cả ngàn triệu triệu GeV của lý thuyết thống nhất lớn. Đáng lý chúng ta phải hy vọng tìm ra nhiều tầng cấu trúc mới cơ bản hơn quak và êlectrôn hiện nay được xem như là những hạt “cơ bản”. Song dường như hấp dẫn có thể cung cấp một giới hạn cho chuỗi các “hộp trong hộp” đó. Nếu ta có một hạt với năng lượng lớn hơn cái gọi là năng lượng Planck, mười triệu triệu GeV (1 theo sau là 19 số không), thì khối lượng của nó có mật độ tập trung đến mức mà nó tự cô lập tách khỏi phần vũ trụ còn lại và biến thành một lỗ đen nhỏ. Như vậy dường như chuỗi các lý thuyết ngày càng tinh tế phải có một giới hạn khi chúng ta tiếp cận với những năng lượng ngày càng cao, và ắt phải có một lý thuyết tối hậu về vũ trụ. Lẽ dĩ nhiên, năng lượng planck là một quãng đường dài kể từ những năng lượng cỡ nghìn GeV mà hiện nay là năng lượng lớn nhất chúng ta có khả năng tạo ra trong phòng thí nghiệm. Chúng ta chưa vượt qua được hố ngăn cách đó trong một tương lai gần nhờ những máy gia tốc! Nhưng những giai đoạn sơ sinh của vũ trụ đã từng chứng kiến những năng lượng như vậy. Tôi nghĩ rằng có nhiều xác xuất may mắn là sự nghiên cứu những giai đoạn sớm của vũ trụ kết hợp với những đòi hỏi chặt chẽ của toán học sẽ dẫn chúng ta đến một lý thuyết thống nhất hoàn chỉnh trong giới hạn cuộc đời của nhiều người chúng ta. Nếu chúng ta thực sự tìm ra được một lý thuyết tối hậu về vũ trụ, thì điều đó có ý nghĩa như thế nào? Chúng ta không bao giờ có thể chắc chắn hoàn toàn rằng quả chúng ta đã tìm ra được một lý thuyết hoàn chỉnh. Song nếu lý thuyết chặt chẽ về mặt toán học và luôn đưa ra những tiên đoán phù hợp với quan sát, thì chúng ta có thể tin một cách hợp lý rằng đó là một lý thuyết đúng đắn. Nó sẽ kết thúc một chương dài và vinh quang trong lịch sử đấu tranh trí tuệ của con người để tìm hiểu vũ trụ. Đồng thời nó cũng cách mạng hoá sự hiểu biết các định luật vũ trụ của con người bình thường. Thời Newton một người có giáo dục rất có thể nắm được toàn bộ kiến thức của nhân loại, ít nhất là trong những nét cơ bản. Song sau đó nhịp độ phát triển của khoa học làm cho khả năng trên không còn nữa. Vì rằng các lý thuyết này luôn thay đổi để phù hợp với những quan sát mới, chúng không thể đơn giản hoá được để một người bình thường có thể hiểu thấu. Bạn phải là một chuyên gia và dẫu là một chuyên gia bạn cũng chỉ hy vọng nắm bắt được một phần các lý thuyết khoa học. Ngoài ra khoa học tiến nhanh đến mức mà những kiến thức thu nhận được ở học đường cũng luôn bất cập với thời đại. Chỉ một số ít người theo kịp được với ranh giới tiên tiến của kiến thức và số người đó cũng phải dùng toàn bộ thời gian để làm việc và chuyên sâu vào một lĩnh vực nhỏ. Số đông còn lại ít có khái niệm về những thành tựu tiên tiến của khoa học và những vấn đề lý thú nảy sinh từ đó. Bảy mươi năm về trước, nếu tin lời Eddington - thì chỉ có hai người hiểu được lý thuyết tương đối rộng. Ngày nay hàng vạn sinh viên đại học hiểu được lý thuyết đó và hàng triệu người ít nhất đã làm quen với lý thuyết tương đối rộng. Nếu một lý thuyết thống nhất hoàn chỉnh được phát minh, thì chỉ còn là vấn đề thời gian để cho lý thuyết đó được thấu triệt và mọi người chúng ta sẽ đủ khả năng có được một kiến thức nhất định về những định luật trị vì vũ trụ và điều hành cuộc sống của chúng ta. Ngay nếu chúng ta tìm được một thuyết thống nhất hoàn chỉnh, điều đó cũng không có nghĩa rằng chúng ta có khả năng tiên đoán mọi sự cố nói chung, vì hai lẽ. Thứ nhất do giới hạn mà nguyên lý bất định của cả học lượng tử áp đặt lên mọi quyền lực tiên đoán của chúng ta. Chúng ta không thể làm gì được để vượt giới hạn đó. Song trong thực tiễn giới hạn thứ nhất đó còn ít ràng buộc hơn giới hạn sau đây. Vấn đề là ở chỗ chúng ta không thể giải được các phương trình của lý thuyết một cách tuyệt đối chính xác, trừ vài trường hợp rất đơn giản. (Chúng ta không thể giải chính xác ngay cả chuyển động ba vật trong lý thuyết hấp dẫn của Newton và khó khăn sẽ tăng lên với số vật tham gia chuyển động và mức độ phức tạp của lý thuyết). Chúng ta đã biết nhiều định luật điều hành vật chất dưới mọi điều kiện cực đoan nhất. Nói riêng, chúng ta đã biết những định luật cơ bản điều khiển mọi đối tượng của hoá học và sinh học. Nhưng chắc chắn chúng ta không quy các đối tượng đó về thực trạng của những bài toán giải được, đến nay chúng ta đạt được quá ít tiến bộ trong việc tiên đoán cách xử sự của con người từ những phương trình toán học!.

