Ngày
nay một số lớn người Mỹ có thái độ và niềm tin về những gì sẽ xảy đến
với bản thân họ sau khi chết có rất nhiều thay đổi sâu xa.
Sau
khi một số y bác sĩ trình bày những bài thuyết giảng, những bài báo và
cả luận án cũng như nghiên cứu về vấn đề kề cận với cái chết, các nhà
báo bất đầu đổ xô đi săn lùng những đề tài vừa kể. Năm 1982, viện
Gallup đã mở một cuộc thăm dò rộng rãi khắp nước Mỹ về những hiện tượng
của vấn đề cận tử. Kết quả, viện này đã tham khảo được 8 triệu người Mỹ
đã có lần Chết đi và Sống lại.
Những
hồ sơ ghi chép về những gì mà những người này đã có lần đi vào cõi giới
khác mô tả lại được đem phân tích so sánh, đối chiếu rất cẩn thận -
Điều lạ lùng kỳ thú là mặc dù ở những tiểu bang khác nhau, không quen
biết nhau, nhiều mô tả của những người Mỹ này lại khá tương tự hay trùng
khớp nhau về những cảnh trí, sự kiện được xem là ở bên kia cửa Tử. Dưới đây là một số sự kiện được các nhà nghiên cứu hiện tượng Cận Tử ghi lại như sau:
1)
Ở phút hấp hối rồi xuôi tay, họ thường có những cảm giác lạ lùng như
cảm thấy thanh thản, an vui, nhưng có người lại cảm thấy lo lắng sợ sệt,
hoang mang hay ngơ ngác.. .
2)
Các giác quan lúc đó (cận tử) tự nhiên như được phát huy nên nghe rõ,
nhận thức rõ, cảm giác nóng lạnh hay đau đớn rõ hơn. Về âm thanh họ
nghe như có tiếng gió mạnh và thân xác họ như nhẹ đi và tách rời khỏi
thân xác. Phần lớn họ đều thấy mình nằm chết bất động, còn họ thì ở
trên cao - họ thấy rõ thân xác họ và thấy biết những gì đang xảy ra
chung quanh. Lúc đó họ lướt đi dễ dàng như lên cao xuống thấp và có thể
xuyên qua tường hay vật rắn - Vào giai đoạn đó họ không cảm thấy nặng
nề, không còn dính dấp với xác thân, lúc đó họ chỉ còn liên kết với tâm
họ thôi nên cảm thấy nhẹ nhàng một cách kỳ diệu.
3)
Lúc này họ biết mình đang ở vào tình huống nào, biết mình đang ở vào
hoàn cảnh khác với trước lúc còn sống - Họ cảm thấy mình như bị cuốn hút
vào trong một khoảng tối đen mông lung diệu vợi không biết đâu là chiều
hướng. Họ thấy mình lướt đi rất nhanh qua một đường hầm hun hút.
4)
Kế đến, họ thấy từ xa một điểm sáng, rồi một vừng sáng rực rỡ tỏa ra
đồng thời họ cảm thấy một tình thường bao la như hoa trong ánh sáng bao
phủ lấy họ - Lúc bấy giờ những hình ảnh của cuộc đời họ bất đầu diễn ra
như một cuốn phim của đời mình được chiếu lại.. Về sự kiện ánh sáng thì
hình như mọi người đã được hỏi qua đều cảm thấy hân hoan kỳ lạ, họ mô tả
đó là loại ánh sáng chưa từng thấy, một thứ ánh sáng toàn vẹn, rực rỡ
nhưng lại không làm cho mắt bị lòa, một thứ ánh sáng mà khi được bao phủ
họ cảm nhận sự an lạc kỳ diệu vô bờ bến nên lúc ấy họ hoàn toàn hòa vào
với ánh sáng ấy..
5)
Phần lớn mô tả thấy những cảnh trí đẹp đẽ lạ lùng diệu vợi với âm thanh
thanh thoát phiêu bồng – Đôi khi hình ảnh có vẻ như xa vắng mông lung
hay tối tăm u buồn dễ sợ. Có người thấy dinh thự lâu đài nhà cửa, có
người thấy hang đá, hố sâu...
6) Phần lớn thấy là họ không thể vượt qua một lằn ranh giới nào đó mà phần lớn như cánh cửa hay cái cổng lớn.
7)
Vấn đề trông thấy người thì ở đây có điểm rất tương đồng là trong số 8
triệu người Mỹ đã từng chết đi sống lại phần đông đều kể là họ đã gặp
lại người thân thuộc, bạn bè - nhưng là người thân, bè bạn đã qua đời
rồi chớ không gặp người hiện đang còn sống.
8)
Những người chết đi rồi tự nhiên sống lại đều kể giống nhau là có một
động lực thúc đẩy, chỉ bảo họ nên quay về - Có người gặp lại người cha,
mẹ, anh em... đã mất trước đó rất lâu, họ ra dấu bảo hãy mau mau quay về
đừng tới đây làm gì và sau đó chính họ trở lại thân xác của họ...
(*
Quý vị muốn biết thêm chi tiết về các sự kiên trên xin tìm đọc cuốn: Bí
ẩn sau Cõi Chết và cuốn Biên giới Tử Sanh của tác giả Đoàn văn Thông
biên soạn). . .
Kết quả những khám phá và nghiên cứu trên còn mang lại một số điểm như sau:
Những
người đã từng Chết đi Sống lại ấy hầu như tất cả đều thay đổi thái độ
sống. Nghĩa là trước đó họ sống “rất là tính người, thì nay không hoàn
toàn như thế nữa -Trước đó họ hay tham lam, giận dữ, tranh chấp, tự
ái... thì nay họ sống có khi như an bần lạc đạo, sống nhiều về nội tâm,
hướng về đấng tối cao nhiều hơn - Có người tới nhà thờ làm việc thiện,
có người tìm đọc sách Thiền, tập tu Thiền, tìm hiểu thêm về lý thuyết
của Phật giáo - Đặc biệt là những giáo lý của Phật giáo Tây Tạng có
những lý giải phần lớn trùng khớp với những điều họ đã trải qua trong
thời gian cận kề với cái chết.
Đối với
những vị Đại sư Tây Tạng thì những sự thấy biết của những người Chết đi
sống lại mô tả trên thật ra chỉ là những gì xảy ra ở ngưỡng cửa của Cõi
Trung ấm mà thôi chớ chưa thực sự vào sâu sau cõi Chết. Lý do là họ
mới tới đó rồi trở về nhập xác chớ nếu vào sâu nữa thì chắc chắn họ đã
Chết hẳn không thể trở về lại với thân xác nữa... Một sự kiện làm các vị
Lạt Ma lưu ý là qua lời mô lả, kể lại của những người cận kề cái Chết
và may mắn sống lại là họ đều trải qua giai đoạn thấy lại rõ ràng toàn
cảnh cuộc đời của họ vô cùng chi tiết từ những hành động tốt cũng như
xấu - Như vậy là rõ ràng vấn đề tạo Nghiệp rất quan trọng phát sinh từ
những hành động việc làm của chính mình trong đời - Những lời kể lại ấy
nói lên rằng Những gì ta đã làm, đã gây nên và thấy rõ trong phút lâm
chung không thể nào chối cải hay trốn chạy được Nghiệp báo.
Chính
nhờ y khoa ngày càng tiến bộ có thể giúp hồi sinh một số người tưởng đã
qua đời – Nhưng cũng chính nhờ vậy mà giới Y khoa ngày nay biết thêm
một số sự kiện đặc biệt, những tiến trình cùng với hình ảnh màu sắc diễn
ra khi con người tiến dần vào cõi Chết qua những mô tả của những người
có lần chết đi sống lại.
Đại
sư Sogyal Rinpoche đã từng đối thoại với những y bác sĩ Tây phương về
vần đề này rằng: "Làm sao mà bạn là vị Bác sĩ tài ba và giàu kinh nghiệm
thực sự nếu bạn không được hổ trợ thêm một số kiến thức về sự thật của
cái chết như thế nào. Nếu không có được may mắn đó thì làm sao bạn có
thể giúp đỡ người sắp chết về mặt tâm linh?
Ngày
nay trên thế giới, nhiều y bác sĩ đã mạnh dạn đi sâu vào việc nghiên
cứu tìm hiểu những gì liên quan tới sự Chết và có gì đằng sau cõi chết .
. .
Trong
hai bộ sách Tử Thư Ai Cập và Tử Thư Tây Tạng, thì nội dung có nhiều
điểm tương đồng, tuy nhiên về chi tiết vẫn có những điểm hơi khác biệt.
Đối với Tử Thư Tây Tạng thì chi li và ứng hợp với nhiều điểm mà những
người chết đi sống lại mô tả thường rất ăn khớp. Đối với nhà khoa học,
các y bác sĩ hiện nay khi nghiên cứu tìm hiểu về Cận tử, họ tận dụng
kinh sách Tây Tạng nhiều hơn - nhất là Bộ Tử Thư.
Ngày
xưa, các vị Lại Ma Tây Tạng, nhất là các vị Đại sư hay Đạt Lai Lạt Ma
sống ẩn dặt tại quê hương họ nên thế giới ít biết về những vấn đề sâu xa
thuộc lãnh vực Tâm tinh - Nhưng ngày nay, qua biến cố Trung quốc tự
chiếm đóng Tây Tạng cả trăm nghìn người Tây Tạng đã sống lưu vong,
trong đó có cả vị Đạt Lai Lạt Ma và một số lớn các vị Ðại đức, đạo sư...
Nhờ đó mà nhiều người, kể cả các học giả, các nhà khoa học Âu Mỹ có dịp
tiếp cận và thu thập kiến thức về thế giới tâm linh, qua đó còn có cả
Sự Chết - Một vấn nạn mà Con người thường phân vân trăn trở và lo sợ.
Nhiều
vấn đề thắc mắc về sinh tử cũng nhờ đó mà được các Đại sư giải thích rõ
ràng. Ví dụ như vấn đề sống chết, trong khi chết, sau khi chết. Ngoài
ra còn vô số các thắc mắc liên quan tới sự chết ví dụ như những thắc mắc
về tự tử, về sự hư thai, về vấn đề hiến tặng xác thân, về bảo quản cơ
thể...đã được Đạo sư Dilgo Khyentse Rinpoche giải thích rất tường tận:
-
Về người Tự vẫn thì việc làm đó là một sai trái mà ngay cả Thiên Chúa
giáo cũng tuyệt đối ngăn cấm. Khi một người tự tử thì Thần thức của
người đó cũng không có thời gian chuẩn bị, sự bất ngờ mà không thể cưỡng
lại được nên Thần thức hay Thân Trung ấm khi đó vụt thoát ra khỏi thân
xác - Lúc chết vì tự sát, tâm thức người ấy rối ren, vụt tốc do tự ái,
nóng giận, không kềm nổi lý trí - vì thế họ đi vào cõi chết trong u tối
lầm lạc nên Thần thức buộc phải đi theo Nghiệp Xấu của mình - Đó là lúc
rất nguy hiểm vì không có thời gian suy nghĩ kiểm soát chuẩn bị đề
phòng... nên dễ bị các vong linh xấu dẫn dắt vào cõi xấu xa của lục
đạo. Hơn nữa, Tự vẫn là do mình quyết định lấy thân phận chớ chưa hẳn
là người ấy đã tới giai đoạn phải lìa đời - Như vậy thì vong linh họ
chưa được sắp xếp quy định nên mãi cứ lang thang vất vướng vô cùng tai
hại...
-
Về vấn đề hư thai: Khi một người đàn bà có thai và thai bị hư - Dĩ
nhiên là Thai nhi đã chết. Theo Đạo sư Dilgo Khyentse Rinpoche thì dù
là cái trứng thụ tinh mới tượng hình phôi thai nhưng nó cũng đã có Thần
thức tiềm ẩn bên trong. Vậy mà đứa bé đã chết trước khi được sinh ra nên
Thần thức của bé lại phải chuyển qua một kiếp đời khác. Trong trường
hợp này, người mang thai cháu bé phải hết lòng cầu nguyện cho bé chuyển
di trong an lạc, nên làm việc từ thiện, tạo công đức giúp mình và bé
được an lành mới mong hy vọng có bé khác sinh ra bình thường.
(Tuy
nhiên cũng có nhiều người bị sẩy thai liên tiếp nhiều lần - như vậy có
nghĩa là vong linh nào đó nhập vào gia đình này không hợp ý về vấn đề gì
đó - như vợ Chồng hay tranh cải đánh đập nhau, đời sống của cha mẹ
tương lai của vong linh mới nhập vào sống bê tha cờ bạc rượu chè, gian
ác... Nhưng cũng có khi là công đức kiếp trước của hài nhi quá nghiệt
ngả xấu xa, tối tăm mê mờ..khiến bị khó khăn trở ngại gian nan trong
giai đoạn chuyển kiếp - Vì thế mà vấn đề bố thí tu tập của người mẹ bị
sẩy thai rất quan trọng - sẽ hổ trợ giúp đỡ công đức cho tâm thức hài
nhi sáng suốt, giác ngộ thoát được sự lệch lạc trắc trở lần đầu thai kế
tiếp).