Đến đây, tôi xin phép được ngắt ngang đoạn trích dẫn sẽ còn tiếp tục. Ông SW. Hawking đã sai lầm, ít nhất khi viết rằng:“...điều đó cũng không có nghĩa rằng chúng ta có khả năng tiên đoán mọi sự cố nói chung” và “.. đến nay chúng ta đạt được quá ít tiến bộ trong việc tiên đoán cách xử sự của con người từ những phương pháp toán học!...”. Nhưng phương pháp tiên tri của văn hoá cổ Đông phương với sự tồn tại hàng ngàn năm, không những tiên tri những sự cố nói chung, mà còn cả nói riêng. Đã thế còn tiên đoán cả cách xử sự của con người từ những phương trình toán học – Nếu có thể coi những quẻ Dịch, hoặc phương pháp ứng dụng của Tử Vi – thuộc về những phương trình toán học.Nhưng đoạn trích dẫn tiếp theo đây rất đáng chú ý: 

“Vì vậy ngay lúc chúng ta tìm được một bộ hoàn chỉnh các định luật cơ bản, cũng cần nhiều năm trong tương lai để thách đố trí tuệ con người tìm ra những phương pháp xấp xỉ hữu hiệu hơn, để có thể đưa ra những tiên đoán có ích về những hệ quả khả dĩ trong những tình huống thực tiễn và phức tạp. Một lý thuyết thống nhất chặt chẽ và hoàn chỉnh, chỉ mới là bước bắt đầu: mục tiêu của chúng ta là một sự hiểu biết hoàn chỉnh về mọi sự cố chung quanh và về bản thân những hệ quả khả dĩ trong những tình huống thực tiễn và phức tạp...”.

Hay nói một cách khác: Một lý thuyết thống nhất sẽ giải thích từ sự hình thành vũ trụ cho đến mọi vấn đề liên quan đến con người và có khả năng tiên tri. Đây chính là điều kiện đang có của thuyết Âm Dương Ngũ hành.
Nhưng việc có hay không một lý thuyết thống nhất đã đưa đến một câu hỏi: Liệu phương pháp của khoa học ngày nay có thể kiểm nghiệm được sự có hay không một lý thuyết thống nhất? Làm sao để kiểm nghiệm một lý thuyết thống nhất bằng phương tiện khi chính phương tiện tự nó đã định giới hạn cho sự tương đối?