-
Về vấn đề ngày nay khoa học tiến bộ đã khiến các nhà khoa học nghĩ tới
việc đông lạnh thân xác người mới chết vì bệnh để chờ đợi tương lai
ngành y khoa tiến bộ hơn có thể làm cho sống lại nhờ loại thuốc hay
phương cách nào đó. Theo Đạo sư Dilgo Khyentse Rinpoche thì khi một
người trút hơi thở cuối cùng thì Thần thức sẽ rời khỏi thân xác để thực
hiện vai trò đầu thai chuyển kiếp. Vì thế không có vấn đề Thần thức chờ
đợi thân xác được cứu chữa. Điều tai hại lớn lao nguy hiểm hơn nữa là
trước khi người ấy chết mà được hứa hẹn là được bảo quản nhờ đông lạnh
chờ đợi cứu chữa thì khi người ấy chết, tâm thức họ sẽ đầy hy vọng vào
sự sống lại qua cái thân xác cũ ấy. Do đó mà càng bám víu vào cái xác
lạnh vô hồn làm cho sự tái sinh vào kiếp đời khác bị ngăn cản, chặn đứng
- quả không có gì tai hại cho bằng - Vong linh họ sẽ lang thang vật vờ,
phiêu diêu vất vướng tình trạng họ sẽ vô cùng đau thương vì họ đã rơi
vào cõi giới giá băng ghê rợn mà họ không biết.
Về
vấn đề hiến tặng thân xác - Ví dụ như có người hứa là sẽ hiến thân xác
họ sau khi qua đời hầu giúp các công trình nghiên cứu y khoa hay sau khi
chết có thể dùng cơ phận của cơ thể họ cứu giúp những người không may
bị bệnh như gan, thận, mắt, phổi, tim... Theo Ðạo sư Dilgo Rinpoche thì
đây là một nghĩa cử vô cùng cao cả, một công đức không thể nghĩ bàn.
Nếu người bệnh, người sắp chết có hy sinh ấy, ước nguyện cúng hiến ấy
thì khi người ấy mất, tâm thức họ đã biết rõ việc ấy rồi nên không tạo
sự bất ngờ, hốt hoảng, lo lắng cho họ - dù bệnh viện có tận dụng phần
thân xác họ bao nhiêu đi nữa thì Thần thức vẫn không bị ảnh hưởng mà còn
mang thêm công đức, nghiệp tốt của người chết để hổ trợ vào tiến trình
tái sanh qua một kiếp đời mới khác an lành hơn.
Đối
những người bị xử tội bằng bất cứ hình thức nào như xử chém, thắt cổ,
xử bắn, ngồi ghế điện, tiêm thuốc độc vân vân thì tâm trạng của họ trước
giây phút lìa đời vô cùng khủng khiếp, tâm thức họ kinh hãi, xót xa,
đau khổ ngập tràn... Vì thế trước và trong khi chết họ sẽ hoang mang
ngơ ngác không biết vào đâu dễ bị các vong linh xấu xa lôi kéo vào Cõi
tối tăm khốn khổ - Hơn nữa vào giây phút bị giết dù họ có linh mục hay
nhà sư làm lễ đi nữa, họ cũng khó mà tiếp nhận được lời cầu nguyện lúc
tinh thần đang bấn loạn ấy - Vì thế thân nhân người chết ấy phải thiết
lập bàn thờ cầu nguyện tiếp lại nhà hay tại chùa, nhà thờ để hổ trợ cho
hương linh người chết.
Đối
với những người bị chết bất ngờ như tai nạn, té ngả, bị xe, bị ám sát,
bị đạn... thì đó là điều mà họ không nghĩ tới, không ngờ tới. Vì thế dù
đã chết nhưng họ vẫn nghĩ là mình chưa chết nên thường cứ về nhà như
lúc còn sống - Tuy nhiên vì chỉ là cái “vong linh” vô hình vô ảnh nên
không ai thấy họ, nghe họ, biết họ còn sống cả - Tình trạng ấy khiến họ
đau khổ vô cùng - Chỉ khi thấy bàn thờ có hình ảnh họ và gia đình thờ
cúng khóc lạy họ thì họ mới cảm nhận mình đã qua đời nhưng vẫn hoang
mang, mơ hồ chưa rõ. Do đó thân nhân phải lo đọc kinh, tụng kinh hộ
niệm, làm lễ cầu hồn cầu siêu giúp hồn người chết ấy mau siêu thoát -
Việc làm này rất cần kíp.
NHỮNG ÐIỀU CẦN BIẾT SAU CÕI CHẾT
Về Tái sinh làm người cần lưu ý điều này:
Thật ra thì; con người khi chết đi, nếu tái sinh trở lại làm người thì
đó là là một điều đáng mừng vì khi chết đi tùy theo nghiệp mà tái sinh
vào cõi giới nào đó - Theo Phật giáo thì có những cõi giới đáng sợ như
cõi Địa ngục, Cõi Ngạ Quỷ, Súc Sanh hay Cõi không mấy hoan nghênh là Cõi
A Tu La. Có Cõi lại khó đến như Cõi Trời là Cõi sung sướng tốt lành -
Chỉ có cõi Người là trung bình, tuy cõi này kiếp đời cũng nghiệt ngả khổ
đau với Sinh, Lão, Bệnh, Tử... nhưng nếu xét tới cảnh làm thân thú vật
hay quỷ dữ thì làm người là may mắn hơn rất nhiều - Các Kinh sách cũng
thường nhắc tới vấn đề này như sau: "nếu
lỡ khi tái sanh không được làm kiếp người mà làm kiếp thú thì không gì
khốn khổ cho bằng - Do đó, nếu khi sống không chịu tu tập để tới được
cõi giới thanh cao thì một khi đã mất làm thân người thì khó mà trở lại
kiếp ấy”.
Chết
không phải là mất hẳn - Chết chỉ là chuyển đổi cái kiếp thân này sang
cái kiếp thân khác mà thôi - Nguyên nhân là do Nghiệp mà khi sống ta tạo
ra - Nghiệp ấy hoặc tốt hoặc xấu, hoặc Thiện hoặc ác. Tùy theo Nghiệp
xấu tốt mà kiếp đời mới của ta theo luật Nhân quả sẽ sung sướng hay khổ
đau, mạnh khỏe hay tật bệnh triền miên... Như vậy Nghiệp là cầu nối làm
cho Sinh Mệnh mỗi người tiếp tục từ đời này qua đời khác - Nghiệp phát
sinh là chính ta cho không ai khác cả - làm ác tạo ra Nghiệp ác, làm
Thiện tạo nên Nghiệp Thiện. Những Nghiệp ấy được tích chứa, lưu giữ bởi
A lại Gia thức...
Khi ta còn đang sống trên cõi đời thì A lại Gia Thức không ra khỏi thân
xác của ta - vì nó luôn luôn có nhiệm vụ ghi chép, giữ lại tất cả hành
động của ta từng li từng lí một - Nó giống như nhà quay phim về mọi hành
động tốt xấu của đời ta. Tới khi ta nhắm mắt qua đời thì nó mới thoát
ra khỏi thân xác ta để làm sứ mệnh đầu thai cho ta.
Khi
một người chết đi thì Thần thức thoát ra khỏi thân xác của người ấy -
Thần thức là cái mà dân gian thường gọi là Hồn hay Linh hồn. Câu hỏi
xưa nay là Thần thức thoát ra như vậy là từ nơi đâu của
thân xác? Theo Tử Thư Tây Tạng thì có 9 huyệt đạo trên cơ thể và Thần
thức sẽ thoát ra từ một trong 9 huyệt ấy. Theo các vị Lạt Ma Tây Tạng
thì tùy theo nơi phát xuất mà các vị biết được cõi nào thần thức đi tái
sanh.
- Nếu Thần thức thoát ra từ đỉnh đầu của người chết thì họ sẽ tái sinh vào cõi thanh cao.
- Nếu Thần thức thoát ra từ vùng Tim thì sự tái sinh sẽ là Người.
- Nếu Thần thức thoát ra từ phần bụng thì sẽ tái sinh vào cõi xấu như cõi của ngạ quỷ.
- Nếu Thần thức thoát ra từ phần chân, đầu gối thì sẽ tái sinh vào cõi Súc sánh thú vật.
- Nếu Thần thức thoát ra từ lồng bàn chân thì sẽ tái sinh vào cõi Địa ngục.
Nơi
Thần thức thoát ra từ cơ thể là nơi thường còn chút nóng ấm - Khi chết
cơ thể tái và lạnh dần - Nếu điểm nào trên cơ thể còn nóng thì nơi đó
Thần thức sẽ rời bỏ xác thân mà chuyển đi làm nhiệm vụ đầu thai.
Thật
ra thân nhân không cần tò mò biết điều này vì chẳng ích lợi gì - Hơn
nữa nhiều người vì muốn biết người chết sẽ tái sanh vào cõi nào nên đã
mày mò tìm hơi ấm còn lại trên xác thân người chết để xác định. Làm như
thế rất tai hại vì có thể làm cho Thần thức bất ngờ bị động nên thoát ra
từ những vị trí bất lợi khiến cho sự tái sánh lệch lạc có khi tốt thành
ra xấu. Theo lời căn dặn của các bậc chân tu thì sau khi chết khoảng 10
tiếng đồng hồ, đừng ai đụng chạm vào thân xác của người chết
cả giữ được như thế là giúp cho Thần thức từ thân xác người ấy thoát ra
khỏi một cách tự nhiên. Nếu muốn, ta chỉ cần biết qua những việc làm
hành động của người lúc còn sống thế nào: ác đức hay hiền lương mà ta có
thể biết là họ sẽ tái sánh vào cõi xấu hay tốt. Sách Kinh cổ xưa đã
ghi rằng:" Muốn biết quá khứ hành động ra sao thì hãy nhìn cuộc đời hiện
tại – Còn muốn biết tương lai ta ra sao thì cũng hãy nhìn những gì ta
làm trong hiện tại.."
“
Ta có Bạn và Kẻ Thù. Những ai làm lợi cho ta thì gọi là bạn. Những ai
làm hại ta thì gọi là Kẻ Thù. Gọi và đánh giá như vậy có cái hại là ta
cứ bị vướng mắc vào người mà ta gọi là bạn. Họ thể nào ta vẫn cứ thương -
Còn kẻ mà ta gọi là kẻ Thù thì làm tốt mấy cũng bị ta ghét - Đó chính
là do ta bị cái chấp ngả ở ngay trong tâm ta chi phối ta …”
LÀM SAO TRÁNH ÐƯỢC QUẢ BÁO XẤU XA VỀ SAU?
Nếu muốn tránh được Quả báo xấu xa, đau khổ thì ngay trong cuộc đời hiện tại, ta hãy cố tập cho mình có được mối Thiện tâm -
Lòng ta phải hướng thiện và tránh ác. Chỉ cần có ý nghĩ về những gì
gọi là Thiện không thôi cũng tạm là đủ cho tâm thanh thản vì tâm hướng
về cái Thiện. Dần dần ta hãy làm việc thiện, tức là thể hiện Thiện tâm
qua hành động. Trước hết ta hãy thực hành việc Bố thí. Có một câu nói
từ cổ xưa mới nghe qua thấy vô lý nhưng đầy sự thiện tâm nhân đức: "Cho
tức là Nhận" hay "Cho hết để lấy vô nhiều”. Ta không có khả năng và ý
nghĩ đó thì hãy làm việc Thiện, bố thí với khả năng mình - đừng khư khư
ôm lấy những gì mình có hãy chia sớt ít nhiều cho người túng thiếu. Của cho
tuy ít nhưng cứ làm mãi thì có ngày càng được nhiều lên, đời ta cũng sẽ
tạo được phước đức lớn - nếu không được ngay trong đời này thì cũng sẽ ở
đời sau như Chúa Kitô đã nhắc nhở các đệ tử: "Hãy
răn bảo họ làm điều lành, làm nhiều việc phước thiện. Kíp ban phát,
phân chia của cải mình có. Vậy là dồn chứa về ngày sau một cái nền tốt
và bền vững cho mình để được cầm lấy sự sống thật.. ".
Tuy
nhiên cần phải lưu ý: vì có người làm được việc bố thí thì tự cho mình
là người được phước báu lớn lao. Có người vì muốn có tài vật để bố thí
cho kẻ khác đã làm điều không hay để có được tiền của. Nếu làm như thế
thì việc bố thí cũng như không. Nếu bạn làm việc phước thiện để mong
khoả lấp, tiêu trừ việc gian ác mà bạn đang làm, đang theo đuổi thì quả
báo xấu xa vẫn tới với bạn.
Quả
báo tốt lành nhận được khi Phước và Đức được làm tròn - Làm Phước phải
kèm theo đức độ - mà cái đức độ luôn nằm sẵn trong Tâm mình. Nếu bố thí
với mục đích mong cầu lợi lộc cho chính mình, bố thí mà chỉ trông chờ
người mình bố thí trả ơn, bố thí mà tự cao tự đại, phách lối, trách mắng
la rầy, khoe khoang...thì đó không phải là bố thí, bố thí như thế thì
sự tốt sẽ mất đi rất nhiều.
Làm
việc bố thí, giúp đỡ người sa cơ lỡ vận giúp người cô thế là việc phải
làm theo đúng với thiện tâm. Nhưng để cái Tâm Thiện được trong sáng thì
điều cần thiết là nên tập thương mọi vật. Thương đồ vật tức là tiết
kiệm chăm sóc, giữ gìn cho chúng khỏi hư hao tốn kém, đó không phải là
ích kỷ, keo kiệt bỏn xẻn. Thương chúng sanh là thương mọi loài, hãy
tránh sát sanh, không giết loài vật. Được vậy thì sẽ thành thói quen dù
con kiến cũng không nỡ giết thì làm sao ta có thể hại người, làm khổ
người, đánh đập người? Giết người? Mà đã không làm những điều vừa kể tức
là không tạo nên nghiệp ác - Đã không tạo nên nghiệp ác thì sẽ không bị
quả báo trả vay. Tạo Nhân lành thì gặp Quả Lành, tạo Nhân ác thì nhận
Quả ác.