Cần phải nói rằng: Đúng là các phương pháp (Đúng hơn là những phương tiện) của khoa học hiện nay khó kiểm nghiệm được thực tế của một lý thuyết thống nhất. Nhưng khi vấn đề đã được đặt ra thì nó đã có những tiêu chí của nó. Và nó chỉ có thể được giải thích ít nhất mang tính lý thuyết. Bởi vậy, mới có cái tựa đầu tiên là: Những tiêu chí của một lý thuyết thống nhất.

Từ lâu con người đã cố gắng giải thích vũ trụ và mọi vấn đề liên quan đến con người mà thực tế là đi tìm một lý thuyết thống nhất. Lý thuyết thống nhất xưa nhất của nhân loại có lẽ là lý thuyết cho rằng: Sự sáng tạo vũ trụ là do Thượng Đế và mọi vấn đề liên quan đến vũ trụ, xã hội và con người đều do Thượng Đế quyết định. Lý thuyết này đã ngự trị rất lâu trong lịch sử nhân loại. Lý thuyết này đã bị khoa học phản bác. Nhưng khoa học lại đang bế tắc khi giải thích sự khởi nguyên của vũ trụ. Nhưng ở văn minh Đông phương đã tồn tại một lý thuyết khác giải thích vũ trụ: Đó chính là thuyết Âm Dương Ngũ hành. Điều cần làm sáng tỏ ở đây là: Thuyết Âm Dương & Ngũ hành đang ở trạng thái huyền bí và đó có phải là một học thuyết thống nhất và hoàn chỉnh không? Nó có đáp ứng được những tiêu chí khoa học của một lý thuyết thống nhất không? Bản chất nó là cái gì trong sự huyền ảo của văn minh Đông phương thì chính là việc cần đề cập tới trong những phần tiếp theo.

Như vậy, những tiêu chí khoa học hiện đại cho một lý thuyết khoa học nói chung, cũng là những tiêu chí của một Lý thuyết thống nhất. Nhưng tiêu chí riêng của nó sẽ là: Giải thích từ sự hình thành vũ trụ cho đến mọi sự vận động của những thiên hà, đến những hạt vật chất cực nhỏ và những sự kiện bao quanh con người với khả năng tiên tri.

Bây giờ, chúng ta xét đến thuyết Âm Dương Ngũ hành, với một giả thuyết sẽ được chứng minh sau là: Thuyết Âm Dương Ngũ hành là một học thuyết hoàn chỉnh và nhất quán ngay từ giai đoạn hình thành của nó.
Với giả thuyết trên về thuyết Âm Dương Ngũ hành thì chúng thoả mãn tất cả mọi yếu tố cần thiết cho một lý thuyết thống nhất đã đặt ra ở trên như sau:

1- Giải thích sự hình thành vũ trụ: Thái Cực sinh lưỡng nghi. Thiên nhất sinh Thuỷ...
2- Giải thích sự vận động của các thiên hà: Những chu kỳ của các hiệu ứng vũ trụ trong Thái ất; Tử vi...
3- Giải thích sự vân động của các hạt vật chất nhỏ nhất: Khí – trạng thái tồn tại trên thực tế của vật chất trên siêu nhỏ. Điều này đã được khoa học hiện đại thừa nhận gián tiếp, khi phát hiện ra các đường Kinh Lạc là đường vận động của khí có trong con người, miêu tả trong các sách y học Đông Phương.
4- Mọi hiện tượng liên quan đến con người: Đó là các phương pháp bói toán cổ Đông phương có tính hệ thống, tính qui luật và tính khách quan (Là những yếu tố của tiêu chí khoa học hiện đại về sự thẩm định một phương pháp được coi là khoa học).
5- Tính tiên tri: Về điều này thì có lẽ tôi không cần phải chứng minh. Những phương pháp tiên tri liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành vượt xa sự mơ ước của khoa học hiện đại.