Vậy
muốn tránh được quả báo không hay đời này hay đời sau, thì trước nhất
ta nên tập làm việc Thiện. Việc Thiện nẩy sinh từ cách sống chân thật,
trong sạch, hòa nhã, nhẫn nại, sáng suốt, không hại người, không hại
vật, không lấy của người, không ích kỷ, căm thù, xảo ngôn, ganh ty: Luôn luôn nghĩ đến người khác với mối thiện lâm, tập đức tính hỉ xã
khoan đung, độ lượng - Nhất là thực hành Bố thí giúp người.
NGƯỜI TRONG GIA ÐÌNH NÊN LÀM GÌ KHI NGƯỜI THÂN SẮP MẤT
Nhiều
kinh sách tôn giáo xưa nay đã từng khuyên người thân trong gia đình mỗi
khi có người thân sắp qua đời thì nên có thái độ, hành động và việc làm
đúng hợp với hoàn cảnh lúc đó - có vậy mới mong người sắp mất ra đi một
cách thanh thản, không u buồn nuối tiếc, khổ đau...
Sau đây là một số điều cần làm:
1)
Điều quan trọng nhất và cũng là khó nhất, đó là khi người thân sắp hay
mới qua đời thì thân nhân không nên khóc lóc, kêu gào, vật vã - Vì người
sắp chết sẽ rất khổ đau ray rứt khó ra đi. Còn khi người mới xuôi tay
nhắm mắt, bề ngoài thấy là họ đã mất, dù cho tim ngừng đập; Nhưng thật
sự là họ vẫn còn nghe, biết những gì xảy ra chung quanh họ. Do đó thân
nhân nên cố gắng tránh khóc lóc, kể lễ làm đau lòng người sắp mất.
2)
Không nên đụng chạm, tắm rửa, thay quần áo hay di chuyển thân xác người
mới mất trong khoảng thời gian 12 tiếng đồng hồ kể từ khi người ấy
mất.
3)
Trong khoảng thời gian 12 tiếng kể từ khi mất, người thân nên đọc kinh
cầu nguyện (nếu là Thiên Chúa giáo) hay tụng kinh siêu độ (nếu là Phật
giáo) liên tục cho vong linh hay linh hồn người mất được ra đi một cách
thanh thoát, an lạc, tự nhiên...dĩ nhiên là trong thời gian đó nên giữ
yên lặng; chỉ có tiếng kinh thôi - cố tránh không có tiếng than khóc đau
thương - Khi đọc kinh hay tụng kinh âm điệu cũng không nên ai oán bi
thương.
4)
Cần nhớ rằng: trong thời gian 49 ngày kể từ khi mất, vong linh hay linh
hồn (theo Phật giáo thì giai đoạn này là Thân Trung ấm) người mới mất
ấy còn trong tình trạng hoang mang, mơ hồ, phân vân trước những cõi giới
không biết vào đâu - thời gian này cần thân nhân hổ trợ bằng lời cầu
nguyện - cầu hồn, cầu siêu... nhất là bằng sự bố thí giúp người, ăn chay
hay in ấn kinh sách phổ biến hoặc nhờ nhà thờ, chùa làm lễ cầu nguyện
cho linh hồn người mới mất được siêu thoát. Những việc làm vừa kể rất
quan trọng và rất có hiệu quả vì giai đoạn 49 ngày là giai đoạn rất đáng
quan tâm, rất đáng lo cho người mới qua đời - thân nhân cần phải nhớ
điều đó để giúp người thân mới mất được ra đi trong an lạc tốt lành. Hãy chú tâm vào những điều vừa kể hơn là chú tâm vào nghi lễ phiền toái
linh đình, đám cho to, giỗ cúng cho lớn mời cha, thầy tới cho đông, thết
đãi, xe cộ xênh xang chỉ là bề mặt và cho người sống có hư danh - còn
người chết thì vong linh, dật dờ, lênh đênh, vô định... mà việc ta làm
lúc này là để giúp người mất chớ đâu cho người đang sống?
5)
Người sắp mất ra đi với tâm trạng lo buồn, đau khổ. Vì họ còn rất
nhiều việc chưa hoàn tất, nhiều ước nguyện chưa thành, còn nhiều tình
cảm quyến luyến - Do đó phút lâm chung, người thân phải hiểu rõ điều đó,
cố động viên họ, làm cho họ an tâm tuyệt đối đừng khơi dậy những nổi
đau mà họ đã hay đang trải qua lúc còn sống, tránh nhắc lại những thứ ấy
- Hãy bảo rằng: "..cứ yên tâm, mọi việc đều ổn thỏa, gia đình sẽ lo chu
đáo, không có gì phải lo cả..". Có người lúc lâm chung, họ luôn nhớ
lại những gì xảy ra nhất là quá khứ - có người nhớ là họ còn nợ ai số
tiền chưa trả chẳng hạn - họ muốn ra đi được thanh thản.. nếu thân nhân
nghe họ phàn nàn lo âu điều đó thì nếu có thể tìm cách nói làm sao để họ
an vui. Nếu có thể nên thanh toán nợ nếu đủ sức thì đó quả là một việc
phúc đức đáng làm. Nói tóm lại Ta hãy cố tạo sự thuận lợi an ổn cho
người sắp ra đi, để họ khỏi bận tân, nuối tiếc, dùng dằng...nếu là
người bệnh sắp mất, thân nhân hãy chờ lúc họ tỉnh táo hãy hỏi họ cặn kẻ
những gì họ mong muốn, những gì họ căn dặn và hứa sẽ làm cho họ yên lòng
- Dĩ nhiên lời hứa phải thành thật không gian dối dù sau đó vì quá sức
mình không chu toàn được... Làm được vậy là giúp người sắp mất thanh
thản ra đi một cách nhẹ nhàng - Nhờ đó mà vong linh sẽ sáng suốt, không
bận tâm, không u buồn nên khỏi phải đi vào đường lầm mê của Lục đạo.
6) Trước
mặt người sấp mất hãy làm những điều tốt lành như những người trong gia
đình mấy lâu xung khắc gây gổ, tránh mặt nhau thì khi đó hãy đứng bên
nhau hoà đồng vui vẻ để người sắp mất vui lòng. Tránh gây gỗ tranh cải
nhau. Người sắp lìa đời nằm đó nhưng tai nghe rõ hết, ngay cả khi họ
nhắm mắt xuôi tay, thần trí họ vẫn còn hoạt động - Phải nhớ kỹ điều đó.