Như vậy, có thể khẳng định rằng: Hoàn toàn có cơ sở khi cho rằng thuyết Âm dương Ngũ hành chính là một “lý thuyết thống nhất”. Nhưng vấn đề là bản thân thuyết Âm Dương Ngũ hành lại mới chỉ được đặt giả thuyết về tính hoàn chỉnh và nhất quán của nó. Chỉ khi sự minh chứng này hoàn chỉnh thì vấn đề mới có thể tiếp tục. Nhưng ngay cả khi sự chứng minh thuyết Âm Dương Ngũ hành là một học thuyết nhất quán và hoàn chỉnh; thì vấn đề còn lại cũng không thể kiểm chứng được trên thực tế về sự tồn tại của trạng thái khởi nguyên của vũ trụ, mà chỉ có thể là sự giải thích hợp lý cho những hiện tượng và vấn đề liên quan. Do đó, nếu đặt vấn đề: Liệu phương pháp của khoa học ngày nay có thể kiểm nghiệm được sự có hay không một lý thuyết thống nhất?. Người viết cho rằng: không thể có một phương tiện nào của khoa học có thể kiểm được trong hiện tại cũng như trong tương lai. Mà chúng ta chỉ có thể thừa nhận tính hợp lý trong các mối liên hệ tương quan.
Hay nói rõ hơn: Nếu có một lý thuyết thống nhất thì không thể kiếm nghiệm một lý thuyết thống nhất bằng phương tiện, khi chính phương tiện tự nó chỉ nằm trong giới hạn của sự tương đối?

Chúng ta giả thiết rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành là một lý thuyết thống nhất thì Thái Cực là sự khởi nguyên của vũ trụ. Thái cực có nội dung chính là Tính Thấy mà Đức Thích Ca đã minh giảng: Không thể có cái thấy này thấy được cái kia. KhiTính thấy / Thái Cực là sự tuyệt đối thì sẽ không có một phương tiện nào thấy được nó cả. Nhưng nếu thuyết Âm Dương Ngũ hành quả thực là một học thuyết nhất quán và hoàn chỉnh trên thực tế đã tồn tại của nó – là điều sẽ phải chứng minh – thì chúng ta đã tiếp cận rất gần với một lý thuyết thống nhất. Vấn đề còn lại chỉ là sự phục hồi và so sánh với những lý thuyết khoa học hiện đại và chứng nghiệm qua những hệ quả của nó. Như vậy, bắt đầu từ một giả thuyết cho rằng:

Thuyết Âm Dương Ngũ hành là một học thuyết hoàn chỉnh và nhất quán trên thực tế đã tồn tại của học thuyết này. Sự thăng trầm của lịch sử đã khiến nó bị thất truyền và trở thành rời rạc, huyền bí. Những phương pháp bói toán Đông phương–có phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành trên thực tế ứng dụng–chính là hệ quả trực tiếp tất yếu của học thuyết này. Tất cả đã tồn tại từ rất lâu trong lịch sử cổ đại của nhân loại.

Trên cơ sở giả thuyết đã nêu – xin được chứng minh sau – so sánh với những tiêu chí khoa học về một lý thuyết thống nhất thì chúng có sự trùng khớp hoàn toàn. Nhưng chúng ta cũng nhận thấy ngay sự rời rạc và không có sự liên hệ chặt chẽ trong nội dung của học thuyết này giữa các hiện tượng đã nêu. Cụ thể là: Từ sự khởi nguyên của vũ trụ (Thái Cực sinh lưỡng nghi, sinh tứ tượng và Thiên nhất sinh thuỷ...) cho đến các phương pháp trong Thái ất rõ ràng là một khoảng cách rất lớn. Những phương pháp tiên tri như Tử Vi, Bói Dịch, Tứ Trụ..v.v.. cứ như từ trên trời rơi xuống, người ứng dụng chỉ là thực hiện một phương pháp có sẵn và chẳng ai hiểu được chúng đã được lập ra bởi nguyên tắc nào từ nội dung của học thuyết này? Nhưng khả năng tiên tri trên thực tế hàng ngàn năm nay thì vượt xa tất cả mọi sự mơ ước của bất cứ một lý thuyết khoa học hiện đại nào. khả năng tiên tri là một tiêu chí bắt buộc của một lý thuyết khoa học. Nó là hệ quả cuối cùng và chứng tỏ tính thuyết phục của một học thuyết khi đã hoàn chỉnh. Nếu khả năng tiên tri của những lý thuyết khoa học hiện đại chỉ giới hạn trong những hiện tượng đơn điệu trong phạm vi của nó, thì khả năng tiên tri là hệ quả của thuyết Âm Dương Ngũ hành, lại chứng tỏ tính siêu việt đến kỳ diệu khi tiên tri một hiện tượng vốn là sự tổng hợp của rất nhiều yếu tố tương tác: Đó chính là hành vi của con người! Điều này đã chứng tỏ thuyết Âm Dương Ngũ hành phải được hình thành, phát triển và hoàn chỉnh trong một xã hội có một nền văn minh cao cấp ổn định và là một học thuyết chính thống được bảo trợ bằng quyền lực trong xã hội đó.

Nhưng tại sao: Sự hoàn chỉnh và nhất quán của thuyết Âm Dương Ngũ hành chỉ là một giả thuyết. Khi mà chúng ta đang ứng dụng phương pháp luận của nó với tư cách là hệ quả một học thuyết nhất quán?
Đây là câu hỏi, đồng thời cũng là một phần câu trả lời: Điều mà chúng ta ứng dụng chỉ là phương pháp luận trong các phương pháp tiên tri, tức là hệ quả cuối cùng của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Bản thân nội dung của thuyết này rất mơ hồ. Có thể nói rằng: Hầu hết những nhà nghiên cứu với cái nhìn từ nhiều phía đều cho rằng: Thuyết Âm Dương và thuyết Ngũ hành là hai học thuyết xuất hiện độc lập: Hoặc là chúng hoà nhập với nhau ở giai đoạn đầu của thiên niên kỷ thứ I; hoặc là chúng là sự bổ sung cho nhau một cách khiên cưỡng. Bởi vậy, đây là vấn đề cần phải chứng minh về mặt lý thuyết. Thật là sự huyền bí khi kết quả là khả năng tiên tri và những phương pháp của nó lại ra đời trước một học thuyết là cơ sở phương pháp luận của nó. Nếu cho rằng: Những phương pháp tiên tri đó là do trực giác tâm linh của các bậc kỳ nhân đạo sĩ tạo ra thì lại không cần đến sự ứng dụng của một học thuyết (Như trường hợp của bà Vanga ở Bungary). Do đó, tính khoa học của học thuyết này chỉ được chứng tỏ, nếu chúng ta phục chế được những nét căn bản hoàn chỉnh và hợp lý về học thuyết này. Điều này sẽ lại khiến chúng ta quay trở về quá khứ.

TTđTD - Trích: "Đức Phật khai ngộ về tính thấy" Nxb Tôn giáo - 2006
Tác giả: Nguyễn Vũ Tuấn Anh

1 nhận xét:

Nặc danh nói...

Theo như tác giả nói : Thái cực là Đạo là tính Thấy mà Đức Phật đã nói ? Tôi thấy có gì đó không ổn lắm . Thái cực còn cách Đạo xa lắm. Thái Cực sinh lưỡng nghi ... Chỉ là Nhất niệm vô minh mà bên Thiền Tông đã nói thôi và trên đó là hỗn độn (mà người ta thờ gọi là Mẹ hỗn độn đó !). Dùng nhất niệm vô minh để phá vỡ hỗn độn mới lọt vào nơi "ẤY" được. Cái chỗ mà Tổ Đạt Ma gọi là "Hoách nhiên vô Thánh " ! (Hãy xem những bài giảng của HT. Thích Duy Lực). Các Ông Đạo Sĩ của Trung Hoa chỉ mới tu đến Thái cực thôi. Cho nên tại sao Đức Phật thì gần như cả thế giới thờ còn Lão Tử chỉ có đất nước Trung Hoa thờ thôi ! Tu đến Thái Cực thì vẫn còn có thể rớt vào luân hồi đó nha ! Vài dòng cho vui, mong tác giả thông cảm.
Chỗ đó càng nói thì càng xa, phải tu để nhận ra thôi.
Nam Mô A Di Đà Phật !