7)
Tránh khuyên răn người sắp mất tin theo một tôn giáo nào đó khác với
tôn giáo mà họ đã theo – làm như vậy tạo nên hoang mang tâm thức họ khi
đang đứng ở ngưỡng cửa của sự chết khiến họ không biết bước vào cõi giới
nào lúc đó. Chỉ ngoại trừ người sắp mất tự nguyện hay đề nghị mà
thôi. Việc rước lễ, đọc kinh hay tụng kinh cũng nên theo ý muốn của
người sắp mất, đừng ép uổng họ. Có người tới lúc cận kề sự chết họ mới
mở tâm khai ngộ - vì thế lúc ấy họ tin điều gì, mong ước gì là nên để họ
tự ý, không nên tự mình đưa họ vào hoàn cảnh hay niềm tin mà họ không
muốn.
8)
Những bà con bè bạn tới thăm muốn gặp thì nhớ nhắc nhở họ đừng tỏ vẻ lo
sợ về cái chết sắp đến đừng nói lời tiếc thương u buồn mà tỏ ra tự
nhiên xem cái chết là điều bình thường vì ai cũng trải qua cả - Đừng làm
cho họ sợ, chán nản, lo lắng...
9)
Vấn đề dùng thuốc an thần: chỉ nên dùng khi bệnh nhân đang ở tình trạng
đau bệnh nhưng chưa đi vào giai đoạn hấp hối. Dùng thuốc an thần để
giúp giảm cơn đau đớn cho người bệnh những lúc
đó mà thôi - Tuy nhiên, khi họ đi vào giai đoạn sắp thở hơi cuối cùng
thì tốt nhất là không nên. Bác sĩ Paul Perry, bác sĩ Melvin Morse cho
biết rằng, hiện nay tại các bệnh viện, nhất là ở các nước Âu Mỹ 90 phần
trăm bệnh nhân quá đời đều đã dùng nhiều thuốc an thần - Nhất là khi
thấy người đang hấp hối tỏ vẻ lo sợ, kêu hay nói hoặc mô tả những hình
ảnh mà họ đã thấy lúc đó thì các y bác sĩ cho là họ đang bị mê sảng nên
trấn an bằng cách cho họ uống thuốc an thần - Họ không biết lúc ấy người
sắp mất đang ở biên giới của tử sinh nơi giới hạn của cõi giới họ đang
sống (thế gian) với cõi giới khác - mà cõi giới khác thì có biết bao
hình ảnh kỳ bí lạ lùng có khi đáng sợ mà người sắp lìa đời thấy được
trong khi những người đang sống (y, bác sĩ, thân nhân người hấp hối
không thể thấy...
Bác
sĩ Melvin Morse cho hay là có lần một em bé tên John 11 tuổi đang kề
cận với cái chết trong bệnh viện mà ông có nhiệm vụ theo dõi bệnh
trạng. Em này bị bướu giác tính ở hạch Bạch huyết Lymphoma - Vì trường
hợp của bé John đặc biệt, không thể dùng thuốc an thần - Do đó theo bác
sĩ Melvin Morse, em bé này đã ra đi thật an bình - Trước khi thở hơi
cuối cùng, bé mở mắt nói với người thân đang vây quanh giường: "Ba má và các anh chị hãy cầu nguyện cho con - Chúa đang ở trong phòng, trước mặt con đó! "
Nói xong bé nhắm mắt và mất một các an bình tự tại. Theo bác sĩ
Melvin, người chuyên nghiên cứu những gì bên kia cõi chết thì trường hợp
đặc biệt của bé John đã xảy ra trước mắt của nhiều y tá và bác sĩ trong
bệnh viện. Bé ra đi một cách thanh thản tự nhiên - điều mà tất cả mọi
người có mặt hôm đó hiếm khi thấy - Thắc mắc nêu ra lúc bấy giờ đã được
bác sĩ Melvin Morse trả lời dứt khoát rằng: "..đó là do bé John lúc cận
kề cái chết, may mắn đã không dùng thuốc an thần!”. Theo các Lạt Ma Tây
Tạng thì giờ phút hấp hối rất quan trọng, nếu trí óc thần trí u lối, mê
mờ, hoang mang vô định thì rất dễ lạc vào cõi giới tối tăm khốn khổ -
Dùng thuốc an thần lúc hấp hối chính là khiến thần trí người đó mê mờ
như kẻ mộng du, say rượu. Giây phút ra đi, tâm trí cần phải an bình,
sáng suốt mới nhận thức được đâu là nơi đáng tới, nơi không nên vào. Vì
theo Phật giáo, khi chết bất cứ ai cũng phải vào một trong 6 cõi giới
gọi là Lục đạo - chỉ ngoại trừ những bậc tu hành đắc đạo, thanh cao là
không bị đưa vào đó theo nghiệp báo của họ gây ra khi còn sống mà thôi.
10)
Tại các bệnh viện thường có dụng cụ giật điện giúp hồi sinh cho người
bị kích ngất. Cũng theo bác sĩ Melvin Morse thì vấn đề sử dụng loại giật
điện giúp hồi sinh này cần phải cẩn thận - nên dùng như trường hợp đứng
tim chẳng hạn. Còn trường hợp chết vì ung thư hay bệnh không thể chữa
khỏi thì không dùng là hơn. Nếu vì lý do thân nhân yêu cầu thì cũng nên
hạn chế. Có khi vì muốn thấy mặt lần cuối hay nghe lời trăn trối sau
cùng mà phải dùng tới dụng cụ giật điện giúp người mới chết hồi sinh
chốc lát thì quả là sai lầm. Sai lầm thứ nhất là làm người sắp qua đời
phải chịu đau đớn khủng khiếp - nếu chỉ vài phút hồi sinh rồi mất thì
tâm trí người ấy đâu còn minh mẫn an bình nữa? Sai lầm thứ hai: người ra
đi phải đúng giờ giấc, không dùng dằng hay bị níu kẻo - giờ phút quan
trọng đã tới mà lại làm họ "trễ chuyến đi" cũng như gây hoang mang
nghiệt ngả tâm hồn thì quả thật là vô cùng tai hại... Chết trong khi
được cầu nguyện là điều vạn hạnh. Những bậc tu chứng thường cho rằng:
một người đang chú tâm cầu nguyện, đọc kinh, tụng kinh mà tự nhiên bị
chết thì tâm linh người ấy đã được trong sáng, đã đi vào trong lời cầu
nguyện nên họ chết trong an lạc. Các bậc thầy kinh nghiệm về tu tập cho
biết rằng: lúc sắp qua đời nếu người sấp mất ấy cầu nguyện được tái
sinh làm người với mục đích giúp đỡ kẻ khác - họ chú tâm cầu nguyện mãi
như thế cho tới khi nhắm mắt xuôi tay thì phần lớn người ấy sẽ tái sinh
vào một kiếp người đầy hạnh phúc an vui. Do đó khi còn sống, hằng ngày
ta cũng nên tâm niệm như thế, ngay cả khi đang đi, nằm, ngồi hay làm
việc - Tập quen như thế rồi thì khi sắp lâm chung ta sẽ quen với tâm
niệm tốt lành ấy.
Nhiều
vị Lạt Ma Tây Tạng khuyên thân nhân người chết để ý điều này: Nếu
người qua đời để lại một số của cải hoặc người đó mất đi thân nhân sẽ
hưởng một số tiền nào đó như đền bù vì tai nạn, bảo hiểm, chết trận vân
vân - Thân nhân không nên tiêu dùng hết số tiền đó mà nên trích ra một
ích cho hội từ thiện hay đích thân đi làm việc thiện, cứu giúp người
nghèo vừa giúp lòng tâm mình bớt áy náy vừa làm vui lòng vong linh người
đã khuất.
Người
Việt Nam cũng vậy, lúc có người thân mất phần lớn họ không nhận tiền
phúng điếu (chỉ ngoại trừ gia đình người qua đời quá nghèo túng không
mua nổi áo quan hay chi phí lễ tang ma... thì nhận nhưng cũng giới hạn).
THÂN XÁC NGƯỜI MỚI MẤT NÊN GIỮ BAO LÂU
Kinh
nghiệm cổ xưa của một số nước như Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam và nhất
là Tây Tạng thì thời gian 3 ngày là thời gian cần thiết không hơn không
kém để giữ thân xác người mới qua đời cẩn thận trước khi chôn cất hay
thiêu xác.
Trong
3 ngày ấy, không nên đụng tới thân xác nhất là không nên thoa xức, hay
tiêm chích vào cơ thể người mới mất bất cứ thứ gì.
Theo các vị Lạt Ma Tây Tạng thì khi chết, Thần thức rời khỏi Thân xác qua một huyệt đạo
nào đó trên thân xác nhất là ở đỉnh đầu. Nhưng nếu ta đụng chạm hay
tiêm, chích vào da thịt lúc ấy thì Thần thức có thể bị động nên có thể
thoát ra từ một nơi nào gần nhất chớ không từ đỉnh đầu - mà Thần thức
một khi thoát ra bất ngờ và không đúng vị trí như vậy sẽ mang lại sự rủi
ro, bất lợi cho lúc tái sanh. Vì thế, khi đã biết chắc rằng người bệnh
không thể nào qua khỏi thì nên yêu cầu bác sĩ gở bỏ những thứ y cụ trên
người bệnh nhân nhất là các kim chích ra khỏi cơ thể.
Đại Đức Sogal Rinpoche đã từng thuyết giảng rằng
"Muốn vơi đi thật nhiều nổi đau thương về người thân mất thì không gì
hơn là hãy tiếp tục thực hiện những gì mà khi sống người ấy mong ước hay
còn dang dở. chưa xong” Ngay cả những lầm lỗi mà lúc sống họ đã
gây ra ta cũng nên tha thứ... cũng như những gì mình làm họ khổ đau
thiệt hại thì cũng phải ăn năn.
KHI MẤT, THÂN XÁC NÊN CHÔN HAY THIÊU?
Đối
với người Tây Tạng, họ đã nghe các vị Lạt Ma giảng giải từ tấm bé rằng
thân xác của mỗi con người là vật tạm bợ như bộ áo quần để mặt mà thôi -
khi chết giống như là cởi bỏ bộ áo quần cũ đi đầu thai chuyển vào một
sinh mệnh mới như mặc bộ đồ mới khác. Chỉ cần quan sát xác thân một
người chết bên bờ bịu không ai thừa nhận lâu ngày tan rã tỏa mùi hôi hám
thì sẽ thấy rõ cái xác thân chỉ là cái tạm thời. Do đó khi chết người
Tây Tạng thường hỏa táng xác chết - Cái thây người chết được xem như
biểu tượng của tất cả nghiệp ác - Nên khi thân xác bị lửa thiêu cháy thì
những nghiệp ác tiêu tan và đồng thời phát ra ánh sáng rực rỡ. Câu
Thần chú giúp xóa tan ác nghiệp của người qua đời đang rực cháy trong
lửa là OM VAJRA SATTIVA HUM (ý nghĩa của câu chú là mong mỏi Thần Kim
cương tát đỏa chuyển hóa Ác Nghiệp..). Ngoài ra có một câu chú khác giúp
người chết không bị mê mờ u tối lạc vào 6 nẻo luân hồi – Câu chú đó là A
A HA SHA SA MA.
Theo
niềm tin của phần lớn người Đông phương thì khi chết phần lớn người
chết vẫn còn mơ hồ chưa biết là mình đã chết - Vì thế họ thường quay trở
lại nhà và sống như lúc đang còn sống mặc dù người thân chẳng thấy
chẳng biết có họ hiện diện. Có khi họ mượn tạm xác thân đã chết để
hiện ra trong chốc lát mà người sống khi thấy hoảng sợ và gọi là Ma. Kinh nghiệm dân gian cho thấy ở những nơi xảy ra tai nạn chết người
"hồn" người chết thường hiện ra với bộ quần áo họ mặc lúc bị tai nạn. Vì lý do đó mà khi chết nên thiêu xác để người chết không thể mượn xác
thân của mình để hiện ra nữa hoặc không còn quyến luyến cái thân xác cũ
nữa...
Một
số vị đại sư còn cho rằng: khi chết thân xác sẽ dần dần tan rã, dù đem
chôn thì lâu ngày xác thân cũng bị các loài vi sinh vật đục khoét biến
dạng rất ghê rợn - Do đó chỉ có thiêu xác là tránh được nhiều điều không
hay.
Người
Âu Mỹ trước đây không nghĩ tới vấn đề thiêu xác khi chết, những ngày
nay nhiều người đã nhận thấy ít nhất là về mặt vệ sinh, thực tế thì việc
thiêu xác tốt lành thuận lợi hơn chôn cất xác chết rất nhiều - việc duy
trì bảo quản hoặc phải di chuyển cũng dễ dàng, ít tốn kém... Mới đây,
trong năm 1999 John F Kennedy Jr, vợ và chị vợ bị chết vì tai nạn phi cơ
đã hỏa thiêu theo truyền thống Phật giáo và công chúa Margaret cũng yêu
cầu được thiêu xác mình chớ không chôn khi bà mất vào năm 71 tuổi.
Dù
người thân qua đời ta thương quý đến mấy cũng không thể chôn cất trong
vườn nhà để được gần gũi. Nếu là tro cốt của họ, ta cũng không đặt thờ
trong nhà. Tốt nhất là đem thờ ở Chùa hay nhà Thờ hoặc chôn cất làm mộ
chí như bình thường. Khoảng 5 năm sau tro cất được thờ nên đem rãi
trên biển là tốt nhất.
KHI CHẾT KHÔNG MANG THEO ÐƯỢC GÌ – KHI CHẾT, TA RA ÐI VỚI 2 BÀN TAY TRẮNG...
Người
giàu có, sống trên của cải nhưng khi họ chết đi, hai tay buông xuôi thì
họ trở thành tay trắng vì không mang theo được dù một chút của cải vật
chất nào. Sự kiện thực tế ấy từ lúc con người xuất hiện trên quả đất
cho đến nay đều thấy rõ, không ai chối cải, vậy mà từ xưa tới nay có
biết bao người quyết chí làm giàu, lúc nào cũng mong tiền bạc đến với
mình không dứt. Họ sống vì tiền, vui thú vì lo thu nhặt tiền bạc vào
cho đầy túi nhưng không bao giờ chấm dứt được cái ham muốn ấy vì lòng
tham quá mức. Đến khi xuôi tay thì tất cả tiền bạc của cải ấy đều để lại
thế gian còn họ thì nằm dưới lòng đất lạnh.
Người
giàu Cũng như người nghèo, khi chết hai tay buông xuôi, không mang theo
được gì - Cái mang theo thật sự là cái Nghiệp - Vì thế đôi khi sau khi
chết người giàu có không chắc gì sung sướng hơn người nghèo hèn - Lý do
là có người lúc sống nghèo nàn vì họ sống với thiện tâm không làm sai
quấy, gây điều tội lỗi. Có người lúc sống rất giàu có nhưng gian ác bất
lương thì Nghiệp dữ đó sẽ làm họ khổ sở ở đời sau.
Có
biết bao nhà triệu phú, tỷ phú sống trên của cải, có người hằng chục tỷ
mỹ Kim, khi chết không mang theo được một câu nhỏ. Ngay khi đang làm
giàu họ luôn luôn phải phấn đấu, tranh dành, mưu lược để chống chọi lại
với những gì bất lợi đến với mình. Do đó lâm hồn những người giàu có
thường bất an, hồi hộp, lo lắng, mệt trí vì tính toán không những thế họ
thường keo kiệt không dám giúp đỡ ai vì sợ số tiền có được của mình hao
hụt đi. Có người, ngay chính bản thân họ cũng không dám ăn tiêu huống
hồ là nói đến chuyện giúp đỡ kẻ khác. Ngày nay càng có nhiều đại phú
gia, nhiều người giàu có, tất cả đều bị
như thế, nhưng không biết mình như thế. Đôi khi họ còn chê cười phê
bình chỉ trích người khác keo kiệt hà tiện. Cái mê mờ u tối ấy đã từng
bao phủ biết bao người khiến họ không thoát ra được để thấy cái ánh sáng
vi diệu của sự giúp đỡ bố thí kẻ khác.
Phần
đông những người càng giàu có họ lại càng có cái Tâm Tiếc Rẽ. Lý do là
vì lòng tham con người quá lớn, có rồi muốn có thêm nữa vì thế nếu đem
cho, giúp đỡ bố thí thì tiền của sẽ hao hụt, làm sao lợi nhuận tăng
thêm? Nhiều người lại nghĩ sai khi cho rằng bố thí là việc làm của kẻ
giàu có. Họ bảo "tôi đâu phải là người giàu, tiền bạc ít ỏi, làm sao
tôi có đủ để bố thí giúp đỡ ai?"... Nghĩ như vậy là sai. Bố thí không
phải bắt buộc phải nhiều. "Của ít lòng nhiều" ... là câu nói của cổ nhân
ta từ lâu nhắc nhở cho thấy của cho quan trọng ở tấm lòng.
Những
người hay gây hấn hay làm phiền kẻ khác luôn luôn bất an, không những
lúc thức mà có khi ngũ và nằm mộng. Trái lại nếu bạn sống an hòa vui
vẻ với mọi người thì bạn sẽ thảnh thơi hạnh phúc suốt đời...(Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(Sơ lược một số tài liệu tham khảo chính)
- Huyền học đạo Phật và Thiên Chúa - D.T Suzuki - Như Hạnh dịch – Kinh Thi xuất bản Sài gòn – 1974.
- Cơ sở Mật giáo Tây Tạng - Lama anagarika Govinda- Như Pháp Quân Trần Ngọc Anh dịch - nhà xụất bản Thế giới – 1995 - Hoa Kỳ.
- Bí ẩn sau cõi Chết - Đoàn văn Thông - Nguồn sống Xuất bản –1994 - USA
- Siêu hình – Tình Yêu - Siêu hình sự Chết – Schopenhauer - Hoàng Thiên Nguyễn dịch- Kinh Thi xuất bản – 1974.
- Tạng Thư Sống Chết (The Tibetan Book of Living and dying)- Sogyal Rinpoche
- Xuất Thu ấn hành - xuất bản - 1996.
- Sống và Chết - Thích Chánh Lạc - Phú lâu Na Tùng thư VI - 1987 – Hoa Kỳ
- Biên giới Tử Sanh - Đoàn văn Thông - Hải Ngoai xuất bản – 2000 - USA.
- Bí ẩn về tiền kiếp, Hậu kiếp - Đoàn văn Thông- Nguồn sống xuất bản- in lần thứ 5- năm 2000 -Hoa Kỳ
- Vãng Sanh quan yếu - Dịch giả Viên Thông - Chúng Liên Trì ấn tống – 1988 – Hoa Kỳ
- How to be Born Again - Billy Graham - world Books Publisher - 1977- USA.
- Life After Death - Elizabeth Hanley - New York- 1977- USA.
- Le livre des Morts des anciens Egyptiens - Pierre Barguet- Paris - 1967.
- Death and Immortality - Phillips, D.Z. 1970
- The Future of the Body - Michael Murphy - Jeremy P. Tarcher Inc. Los Angeles- 1992 - USA.
- Death and After life - David.T - 1989.
- Les Morts nous parlent - Brune, Francois - 1988.
- Out of the body Experiences - Robert Crookall (A citadel Press Book Published by Canh, Publising Group – 1992 - USA.
- One hundred cases for survival after Death - Baird, A.T. – 1943 - London.
- The next World - and the Next - R. Crookall- 1966 - Lodon.
- The mystical Life - J.H.M: Whiteman - 1961- USA.
- Sống Hạnh phúc - chết Bình an - The Joy of living - Dying in peace - Đạt Lai Lạt Ma thứ 14- Chân Huyền dịch - Làng Cây Phong xuất bản - 2003-USA.
(Hết)
(Hết)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét