Chủ Nhật, 18 tháng 10, 2015

SỬ THUYẾT HỌ HÙNG

M175 khoảng lặng kỳ diệu, 25 ngàn năm đúc nên dòng giống HÙNG
*****
Nghĩ thuyền hà thạch tố thanh ba
Lũng lại tranh nghênh xứ Bái qua
Lô Thủy phân (phiên) ly Thao tục (tụ) Lạc
Văn lang nhật nguyệt Thục sơn hà
Phạm Sư Mạnh (thế kỷ 14)

Điều cần nói.
Trích vài hàng Việt nam sử lược của Trần trọng Kim ....

...Nhân dịp Thái-tông nhường ngôi cho Thánh-tông, vua Mông-cổ sai sứ sang phong vương cho Thánh-tông, và tuy không bắt nước Nam phải đổi phục-sắc và chính-trị, nhưng định cho ba năm phải một lần cống. Mà lệ cống thì phải cho nho-sĩ, thầy thuốc, thầy bói, thầy toán-số và thợ-thuyền mổi hạng ba người, cùng với các sản-vật như là sừng tê, ngà voi, đồi-mồi, châu-báu và các vật lạ...
Thực kỳ lạ ...Mông cổ đã là chủ Trung nguyên ...tại sao còn bắt ‘An Nam ’ cống nho sĩ , thầy thuốc , thầy toán số .v.v. .?

Việc này chỉ ra ....vua Mông cổ biết rất rõ cái gốc của văn minh Trung hoa nằm ở đâu.
Thật trớ trêu vì không phải chỉ người ngoài mà chính người Việt cũng không mấy ai biết điều ấy nên vẫn ...‘nặng bên ngoại nhẹ bên nội’ thường xem những gì ‘sưu tầm’ được ở bên Tàu là quan trọng là đáng tin hơn những gì tìm thấy trong nước ; thậm chí chẳng ai thèm để ý đến những gì ghi chép trong thần tích thần phả nói riêng và nói chung là hết thảy những gì tìm kiếm được trong dân gian ..., nếu có người nêu ra vấn đề gì đó ...thì các nhà ‘ngâm cứu’danh gía cũng chỉ lướt qua như cơn gió thoảng mà thôi , có khi còn tra vặn lại ...như quan án xử tội nhân vậy , nguy hại biết mấy khi không phải chỉ giới có ‘máu mặt’ mà dân gian cũng thế .
-‘Bác sĩ Trung y’ thì trọng vọng còn ‘thày lang’ nhà ta thì chẳng mấy ai nể ...thậm chí còn khinh khỉnh coi thường châm chích bằng từ ‘ lang vườn’ do chẩn đoán và bốc thuốc không có vẻ gì là... khoa học (?) ;tương sinh tương khắc vớ vẩn mà là cơ sở để chẩn và trị bệnh sao ?.
- ‘Nhà Nho’ngày nay xem ra vẫn còn giữ được chút ‘danh gía’nhưng lại coi như đó là cái bóng của văn minh Trung hoa ...có ai nghĩ đến Việt Nho và nền văn minh Việt đâu.
-Thể tạng người Việt tương đối nhỏ mà ngàn năm qua chúng ta mấy khi được yên ...vậy cha ông ta làm sao giữ được nước trước đám giặc thù hung bạo dữ dằn như hổ báo nếu không có 1 nền võ học cực kỳ tinh diệu cương mãnh bên cạnh tài thao lược tinh thần yêu nước và chí quật cường ; xin hỏi hiện nay có 1 cơ quan hay bộ phận nào đó của nhà nước đứng ra thu thập và hệ thống hoá nghiên cứu 1 cách có bài có bản để bảo tồn và phát huy tinh hoa võ học Việt nam ? cũng may nhờ 1 số người có tâm huyết nên người Việt có được 1 VOVINAM-VIỆT võ đạo đang phát triển trên tầm mức toàn cầu ..

Tâm lý ... ‘học trò’ của Tàu ăn sâu trong đầu óc đã khiến nhiều người tự xếp vào hàng dưới không dám trèo cao tranh hơn với thày là điều vô cùng nguy hại cho tương lai dân tộc , làm sao có thể chấn dân - hưng quốc với bộ não bẹp dí như thế ?

Người Việt ơi ; hãy xem việc vua Mông cổ bắt chúng ta phải cống các bậc anh tài trong khi họ đã là chủ Trung nguyên ‘người tài như sao trên trời’ thì mới đánh gía đúng tài trí của cha ông mình , nếu không xếp kèo trên ...thì ít nhất cũng chẳng kém gì ai , đã đến lúc phải lượng giá lại những gì ta đang có ; tự cân nhắc lại tầm vóc của chính mình , nhiều người với nhiều công trình nghiên cứu đang chứng tỏ cái gốc Dịch học nằm trên giải đất này như thế chắc chắn đỉnh cao của Nho Y Lý Số và võ thuật cũng đang chứa giữ ở đây , quan trọng là có biết cách khơi đào để nước từ nguồn mạch chảy ra hay không , việc này không 1 cá nhân hay 1 nhóm người nào có thể làm được mà phải xem là quốc sách , toàn dân tham gia mọi người hành động thì mới có cơ may thành công .
Tương lai ra sao được quyết định từ ngày hôm nay .

Thưa cùng bạn đọc .

Bạn đọc thân .

Sự nhìn nhận của ‘Sử thuyết họ HÙNG” về Trung hoa rất rõ ràng :
Trên mảnh đất gọi là Trung quốc ngày nay có 2 thành phần dân cư chính là HOA và HÁN , 2 thành phần này khác nhau hoàn toàn từ nhân chủng đến văn hoá và Lịch sử , mãi đến thời Nguyên vua mông cổ vẫn chia dân Trung Hoa thành người Hán và người Nam , thực ra từ Hán chỉ là biến âm của 'Hãn' có nghĩa là vua theo ngôn ngữ của người Mongoloid ; người Hán là người gọi vua là HÃN thuộc chủng Mongoloid , người Nam thuộc dòng Mongoloid phương nam gọi vua là LANG ký âm hán tự sai thành NAM .

Người Nam chính là phần lớn người Bách Việt xưa còn gọi là người HOA cùng với người VIỆT là chủ nhân đích thực của nền văn hóa văn minh Trung hoa cổ xưa , Hán tộc chỉ là kẻ xâm lăng và chiếm đoạt .

Mục đích của Sử thuyết họ HÙNG là làm sáng tỏ nguồn gốc lịch sử và nền văn minh Bách Việt trong đó tiền nhân người Việt nam xưa thuộc chi Lạc Việt có vai trò suối nguồn . .

- Ngày nay hầu như mọi người đều tưởng dân tộc và văn minh Trung hoa xuất phát từ bờ Hoàng hà như thế đương nhiên công nhận chủ thể lịch sử và văn minh trung hoa là Hán tộc , Sử thuyết họ Hùng đưa ra quan điểm ngược lại , người Hoa và người Việt gọi chung là người họ Hùng mới là chủ thể đích thực của lịch sử và văn minh Trung hoa , nơi xuất phát cuả dân tộc và nền văn minh ấy là miền bắc - trung Việt ngày nay , vùng đất có núi Đọ sông Cả sông Chu và sông Mã . Từ căn cứ xuất phát này dần dà qua từng triều đại người họ HÙNG mở rộng lãnh thổ , hướng Bắc (ngày nay) là hướng tiến chính , tới đời ÂN lãnh thổ đã vượt bờ Hoàng hà ở bắc tỉnh Hà nam trung quốc ngày nay nơi có kinh đô đã được khảo cổ học khám phá , đời Tần mở rộng tới vạn lý trường thành .

Dân tộc Hán hiểu như cộng đồng người gọi vua là Hãn thì chỉ mới xuất hiện trên qủa đất vào đầu công nguyên sau cuộc nổi loạn của bọn ‘lục lâm thảo khấu’ còn gọi là bọn giặc cỏ , Lưu Huyền Canh thủy đế là Khả Hãn đầu tiên khai sinh ra 1 Hãn quốc ở vùng Hoàng hà , có Hãn quốc mới có Hãn dân , Hán tộc nên cội nguồn Hán tộc không liên quan gì đến cổ sử Trung hoa , toàn bộ lịch sử thời thái cổ là sự ghi chép qúa trình khai sinh dân tộc và dựng nước của người họ HÙNG đã bị các sử gia Hán tôc ‘đánh cắp’ ; chính vì vậy nếu đi tìm vết tích những triều vua huyền thoại như Nghiêu -Thuấn ở vùng Hoàng hà thì chỉ mất công toi ...kết qủa chỉ là sự vênh lệch không hiểu nổi....vì những gì tìm thấy chỉ là những vết tích còn lại của thời thiền vu Tổ, thiền vu Cố , thiền vu Ông Cha gì đó ...mà thôi . (Thiền vu Man ngữ nghĩa là tù trưởng ).

Khúc rẽ lịch sử xảy ra Từ những năm đầu công nguyên , Hán tộc dưới 2 triều Tiền và Hậu của nước Hãn trong vòng một nửa thế kỷ vùng dậy không những chiếm lại hết vùng Hoàng hà mà thừa thắng chiếm luôn gần hết đất của con cháu dòng họ HÙNG phía nam tới tận đất Việt ngày nay đặt phần lớn con cháu dòng họ Hùng dưới móng ngựa của họ hơn 500 năm . . Việc tráo trở lừa gạt lớn nhất trong lịch sử nhân loại đã bắt đầu ngay từ thời này với việc Mã Viện thu trống đồng để đúc ngựa ...( trống đồng là biểu tượng của nền văn minh họ HÙNG , con Ngựa là biểu tượng của nền văn minh Mongoloid Hoàng hà ).và còn được tiếp nối liên tục dưới thời các Khả hãn tiếp sau đặc biệt khốc liệt - triệt để nhất là Mãn thanh dưới thời 3 bố con Khang Hy - Ung Chính - Càn Long ; như vậy bề dày lịch sử của sự tráo đổi cộng lại cũng có trên ngàn năm , sau cơn đại hồng thuỷ văn hóa ‘Tứ khố toàn thư’ do Cuồng long (Càn) tạo ra thì ta không còn nhận ra ta nữa...

Chính vì lẽ này mà việc phục nguyên lịch sử và văn minh Trung hoa đích thực ngày nay đã trở nên ...thiên nan vạn nan...nhưng không lẽ đành ‘bó tay’ sao?

Tôi nghĩ .... Bất cứ việc gì dù khó tới đâu cũng có thể làm được miễn có sự đồng tâm hiệp lực cộng với sự bền bỉ ,chắc chắn một ngày nào đó mọi chuyện sẽ sáng tỏ .

Phương cách tiến hành công việc cụ thể của tôi là dựa vào 1 số dữ kiện đã thu thập ban đầu có thể là chưa đầy đủ để xây dựng nên 1 sử thuyết , công đoạn này đã xong , ‘Sử thuyết họ HÙNG’ đã trình làng ;tiếp đến giai đoạn sau là củng cố lập luận bằng các chứng liệu chắc chắn được chấp nhận theo các tiêu chí của khoa học lịch sử , giai đoạn này hy vọng rằng sẽ nhận được ý kiến của đông đảo bạn đọc , với sự phản bác , sửa chữa , bổ sung, củng cố ...cứ như thế lập đi lập lại ....dần dần lịch sử chân xác sẽ hiện ra rõ ràng không thể phủ nhận được nữa tức mục tiêu theo đuổi đã đạt đến .

Sử thuyết họ HÙNG đã : -xác định nguồn gốc tổ tiên ông bà của người Việt hiện nay để thờ cúng theo đạo hiếu , gột rửa đi tội 'chửi cha mắng mẹ' mà xưa nay do bị bịt mắt lừa gạt nên đã lỡ phạm ... (như nguyền rủa Hoàng đế vì ...tội đã đánh Viêm đế chiếm nước của tổ tiên Việt ....)

-khôi phục sự Hùng Tráng trong con cháu họ HÙNG đúng như tầm cỡ mà cha ông đã dùng mồ hôi và xương máu tạo dựng nên . tương lai ...không thể có cộng đồng Việt HÙNG TRÁNG nếu không có người Việt Hùng tráng.

-tạo nên cái nhìn mới về các sắc tộc ở Việt nam và Đông nam á để anh em nhìn nhau trong tình máu mủ ruột thịt , liên kết chặt hơn xẻ chia nâng đỡ nhau nhiều hơn .

-Minh định trước nhân loại những thành tựu trí tuệ của tiền nhân người Việt , xác định chủ nhân của nền văn minh hiện đang được biết tới dưới tên gọi văn minh trung hoa để từ đó người Việt kế thừa và phát huy khiến nó ngày một tỏa sáng hơn nữa , quyết tâm chống lại sự tái 'chiếm đoạt' như đã từng xảy ra trong qúa khứ .( hiện người Tàu đã ngang nhiên gọi đông y là Trung y và họ đang muốn đăng ký độc quyền nhãn hiệu trên toàn cầu...)

Và sau cùng là chút mong manh dành cho những đứa con đang lầm lạc...hãy mau quay về tìm nhận tổ tiên đích thực của mình ....không có gì báo đáp công ơn tiền nhân thì chí ít cũng đừng táng tận lương tâm....rước ‘ngựa’ về dày mả tổ , xin hãy quay lại ...nước mắt mẹ cha bao giờ cũng chảy xuống …

Thưa các bạn , Sử việt nam và Trung quốc ngày nay vì đứng trên 2 quan điểm khác nhau nên có những Giai đoạn lịch sử khác nhau bên cạnh giai đoạn Trùng nhau hay nói khác đi chỉ là một . Trung quốc ngày nay là 1 hợp chủng quốc do nhiều dân tộc hợp thành trong đó con cháu người Bách Việt vùng Hoa nam có vai trò trung tâm bên cạnh các tộc người khác là Hán, Hung, mông ,mãn .v.v.

Sử Việt là lịch sử thuần của dòng Bách Việt mà chi duy nhất còn lại là Lạc Việt tiền nhân của người Việt nam ngày nay .

Những giai đoạn trùng nhau là thời kỳ người Bách Việt làm chủ thiên hạ vì lúc này Sử Trung quốc và sử Việt cùng là sử của người Bách Việt .

Giai đoạn khác nhau là thời ngoại nhân làm chủ , con dân Bách Việt là nô lệ :

- *Sử trung quốc với quan điểm ‘hợp chủng quốc’ vẫn coi đó là 1 triều đại chính thống .

-*Sử Việt trên quan điểm thuần nòi giống Việt coi đó là thời lệ thuộc ngoại bang thường gọi là thời bắc thuộc.

Chính vì có những thời 2 dòng sử trùng nhau đã nêu trong Sử thuyết họ HÙNG khiến có bạn đọc nói là ...lấy sử Tàu làm sử ta ....

xin bạn đọc kỹ Sử thuyết họ HÙNG và Văn minh họ HÙNG để biết rõ hơn về từng thời kỳ và đặc biệt là không gian sống của dòng Việt trong thời kỳ lịch sử ấy , lãnh thổ của người Việt đã có thời vô cùng to lớn chứ không phải chỉ bó hẹp trong diện tích lãnh thổ hiện nay .

Còn bạn có thể hỏi tại sao lại chỉ trùng nhau về đại thể còn chi tiết thì không giống chút nào ....

- Như tôi đã nhiều lần trình bày ...ở Trung quốc sau ‘Tứ khố toàn thư’ thì chẳng còn gì hoàn toàn thật , trong tất cả sách vở những gì không có lợi cho sự cai trị của nhà Mãn thanh đều đã bị cạo sửa..., sách sử cũng không ngoại lệ nên trong sử Trung quốc ngày nay thật giả lẫn lộn...chúng hoà trộn vào nhau để tạo thành 1 pho sử mang dấu ấn ...‘Càn long chế phẩm’.trong đó nét chính là ....sự độc tôn của Hán tộc ; toàn bộ lịch sử và văn minh người Trung quốc xuất phát từ bờ Hoàng hà..., Hoa nam chỉ là vùng được Hán tộc khai hoá sau này .

- Còn ở Việt nam thì sau thời cai trị của giặc Minh sử liệu chúng ta chẳng còn gì , với mục tiêu rõ rệt là : xoá bằng sạch mọi dấu tích về nguồn gốc người Việt , Minh Thành tổ đã ra lệnh cướp sạch ,đốt sạch , đập sạch ,phá sạch ...., phải nói thật lòng : Lịch sử Việt ngày nay là lịch sử khôi phục từ ký ức mà ký ức dân gian qua khoảng thời gian gần ngàn năm thống khổ cùng cực lúc nào dao cũng kề cổ thì làm sao còn có thể nhớ lại đầy đủ chính xác mọi chi tiết cả 5000 năm lịch sử dân tộc ., tệ hại hơn sau này nguồn sử liệu duy nhất có thể tham khảo , đối chiếu lại là ....‘tứ khố toàn thư’ ... nên đã khó càng thêm khó. Với lý do như trên mà 2 dòng sử Việt nam và Trung hoa dù cùng viết về 1 giai đoạn lịch sử của người Bách Việt vẫn có các chi tiết khác nhau như chúng ta đang thấy ; cũng chính vì điều này để có được lịch sử dòng giống Việt chân xác- rõ ràng -chi tiết thì cầm chắc còn phải tốn rất nhiều công sức và thời gian ..., thực .... thiên nan vạn nan !

Thưa các bạn . - Tôi chỉ là người khơi gợi nên một ý hướng , trải đầu óc mình ra trang giấy và mời gọi mọi người tham gia luận bàn ,sửa chữa ,bổ sung ...trên tinh thần Trung thực ,tôn kính tiền nhân và tôn trọng lẫn nhau xin các bạn cứ viết thoải mái ....tôi nghĩ lịch sử dân tộc , đất nước chúng ta còn muôn vàn điều phải tìm biết ...nếu không chấp nhận lối hiểu ....Giao chỉ là ....2 ngón chân cái bẹt ra khi đứng giao với nhau....hoặc Văn lang là nước ‘cau sọc’, Hùng vương là anh thợ săn đã bắt được con gấu nên được tôn là Hùng trưởng (hùng = gấu) , hay những điều truyền tụng ở vùng nam Trung hoa ...: ông Hạ vũ biến thành con gấu (hùng) vợ thấy vậy lăn ra chết biến thành hòn núi đá ̣(Đồ sơn thị)…. Chúng ta đã có chính sử từ lâu …nhưng xem ra cái biết về lịch sứ nước nhà vẫn còn lơ mơ lắm ngay với những điều căn bản gốc gác cũng chưa biết đích xác ...như :

Việt nam nghĩa là gì ? quốc hiệu Việt nam có từ bao giờ ....? chưa biết đích xác . Ai cũng biết ta là con cháu Hùng vương nhưng Hùng nghĩa là gì ?...còn đang tranh luận , 18 Hùng vương nằm ở quãng thời gian nào trong lịch sử ? ...chưa biết đích xác . Hàng lọat từ là cốt lõi của Việt sử như Giao chỉ - Việt thường , Hồng bàng , Nam bang , Văn lang .v.v. ...còn đang tìm hiểu suy đoán .... Đất nước mà có tới 4 đời vua gốc “Tàu” mà lại toàn là những thời lừng lẫy.... thì còn gì là sử ‘nước ta’̣...? thực là sai 1 ly đi 1 dặm ...đúng ra những ông vua khai sáng 4 triều đại :Lý Bôn , Hồ quý Ly, nhà Trần và Hồ Thơm phải viết là người gốc ‘Bách Việt’, ... Sử gia mà không biết phân biệt Tàu và Bách Việt thì hỏng to ...

- Những điều lớn đã vậy những điều ‘nhỏ’ còn kỳ quái hơn như chuyện giặc Nùng : Nùng trí Cao ....năm 1052 xưng Là Nhân Huệ hoàng đế tổ chức triều chính đặt quốc hiệu là Đại nam sau thất bại trong nỗ lực ngoại giao ..., tiến công chiếm Quảng đông- Quảng tây Trung quốc , bình định vùng chiếm đóng và chuẩn bị nhân tài vật lực và tiến công Ba Thục ....chống trả đánh bại các cuộc phản công của quân binh nhà Tống....sau cùng thất trận trước danh tướng Địch Thanh phải trốn chạy vào tháng 10 năm 1053... tất cả những việc long trời lở đất như thế xảy ra chóng vanh trong thời gian chỉ có 1 năm ...? đọc đoạn sử trên tưởng như đùa , 2 tỉnh Quảng Đông Quảng tây chắc cỡ 2 phường của thành phố Hồ chí Minh.... không cần đầu óc thông thái gì ta cũng biết trong thực tế diễn biến sự việc không thể nào xảy ra như thế được trừ khi Nùng trí Cao là Tề thiên đại thánh ...hô biến một cái là xong.

Đó là chuyện xưa ...còn đây là chuyện gần tính theo thời gian thì còn nóng hôi hổi ...

Người Việt có mấy ai biết con cháu họ Hùng trước thuộc lãnh thổ Đông chu (Việt nam ), nước Yên ( Chiêm thành ) , Tề ( Phù nam ) ,Lỗ ( Lão qua ) đã quây quần tụ hội thời nhà Nguyễn ...vương triều sau cùng của Đại Việt Nam mà biên giới phía tây xa tới tận Thái lan – Miến Điện , ( Đại nam nhất thống toàn đồ ) Viên Chăn và Chân Lạp chỉ là 2 thuộ̣c quốc nằm trong Đại Nam tổ quốc chung của con cháu họ HÙNG , khi lập bản đồ Đông dương người Pháp đã ‘ ngang nhiên ’ cắt cả 1 vùng rộng lớn thuộc tây bắc Việt Nam ( Trấn ninh ) nhập vào nước Lào ...nay nhắc lại sự thực lịch sử này không khéo bị khối kẻ chửi bới là đầu óc đế quốc ....

Muôn vàn điều còn phải tìm ...nếu chúng ta làm rõ được một vài điều thậm chí chỉ một điều trong cái muôn vàn ấy thì công sức cả đời chúng ta cũng đã là không uổng phí .

Ở thời đại văn minh này dù muốn hay không mọi người phải chấp nhận thực tế lịch sử nên :

-Chúng ta không đòi đất cũng chẳng đòi người hay của cải vật chất nhưng kiên quyết dành lại những điều vô giá kết tinh của trí tuệ bao đời dòng giống HÙNG....

-Chúng ta chẳng tìm kiếm gì ngoài một mạch sống xuyên suốt từ qúa khứ đến hiện tại để sẵn sàng cho tương lai.

Vài lời quê mùa thô kệch xin thưa với anh em .

Nguyễn Quang Nhật

Sử thuyết HÙNG VIỆT

Bách Việt

*****

Thiên khai địa tịch lộ TAM GIANG
Kỳ tuyệt tư du ngũ vị tằng
KIỂU ngoài BÁCH MAN hoàn CỔ LŨY
Quốc TÂY cự chấn (trấn) tráng CHÂN ĐĂNG

PHẠM SƯ MẠNH (thế kỷ 14)
____________________________________________________

Bài 1 - tản mạn về sự biến âm trong ngôn ngữ VIỆT HOA

**********
Phần - Khái luận .

A - Tản mạn về sự biến âm trong tiếng VIỆT và HOA .

Một từ luôn có 2 phần ; phần thanh và phần tự hay chữ, trong bài này chỉ nói đến phần thanh không nói đến phần chữ, vì bàn đến phần chữ là đã đi vào lãnh vực chuyên sâu của ngôn ngữ học, đã là phần chuyên thì người ‘thường’ không dám lạm bàn. Cũng như bao sự việc khác, ngôn ngữ phát triển và biến đổi theo thời gian, và vị trí địa lý, nó thay đổi theo từng vùng và dân tộc. Nếu không đi nhiều cũng như không tiếp xúc thường với những người ở các nơi khác nhau, ngay chính người Việt ở thời truyền thông hiện đại, giao tiếp với nhau bằng tiếng Việt cũng chưa chắc đã trọn vẹn . Ta có thể nói là có sự khác nhau, chứ không nên xác định là sai hay đúng; chỉ có thể nói sai hay đúng so với chuẩn quốc gia, mà chuẩn quốc gia cũng là một qui định, cùng nhau qui ước là viết như thế và đọc như vậy cho thống nhất trong một chuẩn để thông tin, chuyển tải ngôn ngữ đạt được sự chính xác – tránh việc ông nói gà bà hiểu ra là vịt. Ta có thể nêu vài sự khác biệt hay thay đổi lớn trong ngôn ngữ Việt ngày nay:

- Trước đây khoảng trăm năm, khi được “La Tinh hóa” Quốc ngữ , âm ‘tr’ được viết và đọc là ‘bl’, thí dụ: Blời → Trời; Blu → Trâu không phải thay đổi rồi thôi mà có nhiều chữ vẫn song hành như: rung rinh → lung linh có nhiều sự biến đổi khác, nếu không hiểu rõ, có thể ta sẽ hiểu sai hay không hiểu nổi nhiều vấn đề, nhiều sự việc của quá khứ xa xôi. Với âm ‘l’ nhiều người miền Bắc phát âm thành âm ‘n’. Thí dụ: phương Nam → phương Lam; làng nước → nàng lước Nếu sự thay đổi âm ‘l’ và ‘n’ lại chồng lên sự thay đổi của âm ‘r’ và ‘l” thì sự khác biệt đi quá xa coi như không có sự liên quan, … nhưng nếu chúng ta liên kết những biến đổi qua các tầng nấc trung gian sẽ thấy là chúng có liên quan với nhau. ‘rú’ trong ‘rừng rú’ có nghĩa là ‘núi’, ta xem diễn biến chuyển đổi như sau: rú → lú → lúi → núi r→ l l→ n rừng → lừng → lừm → lùm (bụi) lâm (Hán-Việt) Lần theo từng mắt xích như trên, ta thấy rõ ràng “lâm” đâu có phải là từ ngoại.

Còn có nhiều thay đổi nếu không biết sẽ không hiểu nổi nhiều vấn đề của lịch sử như: Âm ‘r’ còn có thể biến âm thành ‘d’ như: râm (bóng râm) → bóng dâm Âm ‘l’ biến âm thành ‘nh’: ló → lú (lên) → nhú (lên), nhô (lên); lớn lao → nhớn nhao Từ kép: siu siu (ngủ) → thiu thiu (ngủ) siêu siêu (ngủ) Cũng có nhiều sự khác biệt rất lớn giữa phương ngữ miền Bắc và phương ngữ Nam bộ, chỉ xin khái quát vài điều rõ ràng mà thôi: - Âm ‘v’ miền Bắc, miền Nam đọc thành ‘d’, ngay trong cách phát âm tên quốc gia cũng có sự khác biệt: Việt Nam → diệc nam (viết theo cách phát âm); nếu nói “Việt” từ gốc Hán có nghĩa là “vượt” thì “diệc” hay “diệt” là gì? Âm ‘h’ ở miền Bắc thì ở miền Nam biến thành ‘gh”; tương tự âm ‘q’ cũng vậy. Thí dụ: đi hoài → đi ghoài (mãi) quốc gia → ghuấc gia hay guốc gia. Nguyên âm tiếng Việt như ‘u’ biến thành ‘o’, như tùng → tòng ‘u’ biến thành ‘âu’, như chu → châu ‘â’ biến thành‘ư’’, như nhất → nhứt, chân → chưn Thời khá xưa chữ ‘khởi’ đọc là ‘khỉ’; chữ ‘mày’ miền Trung đọc là ‘mi’, ‘ông’ → ‘ôn’. Như thế sự khác biệt thực thiên hình vạn trạng.

Đó mới chỉ là chuyện trong nhà, còn xét đến những biến âm của từ thuần Việt và Hán Việt thì còn nhiều điều phải bàn lắm như chữ ‘lâm’ và ‘lùm’ ở trên. Ta quen gọi là từ Hán Việt, thực ra chưa chắc như thế, nhiều khi còn ngược lại là đằng khác. Thí dụ: sông và xuyên; sưng và sơn; kênh lạch và kinh lạc Có nhiều từ xét về sự hợp lý theo thời gian cấu thành, tưởng là xuất phát từ Hán ngữ nay chỉ là từ biến âm của từ “Nôm”.

Thí dụ: người Việt thường nói, ‘họ hàng – hang hốc’ nếu nghiệm ra ta thấy đây là cặp từ ghép mang tính giải thích, chú dẫn về nguồn gốc : ‘hàng’ xuất phát từ ‘hang’, ‘họ’ phát xuất từ ‘hốc’. Từ thưở hồng hoang khi con người còn “ăn hang ở lỗ” thì mỗi một hang là nơi cư trú của một thị tộc gồm từ vài chục đến vài trăm người, và nhiều hang như thế hợp thành một bộ tộc hay bộ lạc, trong mỗi hang lại có nhiều ngõ ngách gọi là ‘hốc’, mỗi hốc thường là nơi cư trú của một đại gia đình; sau này dù con người không còn ở hang nữa nhưng từ ‘hang’ và ‘hốc’ vẫn được dùng để chỉ một tập thể người có liên hệ với nhau. điều đặc biệt là chúng không dừng lại ở tiếng Việt mà còn biến thành từ Hoa hay từ Hán Việt: hang → hàng (Việt) hương (Hoa) hốc → họ (Việt) hữu (Hoa) Vậy ta có thể quyết định xem nhóm từ hang – hốc → hương – hữu là từ Việt gốc Hán hay là từ Hán gốc Việt? Xét về mặt lịch sử hình thành thì không thể nào nói khác : đó là từ Hán gốc Việt.

Tương tự như vậy, khi ta xét cặp từ ‘kênh lạch’ và ‘kinh lạc’: ‘kênh lạch’ là đường dẫn truyền nước trong tự nhiên nó có trước cả khi con người có hệ ngôn ngữ , sau được định danh là ‘kênh’ và ‘lạch’; còn ‘kinh lạc’ là đường dẫn truyền khí huyết trong con người; nó là thành tựu tuyệt vời của nền khoa học nói chung, y học Trung Hoa nói riêng tức là lúc con người đã văn minh lắm rồi, nói như vậy chắc chắn từ ‘kinh lạc’ bắt nguồn từ ‘kênh lạc’.

Các nhà ngôn ngữ học ngày nay xác định hơn 50% từ Việt là từ Hán Việt – nói như thế có 2 điều phải bàn:

1. Có hơn 50% là từ Hán Việt là mới xem xét đến số lượng từ dùng chung, còn cộng cả số từ biến âm, bắt nguồn từ nhau thì tỉ lệ lẫn lộn Việt – Hoa còn lớn hơn nhiều.

2. Nói từ Hán Việt là từ Việt có nguồn gốc ở ngôn ngữ Hán là thói quen có tính áp đặt; sự áp đặt này xuất phát từ ưu thế số lượng mà ra. Khách quan mà xét thì sự áp đặt trên có nguồn cơn từ lịch sử, qua hàng ngàn năm nước Việt chỉ là một chư hầu của nước Hán (ta cứ tạm gọi như thế), …. nên nói từ ‘Hán Việt’ hay từ Việt gốc Hán là hợp lý và nhiều người mặc nhiên chấp nhận, coi như chuyện bình thường, không ai thắc mắc, từ quan tới dân, từ trí thức tới người tốt nghiệp bình dân giáo dục không ai đặt dấu chấm hỏi.

Như đã dẫn ở vài thí dụ ở trên, chuyện không đơn giản như quán tính lịch sử đã tạo nên, 2 ngôn ngữ Hoa Việt quấn quýt vào nhau chặt chẽ hơn ta tưởng, ngay trong Kinh Dịch là linh hồn của văn minh Trung Hoa cũng không phải là thấp thoáng, mà tràn đầy tiếng Việt!? Quẻ Lửa → Ly Sấm → Chấn Tán (Toán) → Tốn Kiềng, Còng→ Kiền, Càn Cản , căn → Cấn Căm hay cóng là tên khác của qủe khảm hay cống . Khôn thì rõ ràng là từ Việt (khôn ngoan, trí khôn hay khuân vác, khuân mang) Lịch sử và văn minh Trung Hoa cũng rõ ràng kết cấu gằng “gạch” Việt, như: hòn → hoàng (xuất phát từ Kinh Dịch: trời tròn là vua, đất là dân} viên → vương vua → vũ cha, chủ , chúa → chu, chiếu, triệu (họ) bản (làng) → bang (quốc) gốc (→ guốc) → quốc . nhà → gia giêng – hai → giang – hồ (hải) lu (mờ) → người Lu hay liêu căm là lạnh → người Kim mun (đen) → mông, minh, Mãn [người hay nước] Đặc biệt 2 từ có mối liên hệ quan trọng đến vận mệnh nước Hán là “quan” và “từ” lại là đích thị dịch từ chữ Nôm: “quan” là dịch chữ ‘nhìn’ hay chữ ‘nom’; và“từ” dịch chữ ‘thương’ (tình thương). Quan Trung: vùng đất phía nam. Quan thoại: tiếng nói phương nam. Quang Vũ (viết Quan thành Quang): là ông vua phương nam, như vậy ông vua khai sáng triều đúng ra phải là nước Đông Hán đâu có phải vua Trung Hoa.vì chính người Hán nhận mình là Quan tộc. Chữ “từ” là dịch sang hán ngữ chữ “thương” của tiếng Việt. Theo Dịch lý, thì phương đông là phương của tình cảm (quẻ Khảm), nghĩa là phương của sự thương cảm giữa người và người (trong chữ Hán, thương là thương tật, ) ,đồng thời phương đông cũng là phương của màu xanh. xanh → thương – thanh, nên sau này Trung quôc có nhà Thương, nhà Thanh. Như thế: từ = thương = phương đông chỉ vùng Sơn Đông hiện nay, xưa là đất nước Tề (Từ → Tề). là chốn mà lịch sử Trung Hoa gọi là Nam Man và Đông Di; đã là man – di thì vùng Hà Bắc, đất tổ của nhà Đông Hán và Sơn Đông là đất nước Tề (Từ) thời Chiến Quốc, nước Ngụy thời Tam Quốc không thể nào là Trung Hoa được.

Về sự thiên biến, vạn hóa trong tiếng Việt giữa xưa và nay, ta đơn cử một đoạn trong sớ tấu của Trần Cương Trung, sứ giả nhà Nguyên (thế kỷ 13) dâng lên vua theo bản dịch của Lê văn Siêu trong Việt Nam Văn Minh Sử như sau: “Tiếng nói của dân Tru Ly gọi ‘trời’ là ‘bột mạt’, ‘mặt trời’ là ‘phù bột mạt’, ‘mặt trăng’ là ‘bột văn’, ‘gió’ là ‘giáo’, ‘mây’ là ‘mai’, ‘núi’ là ‘can ngỗi’, ‘nước’ là ‘lược’, ‘mắt’ là ‘mạt’, ‘mồm’ là ‘mạnh’, ‘cha’ là ‘chá’, ‘mẹ’ là ‘ná’, ‘con trai’ là ’can đa’, ‘con gái’ là ‘can ái’, ‘chồng’ là ‘chùng’, ‘vợ’ là ‘đà bị’, ‘tốt’ là ‘lĩnh’, ‘không tốt’ là ‘chương lĩnh’, cả thảy là như thế, tiếng nói gấp mà nổi, phần lớn giống như tiếng chim, …”

Chắc chắn phiên âm tiếng Việt bằng chữ Hán có nhiều lệch lạc, nhưng qua đó ta vẫn còn nhận ra: ‘gió’ là ‘giáo’ ‘mây’ là ‘mai’ ‘nước’ là ‘lược’ ‘mặt trăng’ là ‘bột văn’ (âm Nam bộ = dăng = trăng; chữ ‘bột’ không đoán được) ‘mắt’ là ‘mạt’ ‘mồm’ là ‘mạnh’ (miệng) ‘cha’ là ‘chá’ ‘mẹ’ là ‘ná’ (má, nạ) ‘con trai’ là’can đa’ ‘con gái’ là ‘can ái’ ‘chồng’ là ‘chùng’ ‘vợ’ là ‘đà bị’ (đàn bà) ‘tốt’ là ‘lĩnh’ (lành) ‘không tốt’ là ‘chương lĩnh’ (chẳng lành) những chữ còn lại không đoán ra được, đặc biệt tên của dân tộc ta viết là ‘Tru Ly’ có thể đoán: ‘Tru’ biến âm của từ ‘chúa-chủ ’; ‘Ly’ biến âm của từ ‘Lửa’ nghĩa là dân của ‘vua lửa’ hay vua vùng nhiệt đới.

Mới 700 năm mà đã khác xa như thế, nói chi đến 2, 3 ngàn năm trước!? Hỏi còn bao nhiêu từ cổ mà ngày nay chúng ta nhận ra được? Ở đoạn trên, riêng từ ‘núi’ là ‘can ngỗi’ có thể đoán: ‘can’ là ‘cấn’, một quẻ trong Bát Quái, tượng trưng cho ‘núi’ và chúng ta chú ý từ ‘nước’ là ‘lược’ vì nó có liên quan đến quốc hiệu cổ xưa của Việt Nam mà ta sẽ tìm hiểu ở phần sau.

Về sự liên quan giữa ngôn ngữ Hán và Việt còn nhiều khía cạnh phải xem xét. Thí dụ: tên Nôm và tên chữ của một số địa danh ở Việt Nam, tên Nôm là tên gọi, ; tên chữ là tên viết bằng Hoa tự như: Làng Vầy → Làng Sơn Vi Làng Tó → Làng Vũ Đại Vi là Vây ( vây cá); từ ‘Vầy’ → ‘Vây’, ký âm Hán tự là ‘Vi’ như thế nếu nói ‘Vi’ là từ Hán Việt e không đúng, ‘Vi’, ‘Vây’, ‘Vầy’chỉ là những phương âm của cùng một chữ mà thôi. Còn ‘Tó’ viết thành ‘Vũ Đại’ mới đúng là dịch sang Hán tự; tó là to, to → đại. Việc dịch những danh từ riêng của Việt sang Hán tự cũng gây đau đầu lắm! Như từ ‘Vũng Quýt’, một địa danh ở miền Trung của Việt Nam, nếu hiểu ‘Vũng’ là danh từ chung là một vùng nước sát đất liền tương đối được che chắn kín gió, … như Vũng Tàu, Vũng Rô, thì chữ ‘vũng’ là ‘Vịnh’ trong Hán ngữ. ‘Quýt’ là tên riêng nếu chuyển ngữ thành ‘Quất Vịnh’ thì có thể nhận ra, nhưng phiên âm theo Hán tự để viết thành ‘Dung Quất” thì sai xa lắm, người dân ở Vũng Quýt đọc lên cứ ngỡ là một địa danh nào đó ở bên tầu .

Việc dùng Hán tự để ký âm các từ gốc La Tinh đôi khi tạo nên những cụm từ … quái dị …, về nghĩa thì không có rồi, và về âm thì chuyển đi xa lắc xa lơ … phải có óc tưởng tượng siêu lắm mới tìm thấy sự liên quan, như: England ký âm thành Anh Cát Lợi , France thành Phú Lãng Sa. Washington → Hoa Thịnh Đốn. (ông) Ghandi → (Thánh) Cam Địa, v.v… Khổ một nỗi sự ký âm này là bắt buộc vì 2 hệ thống chữ khác nhau hoàn toàn nên không có cách nào khác. Tới đây người đọc có thể thông cảm với người viết và mặc nhiên chấp nhận một độ lệch nào đó của âm ngữ khi dẫn chứng tư liệu lịch sử Việt Nam từ cổ đại cho đến cận đại vì tất cả được viết bằng chữ Nho hay nói rõ hơn là những từ Việt được ký âm bằng chữ Hán, sự lệch lạc đôi khi rất xa, nhưng ta có thể nhận ra được nếu nó nằm trong một thể hoàn chỉnh, có đầu có đuôi, có đối chứng V.v… nếu có hẳn một hệ thống xuyên suốt thì trở nên hiển nhiên, rõ ràng không phải bàn nữa, ta có thể khái lược hệ thống “biến từ ” Việt – Hoa trong những từ chĩ người lãnh đạo quốc gia như sau :

1. Cao – cả → cổ nghĩa là người đứng đầu, thủy tổ như ông Bàn Cổ; Cổ Thục; Cổ Tẩu. → cô, cơ: cũng là người đứng đầu như ‘Hiên Viên là tổ họ Cơ; ông Cơ Xương, Cơ Phát . → Cao: ông cao Giao; Thái Cao; Cao Tân; Cao Dương; Cao Sơn. → Câu: Câu Tiễn (Việt Vương) Chữ Tôn viết sai là Tông trở thành đế hiệu của các vua Việt Nam và Trung Hoa từ đời Đường, Lý về sau. Căn cứ vào cấu trúc cụm từ thì rõ ràng ‘Tôn”, ‘Tông’ tương đương với chữ ‘Vương’. Thí dụ: Lý Thái Tôn, Lý Cao Tôn, V.v…

2. Vua → Vũ: chỉ hoàng đế khai quốc như Hạ Vũ, Võ Vương, Chu Vũ Vương, Hán Vũ Đế, Vũ văn Giác, Quách Vu.

3. Cha – chú → chúa, chủ → chu, châu, sau biến thành Chu, Triệu như: nhà Chu, họ Chu: Chu Nguyên Chương, họ Triệu: Triệu Chính, Triệu Đà, Triệu Khuông Dẫn, V.v… đặc biệt ngôn ngữ Thái – Lào có từ ‘chậu’ nghĩa là ‘ông hoàng’, khi ký âm bằng Hán tự thì các vua Champa trở thành họ ‘Chế’ như: Chế Củ, Chế Mân, Chế Bồng Nga, V.v…

4. Lửa → Ly (quẻ) là ngọn lửa, mặt trời, nghĩa bóng chỉ ‘hoàng đế’ sau biến thành họ ‘Lý’, họ ‘Lê’ như: Lý Bôn, Lý Bí, Lý Uyên, Lý Công Uẩn; Lê Lợi, Lê Hoàn, (Hán tự ký âm sai thành họ Lưu)

5. Đức: chỉ nhân vật có địa vị cao trọng như: đức Chúa, đức ông, V.v… Hán ngữ ký âm thành Đế đồng nghĩa với vua, chúa; âm Khmer là ‘cham đéc’ nghĩa là ông hoàng.

6. Xuất phát từ ý niệm: ‘trời tròn, đất vuông’, ‘trời là vua, đất là dân’, người ta tạo nên các từ: hòn → hoàn → hoàng nghĩa là vua; ‘viên’ chỉ vật tròn → vương. Trong lịch sử có: Đinh Hoàn, Lê Hoàn, Hiên Viên, Tản Viên, …

7. Các tước vị của quí tộc Trung Hoa:

không 0 → công hai 2 → hầu ba 3 → bá tư 4 → tử năm 5 → nam

Từ hệ thống “chuyển ngữ” này, ta có thể khẳng định, trước khi Hán tự được dùng để viết sử thì đã có lịch sử Trung Hoa viết bằng một thứ chữ khác với Hán tự, đó chắc chắn là kiểu chữ{văn} “khoa đẩu” của nhà Thương- Chu, Ngũ kinh cũng được chép bằng thứ chữ này. Từ đời Tần người ta mới dùng kiểu chữ “tiểu triện” thay thế, loại chữ tiểu triện qua nhiều lần cách tân về cách viết trở thành Hán tự ngày nay; người Việt không gọi là Hán tự mà gọi là “chữ Nho”, phải chăng ‘Nho’ là biến âm của ‘nhỏ’ đồng nghĩa với ‘tiểu triện’, người Việt ưa dùng điệp ngữ “Nho nhỏ” cũng là một dẫn chứng có giá trị cho hướng suy nghĩ như trên. Bản thân dân du mục phương Bắc khi chiếm đóng Trung Hoa chưa có hệ thống văn tự riêng nên dùng luôn hệ thống văn tự Trung Hoa làm quốc văn vì không có cách nào khác, từ đó chữ tiểu triện biến thành Hãn tự, điều này giải thích sự mâu thuẫn trong tâm thức người Việt Từ Hán trong Hãn tộc là một nỗi ám ảnh kinh hoàng do những thống khổ người Việt phải chịu thời vong quốc. Nhưng từ ‘Hán’ trong ngôn ngữ Hán, người Việt gọi là chữ Nho thì lại có vị trí trân trọng đặc biệt và được gọi là chữ của “thánh hiền”.

Bài 2 - Dịch học và đồ đồng Đông Sơn .
Truyền tích bánh dày bánh chưng kể rằng : Vua Hùng đã già nghĩ ra cách để tìm người kế vị. Vua ra lệnh cho các hoàng tử (các Lang) ai dâng lên cho vua được món ăn ngon nhất và ý nghĩa nhất sẽ được vua truyền ngôi.

Trong khi các anh em đổ đi khắp nơi để tìm của ngon vật lạ thì hoàng tử Lang Liêu vốn cảnh sống rất thanh bạch và không muốn dành ngôi vua nhưng bản tính hiếu thảo nên vẫn băn khoăn không biết lấy gì dâng cho vua cha, chợt tối ngủ Lang Liêu được một vị thần hiện ra chỉ dẫn: Lấy gạo nếp tinh tuyền đã nấu chín giã ra làm bánh màu trắng hình tròn, đặt tên là bánh dày. Lấy gạo nếp đổ trên lá, giữa cho nhân đậu xanh và thịt heo gói lại thành hình vuông đem luộc chín gọi là bánh chưng. Khi dâng vua, vua cha cho các món ngon vật lạ của các hoàng tử khác đều là tầm thường.

Riêng bánh dày và bánh chưng của Lang Liêu được vua khen ngon và hỏi ý nghĩa thì Lang Liêu tâu: Bánh dày hình tròn tượng trưng cho trời. Bánh chưng hình vuông tượng trưng cho đất. Vua khen trời tròn đất vuông là trọn ý nghĩa của đạo trời đất, và vua quyết định truyền ngôi cho Lang Liêu.

Giải mã truyền thuyết trên :

- Từ Lang Liêu nghĩa là : Lang là từ Thái ngữ có nghĩa là thủ lãnh biến thể sang Hoa và Việt ngữ là LONG nghĩa là con rồng hay Vua . Lang là biến âm của Năm ; số 5 trung tâm của Hà thư- Lạc đồ , năm →lăm→lang . Liêu là biến âm của Lửa chỉ phương nóng , vùng nhiệt đới hướng xích đạo biến âm ra : lửa → ly→ la→ lê→liêu→ lý..v.v. Lang Liêu có nghĩa là ‘vua La’ hay vua của người La ,Liêu , Lý ... ‘bánh Chưng bánh dày’ là biến âm của ‘bánh trăng bánh giời’ hay trời

Bánh dày hình tròn bánh chưng hình vuông biểu thị cho nguyên lý cơ bản của dịch học - Trời tròn chỉ sự vô hình vô ảnh ....những gì vẫn có đẩy nhưng thị giác con người không thể cảm thụ được , đường tròn biểu thị sự liên tục không đứt đoạn khi chuyển sang hệ ký hiệu vạch là vạch liền ─── - đất vuông chỉ vật chất hữu hình , hữu hình nên hữu hạn , biểu thị sự hữu hạn là bờ và mốc tức 4 cạnh và các góc của hình vuông , trong hệ ký hiệu vạch là vạch đứt chỉ sự gían cách . ── ── Tr̀òn và vuông cũng chỉ là tên gọi khác của âm và dương mà thôi .

Truyền thuyết họ HÙNG nói trời chỉ dạy cho Lang Liêu làm ra bánh Chưng bánh Dày đồng nghĩa với sự truyền dạy cho hậu thế :Vua LA là người đã làm ra dịch học , người La là chủ của thuyết lưỡng nghi –tam tài sinh hóa vạn vật ....

Lang Liêu là ai và đạo Tròn vuông có liên quan như thế nào với người Việt ?

Trên mặt tròn của nhiều trống đồng có 4 hình cóc đắp nổi . Đấy chính là biểu tượng của nguyên lý trời tròn đất vuông ., 4 con cóc biểu thị cho 4 góc của hình đất vuông trên mặt trống tròn của trời ; 4 con cóc là 4 tiếp điểm của hình vuông và hình tròn , người chế tạo ra trống đồng nói rất rõ :

Cóc là biến âm của góc hình vuông ; cóc → góc
tương tự : Kà → gà
Cái → gái ...

Sự biểu diễn dịch học trên đồ đồng Đông sơn còn thấy rõ hơn ở mặt thạp đồng Đào thịnh đã tìm được .

Ở nắp thạp đồng tròn 4 con cóc được thay bằng 4 cặp nam nữ đang giao hợp ý chỉ 4 điểm giao của hình vuông và tròn cũng là giao điểm của trời và đất , âm và dương. Trống đồng người Việt xưa gọi là “cối đồng” Hoa ngữ dịch ra “đồng cửu” rồi biến âm thành “đồng cổ” , cửu là cái cối biến ra cổ là cái trống.

Tóm lại là có sự liên quan rất rõ ràng giữa dịch học và trống đồng hay rộng hơn là đồ đồng Đông sơn . Sự khẳng định này khiến ta không thể lý giải vì theo chính sử Trung quốc thì Văn vương tác dịch ở tận Thiểm tây bắc Trung quốc hiện nay và vào thuở ấy người Việt không hề biết dịch lý là gì ...cũng như văn vương không hề biết mặt mũi trống đồng thạp đồng ra sao ...nhưng với những gì đã biết trong loạt bài này : Ta không thể nào kết luận khác hơn là “dân trống đồng”chính là chủ thể đã tác tạo ra dịch học .

b- Quẻ LÔI-ĐỊA DỰ và trống đồng .

Dịch học có : Cặp Quẻ: Khiêm nhường – Dự phần Gọi tắt là Khiêm và Dự.

Sự sáng suốt nơi con người mách bảo vạn vật và xã hội phát triển theo những quy luật, các quy luật thì trường tồn và bất biến, con người không thể thay đổi một cách chủ quan, tùy tiện.

Công thức về sự chủ động phát triển là : Khiêm nhường – dự phần.

Muốn dự phần hay tham gia cùng trời và đất trong việc biến đổi vũ trụ con người phải biết tôn trọng và vận dụng các quy luật tự nhiên. Một thành tựu đạt được luôn là sự hợp tác con người – tự nhiên. Con người không thể thay đổi quy luật nhưng có thể tác động ở đầu vào để nhận được kết quả ở đầu ra. Như thế gọi là khiêm và dự, dự chính là dự phần vào việc tái tạo vũ trụ.

- ý nghĩa Quẻ Dự = Lôi / Địa Dự Nghĩa là tham gia vào là cùng trời cùng đất tạo thành bộ mặt vũ trụ, tài nhân ngang hàng tài thiên, tài địa trong thế tam tài của dịch học , một quan điểm triết lý tôn vinh con người rất tiến bộ so với thời đại ấy .

a. Lời Quẻ Dự:

Lợi kiến hầu , lợi hành sư. Quẻ dự tạo thành bằng quẻ lôi trên quẻ địa, sấm nổ trên đất chính là tượng của trống đồng. Lợi kiến hầu nghĩa là dùng vào việc phong tước hầu. Hiện nay có những nhà nghiên cứu lịch sử cho trống đồng là một biểu tượng vua ban khi phong tước cho các công hầu, nó tựa như một loại ấn tín sắc phong vậy. Đặc biệt trong lễ nghi đạo hiếu của Việt Nam thì các bậc vương hầu dùng trống đồng thay mặt người dân của mình để tế tổ tiên của cộng đồng. Chữ lợi ở đây có nghĩa là : được dùng để . ( ngờ rằng sau chữ lợi có chữ dụng nhưng bị bỏ mất ). Lợi kiến hầu: dùng trong việc phong tước hầu. Lợi hành sư: dùng để hành quân, quân theo tiếng trống mà tiến hoặc lùi hoặc sang phải, sang trái… công hoặc thủ v.v… trống đồng trở thành một quân khí dùng trong quân sự.

b. Lời tượng:

Lôi xuất địa phấn dự, tiên vương dĩ tác nhạc sùng đức, ân tiến chi thượng đế, dĩ phối tổ khảo.

Sấm vang trên mặt đất là tượng quẻ Dự, các bậc tiên vương làm ra nhạc đề cao đạo đức, long trọng dâng lên thượng đế cùng với anh linh tiên tổ. Trống đồng còn gọi là trống sấm là loại trống duy nhất khi đánh để úp xuống đất nên lời tượng bảo: lôi xuất địa phấn . Tiên vương tức tiên đế nhà Chu là Văn Vương, Vũ Vương, Chu Công v.v… Chữ Tác nhạc cho thấy rõ ràng trống đồng là một nhạc cụ dùng trong các buổi lễ tế, nó chính là tổ tiên của văn hóa cồng chiêng ngày nay. Nhiều nhà nghiên cứu vẫn còn đang đặt câu hỏi: trống đồng dùng để làm gì hay công dụng của nó ra sao . lời quẻ và lời tượng quẻ DỰ đã chỉ rõ 3 công dụng:

1. Trống đồng dùng như một lệnh bài sắc phong tước vị.
2. Dùng làm hiệu lệnh điều quân.
3. Dùng trong âm nhạc ở các buổi tế lễ long trọng. Qua lời quẻ và lời tượng của quẻ Lôi- Địa DỰ Việc liên hệ giữa dịch học và trống đồng là điều không thể phủ nhận .

Chỉ với những khám phá trên đủ khẳng định : Dân tộc là chủ nhân của trống đồng cũng chính là dân tộc đã sáng tạo dịch học .

Dịch học dứt khoát không phải là sản phẩm của nền văn minh Hán , dân tộc sống ở lưu vực Hoàng Hà không hề biết trống đồng là gì vào thời những chiếc trống đồng cổ xưa nhất được dùng và hệ qủa đương nhiên của sự việc này là : tứ thánh của Dịch học là : Phục Hy –Văn vương – Chu công – Khổng tử ..cũng không phải là người Hán ,các vị không thể nào sinh trưởng ở Bắc Hoàng hà ...trong vùng văn minh Hán .

Bài 3 - trống đồng và quê hương Dịch lý

a- Điểu thú văn

Trên mặt tất cả trống đồng loại 1 tức loại xưa nhất, đều được đúc theo khuôn mẫu : trung tâm là mặt trời, rồi đến các vòng đồng tâm khắc hình chim và nai, sau đó là cảnh sinh hoạt, đánh trống đồng, đo bóng mặt trời, cảnh chiến binh trên thuyền..v.v.

Mặt trời được người Việt cổ coi là nguồn sáng và nguồn sống cho muôn loài, với quan niệm cha trời mẹ đất, tổ tiên ta đã hiểu rõ những gì thu hoạch được từ đất như củ, quả … không thể có được nếu không có ánh nắng mặt trời, điều này thật đời thường nhưng cũng rất khoa học, lúc đó người ta làm gì biết đến diệp lục tố và sự quang hợp như chúng ta ngày nay, nhưng bằng sự quan sát và so sánh việc được mùa và không được mùa có liên quan chặt chẽ tới sự chiếu sáng của mặt trời người xưa đã hiểu được có sự phối hợp giữa trời và đất để ban của ăn nuôi sống con người từ đó hình thành quan niệm lưỡng hợp, một phía là cái cụ thể có thể nắm bắt là đất, một phía ta biết rõ ràng có đấy nhưng không thể nắm bắt đó là những gì đến từ trời, dần dần tổng kết thành các qui luật trời đất có âm, có dương, ý niệm khởi nguồn của Kinh Dịch.

Với quan niệm mặt trời là nguồn sáng, cổ nhân coi mặt trời là khởi nguồn của văn minh, của sự sáng suốt, vì không có ánh sáng mặt trời thì bóng tối che phủ, không thể phân biệt được cao thấp, xấu đẹp, không gian trở thành một khối hỗn mang và trong màn đêm đó không biết bao sự rình rập của quỷ dữ, của ác thú, sinh mệnh con người mong manh biết bao nhiêu, và mọi vật chỉ trở nên sống động thực sự khi mặt trời ló dạng, từ đó con người sùng bái mặt trời. Với người Việt sự sùng bái đã gần như một ý thức về tôn giáo: đạo thờ Trời, thờ ông Thiên và hình ảnh biểu tượng là mặt trời. Với vị trí là tâm điểm trên trống đồng, mặt trời là trung tâm của vũ trụ. Điều này chắc mới dừng ở ý niệm siêu hình, nhưng trong đó ta đã thấy thấp thoáng bóng khoa học rồi .

Trên trái đất không biết bao nhiêu loài thú, tại sao chim và nai lại được coi trọng ngang hàng với con người được kết hợp với người để tạo thành thế giới 3 thành phần trên mặt trống, coi như hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ?

Ta trở lại với Dịch Lý. Mọi người đều nhất trí coi Hà và Lạc là một phần của Dịch Lý, hoặc là cách diễn đạt Dịch Lý thông qua các nút số, một loại diễn đạt khác với Dịch Lý vạch quẻ của Bát quái. Vậy Hà là gì? và Lạc là gì? Trải qua mấy ngàn năm, các cuộc tranh luận của các bậc trí giả “nhìn xa trông rộng” vẫn còn tiếp tục xãy ra, nào là long mã, nào là thần qui; người thì bảo là thần vật xuất hiện ở Hoàng Hà, rồi Mạnh Hà, rồi Lạc Thủy, … sở dĩ như vậy là tại các vị nhìn một vật ngay trước mắt qua “kính viễn vọng” nên hậu quả là …. vẫn còn cãi nhau. Thật ra khi ta nhìn bằng mắt trần thì sự việc trở nên đơn giản: Hà nghĩa là Trời; Lạc là biến âm của Lục nghĩa là Đất, Hà Lạc là Trời và Đất … rất rõ ràng: chính xác phải gọi là Hà Thư – Lạc Đồ, chứ không thể gọi ngược như trước đây được;.hà thư tức thiên thư, lac đồ cũng là điạ đồ

Sự liên quan giữa trống đồng và Dịch Lý là:

Thông điệp trên mặt trống đồng rất rõ ràng: Mặt trời là trung tâm và ở các vòng đồng tâm kế tiếp nhau là Hạc – Nhân – Lộc, tức trên là trời, giữa là người, dưới là đất nối tiếp “chạy” quanh mặt trời.

Trời = Hà→Hạc : chimHạc hay hồng hạc .

Đất = Lục→Lộc : con nai

Từ sự việc này gợi ra ý kiến là: chữ “tượng hình” không phải là loại chữ cổ xưa nhất mà là sự tiếp nối một loại chữ khác có trước tạm gọi là chữ “nguyên hình”. Ta liên tưởng trong Kinh Dịch phần Thuyết Quái, Khổng Tử viết: “… Ngày xưa họ Bào Hy ngẩng lên xem tượng trời, cúi xuống xem thế đất … quan điểu thú chi văn …” rồi tổng kết lại thành các qui luật Dịch Lý, câu ‘quan điểu thú chi văn’ được hiểu là: ‘nhìn các nét “văn’ trên (mình) chim, thú …’ Nay ta có thể hiểu khác đi là … đã có một loại chữ là “điểu thú văn” tức chữ “nguyên hình”từ trước khi họ Bào Hy tác dịch?

Trong bối cảnh Văn hoá Á đông ta có thể tìm thêm 4 chữ “nguyên hình” nữa ngoài các chữ “chim hạc” và “con nai”(= Trời và Đất).

1. Hướng Xích đạo: là vùng nhiệt đới tượng trưng bằng con Hổ, Hổ là biến âm của Hoả là lửa – tính của lửa là nóng.

2. Ngược với lửa là nước, nơi vùng nước này có rất nhiều con Sấu, Sấu là biến âm của Xíu là nước (âm Quảng Đông). trong truyền thuyết lịch sử Việt Nam, nó là con thuồng luồng, một loài thủy quái hại người, sau này do biến cố khí hậu loài sấu ở phía Bắc (cứ tạm gọi như tên hiện nay) bị tiêu diệt nên người xưa thay thế bằng con rùa tức Qui.

3. Hướng đông là biển nên biểu tương bằng thần vật có công hút nước làm mưa mà người xưa gọi là Rồng hay Long. Trong văn hoá Việt – Hoa, Rồng được coi là chúa tể cai trị thế giới biển cả.

4. Ai đã từng học Dịch Lý đều biết quan điểm hướng đông là phương động, tượng trưng bởi Quẻ Chấn cũng gọi là Quẻ Thìn tức quẻ con rồng; chính xác phải gọi là hướng động vì đông là biến âm của động. Và theo nguyên lý đối lập của Dịch, phương tây là tịnh như trong Thuyết Quái của Dịch: cứng mềm cọ sát sinh ra động tịnh.

Phương đông: mềm mà động

Phương tây: cứng mà tịnh.,định

Việt ngữ có từ kép “định đoạt” để chỉ phương tây;định là chỉ bên không thay đổi , đoạt là tên khác của quẻ đoài

phương tây là phương tịnh và ở đó có rất nhiều voi, nên con voi trở thành chữ “nguyên hình” là tịnh , con tịnh. Như thế ta có thể coi chữ “nguyên hình” là loại chữ tối cổ, đó cũng là điểm xuất phát của chữ “tượng hình” sau này.

Tổng số ta có được 7 “chữ “:

- Mặt trời là trung tâm.

- Hạc = trời.

- Lộc = đất.

- Hổ = phương nóng, xích đạo.

- Sấu, Qui = phương nước, ngược với phương nóng.

- Long, Rồng =phương đông.

- Tịnh = phương tây.

Xác định như trên ta có thể khẳng định đất nướcTrung Hoa hiện nay không thể là quê hương của Dịch Lý được vì không thể tìm được vùng đất nào của Trung Hoa mà phương đông là biển và phương tây có voi. Chỉ có miền Trung của Việt Nam mới hội đủ tính chất chỉ định của 6 chữ “nguyên hình” hay “điểu thú văn” như phần trên. loài Hổ đông dương ở Trường Sơn và Nam Lào đã nổi tiếng từ lâu rồi, về hướng bắc thì đồng bằng Bắc Bộ vài ngàn năm trước là vùng đầm lầy chắc chắn lý tưởng cho loài sấu. Về hướng đông là biển, đúng là quê hương của rồng và hướng tây… chỉ tên nước ‘Lào triệu voi” cũng đủ minh chứng cho sự khẳng định trên, Trong lãnh vực tâm linh, tất cả các đền, miếu của Việt Nam đều có hình Hạc hay Hồng Hạc đứng trên mai Rùa tượng trưng cho Trời và Đất như thế đã đủ 6 con vật tượng trưng cho 6 cõi của 1 không gian 3 chiều ,Người xưa đã dùng những con vật nổi trội ở 1 vùng đất như 1 dạng thức chữ : chữ “nguyên hình” để chỉ 4 phương: (Trung tâm chính là nơi sinh tụ của cộng đồng người cổ đã tạo nên Dịch Lý)

Dịch Lý đã là tài sản của cả nhân loại, phát nguyên từ đâu không phải là điều quan trọng đối với thiên hạ; nhưng đối với người Việt Nam thì khác, nếu không thể làm sáng tỏ về quê hương Dịch Lý thì mắc lỗi với tiền nhân. Người xưa đã lao tâm khổ tứ biết bao mới có thể ký thác được những giá trị vĩnh hằng vào trong đấy làm tài sản cho con cháu vào đời, quá khứ không phải qua đi là hết, dòng linh khí từ quá khứ sâu thăm thẳm vẫn liên tục chảy về hiện tại tạo thành sức mạnh tâm linh vô song cho mỗi người, dù tiếp nhận trong vô thức ; dòng linh khí đó trở thành bản lĩnh sống, thành năng lực bẩm sinh của trí tuệ; đấy cũng là lý do để ta nỗ lực vượt bực mong tìm được đích xác nguồn gốc dòng giống của mình; xác định cho được bản quyền dân tộc trên Dịch Lý, một siêu phẩm của minh triết và khoa học

Bài 4 - Dịch học hình tượng

Con người chúng ta tư duy bằng 2 hệ thống dấu hiệu chính :

Hệ thống dấu hiệu âm thanh và hệ thống dấu hiệu hình ảnh.

Đơn vị của hệ thống dấu hiệu hình ảnh là tự hay chữ, tự nối kết với nhau thành : văn; còn đơn vị của hệ thống dấu hiệu âm thanh là tiếng,nối kết nhau thành : điều , ta hay dùng như một từ kép ‘điều tiếng’.

Gọi là 2 hệ chính vì còn các hệ thống dấu hiệu cá biệt khác như : hệ thống chữ nổi của người mù được cảm nhận bằng xúc giác và hệ thống dấu hiệu cử chỉ dành cho người câm .

Trước khi có văn tự con người vẫn có tư duy ,khám phá và chuyển giao thành qủa tức vẫn có tiến bộ.Như đã trình bày ;dịch học tuần tự có 3 hệ thống:

- Dịch lý nút số.

- Dịch lý vạch qủe .

- Dịch lý bằng văn tự.

Dịch học là tư duy của người họ HÙNG vậy khi chưa có dịch nút số con người suy nghĩ dựa trên cơ sở nào?

Trước dịch học nút số đã có 1 nền dịch học khác , đó là dịch lý “hình tượng” tức lấy chính các hình ảnh và hiện tượng tự nhiên làm dịch tượng ̣để tư duy.

Dịch lý thô sơ dựa trên các hình tượng đã hệ thống hóa sau:

Khi tìm hiểu về dịch lý ta thường nói : Càn là trời, khôn là đất, ly là lửa ...,như thế là đã đi ngược tiến trình của dịch học , đúng ra ta phải nói : trời là càn , khôn là đất...., vì từ những hình tượng có thực trong cuộc sống người ta mới nén thông tin vào trong các dịch tượng tạo thành hệ thống dấu hiệu làm công cụ cho tư duy .

Dịch học hình tượng lấy trời và đất hay bầu trời và qủa đất để biểu thị cho không gian .

Lấy mặt trời và mặt trăng để biểu thị cho ngày và đêm tức chỉ thời gian.

4 qủe còn lại biểu diễn cho cái không gian hẹp tức khuôn khổ trong đó con người ta sinh sống.

- Dich học nói :tại thiên thành tượng tại địa thành hình .

Hình ảnh biển cả và đất liền được dùng để tượng trưng cho mặt địa cầu là cái nền chở đỡ và dưỡng nuôi loài người , Đất và nước luôn đi đôi trở thành từ kép ‘đất nước’đồng nghĩa với tổ quốc của mỗi người.Hiện nay người ta cho là quẻ Đoài là cái hồ thực ra không phải vậy ; khi nói Đoài là hồ cấn là núi là đã giảm tầm cỡ của dịch lý xuống rồi đấy ; kích cỡ của cái hồ hay qủa núi có thấm tháp gì so với sự mênh mông của mặt địa cầu nên không thể nào trở thành một nguyên tố của dịch học , chỉ có biển cả hay đại dương, đất liền hay đại lục mới đủ tư cách gánh vác trách nhiệm đại biểu đó.

Tại thiên thành tượng .

Hai hiện tượng tự nhiên trên bầu trời có ấn tượng sâu sắc trong đầu thánh nhân khi tác dịch là : sấm sét và bão gió.

Trời thì trong suốt đâu có nhìn thấy gì đâu ? nhưng qua các hiện tượng chúng ta biết vật chất vẫn tồn tại ở đó, thứ vật chất mà dịch học gọi là nhẹ và trong, nhận định có 2 thể loại vật chất , một là chất đục và nặng có thể nhân biết dễ dàng còn một thứ trong suốt nên chỉ có thể nhận biết một cách gián tiếp thông qua các hiện tượng , ở đây dịch học chọn sấm sét và gió bão chỉ cái không gian bao la trên đầu con người.

Bốn hình tượng : biển- đất và sấm- gió đủ để vẽ nên sinh cảnh của con người lúc ấy.

Từ 8 hình tượng của tự nhiên người xưa đã nén thông tin tạo thành 8 quẻ của dịch học “tự nhiên” tức dịch học tiên khởi trước cả dic̣h học nút số, dịch học tự nhiên là tư duy của người Việt cổ hàng chục vạn năm cho tới khi được dịch học nút số thay thế.

Hình tượng của dịch lý tự nhiên sau đã tạo thành 8 quẻ:

- Trời tạo thành quẻ Kiền hay Kiện.

- Đất tạo thành quẻ Khôn hay Xuyên.

- Mặt trời hay ban ngày tạo thành qủe Ly hay La.

- Mặt trăng hay ban đêm tạo thành quẻ Khảm hay cống.

- Biển cả tạo thành quẻ Đoài hay Đoạt.

- Đất liền hay đại lục tạo thành qủe Cấn hay Căn.

- Sấm sét tạo thành quẻ Chấn hay Thìn.

- Bão gió tạo thành qủe Tốn hay Toán.

Dịch học hình tượng là dịch học thô sơ, sau này khi khối tri thức lớn thêm , đầu óc càng ngày càng mở mang và khi con người đã ‘chất biến’ thì dịch học cũng đổi thay : dịch học nút số thay thế dịch học tự nhiên , hình tượng trở thành dịch tượng với các thông tin chứa ở trong sâu xa và trừu tượng hơn.

Các hình tượng của dịch lý tự nhiên đã cho chúng ta các thông tin về sinh cảnh lúc ấy :

- 1 / Nơi sinh sống của cộng đồng người đã phát minh ra dịch học là vùng ven biển

nơi đất liền với biển, từ cảnh quan cho đến sự cung ứng thực phẩm hàng ngày ̣đều đến từ một môi trường kép ‘biển và đất’ từ đó mới sinh ra lưỡng nghi ‘ Đoài và Cấn’, quẻ Cấn còn được coi là tượng trưng cho ‘núi’ Việt ngữ có từ kép ‘khuất núi’̣để chỉ sự chết , ý nghĩa này bắt nguồn từ việc mặt trời lặn ở hướng tây;với ý này ta thu được thông tin : người “tác”dịch sống ở nơi phía tây là núi và phía đông là biển.

Thực vậy chỉ có sống ở nơi ven biển mới có thể nhìn thấy đường “chân trời” nơi mút tầm mắt từ đó nảy ra ý niệm: trời như cái bát úp trên mặt đất, chân trời là nơi cái miệng chén đặt trên mặt đất,vũ trụ quan đơn sơ này chính là khởi nguyên của ‘ trời tròn đất vuông’ là ý niệm cơ bản trong dịch học.

Xét như thế ta khẳng định : dịch học không thể ra đời ở vùng Thiểm tây-Sơn tây cái nôi của Hán tộc vì đấy là vùng đất nằm sâu trong đất liền ., ở nơi mà chỉ có cát với cỏ thì làm sao có thể tưởng tượng ra cặp lưỡng nghi Đoài và Cấn....?

- 2 / Cặp hình tượng ‘ sấm sét và gió bão’ chỉ ra : cộng đồng người đã sản sinh ra

dịch học sống ở nơi mà mưa bão- sấm sét là chu kỳ lập đi lập lại hàng năm , 2 ‘thiên tượng’ này phải là một nếp hằn sâu đậm trong đầu óc người cổ thì nó mới có thể được cấp cho ‘tính đại biểu’ của phần không gian hẹp trên đầu con người tức là 1 lưỡng nghi của dịch học. Sấm và bão ngoài sự hoành tráng vốn có nó còn là sống còn của cư dân nông nghiệp sau này vì sấm luôn kèm với mưa mà mưa là yếu tố quyết định của canh tác lúa nước, người Việt đã tổng kết “nước-phân-cần-giống”đủ biết mưa quan trọng như thế nào trong đời sống .Mưa bão sấm sét là một sự liên hoàn luôn đi với nhau nên thành 1 lưỡng nghi của dịch học: Chấn và Tốn.

Lại thêm một khẳng định : quê hương của dịch học không thể ở ngòai vùng “Châu á gío mùa” vì chỉ ở vùng này Chấn và Tốn mới có tính chu kỳ và ảnh hưởng sâu sắc trên cuộc sống con người, Sơn tây-Thiểm tây cái nôi của Hán tộc rất ít mưa và hầu như không có sấm sét là hiện tượng sinh đôi của mưa bão thử hỏi làm sao có thể tưởng tượng ra Chấn với Tốn...?

Tổng kết thông tin trong bài viết này và bài ‘trống đ̣ồng và quê hương dịch lý” trước đ̣ây ta xác định :Dịch học đã ra đời ở Việt nam ,cụ thể hơn là ở vùng đồng bằng ‘Thanh nghệ tĩnh’; nơi mà phía đông là biển phía tây là núi, nơi mà hằng năm ghánh không biết bao nhiêu là bão gío- sấm sét,nơi mà bên đông có rồng bên tây có tịnh, hướng bắc ( hướng của dịch lý tức hướng xích đạo) có Hổ và hướng nam (xưa) có đầy Thuồng luồng như đã chép trong truyền thuyết và Trên trời nhiều hạc mặt đất đầy hươu nai.

Riêng về loài nai thống kê khảo cổ học cho biết ở đất Việt cách nay vài ngàn năm hươu nai là loài thú săn chiếm tới trên 50% trong tổng số thú bắt được cá biệt có nơi xương hươu nai chiếm tới trên 75%, vì điều này chúng ta hiểu được tại sao dịch học nút số dùng số 6 là lục hay lộc tức con nai tượng trưng cho mặt đất nơi mình sinh sống; ở Thiểm tây –Sơn tây có nai hay lộc nhiều như thế hay không ?

Tơí đây ta có thể tạm kết về dịch học hình tượng :

Dịch học HÌNH TƯỢNG là một hệ thống gồm :

- 8 hình tượng tự nhiên : Trời-đất-mặt trời-mật trăng-biển cả-đất liền và sấm sét-gío bão.

- 6 chữ Điểu thú văn : Hạc-lộc-hổ-sấu-long-tịnh.

Và các hình tượng Đặc biệt :

- Mặt trời ;là nguồn sáng cũng là nguồn sống được coi như biểu tượng của đấng tối cao và được nhân cách hóa thành ông trời.

- Con người ; là trung tâm của vũ trụ nơi xuất phát mọi giá trị.

- Biểu tượng bộ phận sinh dục nam, người Viêt gọi là ‘nõn’ hay ‘lõ’, người Chăm gọi là ‘Linhga’.

- Biểu tượng bộ phận sinh dục nữ , gọi là ‘nường’ hay ‘lường’ , người Chăm gọi là ‘Yoni’.

Linhga và Yoni chính là biểu tượng xưa nhất của Âm và Dương , được coi như 1

biểu tượng tôn giáo trong các nền văn hoá Chăm và Khơme cổ , người Việt xưa vẫn có tục rước ‘nõn- nường’ , sử sách trung hoa chép : Chu công đã cấm tục thờ ‘sinh thực khí’ tức ‘nõn-nường’.,trong ngôn ngữ Việt hiện nay linhga và yoni đã được xác định chính là Âm và Dương trong 2 danh từ “âm hộ và dương vật” tức bộ phận sinh dục nữ và nam.

Trong loạt bài đã viết tôi đã nêu ra thứ tự theo thời gian của các hệ thống dịch học :

- Dịch học nút số.

- Dịch học vạch quẻ.

- Dich học bằng văn tự.

Nay qua bài viết này ta thấy Dịch học hình tượng mới là khởi nguyên của dịch học , nền dịch học ra đời từ khi con người còn chưa biết đến chữ dù là loại chữ kết thằng cổ xưa là gì và nó đã đồng hành cùng con người cả trăm ngàn năm , cùng với tiếng nói hay ‘điều –tiếng’ dịch học tự nhiên đã trở thành cái nền của : tư duy , khám phá, ứng dụng và truyền thông .. ;tóm lại dịch học hình tượng là căn đế của 1 nền văn minh vô cùng rực rỡ nhưng đang tạm thời bị vùi lấp và cũng đang dần toả sáng.

Bài 5 - lộn ngược...

I. Những điều không thể xảy ra:

Trung Hoa lập quốc bên bờ Hoàng Hà, mãi tới thời CHU mới tiến đến Trường Giang như thế:

1. các vua từ Thần Nông, Xuyên Húc … đến Hạ Vũ và nhà Thương không thể biết đến đất “Giao” ở cận xích đạo được.

2. Vua Thuấn không thể tuần du và chết ở Thương Ngô thuộc quảng Tây được. ( nhiều sử gia Trung quốc cho là Thương ngô ở Hà nam )

3. Không thể có châu Kinh và châu Dương trong cửu châu nhà Hạ ở Nam Trường Giang.

4. Không thể có chuyện con cháu nhà Hạ lập nước Việt ở Cối Kê – Triết Giang

5. Xét kỹ thì các cống phẩm của 9 châu đời Hạ Vũ đều là sản vật vùng nhiệt đới, như vậy 9 châu này không thể ở bắc Hoàng Hà.

II . Điều có thể .

Trong Bát quái của Dịch học 8 Quẻ được xếp thành các đồ hình, mỗi đồ hình diễn đạt 1 ý tưởng, tùy theo vị trí của từng quẻ và mối liên hệ của nó với toàn thể ta có thể suy ra ý nghĩa.

Ta có :.

- 8 Quẻ xếp trên mặt phẳng của Dịch học Họ Hùng.
- ý nghĩa của đồ hình Tiên thiên bát qúai và đồ hình 8 qủe Tròn - vuông

Cho đến nay người ta vẫn chưa thực sự hiểu ý nghĩa của Bát quái đồ , đa số hiểu theo nghĩa tai dị bát quái là thứ kính chiếu yêu và thường đem treo trước cửa nhà....để chống tà khí xâm nhập .

Nhưng dưới nhãn quan khoa học thì :

nhìn trong không gian 3 chiều thì : 8 quẻ ṭạo thành 4 trục của một hệ tọa độ vũ trụ hợp nhất không gian - thời gian .

Chính tại con người ‘hữu nhỡn vô ngươi ‘ nên dịch học và bát quái mới trở thành thứ tà ma yêu thuật như ngày nay chứ đâu phải người xưa kém cỏi , u mê.

Bát quái cũng như Dịch học nói chung có muôn ngàn ứng dụng , tùy lãnh vực vân dụng mà ta sắp xếp định vị các quẻ với điều kiện phải tuân thủ một hệ luận lý thống nhất và xuyên suốt , đồ hình Bát quái 'Không-Thời gian ' căn cứ chủ yếu vào những thông tin của địa lý - lịch sử Việt nam .
2 quẻ Đoài cấn đặt theo hướng Xích đạo và địa cực Bắc hiên nay vì :
- Nước Việt nam xưa gọi là ‘Giao chỉ’ là trung tâm của trục tọa độ , ( GIAO CHỈ là ký âm chữ Hán của CHỖ GIỮA ) .
- qủe Đoài tượng là cái hồ liên quan tới vị trí nước Hồ tôn trong cổ sử và người Hời tức người Chàm hiện nay .
- qủe Cấn tượng là núi đồng nghĩa với Non , non biến âm thành Nam tức phương Nam , phương nam-bắc ngày nay đã bị đảo ngược so với thời xưa khi người Việt chưa bị Bắc thuộc , từ Bắc chỉ là biến âm của từ Bức tức nóng bức chỉ hướng xích đạo ,có điều hết sức lý thú ...trong tiếng Khơme từ B’NÂM nghĩa là NÚI như vậy khi nói hướng hay phương CẤN tức là nói hướng B’NÂM hoàn toàn đồng âm với hướng NAM của Việt ngữ..., đây phải chăng chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên ? hay là sự liên hê căn cơ ? ..., phương NAM này chính là cõi Nam giao hay nam Giao chỉ lịch sử sau gọi là Lĩnh nam , ở biên giới Việt –Trung hiện còn bằng chứng vật thể không thể chối bỏ là ải Nam quan .
- qủe Chấn ở phương Đông có liên quan tới Chấn trạch , lôi trạch trong cổ sử Trung hoa và huyền sử Việt gọi là Động đình hồ , Động đình hồ chính xác phải là biển đông ngày nay chứ không ở Hồ nam bên Tàu .
- qủe Tốn là tượng của gió hay phong , từ phong này chính là chữ phong trong Phong châu lịch sử Việt , là đất Phong của nhà Chu , huyện Phong quê hương của Lưu Bang và cũng là chữ Phong trong Phong châu đô hộ phủ thời nhà Đường , ở đây chữ Phong chỉ có nghĩa là phương tây , chỉ vùng đất phía tây của 'GIAO CHỈ ' hay 'CHỖ GIỮA , CHỐN GIỮA '

III. Ngũ Man Trung Hoa (bị lộn ngược thành Ngũ Hồ)

Phía nam theo Dịch Lý tức phía bắc Trung Hoa hiện nay là nơi tụ cư của Man tộc, vói 5 dòng:

1. Phương Tây: người Tạng biến âm của chữ tịnh còn gọi là Khương biến âm của chữ cương – căng hay khăng nghĩa là phương cứng, không đổi. Người Chi biến âm tsi = tư, số 4 còn được gọi tên chung là Thổ.

2. Phía Tây Nam: tức Tây Bắc hiện nay, là nơi sinh sống của người Đột Quyết, ‘Đột’ biến âm của chữ độc là số 1 chỉ phương Nam, ‘Quyết’ trong Dịch lý là phương tây (quyết định – định đoạt), Đột Quyết nghĩa là phía Tây nam mà thôi, tên chỉ chung các dân tộc vùng Trung Á vì họ là người da trắng nhưng bị rám nắng nên da trở thành màu hung vì vậy được gọi là dân Hung (hung trong tiếng Việt là màu nâu đỏ), người Mông Cổ gọi sắc dân này là dân Sắc Mục.

3. Phía chánh Nam: đất của tộc Mông – Nguyên, cả mông và nguyên đều có nghĩa là phía Nam của Dịch Lý

4. Phía Nam: người Khiết Đan hay người Liêu, Khiết đan chỉ là phiên thiết của từ Khan nghĩa là thủ lãnh trong ngôn ngữ phương bắc ( nay ) còn trong Hoa văn thì Khiết là thuần khiết hay đơn nhất, ý chỉ số 1, phương nước trong Dịch Lý, đan là đơn: số 1 cũng là màu đen là lu, mờ, tối.

5. Phía cực Nam: người Tiên Ty hay Nữ Chân, tiên là số 1, ty là thấp chỉ phương Nam ngược với phương cao hay tôn, Tiên Ty chia thành 2 dòng: người Kăm hay Kim và Mãn hay Man.

Ban đầu từ “Hán nhân” là 1 câu chửi chỉ dùng cho người Khiết Đan, sau này người Tiên Ty cũng bị coi là người Hán.

Thời Mông – Nguyên: Từ người Hán là tên của 2 sắc dân này, người Trung Hoa chính gốc được gọi là người Nam.

Người Lu có 3 chi: Tây Lu hay Thủy Cốc Hồn, Nam Lu hay Quan Liêu ở Sơn Tây và Hà Bắc, Đông Lu hay Từ Liêu ở Sơn Đông và tên chính thức của họ trong lịch sử là Hán Tộc. Ba triều đại lớn họ đã dựng nên được sử Trung Hoa ghi nhận là:

- Nhà Hán Tây và Đông + nhà Ngụy.

-Người Tiên Ty thì tạo hẳn thành 2 nước:

- Nước Kim

-Nước Mãn Thanh

IV. Chủ nhân nền văn hóa, văn minh Trung Hoa.

Hai cộng đồng người thuộc 2 loại hình nhân chủng khác nhau, sinh trú trên 2 địa bàn khác nhau, dĩ nhiên sẽ hình thành 2 nền văn hóa, văn minh khác nhau nhưng văn minh cổ của Trung Hoa chỉ có một, vậy cộng đồng nào đã tạo nên nền văn hóa, văn minh Trung Hoa cổ?

· Mongoloid ở Hoa Bắc hay Nam Á Nam Đảo ở Đông Nam Á.

Ngoại trừ những tư liệu thành văn mô tả những gì không thể có ở Hoa Bắc vào thời thượng cổ , ta có thể điểm thêm vài nét đặc trưng cấu thành văn hóa Trung Hoa:

1. cái ăn: lương thực chủ yếu của dân Trung Hoa là lúa gạo, lúa gạo không thể trồng ở miền Bắc Trung Hoa vào thời cổ.

2. cái mặc: trang phục cho giới bình dân gọi là “bố” làm từ sợi đay … nhưng đay là cây á nhiệt đới thì Hoa Bắc làm sao có được …, trang phục cao cấp may bằng lụa do “lụy tổ” vợ của Hoàng Đế sáng chế (theo truyền thuyết) … cũng không có được ở bờ bắc Hoàng Hà, ví cây dâu tằm chỉ mọc được khi nhiệt độ trên 170C, như vậy “Lụy tổ” không thể ra đời ở bắc Hoàng Hà.do điều kiện khí hậu nên cây dâu không thể mọc tự nhiên

Có chi tiết cần bàn thêm, dân Trung Hoa thờ “Tiên Tàm” coi như tổ ngành dệt lụa, sao lại là Tiên Tàm ? ..., Tiên Tàm là cấu trúc Việt ngữ tương tự như cấu trúc Thần Nông vậy.

3. Chỗ ở: Truyền thuyết Trung Hoa nhất là truyền thuyết liên quan tới Dịch Lý… đều cho biết thời Thái cổ người Trung Hoa dựa trên hình tượng con rùa để làm ra nhà ở:

* mai rùa là mái nhà.

* yếm rùa là sàn nhà .

* 4 chân là 4 cột nhà.

Như vậy rõ ràng là mô tả cái nhà sàn, vì nhà sàn mới có sàn nhà và 4 cột chống sàn hổng cao lên khỏi mặt đất. Nhà sàn là loại hình cư trú đặc trưng của dân Đông Nam Á và dân thiểu số Trung Hoa ở Hoa Nam. Dân miền bắc Trung Hoa hoàn toàn xa lạ với loại nhà này.

4. về vận chuyển: cổ thư Trung Hoa đều mô tả việc thủy vận là phương tiện chính, nhưng thủy vận không hề phát triển ở Hoa Bắc thời trước Công nguyên, việc này cũng dễ hiểu vì phưong tiện của thủy vận là thuyền và bè làm bằng tre kết lại. Miền bắc Trung Hoa không có tre lớn đủ để kết thành bè còn thuyền thì thời cổ chỉ có thuyền độc mộc mà cả miền Hoa Bắc chắc không có nổi 1 cây đủ lớn để làm thành con thuyền.

5. về văn hóa: trong suốt bài khảo luận này ta đã nói nhiều, ở đây chỉ bàn thêm: thời Hạ Vũ có lệnh cho vùng “Cửu Giang” phải cống rùa lớn, cống rùa lớn để làm gì ta đã biết nhưng “Cửu Giang” là vùng nào? dựa trên chữ Củu có thể đoán là “Trường Giang” ngày nay. Miền Hoa Bắc không có rùa lớn thì lấy gì mà phát minh ra chữ khắc, từ đời Chu thì Sơn tây, Thiểm tây làm gì có tre lớn lấy gì làm trúc thư ?

5 yếu tố văn hóa trên xác định nền văn hóa, văn minh Trung Hoa cổ là của phương Nam hoàn toàn. Từ đời Ân Thương trở đi Hoa Bắc mới đóng góp thêm yếu tố “ngựa” vào văn hóa, văn minh chung của Trung Hoa

Bài 6 - cây cầu HOA-HÁN
Người Hán nhận mình là “Quan Tộc”...;.quan tộc ngài là ai...?

Ở Trung Hoa ngày nay tiếng Bắc Kinh còn gọi là Quan Thoại được coi là tiếng phổ thông, chữ Quan này được hiểu là Quan Quyền, Quan là ông Quan người cai trị dân, là tiếng nói giới cầm đầu cầm cổ người dân, trong một giai đoạn lịch sử nào đó mà Quan và dân không cùng chung một ngôn ngữ, có tiếng nói của người cai trị “Quan Thoại” thì cũng có “Chúng thoại” của giới bị trị, sự kiện này nói lên điều gì? Rõ ràng đây là tình cảnh của một dân tộc đang bị ngoại nhân xâm chiếm, Quan Tộc là tộc người cai trị thì kẻ bị trị là ai? Trong bối cảnh lịch sử ta đang xem xét thì chỉ có thể là người Trung Hoa mà thôi.

Quan Thoại là tiếng nói của vùng Sơn Tây Hà Bắc, Bắc Kinh xưa là đất khởi phát đế nghiệp của vua Quang Vũ nhà Đông hay Hậu Hán. Vậy là ta rõ tại sao người Hán nhận mình là Quan Tộc, chữ Quang trong Quang Vũ là sai, không biết vô tình hay hữu ý, chữ Quang phải đối thành “Quan” mới đúng. Quan Vũ là Vua nước Quan, Vũ chỉ là từ ký âm của chữ Vua. Trong Việt ngữ. (Tại sao vậy? Chúng ta sẽ có dịp bàn kỹ hơn tong một bài khác); Ta có sự liên kết hòan chỉnh: Quan Tộc, Quan Thoại và Quan Vũ, và cũng đã rõ sự liên hệ giữa Quan Tộc và người Hán.

Tiếp tục với câu hỏi: Quan tộc ngài là ai ?. Ngược dòng lịch sử tới thời Ân Thương thời cưc thịnh của triều đại Ân Thương Trung Hoa đã có 4 thuộc Quốc:

Phương Nam là nước Quan

Phương Đông là nước Từ

Phương Tây là nước Châu (Chu)

Phương Bắc là nước Thao

Ta khoan tìm hiểu về nước Thao vì để xác định được phải mất cả một chương dài mới có thể thấu đáo, xin hẹn trong một bài khác.

- Phương Tây là nứơc Châu dễ xác định nhất đó chính là vương triều kế sau nhà Ân Thương. Đứng về mặt ngữ nghĩa ta thấy đoạn văn trên hơi kỳ lạ: Thuộc Quốc Phía Tây cuả Trung Hoa là nước… Phương tây ….; Châu, Chu chỉ là biến âm của chữ “CHIÊU” là phương Tây, ngược với bên Mục Tức Phương Đông mặt trời mọc.

- Tương tự: Thuộc quốc Phương Đông là nước Từ. Theo dịch lý thì Phương Đông màu xanh, là phương của tình cảm ngược với Phương Tây là Phương của Lý lẽ dịch Tượng là Quê Ly(Tiên Thiên Bát Quái). Màu xanh từ Hán Việt là: Thanh, Thương, nhưng Thương trong Việt ngữ cũng là Thương yêu; Phương “Thương yêu” dịch sang Hoa ngữ là “Từ Ái”, như thế nước Từ cũng chỉ nghĩa là nước.. Phương Đông…, Ta có thể xác định nước “Từ” là nước ở vùng Từ Châu, Tỉnh Sơn Đông ngày nay, Thời Chiến Quốc là nước Tề (Tề là biến âm của Từ).

- Thuộc Quốc Phương Nam là nước Quan, cùng một mạch suy luận ta nhận ra ngay: Quan là từ dịch sang Hoa ngữ của chữ Nom, nhìn của Tiếng việt: Trời đất có phương Mục, Phương Chiêu, tức Phương mặt trời mọc và lặn, con người có Tay Mục (Mặt), Tay Chiêu (trái); nếu để tay chiêu ở Phương Chiêu; Tay Mục ở phương Mục thì hướng mắt ta nhìn là hướng Nom; Biến âm Thành Nam. Thực a cả hai phương Bắc và Nam đều là ký âm của Việt Ngữ: Bức (nóng) = Bắc; Nom (nhìn) = Nam. Như vậy thuộc Quốc “Quan” cũng nghĩa là nước ở phía Nam mà thôi.

Ở đây ta có được thông tin rõ ràng dứt khoát: nước Quan chỉ là thuộc quốc phía Nam Trung Hoa. Quan là thuộc Quốc của Trung Hoa thì Hán không thể nào là Trung Hoa được vì Hán = Quan

Khi dùng phương hướng bắc Nam như hiện nay sẽ xảy ra điều không thể có:

Nếu nước Quan đã xác định là vùng Sơn Tây – Hà Bắc – Bắc Kinh thì đất của nhà Ân Thương phải là đất Mông Cổ…, không lẻ Mông Cổ là Trung Hoa? Vì nước Quan là nước Phía Nam Trung Hoa, kiểu này người eskimo… đất Tây Bá Lợi Á là nước THAO và nước Từ không thể ở Tứ Châu, Sơn Đông được mà là nước của người Kim, người Mãn… ở bán đảo Liêu Đông.

Những điều trên là không thể thì ta chỉ có thể hiểu được nếu khẳng định là: Trong quá khứ đã có lần đảo ngược hướng Bắc Nam, chỉ khi đất của nhà Ân Thương ở Hà Nam; Hồ Bắc, An Huy thì đất của Quan Tộc mới là Sơn Tây – Hà Bắc và nước “Từ” mới ở Từ Châu, Sơn Đông.

- Qua thời nhà Châu, xin trích một đoạn trong Sách Lộ Sử của La Bí đời Tống.

“Ngô Việt Sở Thục đều là đất man, các đất Tần Lũng Tấn ngụy đều đã thành đất của người địch, Hà Nam là đất man, Hà Tây là đất địch, Hoài thì có các rợ thư, Ngụy thì có các rợ nguy, chỗ nào cũng đầy dãy (Man địch), chỉ một Vương Thành ở Lạc Dương mà những người Nhung, Dương Cự, Tuyền Cao, Lục Hồn, Y Lực cũng ơ xen lẫn, trong ấy người “Quan Tộc”không có bao nhiêu ”.

Lạc dương trong đoạn sử này là thủ đô của Đông hãn quốc tức nhà Đông hán chứ không phải Lạc dương của nhà Đông chu

Thông tin trong đoạn trích trên xác định “Quan Tộc” vẫn ở Bờ bắc Hoàng Hà, vùng Sơn Tây Hà Bắc và nếu liên kết thông tin với địa lý- lịch sử thời “Ân Thương” thì ta buộc phải hiểu những dân mà Lộ sử gọi là Man là địch mới đích thị là người Trung Hoa, là hậu duệ của người Thời Ân Thương.

Xét kỹ hơn trong lịch sử Trung Hoa, ít ra từ thời Ân Thương ; chưa bao giờ Trung hoa làm chủ được phần đất bắc Hoàng Hà một cách ổn định và lâu dài.

- Thời: ân thương và chu ta đã biết ở phần trên.

-- Thời Tần: Sau khi thống nhất Lục Quốc thì Rợ đã lấn tới đất Hà Nam.

- Thời Tây hán: sau cuộc Hán Sở Tranh Hùng, Lưu bang lên ngôi Hoàng Đế thì Rợ lại cũng lấn tới đất Hà Nam, lưu bang đem quân lên đánh xuýt mất mạng ở Sơn Tây… đành phải rút lui..., tới thời Hán Vũ Đế. khi mới lên ngôi thì Rợ cũng đã lấn xuống phía Nam Hoàng Hà…

- Từ thời nổi dậy của “Lục Lâm Thảo Khấu” người Hán tức Quan Tộc xuất phát từ Sơn Tây, hà Bắc nuốt dần Trung Hoa từ Bắc xuống Nam đặt đất Trung Hoa vào vòng nô lệ hơn 500 năm.

Mãi tới thơì Nhà Đường Trung Hoa mới làm chủ vùng Bắc Hoàng Hà được một thời gian nhưng cũng không lâu dài và ổn định vì biến loạn an lộc sơn mấy mươi năm, An Lộc Sơn cũng là Rợ … Phương Bắc mà thôi .

Càng về sau Trung Hoa càng khốn khổ hơn; hết Tây Hạ tới Liêu, hết Liêu tới Kim, hết Kim tới Mông Cổ… và sau cùng là Mãn Thanh, Trung Hoa bị khai tử mấy trăm năm và chỉ phục sinh từ cuộc cách mạng Tân Hợi 1911, nhưng cũng từ đó mang một vóc hình khác: Hợp chủng Quốc Hán Hoa. Đó là thực trạng Trung Hoa ngày nay không thể nói khác được, từ góc nhìn hợp chủng Quốc Hán Hoa thì quá khứ xa xôi không còn nguyên trạng của lịch sử dân tộc Trung Hoa nữa, chính vì vậy mới có chuyện những người xâm chiếm Trung Hoa đặt Trung Hoa dưới móng ngựa của họ cũng trở thành một triều đại chính thống của lịch sử Trung Hoa, nào Hán, nào Mông rồi Mãn.. hết thảy đều là một triều đại, một thời kỳ lịch sử của Trung Hoa, bất chấp thời ấy dân Trung Hoa phải cạo nữa đầu và kết tóc đuôi sam , 10 nhà mới được giữ 1 con dao, thời mà văn hóa Trung Hoa bị chôn dưới bùn… nhà nho chỉ được xếp hạng 9 đứng trên ăn mày trong 10 bậc dân của đế quốc Mông Cổ.

Quan đi với liêu Thành từ kép: “Quan – Liêu” người việt ghép thêm chữ thành ra “Quan Liêu Hống hách” để chỉ thái độ của các bậc Quan đế quốc coi dân như cỏ rác, câu trên cũng giúp ta xác định Quan và Liêu chỉ là một; chính xác phải nói là: Nước Quan Người Liêu. “Liêu ” là từ Hán ký âm chữ “Lu” Tiếng Việt, Lu là mờ tối dịch tượng chỉ phương Nam, nhỏ, đen, mờ, lạnh, thấp, là những tính chất của Phương Nam theo dịch lý.

“Quan” ban đầu chỉ có nghĩa là Phương Nam nhưng do thực tế lịch sử thời Trung Hoa bị chiếm đóng… tất cả người cầm đâu cổ dân từ thấp lên cao đều thuộc “Quan Tộc” nên chữ Quan phải gánh thêm nghĩa mới: “Kẻ cai trị” tức Quan Quyền như ta hiểu ngày nay.

Hán Tộc, Quan Tộc, Liêu Tộc có phải là Trung Hoa hay không? Thêm một bằng chứng lịch sử nữa:

Liêu chiếm đất Bắc Hoàng Hà của Trung Hoa, Kim diệt Liêu và chiếm hết đất của Liêu, sau đó tiến thêm chiếm hết miền hoa bắc, Mông Cổ chiếm hết đất của người Kim rồi xua quân chiếm luôn Nam Tống ở bờ Nam Trường Giang.

Mông Cổ chia: dân trên đất kim cũ gọi là Người Hán, trên đất Nam Tống gọi là Người Nam. Như vậy với vua Mông Cổ thì Kim hay Liêu gì cũng là Hán, Trung Hoa mới là giống khác.

Nếu ta đặt câu hỏi người Hán là Trung Hoa hay người Nam là Trung Hoa thì 1 em bé người Hoa cũng trả lời ngay được.: Người Nam của nước Tống mới là người Trung Hoa và còn hơn thế nữa ở Trung Hoa từ “Hán nhân” có thời được dùng như một câu chửi (Sách cội nguồn văn hóa Trung Hoa do Đường Đắc Dương chủ Biên, biên dịch Việt ngữ năm 2003).

Vậy tại sao mãi tới nay người ta vẫn còn lầm hẫn: Hán là Hoa hay Hoa và Hán chỉ là một ? Hoa và Hán không những là hai dân tộc khác mà họ còn khác biệt cả về chủng tộc, người Hán tức Quan Tộc thụôc dòng Mongoliot còn người Hoa thụôc dòng Monglóit phương nam với 2 chi là : Nam Á và Nam Đảo (Lộ sử gọi là man và Địch)

Sự lầm lẫn này không phải do vô ý, trái lại đã có một sự sắp xếp rất bài bản và tinh vi, Chúng ta xem lại lịch sử Trung Hoa thời trước và thời sau năm số “không” của Tây Lịch, thời kỳ Hán biến thành Hoa nhờ 1 cây cầu nối … lịch sử.

Vương Mãng với quyết sách cải tổ toàn diện và triệt để đã làm rối loạn toàn xã hội Trung Hoa, sự đảo lộn ấy cộng hưởng với ngoại xâm và thiên tai trong một thời gian ngắn đã đẩy Trung Hoa đến bên bờ vực thẳm, Quốc lực hầu như bằng không … tất nhiên loạn lạc nổi lên khắp nơi. Đòn quyết định vận mệnh Trung Hoa là việc vương Mãng Giáng vua các thụôc quốc từ tứơc ‘vương’ xuống tước ‘hầu’, cấm họ Lưu không đựơc làm quan, chính sử nói như thế nhưng ở đây ta có thể hiểu là: vương mãn áp dụng đừơng lối phân biệt chủng tộc, cấm ngừơi họ Lưu tức là cấm người LiÊU không đựơc tham dự vào bộ máy lãnh đạo Trung Hoa, phân biệt rõ Trung Hoa và ngoại nhân , chính quốc và thụôc quốc

Việc tự xưng là “Châu Hoàng Đế” chỉ rõ ý muốn tiếp nối quốc thống nhà “Châu” của vương mãng.

Chính sử không nói nhưng nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra Trong Quân của lưu bang thời Hán sở tranh hùng có rất nhiều người Hungnô tức rợ phương bắc nói chung, vì ơn nghĩa ấy sau khi lên ngôi … Thực chất quốc gia của Lưu Bang là một cộng đồng đa tộc, Hoàng tộc Trung Hoa còn củng cố mối liên hệ với các tộc phương bắc bằng nhiều cụôc hôn nhân vì vậy nhiều người gốc Hungnô đã trở thành quý tộc trong triều đại Lưu Bang.

Hai anh em Lưu Dần và Lưu Tú ở trong số quý tộc dị chủng ấy, khi bị vương mãng tước Vương tộc lập tức phản ứng, tụ tập đồng bọn, những kẻ đồng hội đồng thuyền chiếm núi Lục Lâm ở Hồ Bắc, ban đầu chỉ là một bọn cướp núi dân Trung Hoa khinh thường gọi là “Lục lâm thảo khấu”... nhưng khi vận nước đã đến hồi tối tăm thì lũ “giặc cỏ” cũng làm nên cơ nghiệp, Trung Hoa rả rời và mong manh chỉ một cơn gió nhẹ cũng đủ sụp đổ tan tành, ban đầu bọn “giặc cỏ” lập Lưu Huyền lên làm vua, niên hiệu là Cánh Thủy có điều lạ: không thấy lịch sử nói đến tên triều đại mà chỉ lấy niên hiệu để gọi vua là Cánh Thủy Đế, nhưng Quân của ông ta thì lại gọi đích danh là “Hán Quân”

Cánh Thủy Đế chì làm vua được 3 năm thì bị quân Xích My của những người Trung Hoa theo Lão Giáo nổi lên nhằm khôi phục triều đại Lưu bang diệt quốc. Lưu Tú là tay Đại Hùng lược, anh hùng khai quốc của người hán, chính đám quân của ông đã chặt đầu “Châu hoàng đế” khi đang ngồi cầu kinh trên ngai vàng vì còn tin là số mình chưa tận.

Nhưng dưới triều Cánh Thủy Dế thì Lưu Tú lại bị vua lưu Huyền Nghi kỵ nên đày đi tuốt vùng sâu vùng xa… Ở Hà Bắc (Trước đó do Tranh dành Lưu Huỳền đã giết Lưu Dần anh của Lưu Tú)

Lưu Tú đã tỏ rõ bản lĩnh của mình, sau mấy năm trời âm thầm gây dựng lực lượng đến năm 25 sau Công nguyên thì chính thức lập quốc và xưng đế hiệu là Quang Vũ tên nước và triều đại là Đông Hán hay Hậu hán.

Từ năm 26 Quan VŨ diệt quân XÍch My và rồi Tuần tự chiếm trọn đất Trung Hoa

4 triều đại nối tiếp nhau của thời kỳ này là:

 Triều đại của Lưu Bang – Hiếu Cao Tổ

 Triều đại của Vương Mãng –Châu Hoàng Đế

 Triều đại của Lưu Huyền - Cánh Thủy Đế

 Triều đại cua Lưu Tú – Quang Vũ Đế

Trong số này có sự “bất thường” của lịch sử với 2 triều: Lưu bang – Hiếu Cao và Lưu Huyền – Cánh Thủy Đế. Ở triều đại do Lưu Bang dựng nên tất cả các vua đều có đế hiệu là “Hiếu”…; như Hiếu Cao Tổ, Hiếu Huệ Đế, Hiếu Văn Đế, Hiếu Cảnh Đế,v.v… theo quy tắc của sử học Trung Hoa thì triều này bắt buộc phải gọi là triều “Hiếu”… nhưng trong sách sử Trung Hoa ta không hề thấy tên triều này mà thay vào đấy là triều “Tây Hán”

Triều Cánh Thủy Đế còn đặc biệt hơn, không có cả Đế hiệu và quốc hiệu…. Không lẽ là nước “Cánh” .. , có thấy lịch sử viết gì đâu? Nhưng quân đội lại ghi rõ là Hán Quân.

Tại sao vậy? Liên kết sự kiện của 2 triều đạị ta tìm ra sự bí ẩn của lịch sử Trung Hoa.

Cuộc nổi dậy của họ “Lưu” ở núi Lục Lâm đưa đến việc thành lập 2 triều đại của “Hán Nhân” triều của Lưu Huyền ở Thiểm Tây và Lưu Tú ở Hà Bắc – Bắc Kinh; nếu triều của Lưu Tú là đông Hán thì triều của Lưu Huyền phải là Tây hán hay Tiền Hán, lịch sử đã chỉ rõ quân của Lưu Huyền là “Hán Quân”. Tại sao lại tước đi đế hiệu hay Quốc hiệu ấy rồi đem gắn vào triều đại của Lưu Bang? Khi triều đại của Lưu bang được gắn tên mới là Tây Hán dĩ nhiên Đế Hiệu “Chính Thống” là triều Hiếu phải bị chôn vùi đi để cho dòng chảy lịch sử vẫn bình thường từ Tiền Hán sang Hậu hán… đúng là cây cầu lịch sử nối đôi bờ Hoa-Hán, nhờ cây cầu này người Hán đương nhiên tiếp thu toàn bộ lịch sử của Trung Hoa , di sản ấy là toàn bộ nền văn hóa văn minh Trung Hoa và rất đặc biệt... ‘sang đoạt’ luôn cả tổ tiên của người Trung Hoa , đây là trường hợp đặc biệt “Độc nhất vô nhị” trong lịch sử nhân loại.

Việc “Hoán chuyển” này được sắp đặt hết sức công phu và tinh vi.

Lưu Bang được gọi là Bái Công, trong cuộc Hán Sở Tranh Hùng ông có thêm tên mới là Hán Vương. Từ “Hán” chỉ là ký âm hoa ngữ của chữ Hơn hay Hưng mà thôi, Hán –Sở chỉ là một cặp lưỡng nghi hình thành trên quy tắc của dịch lý.

Hán – Sở → Hên – Sui

→ Hơn – Thua

→ Hưng – Suy

Vì Lưu Bang là người chiến thắng nên dĩ nhiêm là Hưng đế, còn Hạng tịch là suy đế hay sở đế.... phép ký âm phù thủy đã biến. :

Hưng = Hán = Hãn

“Hưng đế” của Trung Hoa qua trung gian của từ “Hán” đã biến thành “ Đại Hãn” của Rợ Phương Bắc. Họ Lưu của Lưu Bang là sự cố tình nhập nhèm, khi khởi nghĩa ở đất Bái ông ta đã Tế Hoàng Đế và xi vưu Chứng Tỏ ông là Trung Hoa thuần túy. Ông chọn phẩm phục, cờ xí đều là mầu đỏ, chứng tỏ ông là gốc người miền nhiệt đới được tượng trưng bằng Quẻ Ly – hay lửa và màu đỏ. Như vậy ông phải mang họ Lý không thể nào mang họ Lưu được, Lưu là biến âm của “Lu, mờ” là tính chất của Phương Nam theo dịch lý (ngược với Phương hiện này).

Lu → Liêu – Lưu.

Lửa → Lý – Lưu.

Do sự nhập nhèm cố tình về người HÁN họ LƯU trong lịch sử TRUNG QUỐC :

*Hán = Hên = Hơn = Hưng họ Lý hay Lửa là người họ HÙNG thuộc loại hình nhân chủng NAM Mongoloit .

*Hán = Hãn họ Lu là người Mongoloit con dân của các ĐẠI HÃN cùng loại hình nhân chủng với người Mông cổ ngày nay.

Sử gia HÁN tộc đã ma mãnh tạo 1 từ chỉ ...cả TRẮNG lẫn ĐEN khiến ngày nay không mấy ai có thể biết đích xác về lịch sử và văn minh TRUNG HOA..., khi nói đến lịch sử hay văn minh Hán tộc ...là nói Hán tộc nào ? , Hán tộc Trung Hoa (HÊN-HƯNG) hay Hán tộc Mông cổ ( HÃN ) , tức những dữ kiện lịch sử của người Trung hoa mất nước hay kẻ chiếm nước chiếm đoạt nền văn minh Trung Hoa ?

Chỉ với chút Tiểu xảo ngôn ngữ một ông vua gốc Nhiệt đới biến ngay thành vị khả hãn của xứ lạnh giá băng tuyết. Từ Hán cũng là ký âm của “Hãn” trong ngôn ngữ Bắc Phương (Phương hiện nay) tức phương Nam xưa (theo dịch lý) Hãn là Vua, nước của Hãn là Hãn Quốc, Quân đội của Hãn là Hãn Quân ; ký âm La Tinh Hãn thành Khan, người Tàu ký âm là khả hãn rồi Đại Hãn sau cùng thành Hán đế. Điều này được lịch sử Trung Hoa minh chứng là có cả đống nước gọi là “Hán Quốc” Chứ không phải chỉ có triều tiền và Hậu Hán.

Tóm Lại:

Trong Lịch sử Trung Hoa Từ “Hán” hay “Hán Tộc” là tên chung của các tộc du mục phương Bắc chính yếu chỉ 2 tộc Khiết Đan hay Liêu và Tiên Ty hay Kim –Mãn, Quan Tộc chỉ là một thành phần của Tộc Liêu. Mà thôi

Người Hán không phải là người Hoa, Hán Quốc không bao giờ là Trung Hoa (theo Quan điểm Trung Hoa thuần khiết và chính thống)

Triều Hiếu do Lưu Bang lập nên không có một chút liên hệ gì về huyết thống với Quan Vũ nước Đông Hán; Đông Hán chính xác phải gọi là Đông Hãn Quốc, cùng với Tây Hãn Quốc. Tương tự Khâm Sát – Hãn Quốc; A hoạt đài Hãn Quốc…. Của người Mông Cổ.

Vương Mãng viết đúng là: Vương Mãn, nghĩa là Vua cuối cùng, Mãn là đã đầy tràn hết chỗ chứa rồi không thể thêm được nữa, tiếng việt dùng chữ Mãn với nghĩa đã xong rồi như Mãn Nhiệm, Mãn khóa, mãn phần,v.v… do hoàn cảnh lịch sử nên các sử gia chỉ có thể viết một cách bóng gió: triều Vương Mãn và ta phải hiểu rõ ý nghĩa là: Vận số của Vương triều Trung Hoa tới đây đã tận. So sánh với Hùng Triều thế phổ thì Vương Mãn là triều Hùng Vương thứ 18…, Tên Vương Mãn nói lên một điều rất rõ ràng đây là Vương Triều sau cùng của Trung Hoa, sau đấy là chuỗi ngày Vong Quốc, con dân Trung Hoa làm thân nô lệ và kẻ xâm chiếm thống trị Trung Hoa chính là Quan Tộc với 2 Hãn Quốc Tiền và Hậu.

Việc Lưu tú nhận là cháu 5 đời của Cảnh đế triều Hiếu là giả mạo và bị dân gian diễu cợt bằng câu : “mập mờ đánh lận con đen..”.... cả huyền và tú-tối đều là con đen... theo nghĩa này.

Việc có rất nhiều từ hán gốc Việt trong sử Trung hoa là 1 hiện tượng ngôn ngữ chưa lý giải được..., rất có thể là lịch sử trung hoa hiện nay đã viết dựa trên những tư liệu gốc không phải bằng hán văn nên với những từ hay cụm từ được cho là “danh từ riêng” thì ký âm chứ không dịch, loại văn tự này chỉ có thể là Việt văn cổ hoặc Nếu không thì cũng là văn tự của dân tộc nào đó rất gần gũi với người Việt hiện nay.

Bài 7 - Dịch học và thời lập quốc họ HÙNG

Dịch học là ánh sáng của người họ HÙNG nên không có gì nằm ngoài nó,lịch sử cũng vậy, người họ Hùng đã kiến taọ lịch sử của mình trên cơ sở HÀ THƯ và NGŨ HÀNH, ta nhìn lại Hà thư và những vận dụng của ngũ hành:

Đối chiếu với Hà thư.

1 - Thời tiền lập quốc.

Tóm lược những thông tin rút ra được từ sách Lã thị xuân thu của Lã bất vi:

-Phương số 3-8 Hà thư là :Thái cao –Bào hy vua của phương đông ứng với màu xanh hành mộc ( xem các nút số ở hình trên )

- Phương số 2-7 Hà thư là : Viêm đế- thần nông vua của phương viêm nhiệt ứng với màu đỏ hành hoả.

- Phương số 4-9 Hà thư là : Thái hạo vua của phương tây ứng với màu trắng hành thổ.

- Phương số 1-6 Hà thư là :xuyên húc vua của phương u huyền ứng với màu đen hành thủy.

Ta thấy ngay cổ nhân Trung hoa đã kiến lập lịch sử buổi ban đầu của dân tộc mình theo HÀ THƯ.

Ở đây 2 phương đông và tây đã rõ ràng chỉ cần minh định 2 phương bắc và nam; theo Lã thị xuân thu phương viêm nhiệt là phương nam là sai ; viêm nhiệt là nóng bức, bức =bắc qúa rõ, liên quan tới nóng và lửa ta còn nhiều từ khác như : hỏa viêm thượng nghĩa là lửa thì bốc lên ; ta lưu ý từ viêm và bốc, nhẹ như bấc; số 2 trong hà thư đọc là nhị chính là biến âm của nhẹ từ Việt như vậy ta thấy từ bắc nằm trong cụm từ bắc-bức- bấc-bốc là những biến âm dùng diễn tả những gì liên quan tới ngọn lửa.

Vùng trời này được gọi là Viêm thiên trong cửu thiên và trên thực địa thì không thể có sự chỉ định nào khác ngoài vùng nhiệt đới hay cận xích đới, ngược với viêm thiên là huyền thiên hay phương nam,phương màu đen tiếng Việt còn gọi là Mun, người Tàu ký âm thành Man và chính người Tàu cũng đã xác định đấy là phương nam qua từ kép NAM MAN tức nam mun.

Một chứng lý nữa : trong vương chế Trung hoa vua luôn luôn quay mặt về hướng nam nếu là buổi thiết triều thì để nghe lời của hiền thần còn noí chung là để lắng nghe nguyện vọng của dân chúng; như vậy khi vua nhìn về hướng nam thì bản thân vua phải ở hướng bắc, quần thần và dân chúng chầu về hướng bắc, ở Trung hoa xưa vua được xem như mặt trời vậy, nên chầu vua tức chầu mặt trời tức là quay mặt về hướng xích đạo tóm lại hướng mặt trời là hướng Bắc.

Tới đây đã đủ bằng chứng để kết luận : phương bắc và nam đã bị lật ngược đây là việc làm có chủ đích , có hệ thống vì không phải chỉ có phương nam bắc mà toàn bộ những thông tin cơ bản của dịch lý đều bị đảo lộn như âm dương, vạch đứt -vạch liền, các phương vị của Hà Lạc và bát quái, ngũ hành cũng cùng chung số phận; nói chung CÀN KHÔN đã bị người Hán phá nát, những điều này dần dần khi đi sâu tìm hiểu địch học họ HÙNG chúng ta sẽ nhận ra.

Các cặp số của Hà thư cho ta 4 phương và trung tâm hay trung nguyên.

4 phương tượng trưng cho 4 thị tộc hay bộ lạc thời tiền lập quốc và trung nguyên là nơi hoà hợp –thống nhất các thị tộc thành dân tộc, thời gian này là thời lưỡng tính, khởi đầu là liên minh thị tộc và kết thúc là hình thành quốc gia. Quốc hiệu đầu tiên của dòng giống HÙNG là Quốc gia họ HÙNG hay HỮU HÙNG QUỐC, chữ hữu ở đây là ký âm chữ họ của Việt ngữ ̣( người Tàu cố tình nhập nhèm coi chữ HỮU là trợ từ ), quốc hiệu này biểu thị rất rõ thời lưỡng tính trên vì mang trong bản thân cả hữu lẫn quốc .

- căp số ( 3-8 )

Trong hà thư chỉ phương đông phương mặt trời mọc hay mùa xuân; ý chỉ buổi bình minh của dân tộc. Truyền thuyết lập quốc người Việt gọi vị tổ phụ phương đông là ĐỘNG ĐÌNH QUÂN vua vùng Động đình hồ. Mới đây các nhà nghiên cứu Việt nam đã sưu tập được trong truyền thuyết dân gian tên 4 vì vua đầu của họ HÙNG là : VUA CẢ- THÁI CAO , THÁI VIÊM ( ĐẾ VIÊM) , THÁI KHANG VÀ THÁI TIẾT ; THÁI CAO chỉ là tên chữ nho của VUA CẢ mà thôi, ta thấy đế hiệu này trùng khớp với THÁI CAO - BÀO HY của cổ sử Trung hoa, theo 1 trật tự hợp lý thì THÁI CAO chỉ là tên khác của ĐỘNG ĐÌNH QUÂN cả 2 đều mang tính biểu thị cho phương đông; chính xác phải gọi là phương động là tính chất của can BÍNH- BẤN tượng số (8) trong thập can, còn Thái cao hay Vua cả chỉ sự khởi đầu của các vua hay buổi bình minh của dân tộc , phương đông cũng là phương của màu xanh và tình thương , sách Lã thị xuân thu chép vua dựa vào mộc đức mà cai trị, số ứng là số 8 là số chỉ phương đông trong Hà thư, động vật tiêu biểu là loài có vảy tức loài rồng –rắn , kỷ cuả ngài gọi là mạnh xuân kỷ.

Động đình hồ ở đâu ? phần lớn những nhà nghiên cứu sử đều bị mê hoặc bởi đầm Vân mộng ở Hồ nam và xác định đấy là Động đình hồ của cổ thư, trong sách cổ của Trung hoa nói nhiều đến Chấn trạch hay Lôi trạch cả 2 đều có nghĩa là cái hồ ở phương đông ta thấy đầm Vân mộng không đủ các yếu tố theo chỉ định của ngôn ngữ vì nó nằm ở khoảng giữa đất Trung hoa..Đình hồ nghĩa là cái hồ lớn có thể hiểu là biển nên động đình hồ phải dịch sang Việt ngữ là Biển đông mới đúng, Động đình quân là vua vùng biển đông, căn cứ vào năng lực con người vào thời đại ấy thì biển đông chỉ có thể gom vào vùng vịnh bắc bộ ngày nay là hợp lý, truyền thuyết Việt nam nói Linh lang một vì vua được thờ rất nhiều đã hoá tức chết ở hồ Tây và hồn suôi về Động đình hồ , điều này kiện chứng thêm cho sự ấn định trên.

- cặp số ( 2-7 )

Số( 2-7) chỉ phương nóng bức hay hướng xích đạo là nơi cai quản của THÁI VIÊM ;tổ phụ phương lửa hay quẻ LY.sách Lã thị xuân thu và các tư liệu lịch sử Việt nam đều gọi là VIÊM ĐẾ đây là sự khập khễnh đáng tiếc , khi đã xác định là 1 tổ phụ thời tiền lập quốc phải gọi là THÁI VIÊM mới chuẩn xác và nhất quán;truyền thuyết lich sử Việt coi Thái viêm Thần nông là tổ cao nhất của mình; Đế MINH cháu 3 đời của Viêm đế Thần nông....dã sử Việt đả mở đầu như thế..., còn theo Lã thị xuân thu: Viêm đế cai trị bằng hoả đức, thần bảo hộ là hỏa thần Chúc dung, số tương ứng trong Hà thưlà số 7 hướng xích đạo cũng là màu đỏ, động vật tiêu biểu là loài lông vũ tức loài chim và nhiều sách cổ của Trung Hoa chỉ định rõ là chim khổng tước tức chim công. Thực tế ta hiểu thị tộc của Viêm đế có địa bàn sinh sống là vùng nóng nhất trong 4 thị tộc thời tiền lập quốc tức gần xích đạo nhất.Trung hoa xưa vẫn gọi miền trung Việt nam là miền bắc hộ ý nói vì đã vượt qúa xích đạo nên cửa mở về hướng bắc để đ̣ón ańh mặt trời.

- cặp số (4-9)

Phương tây trước đây không được nói tới trong truyền thuyết lập quốc nhưng nay đã được bổ sung là THÁI KHANG hay tổ phụ phương tây, từ khang thực ra là khăng hay khăng khăng nghĩa là không thay đổi, khăng =cang=cương=cứng là tính chất của phương tây theo dịch học: số 4 là cứng, số 9 là đinh hay tịnh, Lã thị xuân thu viết động vật tiêu biểu là loài lông mao ý nói loài sư tử , đây là cái sai rất điển hình của những người cố ý cạo sửa cổ thư vì sư tử là loài thú xa lạ với cả Đông nam á và Trung hoa, bạn có nghe nói đến sư tử đông á châu bao giờ chưa ?..Động vật tiêu biểu của phương tây phải là con voi vì can số 9 chỉ phương tây theo Hà thư là can: định, tịnh..;.bản thân chữ tịnh đã là con voi rồi vậy mà Có người cố ý nhập nhèm sửa đổi vì phía bắc sông Hòang hà từ cổ chí kim làm gì có voi nên họ thay bằng con sư tử , cả sư và tử đều xuất phát từ âm tsi số 4 mà thôi, số 4 việt ngữ là bốn, biến âm thành bóng ,sáng bóng hay bóng láng dịch sang Hoa ngữ là HẠO hay CHIÊU nên phương tây còn gọi là phương Chiêu, tổ phụ phương này là THIẾU HẠO. Ở trên ta đã biết khương hay cương có nghĩa là cứng rắn không thay đổi, đấy là đặc tính của phương tây cổ thư trung hoa cũng nói đến sông KHANG hay KHƯƠNG như cái nôi của người cổ, từ Khương ký âm thành Cương cho phép ta liên kết với sông MỄ CƯƠNG tức sông MÊCÔNG ngày nay.., sách ‘Đại nam thực lục’ gọi sông Khang là Khung giang là sự chỉ dẫn đích xác nhất về địa danh này .

- Cặp số ( 1-6)

Việt ngữ gọi tháng 1 là tháng giêng, hoa ngữ ký âm thành giang đồng nghĩa với con sông thường được dịch thành xuyên, số 1 cũng là đơn biến âm của đen trùng khớp với huyền thiên trong cửu thiên cũng là mun màu đen tiếng Việt để tạo thành nam mun hay man, vị vua của phương này truyền thuyết dân gian Việt gọi là THÁI TIẾT, thực ra là TIẾP mới đúng, tiếp là tiếp giáp chỗ giao nhau của cũ và mới trước và sau là sự bắt đ̣ầu hay trước tiên theo nghĩa chữ giáp là đứng đầu là thứ nhất nên Thái tiết còn có tên là tiên đế, lĩnh nam trích quái gọi là bà VŨ TIÊN,ta thấy tất cả đều xoay quanh con số 1,Vũ tiên thực ra chỉ có nghĩa là vua vùng số 1 tức phương nam, vì vua của phương 1-6 này cổ sử Trung hoa gọi là XUYÊN HÚC, xuyên là con sông như ta đã biết ở trên còn Húc chỉ là ký âm sai của từ hắc nghĩa cũng là màu ̣đen.sông đen chuyển ngữ thành Xuyên húc hay Hắc

Tóm lại : thời tiền lập quốc người xưa đã dựa trên Hà thư để hư cấu thành 4 vị tổ phụ của 4 phương trời, mượn danh các vua nhưng thực ra để chỉ 4 thị tộc mà sau này đã tham gia vào việc cấu thành dân tộc họ HÙNG.

2 - Thời lập quốc.

Theo Cổ sử Trung hoa thì Hoàng đế và Viêm đế là hậu duệ của Thái Viêm Thần nông , đây chỉ là sự thể hiện sử tính của những con số thuộc Viêm phương theo Hà thư : 7=2+5 , số 7 chỉ Thái Viêm , số 2 là Viêm đế và số 5 là Hoàng đế hay Hùng Vũ – đế Minh

HIỀN VƯƠNG vua của thị tộc CẢ nghĩa là tộc đứng đầu cổ sử Trung hoa chép thành HIÊN VIÊN của tộc CƠ đánh bại XUY VƯU vua của thị tộc CỬU LÊ ; đoạn sử này xuất phát từ cặp số 4-9 chỉ phương tây của Hà thư, xuy là âm số 4 còn cửu là số 9. Sau đó ở trận Trác Lộc Hiền vương đánh bại VIÊM ĐẾ thủ lãnh thị tộc phương ‘nóng’ thống nhất 3 tḥị tộc thành một dân tộc, dân tộc HÙNG, lập nước họ HÙNG và lên ngôi HÙNG VŨ tức VUA HÙNG , vũ chỉ là ký âm hán tự chữ vua của việt ngữ, lãnh thổ của nước họ HÙNG là đất GIỮA chuyển âm Hán ngữ thành YUÊ còn được dịch thành GIAO CHỈ, chỉ là chỗ, nơi chốn ý nói nơi giao nhau của 2 đường nam –bắc, đông tây, chữ giữa ký âm YUÊ không hiểu sao Việt nho đọc thành VIỆT.

Vua Hùng dạo chơi phương nam gặp và kết hôn với con gái bà Vũ tiên hay tiên đế sinh ra LỘC TỤC, Lộc là biến âm của lục là số 6 và công thức đả ấn định trong hà thư để sinh ra Lục tục : Hiên viên hay Hiền vương tên tộc là NGU chính xác là NGŨ số 5 ở trung tâm của Hà thư, lấy con bà Vũ tiên là số 1, sinh ra Lộc tục được chỉ bởi số 6;ta có: 5+1=6, sau vua HÙNG truyền ngôi cho con cả lập nên triều đế NGHI ở phương Bắc và Lộc tục được phong là vương phương Nam lấy hiệu là KINH DƯƠNG VƯƠNG, Kinh biến âm của cóng nghĩa là lạnh cũng là một tên khác của quẻ Khảm chỉ NƯỚC trong cặp đối Lửa-Nước hay phương Bắc và phương nam,nóng và lạnh còn dương chỉ là biến âm của Giêng tức số 1 của Hà thư.Giòng con cháu đế NGHI gọi là người LA tượng trưng bởi qủe LY là lửa , qủe của Viêm phương.

Cổ sử Trung hoa không ‘thích’ con đường hôn nhân mà nhất định phải đánh , phải có chiến tranh và chiến thắng mới oai ...nên viết HOÀNG ĐẾ tức HÙNG VŨ đánh bại HOAN ĐÂU con của vua XUYÊN HÚC ở ĐAN THỦY, đan là biến âm của đen, Đan thủy hay HẮC THỦY cũng là con ‘sông đen’ mà thôi, HẮC THỦY là tên của sông ĐÀ xưa. HOAN ĐÂU là tổ của người MIÊU hay Hữu Miêu tức họ Miêu, chữ Miêu chỉ là ký âm sai của chữ MUN mà thôi, người Mun nghĩa là người phương nam. Tất cả người tộc Miêu đều nhận mình là người MUN.

Thực tế thì chẳng có hôn nhân cũng chẳng có đánh nhau đấy chỉ là một lối ám chỉ ,diễn tả việc phát triển dân tộc HÙNG về phương nam ,ở đấy cộng sinh và hoà huyết với1 tộc người mới là người MUN kết qủa là tạo thành giòng tộc HÙNG phương nam gọi là người KINH hay CÓNG tên khác của quẻ Khảm chỉ phương nước ngược với phương lửa.

LA và KINH là anh em cùng cha khác mẹ , cả 2 là con HÙNG VŨ tức vua HÙNG và đất giữa hay YUÊ cũng có Yuê-bắc và Yuê- nam, ngày nay kim chỉ nam còn được gọi là LA-KINH tức cây kim 2 đầu, 1 đầu Bắc và1 đầu Nam nhưng chỉ là 1 cây kim mà thôi . Người KINH mọi người đều biết là người VIỆT hiện nay còn người LA ?

Câu ca dao sau sẽ dẫn dắt chúng ta ̣đến 1 bất ngờ to lớn:

Ai ơi chớ lấy KẺ LA.

Cái dưa thì khú cái cà thì thâm.

Gạt bỏ ý tứ trong lối chơi chữ ‘dưa khú- cà thâm’ đi ta có được 1 thông tin quan trọng và qúy giá đó là KẺ LA, kẻ nghĩa là người , kẻ La là người La tên người Việt gọi người CHĂM hay CHÀM; thì ra La và Kinh là chỉ người Việt và người Chàm hiện nay..., người Chàm là dòng đế NGHI con cả của vua HÙNG, thật là một bất ngờ to lớn khi biết La là quẻ Ly ;Kinh là quẻ Cóng hay khảm tức quẻ lửa và quẻ nước biểu thị sự phân cực của một thể thống nhất theo luật lưỡng nghi của dịch học.

Người Chàm chỉ là một phần của người La , người La hiện nay có mặt ở nhiều nơi trong vùng đông nam á và trung quốc, Lào và Thái có người LÀO hay LÃO QUA, Trung quốc có người DI LÃO hay CAĐAI và người LÊ, các từ Ly-la- lê-lão-lô..v.v chỉ là những biến âm của 1 từ gốc là LỬA, chữ Di là tàn tích của chữ NHÌ là thứ hai .

DI_LÃO có 1 từ kép Đối xứng là KINH_LẠC, qủe Cóng đối với qủe Ly hay Kinh đối với Lão; Lạc biến âm của lục số 6 đối với Di biến âm của nhị số 2, 6 và 2 là 2 số đối phân cực Bắc –Nam của Hà thư.

Người KINH- LẠC; ngoài người Kinh ở đất Việt hiện nay còn có dòng Bách-lộc và người Hẹ hay Hacka và người mang họ MẠC ở đất Trung quốc vì Chữ LẠC còn đọc là ḤẠC và MẠC-MẠCH, có điều lạ lùng là không hiểu sao người Tàu lại gọi người Cao ly là Mạch, có 1 sự lẫn lộn nào đó của lịch sử hay không ?.

Khi hình thành nên tộc Kinh-Lạc dòng máu người họ HÙNG đã là sự hòa huyết của 3 thị tộc gốc: người dòng CẢ của phương bắc, người CỬU_LÊ của phương tây, người MUN hay MIÊU của phương nước hay nam xưa tức phương bắc ngày nay.

Truyền thuyết Việt nói : KINH DƯƠNG VƯƠNG kết hôn cùng LONG _NỮ con ĐỘNG ĐÌNH QUÂN; thế là người họ Hùng đã đi hết đoạn đường mà tạo hóa sắp đặt để hòa thêm dòng máu thứ 4 vào huyết thống của mình dòng máu của LONG tộc ở phương ĐÔNG, diễn biến này được Truyền thuyết lịch sử Trung hoa viết :Vua ĐẠI VŨ lấy vợ là ĐỒ SƠN THỊ, Đồ sơn thị là người con gái ở ĐỒ_SƠN ; phải chăng là bãi biển Đồ sơn ở Hải phòng bắc Việt hiện nay ? cổ thư trung hoa có nói đến việc họ KINH XUYÊN và ĐỘNG ĐÌNH đời đời là thông gia...

Cổ sử cũng cho biết khởi thủy đất trung hoa chỉ có châu ĐÀO-ĐƯỜNG hay ĐÀO- DƯƠNG, thông qua các dịch tượng ta hiểu Đào đường hay dương cũng chỉ có nghĩa là bắc - nam hay lửa và nước mà thôi, cổ sử Việt có nói đ̣ến đất Việt thường đấy chính là nói về đất Đường trên, Đường là phát âm hán việt chữ thoòng hay thường mà thôi.Con dân vua HÙNG có người LA người KINH, đất có đất Đào đất Đường hay Việt thường, căn cứ vào thư tịch cổ ta còn thấy vua cũng có 2 dòng, đế KHAI-MINH và đế MINH-KHIẾT, ông KHIẾT là tổ của người Trung hoa vùng Trường giang ta có thể suy ra đế Minh Khiết hay MINH + KHIẾT là vua gốc dòng KINH- LẠC do sự hòa huyết của đế MINH và dòng VŨ TIÊN phương nam gọi tên khác là ông KHIẾT như truyền thuyết đã nói ở trên. Khi vua HÙNG truyền ngôi cho đế NGHI ở phương bắc tức đất Đào thì quốc hiệu là nước ‘ĐÀO’ dịch sang Hoa ngữ là HỒNG BANG ký âm sai thành HỒNG BÀNG, đấy là quốc hiệu đã được mọi người VIÊT NAM mặc nhiên công nhận.

Những dòng tóm lược về thời khai quốc trên đã cho thấy có sự trùng hợp hầu như hoàn toàn giữa 2 dòng sử VIỆT và HOA , sự việc này thực kỳ bí buộc ta phải đi sâu thêm để khám phá.

Do lẫn lộn không phân biệt giữa Thái viêm Thần nông tổ 3 đời của đế Minh và Viêm đế một thủ lãnh bộ tộc cùng thời với đế Minh hay Hiên viên- Hiền vương đã khiến cổ sử Việt mắc sai lầm cơ bản mang tính quyết định .

Vì lầm lẫn Viêm đế là thủy tổ của dòng Việt mà ...Hoàng đế Hiên Viên đã đánh bại Viêm đế...nên các sử gia người Việt đã coi Hiên Viên là kẻ xâm lăng và hủy diệt nước của người Việt .

Hoàng đế Hiên Viên đã đánh bại Xuy vưu và Viêm đế thống nhất 3 bô tộc để lập nên nước họ HÙNG thời thái cổ .

Chính sự thực lịch sử này khiến Trong dòng con dân của Viêm đế còn truyền tụng cho đến tận ngày nay truyền tích xâm lăng –diệt quốc của Hoàng đế Hiên Viên . Giới sử học Việt đà mắc sai lầm căn bản coi Hoàng đế Hiên viên là tổ của Hán tộc ....khi Hán tộc chưa hề có mặt trên qủa đất này , Hiên Viên chỉ là ký âm hán tự của Hiền vương – Hùng vũ là thủ lãnh của một trong ba bộ tộc đã kết hợp để làm nên họ HÙNG thủy tổ của người VIỆT ngày nay.

Bài 8 - sơ phác về Đông nam Á
Nói đến Đông Nam Á ngày nay người ta thường hiểu đấy là số cộng của lãnh thổ và dân số 10 nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, một vùng với diện tích 4 triệu km2 và gần 500 triệu dân. Các nước Đông Nam Á trước đây không đóng vai trò quan trọng trên thế giới, người ta chỉ phảng phất biết đấy là vùng có nhiều hương liệu quí và thời cận đại là vùng nguyên vật liệu cung cấp cho các nhà máy ở Phương Tây.

Thời mà Đông Nam Á chỉ được thiên hạ biết đến là vùng ở giữa Trung Hoa và ấn Độ đã qua rồi. Trung Hoa và Ấn Độ là 2 anh chàng khổng lồ chiếm hơn 1/3 dân số nhân loại, lại là 2 trung tâm văn minh cổ đại của loài người nên cái bóng của họ to quá khiến Đông Nam Á mất tăm, mất tích hay khá lắm thì cũng chỉ được coi là vùng phụ thuộc của bán đảo Trung – Ấn, vùng ảnh hưởng của văn hoá, văn minh Trung Hoa và Ấn Độ mà thôi. Nhóm từ Đông Nam Á ta quen dùng chỉ là địa giới hành chính, thực ra bé hơn nhiều so với vùng Đông Nam Á thực sự. Nếu coi Đông Nam Á như một khu vực địa lý khí hậu thì nó đồng nghĩa với khu vực châu Á gió mùa. Còn coi đó là khu vực với khía cạnh nhân chủng – dân tộc học thì Đông Nam Á là địa bàn sinh tụ từ cổ đại đến nay của giống mà khoa nhân chủng học gọi là Mongoloid phương Nam và gồm 2 nhánh:

- Nhánh Nam Á.

- Nhánh Indonesien

Đông Nam Á thực sự Phía tây bắc giáp với bắc Ấn và cao nguyên Khang Tạng tức tới vùng Tứ Xuyên của Trung Hoa hiện nay, phía đông bắc đến tận bờ nam Dương Tử. Thực vậy, nếu hiểu theo nghĩa là một khu vực văn hoá, văn minh thì Đông Nam Á có 4 vùng địa lý tự nhiên:

- Đông Nam Á hải đảo - Đông Nam Á lục địa

- Tây nam Trung Hoa - Đông nam Trung Hoa

Tới nay ánh sáng khoa học chưa rọi đến quá khứ đông nam á, ngay cả những điều cơ bản người ta cũng còn rất lơ mơ như sự ra đời và tồn tại của quốc gia mà sách vở Tàu gọi là nước Phù nam; lãnh thổ, tộc người , tương quan lịch sử-văn hoá với 2 nền văn hoá kề cận là Trung hoa và Ấn độ mãi tới nay vẫn chưa thấu suốt.

Tại sao ngoài vùng gọi là văn hoá Trung hoa phần còn lại của Đông nam á lại đậm nét văn hoá Ấn ?... chỉ trừ Việt nam và Phillipin 3 tôn giáo có gốc ở tiểu lục địa Ấn độ là Phật giáo, hồi giáo và ấn giáo đã trùm phủ khắp Đông nam á cả lục địa lẫn hải đảo, sự việc diễn tiến ra sao ? chưa có câu trả lời, có chăng lại là vài dòng truyền thuyết sặc mùi thực dân đế quốc như...có đoàn người đến từ tiểu lục địa Ấn độ và đã xảy ra 1 trận đánh kết qủa ...nữ chúa Phù nam còn ở truồng đã thua phải giao ngôi báu và trở thành vợ kẻ chiến thắng..., quả thực sự cai trị cuả dòng Aryan trên đất đông nam á nghịêt ngã hơn nhiều so với sự cai trị của dòng Man trên đất Trung Hoa, chí ít thì người Trung hoa cũng còn nhớ có ông Bàn cổ,bào hy, Thần nông rồi Nghiêu Thuấn Vũ.v.v., cũng còn biết đến âm dương- ngũ hành trái lại trong vùng thống trị của văn hoá Aryan thì tất cả cứ như là ở dưới lỗ nẻ chui lên vậy, chẳng còn biết mình ở đâu ra nữa...

Khảo cổ học cùng nhiều ngành khoa học khác đang vén dần bức màn quá khứ của Đông Nam Á và khám phá: Thực kỳ diệu! Từ rất xa xưa khoảng 10.000 năm nay, ĐNA là một thể thuần nhất trên mọi khía cạnh văn hoá, văn minh và tộc người (dĩ nhiên ta hiểu theo ý “đại đồng tiểu dị”) vậy mà cho tới tận hôm nay vẫn không thấy một tín hiệu nào, một dòng chữ nào của thời xa xưa nói về việc đã từng tồn tại trong quá khứ một dân tộc gọi Đông Nam Á? Sự thực có như thế không? Chính sự đồng nhất này khiến chúng ta không thể nghĩ khác được là: Tất cả ra đời từ một khuôn đúc, sự sống chung trong một thời gian dài lâu đã tạo thành nếp nghĩ, nếp sinh hoạt mà bây giờ chúng ta gọi là văn hoá – văn minh Đông Nam Á không phải ngẫu nhiên mà Việt Nam và các dân tộc Đông Nam Á khác có cả một kho tàng truyện cổ tích lịch sử và phương pháp truyền đạt để bảo tồn những cổ tích đó là “văn nói”, là các buổi kể chuyện “khan” quanh đống lửa của núi rừng Tây Nguyên. Tổ tiên người Việt biết rất rõ về sức sống của “văn nói” thể hiện qua câu ca dao:

“Trăm năm bia đá cũng mòn
ngàn năm bia miệng vẫn cò trơ trơ”

Một quốc gia hay một cộng đồng Đông Nam Á thời xa xưa chắc chắn đã tồn tại và tan vỡ, trước cảnh nước mất nhà tan, cha mẹ thì gươm kề cổ, con cái thì “lên rừng tìm ngà voi, xuống bể mò ngọc trai” đem dâng nộp cho kẻ thống trị, trong tình cảnh đó sẽ không thể có sách sử bằng chữ viết để lưu truyền ,vì chỉ 1 hay 2 thẻ tre, một vài chữ sẽ đưa đến án tru di...như Càn long đã tru di cửu tộc nhà thầy dạy học mình., Cổ nhân không có cách nào khác là ký thác những gì muốn nói với đời sau vào những câu chuyện kể bằng lời, đời cha kể chuyện cổ tích cho đời con, đời con thuộc nằm lòng và kể lại cho đời cháu … cứ như thế mà tiếp tục đến ngàn năm sau rồi ra sẽ có ngày vận nước thoát cơn bỉ cực, con cháu sẽ giải mã được các bức điệp văn đánh đi từ quá khứ và tìm lại được quê cha đất tổ và nguồn gốc đích thực của dòng giống mình. Thực may mắn vô cùng ta đã tìm được chiếc chìa khoá để giải mã các tín điệp của tổ tiên đó chính là Dịch Lý. Thí dụ: ngay ở đoạn trên có câu: “lên rừng tìm ngà voi, xuống biển mò ngọc trai…” khi dùng các mã tin của Dịch Lý để giải ta xác định ngay được: Quê cha đất tổ của ta phía tây có rất nhiều voi, phía đông là biển hoàn toàn khớp với ý nghĩa của chữ “nguyên hình” là Tịnh chỉ hướng tây và Long chỉ hướng đông, như thế không thể ở nơi nào khác ngoài miền trung Việt Nam hiện nay.

Sự trùng khớp hoàn toàn này cũng chính là dấu ấn mà tổ tiên người Việt Nam đã đóng lên Kinh Dịch, xác nhận chủ quyền dân tộc trên bản kinh vô giá, độc nhất vô nhị trên thế gian này. Và chỉ có người Đông Nam Á nói chung và người Việt Nam nói riêng khi đã nối thông được với ngọn ngành của dân tộc mình, tiếp thu được linh khí ngàn đồi tổ tiên truyền về mới có thể thấu hiểu Kinh Dịch – tìm được những giá trị vô song tàng chứa trong đó để vận dụng kiến tạo đời sống hạnh phúc cho chính mình và cho anh em, cơn bỉ cực của dân tộc đã kéo dài đến hàng ngàn năm. Phải chăng những ngày tháng này đây là thời khắc linh thiêng, là điểm khởi đầu của thời phục hưng, thời huy hoàng của Đông Nam Á.

2 . Các vua trong truyền thuyết Việt Nam và Trung Hoa cổ

a. Việt Nam

Dựa theo các cổ tích đã dẫn, ta tìm thấy tên các bậc quân vương đời Thái cổ:

1. Viêm Đế họ Thần Nông

2. Vụ Tiên

3. Động Đình Quân

4. Hùng vương

5. Đế Minh

6. Đế Nghi

7. Kinh Dương Vương

8. Lộc Tục

9.Sơn tinh

10. Lạc Long Quân

11. Sùng lãm

12. An Dương Vương – Thục Phán

b. Các vị vua Thái cổ Trung Hoa

*- theo sách Lã thị xuân thu :

Qua loạt bài trước ta đã biết về 4 vị vua Thái Cổ của Trung Hoa:

1. Thái Cao – Mộc Đức – mùa xuân số 8, phương Đông – (màu xanh)

2. Viêm Đế – Hoả Đức – mùa hạ – phương Nam (?) số 7 – (màu đỏ)

3. Thiếu Hạo – đức Kim – mùa thu – phương Tây – số 9 – (màu trắng)

4. Xuyên Húc – Thủy Đức – mùa đông – phương Bắc (?) – số 6 – màu đen

Các số 6 – 7 – 8 – 9 là số chỉ bốn hướng chính của Hà Thư (Đồ); các đức là đức của Ngũ Hành, các thần cũng là thần của Ngũ Hành. Ở phần trích trong Lã Thị Xuân Thu ở trên không thấy nói đến Cửu Thiên, nhưng xem xét thấy rất tương hợp vì tất cả đều là mã tin của Dịch Lý nên có sự nhất quán

Ta thấy sự tương ứng các vị trí:

Thái Cao – Thanh Thiên (xanh)

Viêm Đế – Viêm Thiên (nóng, bức)

Thiếu Hạo – Hạo Thiên (tỏ, rõ)

Xuyên Húc – Huyền Thiên (đen, mờ)

* . Căn cứ vào Cổ Thư Trung Hoa, ta có các vị vua:

1. Bàn Cổ

2. Tam Hoàng: Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhân Hoàng (dị bản: Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế)

3. Ngũ Đế: có đến 4 thuyết:

* Thái Hạo – Hoàng đế – Thần Nông – Thiếu Hạo – Chuyên Húc.

* Phục Hy – Thần Nông – Hoàng Đế – Thiếu Hạo – Chuyên Húc

* Hoàng Đế – Thiếu Hạo – Chuyên Húc – Đế Khốc – Đế Chí (theo Từ Hải)

* Hoàng Đế – Chuyên Húc – Đế Khốc – Đế Nghiêu – Đế Thuấn (theo Tsui Chi)

… nhiều sách có nhắc đến Đế Ai, Đế Lỗ …. thật là rối rắm.

Bài 9 - truyền thuyết và thơ sử Việt

Tiền nhân người Việt Nam đã truyền lại cho đời sau nhiều chuyện cổ tích, đặc biệt là những truyện trước công nguyên. Trong những câu chuyện trên có phần hư cấu, mới đọc tưởng là chuyện tà ma, yêu thuật nhưng khi dùng chìa khoá Dịch Lý để mở mới nhận ra đó chính là tâm huyết của người xưa, khi đưa các mã tin của Dịch Lý vào các câu chuyện cổ tích – kết hợp với cổ sử Trung Hoa và Việt Nam đối chiếu với những khám phá của một số ngành khoa học hiện đại ta có thể phục dựng lại nguyên bản của lịch sử, đúng như những gì đã xảy ra, rửa sạch các lớp sơn ô uế mà ai đó đã phủ lên lịch sử của con dân Việt Nam – con dân Họ Hùng trong số đó quan trọng nhất là Hùng triều ngọc phả.

e- Hùng triều ngọc phả :

Dựa theo phả hệ Hùng Vương 18 đời được lưu truyền từ xa xưa và con dân Việt coi như chính sử:

1 Hùng Dương Vương

2 Hùng Hiển Vương

3 Hùng Quốc Vương hay Thuấn Vương – Lâm Lang

4 Hùng Nghi Vương – Bảo Lang ( dị bản: Tân Lang)

5 Hùng Hy Vương – Viêm Lang ( dị bản: Hùng Anh Vương)

6 Hùng Hoa Vương – Hải Lang̣

7 Hùng Huy Vương – Long Tiên Lang

8 Hùng Chiêu Vương – Quốc Tiên Lang (dị bản Lang Liêu lang)

9. Hùng Ninh Vương – Thừa Văn Lang

10. Hùng Uy Vương – Hoàng Hải Lang ( dị bản: Hùng Vĩ Vương)

11. Hùng Trịnh Vương – Đức Hưng Lang

12. Hùng Vũ Vương – Hiền Đức Lang

13. Hùng Việt Vương – Tuấn Lang

14. Hùng Định Vương – Chân Lang

15. Hùng Triệu Vương – Cảnh Triệu Lang (dị bản: Cảnh Thiều)

16. Hùng Tạo Vương – Đức Quân Lang (dị bản: Đức tân)

17. Hùng Nghị Vương – Quang Lang

18. Hùng Duệ Vương – Huệ lang (dị bản: Duệ Đức)

Riêng tư liệu do Nguyễn Hồng Sinh sưu tầm có thêm Hùng Vương thứ 19: Hùng Kính Vương?

g-Tóm tắt một số truyện cổ tích Việt .

Để giúp bạn đọc đặc biệt là các bạn trẻ dễ dàng nắm bắt ý trong bài viết xin tóm tắt một số truyện cổ tích Việt được dùng làm tư liệu dẫn chứng cho cả loạt bài viết về lịch sử họ HÙNG .

g .1. Sự tích họ Hồng Bàng

Đế Minh là dòng dõi 3 đời của Viêm Đế Thần Nông, đi dạo chơi phương nam đến núi Ngũ Lĩnh gặp và kết duyên cùng nàng Vụ Tiên (có dị bản chép là con gái bà Vụ Tiên), sinh ra con trai đặt tên là Lộc Tục. Đế Minh rất thương yêu và có ý định truyền ngôi “đế” cho Lộc Tục, nhưng Lộc Tục quyết không dám nhận vì còn anh trai lớn cùng cha khác mẹ là Đế Nghi. Sau Đế Minh truyền ngôi cho Đế Nghi và phong là vua phương bắc, Lộc Tục là vua phương nam. Lộc Tục lên ngôi lấy hiệu là Kinh Dương Vương – đặt tên nước là Xích Quỉ. Kinh Dương Vương kết duyên cùng Long Nữ (dị bản chép là Long Mẫu, là nàng Áng Mây) con gái của Động Đình Quân, vua vùng hồ Động Đình, hạ sinh một con trai đặt tên là Sùng Lãm. Sùng Lãm nối ngôi cha xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân kết duyên cùng Âu Cơ con gái của Đế Lại và là cháu của Đế Nghi. Âu Cơ sinh ra một cái bọc trong có 100 quả trứng, sau nở ra 100 người con trai. Một hôm, Lạc Long Quân nói với Âu Cơ, “Ta là dòng dõi rồng vốn sống ở dưới nước, nàng là dòng dõi tiên sống trên cạn nên không thể sống mãi cùng nhau được” rồi Lạc Long Quân đưa 50 con xuống biển, Âu Cơ dẫn 50 con lên núi Phong Châu, các con theo Âu Cơ tôn người con trưởng lên làm vua lấy hiệu Hùng Vương – đặt tên nước là Văn Lang nước Văn lang bắc giáp hồ Động đình, Đông giáp Nam hải, tây giáp Ba thục và nam giáp nước Hồ tôn. Dòng giống Việt được hình thành từ đấy.

g.2. Truyện Sơn Tinh – Thủy Tinh

Sơn Tinh tên là Nguyễn Tuấn, sau còn các tên: Nguyễn Huệ, Nguyễn Chiêu Dung, con của Nguyễn Cao Hạnh và bà Đinh thị Dung, sau khi cha chết, mẹ con dẫn nhau lên ở núi Ngọc Tản. Ở đây Sơn Tinh được Ma Thị là chủ núi nhận làm con nuôi, Nguyễn Tuấn được thần núi cho cây gậy thần có đầu sinh đầu tử, do cứu được một con rắn (dùng gậy đầu sinh) vốn là con vua thủy tề được trao “sách ước” đễ tạ ân, sách ước có 3 trang (không rõ 3 trang gì).

Vua Hùng Vương thứ 18 mở hội kén chồng cho Mỵ Nương Ngọc Hoa là con gái yêu của vua. Cả Sơn Tinh và Thủy Tinh đều đến cầu hôn, vua Hùng phân vân không biết chọn ai, vua quyết định ai đem sính lễ đến trước sẽ gả công chúa cho. Sơn Tinh nhờ có sách ước (?) nên chuẩn bị nhanh chóng lễ vật và đến trước, vua Hùng ưng ý và gả công chúa Ngọc Hoa cho Sơn Tinh , Thủy Tinh đến sau nên không lấy được vợ, nổi giận dâng nước lên đánh Sơn Tinh, nhưng Sơn Tinh nhờ có sách ước, gậy thần làm phép hễ nước dâng lên thì núi cao lên thêm mãi, và nhờ gậy thần “đầu sinh đầu tử” nên binh tôm tướng cá tan tành phúc chốc, đất nước hưởng thanh bình, Thủy Tinh đành chịu thua và rút lui. Sau Hùng Vương truyền ngôi cho con rể là Sơn Tinh , ngài lên ngôi vẫn giữ hiệu là Hùng Vương.

g.3. Chuyện bánh dày bánh chưng

Vua Hùng đã già nghĩ ra cách để tìm người kế vị. Vua ra lệnh cho các hoàng tử (các Lang) ai dâng lên cho vua được món ăn ngon nhất và ý nghĩa nhất sẽ được vua truyền ngôi. Trong khi các anh em đổ đi khắp nơi để tìm của ngon vật lạ thì hoàng tử Lang Liêu vốn cảnh sống rất thanh bạch và không muốn dành ngôi vua nhưng bản tính hiếu thảo nên vẫn băn khoăn không biết lấy gì dâng cho vua cha, chợt tối ngủ Lang Liêu được một vị thần hiện ra chỉ dẫn: Lấy gạo nếp tinh tuyền đã nấu chín giã ra làm bánh màu trắng hình tròn, đặt tên là bánh dày. Lấy gạo nếp đổ trên lá, giữa cho nhân đậu xanh và thịt heo gói lại thành hình vuông đem luộc chín gọi là bánh chưng. Khi dâng vua, vua cha cho các món ngon vật lạ của các hoàng tử khác đều là tầm thường. Riêng bánh dày và bánh chưng của Lang Liêu được vua khen ngon và hỏi ý nghĩa thì Lang Liêu tâu: Bánh dày hình tròn tượng trưng cho trời ( giời ). Bánh chưng ( chăng- trăng )hình vuông tượng trưng cho đất. Vua khen trời tròn đất vuông là trọn ý nghĩa của đạo trời đất âm - dương và quyết định truyền ngôi cho Lang Liêu.

g.4- Truyện Thánh GIÓNG.

Giặc Ân sang xâm chiếm nước ta, thế giặc mạnh mẽ lắm nhà vua cho truyền rao khắp nơi kêu gọi người tài ra chống giặc cứu nước.

Ở làng Phù đổng tổng Võ ninh có 1 cậu bé đã 3 tuổi mà chưa biết nói vậy mà khi thiên xứ của vua đến bỗng đứa trẻ ấy lên tiếng xin nhà vua ban 1 con ngựa sắt và 1 cây gậy sắt để đi chống giặc, rồi cậu dục cha mẹ thổi cơm cho mình ăn để lên đường cho kịp lệnh vua, ăn hết nồi này cậu lại đòi thêm nồi khác đến khi nhà hết gạo thì cả dân làng tậ̣p trung nồi và gạo để thổi cơm cho cậu ăn... khi đã no đứa bé đứng dậy vươn vai 3 lần biến thành chàng thanh niên cao lớn khoẻ mạnh phi thường, vừa kịp khi nhà vua cho mang ngựa sắt và roi sắt đến chàng liền phóng lên ngựa cầm roi sắt phi ra trận tiền ,ngựa đi đến đâu giặc tan tác đến đó hết lớp này đến lớp khác đến nỗi gãy cả gậy sắt chàng liền nhổ tre vung lên đánh giặc hết bụi này đến bụi khác. xác giặc và tre vươn vãi khắp nơi nên về sau khắp nước ta đâu đâu cũng có tre mọc.

Phá xong giặc ngài cưỡi ngựa sắt bay về trời ở vùng Sóc sơn,từ đó nước ta hưởng cảnh thái bình vua cho lập đền thờ và phong là Phù Đổng Thiên Vương , dân gian gọi ngài là thánh GIÓNG.

g.5. Chuyện nỏ thần

Thục An Dương Vương xây thành ở đất Việt Thường, nhưng thành xây mãi không xong, cứ xây rồi lại đổ. Nhà vua lập đài cầu khấn thì thần Kim Qui hiện lên xưng là Thanh Giang Sứ Giả chỉ cho vua cách trừ yêu quái nên thành xây không đổ nữa. Thành xây 9 lớp và xoáy như hình con ốc, vua đặt tên là Thành Cổ Loa. Trước khi giả từ thần Kim Qui còn tặng vua một cái vuốt để làm vật báu trấn quốc. An Dương Vương sai tướng quân Cao Lỗ dùng vuốt rùa chế thành nỏ thần gọi là “Thần nỏ rùa vàng”, khi giặc xâm lăng vua mang nỏ thần ra bắn thì quân giặc tan tác ngay. Thấy vậy, Triệu Đà vua nước kế bên vẫn có dã tâm thôn tính nước ta, lập kế cầu hòa, xin cho con là Trọng Thủy lấy con gái An Dương Vương là Mỵ Châu, ở rể tại Âu Lạc. Vốn sẵn âm mưu Trọng Thủy hỏi dò vợ về nỏ thần; Mỵ Châu mất cảnh giác đem nỏ thần cho xem, Trọng Thủy bèn tráo và trả lại cái nỏ giả, rồi về nước báo tin cho cha. Được tin Triệu Đà cất quân đánh An Dương Vương; vì đã mất nỏ thần nên An Dương Vương thua chạy – cha con đến cửa biển Nghệ An khấn thần Kim Qui, thần hiện lên bảo “Giặc đang ngồi sau lưng nhà vua đấy”, nhà vua biết muôn sự do Mỵ Châu gây ra, nên tuốt gươm chém con rồi cầm sừng Văn Tê 7 tấc đi vào biển.

g.6. Sự tích trầu cau

Hai anh em trai tên là Tân và Lang giống nhau như 2 giọt nước, cha mẹ mất sớm nên 2 anh em vô cùng thương yêu và đùm bọc lẫn nhau. Rồi người anh là Tân lấy vợ, anh em vẫn ở chung nhà; vì 2 người giống nhau như 2 giọt nước nên người chị dâu không thể phân biệt được chồng và em, khiến Tân nhiều khi hiểu lầm nghi oan cho em. người em bỏ nhà ra đi, đi mãi tới bên bờ suối kiệt sức ngồi nghỉ rồi chết biến thành tảng đá. Người anh thấy mất em, vô cùng ân hận và ra đi, quyết tìm cho được em, nhưng đi mãi đi mãi vẫn không tìm được, thấy có tảng đá thì ngồi đấy khóc mãi cho tới chết, và cạnh tảng đá mọc lên một cây cau. Người vợ cũng ra đi tìm chồng và em. Khi đến bờ suối thấy có tảng đá và cây cau liền ngồi nghỉ và chết tại đấy, hồn biến thành dây trầu không mọc leo từ tảng đá quấn lấy cây cau.

Vua Hùng tuần du đến đấy nghe kể chuyện thì rất xót xa cho tình nghĩa anh em và vợ chồng bèn sai nung đá thành vôi, ăn vôi với trầu và cau thì thấy có hương vị đặc biệt và tạo nên chất nước đỏ thắm, mọi người đi theo đều bắt chước vua. Từ đó có tục ăn trầu ở nước ta, cũng do tích này trầu và cau trở thành của sính lễ cầu hôn bắt buộc trong phong tục người nước Việt

g.7. Sự tích tục xâm mình

Thời vua Hùng, dân ở núi xuống nước đánh bắt cá thường bị loài thuồng luồng làm hại, bèn cùng nhau tâu lên vua, vua phán: “Các giống ở trên núi khác với giống loài ở dưới nước. Các loài ở nước chỉ ưa những gì giống với mình và ghét những gì khác mình vì vậy dân ta mới bị gây hại.” Nói rồi vua ra lệnh cho những ai xuống nước phải lấy màu xâm lên mình hình giống thủy quái. Từ đó không bị thuồng luồng làm hại nữa. Tục vẽ mình của dân Việt có từ đó.

h. Thơ sử

Bài thơ sử số 1

tác giả : vua Minh Mạng .

Văn hiến thiên niên quốc

Xa thư vạn lý đồ

Hồng bàng khai tịch hậu

Nam phục nhất Đường Ngu

Bài thơ sử số 2

là 4 câu đầu trong bài thơ ‘Hành quận’ của Phạm sư Mạnh thế kỷ 14.

Nghĩ thuyền hà thạch tố thanh ba

Lũng lại tranh nghênh xứ Bái qua

Lô thủy phân ( phiên ) ly Thao tục ( tụ )Lạc

Văn lang nhật nguyệt Thục sơn hà

Bài thơ sử số 3

Là 4 câu đầu của bài ‘Tuần thị Chân đăng châu ‘ của Phạm sư Mạnh .

Thiên khai địa tịch lộ Tam giang

Kỳ tuyệt tư du ngũ vị tằng

Kiểu ngoài Bách Man hoàn Cổ lũy Quốc Tây cự chấn ( trấn ) tráng Chân Đăng .

Những vần thơ này đã được người viết hiệu chỉnh dựa trên ý nghĩa lịch sử mới được phát hiện , phần trong ( ...) là những chữ trong các bản đang lưu hành .

Chỉ mấy vần thơ ngắn ngủi đã cô đọng cả lịch sử họ HÙNG thời trước công nguyên , chúng ta sẽ tuần tự ‘giải’ từng câu từng chữ trong phần sử thuyết .

Bài 10 - thần thoại Trung hoa

Phần 2 : Sử thuyết .

Phân kỳ lịch sử của sử thuyết họ HÙNG :

A- Thần thoại Trung- Hoa

B- 18 Hùng triều

C- Lịch sử họ Hùng- cổ và trung đại

D- Phụ chương .

**********

A. Thần thoại Trung -Hoa .

Khi cứ suy tưởng mãi về quá khứ, đến một điểm nào đó con người buộc phải dừng lại, điểm dừng này sẽ tùy theo trình độ khoa học và trí tưởng tượng của con người. Ngày nay với khoa học tiên tiến, quá khứ hình thành loài người được đẩy xa tới 4 hay 5 triệu năm trước đây.

Thần thoại Trung Hoa thể hiện vai trò to lớn của con ngưòi sánh ngang thiên địa qua chuyện ông Bàn Cổ.

1. Thời Bản Cả – Tựu Nhân: (4,5 triệu – 500.000 trước CN)

Sách vở ghi là ông Bàn Cổ, nhưng Trong Hoa ngữ chữ Bàn Cổ chẳng có một ý nghĩa nào … không lẽ hiểu thủy tổ của Trung Hoa là ‘Cái bàn cũ’ ?

Bàn Cổ chỉ là ký âm sai của chữ Bản Cả trong tiếng Việt, về mặt ngữ nghĩa Bản Cả tương đương với ‘Hương Cả’ trong ngôn ngữ hiện nay. Bản là đơn vị hành chánh cơ sở có gốc từ Khmer : Phum- sóc. Sóc biến âm Hoa – Việt là ‘Sách’, ‘Xá’, ‘Xã’, Phum biến thành buôn ở các dân tộc thuộc ngữ hệ Khmer trên cao nguyên Việt Nam. Qua miền Thượng du Bắc Việt thì biến thành bản ; Bản làng là từ ghép ta hay gặp , sang Việt và Hoa ngữ Bản biến thành bang tức bang quốc . Bản nghĩa thông thường là ‘gốc’. Bản trong hành chánh quốc gia là đơn vị cơ sở . ‘Cả’ từ Việt là thứ nhất, đứng đầu hay đầu tiên , “Bản Cả” ở đây nghĩa là : “Thủy tổ của cộng đồng” .

Người Á Đông quan niệm rằng người tức là: Đầu đội trời chân đạp đất; hoàn toàn trùng khớp với chữ “homo erectus” của khoa học hiện đại tức người đứng thẳng, hay người đi bằng đôi chân, nếu ta đem định nghĩa theo khoa học áp dụng vào thủy tổ Bản Cả thì Bản Cả mới xuất hiện trên trái đất khoảng 4 hay 5 triệu năm; nhưng trong thần thoại Trung hoa thì thủy tổ con người xuất hiện cùng lúc với trời đất, vũ trụ.

Ông Bản Cả xuất hiện từ “Thái hoang khi trời đất còn là một khối hỗn mang, trong đó chưa có âm thanh và ánh sáng, ông lấy cái rìu bổ vào khối hỗn mang đó, lúc lưỡi rìu chạm vào khối hỗn mang chính là vụ nổ “Big bang” thế là chất nhẹ , trong bay lên thành trời; chất đục, nặng chìm (lắng) xuống thành đất … (trong thần thoại đã thấp thoáng bóng khoa học), và vũ trụ được hình thành, ông Bản Cả chính là thủy tổ loài người.” Ta thấy Sáng thế ký Trung Hoa đã vận dụng ý niệm cơ bản của Dịch Lý trong việc tạo lập vũ trụ . Vũ trụ quan chứa trong Dịch Lý là: trời đất cùng một thể gọi là khí, sau đó khí nhẹ, trong bay lên thành Hà (trời cao), chất đục nặng trầm xuống thành Lục (đất dày). Ngay từ khởi nguyên, Dịch Lý đã gắn liền với lịch sử Trung Hoa và lịch sử Việt Nam ; hiện nay chính các học gỉa Trung quốc cũng thừa nhận tích Bàn Cổ sáng thế bắt nguồn từ truyện Bàn Hồ của các dân tộc ớ phía nam trường giang ;nói như thế chẳng khác nào đã thừa nhận dịch lý không ra đời ở cái nôi Hoàng hà của Hán tộc .

Thời điểm này chỉ là lúc vượn người nhảy vọt thành người vượn, tức là người nguyên thủy, dần dần họ hoàn chỉnh hệ thống tín hiệu âm thanh tức tiếng nói và trung khu thần kinh nói trong não bộ con người,con người đã tiến từ con người riêng rẽ hay cá thể thành con người của cộng đồng tức là hình thành xã hội nguyên thủy. Đây là bước tiến vô cùng lớn lao vì thông qua ngôn ngữ, tri thức cá nhân biến thành tri thức cộng đồng do sự truyền thụ lẫn cho nhau, khối tri thức của mỗi người lớn nhanh lên gấp ngàn lần, não bộ cũng phát triển để thích ứng, do đó tăng từ 1.000 cm3 lên 1.300 cm3, tức thể tích não của con người cận đại ‘homo sapien’. Thời kỳ này cũng được đánh dấu bằng việc con người biết chế tác và sử dụng công cụ đá đẽo, nhưng phải đợi đến khi con người có một thành tựu tuyệt vời không loài động vật nào có được đó là việc biết dùng lửa thì con người mới chính thức mới vượt qua thời “nguyên thủy”. Đó cũng chính là lúc mà Dịch gọi là: ‘Thái Cực sinh Lưỡng Nghi’, vật chất có hình thể có thể cầm nắm được là Dương; vật chất trừu tượng và không nắm bắt được gọi là Âm, lúc đó con người mới trở thành sáng suốt hay homo sapien, người cận đại. Con người hội đủ những đặc trưng trên vào khoảng cách đây 500.000 năm và trở nên con người sáng suốt. Thần thoại Trung Hoa gọi là Tựu nhân tức đạt ‘danh hiệu’ người đúng nghĩa ; còn nếu hiểu Toại nhân là “khoan cây lấy lửa” thì chẳng ra nghĩa ngọn gì ....

Ý nghĩa dịch lý của thời kỳ này là con người hình thành khái niệm về bản chất của thế giới mình đang sống; chung qui cấu tạo chỉ bởi 2 chất : chắc và óp ( giáp – ất ), chất chắc thì đục và nặng, chất óp thì nhẹ và trong,vật lý hiện đại gọi là vật chất và năng lượng.

2. Thời Vũ Võng – Đế họ Sào (500.000 – 20.000 trước CN)

Kế thời Bản Cả – Tựu nhân là Thời Homo sapien phương Đông diễn ra khoảng nữa triệu năm và kéo dài đến 20.000 năm trước công nguyên thời kỳ này khảo cổ học gọi là thời chuyển tiếp từ đá cũ sang đá giữa. Nguyên văn cổ thư Trung hoa ghi là thời Dũ võng, võng là cái lưới, ngư võng là cái lưới cá. Người Việt dùng chữ ‘võng’ để chỉ vật dụng đan bằng dây, mắt lớn dùng để nằm về hình dạng cấu tạo giống như cái lưới nhưng công dụng thì khác. ‘Dũ Võng’ chẳng có nghĩa gì cả, nhưng khi ta ký âm lại: Dũ → Vũ (Vũ = Vua) thì thấy ngay loài người tiến một bước trên đường đến văn minh, cộng đồng người từ cách sống bầy đàn chuyển sang xã hội. Bước sang xã hội loài người thì một từ mới xuất hiện, vua, Vua Võng là vị vua đầu tiên đánh dấu bước tiến con người biết chế tạo công cụ, thời đồ đá cũ chỉ có thể gọi là chế tác … vì sự gia công rất ít, bản thân vật thể đã là một công cụ, sự chế tác chỉ tăng thêm chức năng khi sử dụng, còn sang thời Vũ Võng đã là chế tạo vì bản thân tự nhiên không sinh ra thứ đó để làm công cụ cho loài người, với sự thông minh của đầu óc, đứng trước một nhu cầu và với vật liệu có sẵn trong thiên nhiên, với đôi tay khéo léo và bộ não sáng suốt con người đã biến thứ vô dụng thành hữu dụng, đây là khả năng chỉ có nơi con người, khi chế tạo võng để bắt thú, lưới cá làm thức ăn cho mình dần dần các ý niệm sợi ngang - sợi dọc (kinh và vỹ), khoảng trống - khoảng liền, sự nối kết bằng nút thắt, những ấn tượng ban đầu đó chính là sự khởi đầu của các dấu hiệu, nền tảng của tư duy khoa học sẽ dần hình thành về sau.

Qua giai đoạn này, con người đã bước hẳn sang là con người xã hội; nếp sống và nếp nghĩ, tâm tư – tình cảm, sự suy tưởng đều mang dấu ấn của cộng đồng, đời sống hàng ngày trở thành sinh hoạt xã hội, mà mỗi cá nhân không thể tách biệt được, như thế ngoài môi trường tự nhiên từ nay con người có một môi trường khác đó là xã hội, cuộc sống không chỉ là sự tương tác giữa cá thể và tự nhiên mà có thêm tương tác mới: tương tác con người và môi trường xã hội; tương tác là tác động hai chiều trong đó bản thân con người chịu sự “uốn nắn” của xã hội và ngược lại chính xã hội cũng chịu sự “cải tạo” của con người, cứ như thế mà tiệm tiến từng bước một. Tương tác giữa người – tự nhiên cũng tác động đến tương tác người – xã hội và ngược lại – kết quả tổng hợp của 2 mối quan hệ là sự tiến bộ. Đấy là cơ chế vận hành: Tam Tài: Thiên – Nhân – Địa trong Dịch Lý.

Tiếp theo bước tiến thời Vũ Võng đến nấc thang: Đế họ Sào. Sách sử Trung Hoa ghi là: Đế họ Sào và giải thích: Sào là cái tổ chim … con người bắt chước chim làm tổ trên cây để cư trú tránh bị thú dữ làm hại, Hữu Sào là để chỉ giai đoạn con người có... Tổ, hữu sào là có tổ ?; trên đường tới văn minh của con người không thấy có đề cập đến thời làm tổ ở trên cây, đó chỉ là sự tưởng tượng để cố lý giải những từ ghi trong cổ thư Trung Hoa.

Có cách “giải” khác hợp với lịch sử hơn nhiều:

- Hữu là ký âm sai của chữ ‘họ’ trong tiếng Việt.

- sào là cây sào, 1 đoạn cây bằng tre (từ thuần Việt)

Chữ ‘hữu’ = ‘họ’ chỉ thị tộc. Sào là cái cây gậy bằng tre mà các nhà thiên văn học tiền bối người Việt dựng nên đo bóng nắng xác định thời khắc trong một ngày. Đúng y như hình khắc trên trống đồng , Dựa theo bóng nắng đổ con người xác định phương Đông và Tây tức phân chia không gian, và so với các vạch (khắc) được vạch sẵn trên mặt đất mà phân chia thời gian.

Ý nghĩa dịch lý Thời Họ Sào là thời con người hình thành khái niệm về vũ trụ- Thời gian và Không gian, đánh dấu việc con người bắt đầu biết “tư duy trừu tượng” với chữ Thời vì thời gian đâu có hình tích gì, cứ hết ngày lại đêm, sáng trưa chiều tối rồi lại sáng trưa chiều tối… ý niệm về sự tuần hoàn của vũ trụ và ý niệm chu kỳ được nảy sinh về sau trở thành nền tảng của Dịch Lý.

So sánh vị trí của mặt trời và mặt đất con người tổng hợp thành 4 ban và 4 bên.

- ban sáng, ban trưa, ban chiều, và ban đêm.

- bên mọc (mục), bên trên, bên chiều (chiêu) và bên dưới.

Động từ mọc được chữ Nho ký âm thành ‘mục’, bên mục, Hành Mộc, tiếng Việt biến thành bên mặt còn gọi là bên phải. Chữ chiều viết thành chiêu – siêu, còn có nghĩa là bên trái, Hoa ngữ chiêu là nghỉ ngơi, ngủ nghỉ. Khi ta để tay mặt hướng về hướng Mọc (mặt trời), tay chiêu về hướng Siêu thì mắt ta nhìn về hương Nom, nom chữ Nho ký âm thành Nam.

Từ xa xưa với Hà Thư (Đồ), tổ tiên người Việt đã chỉ rõ không gian 3 chiều và thời gian 1 chiều, cùng kết hợp để trở thành vũ trụ, đó là thế giới quan không khác gì với thế giới quan ngày nay theo thuyết tương đối. Chữ ‘thời khắc’ nghĩa là ‘vạch thời gian’ về nghĩa có sự cộng hưởng với cảnh đo bóng nắng được khắc trên trống đồng. Ban ngày 5 vạch gọi là 5 mồng hay mùng; tưởng tượng ra 5 vạch cho ban đêm gọi là 5 canh. 5 + 5 = 10 gọi là Thập Can hay theo từ Việt là “chục con”, con đây là con số hay con chữ, chính 10 con số là những chữ đầu tiên trong “kho chữ” của loài người sau này. Hà Thư cũng cho ta biết: ngày xưa người Việt dùng cơ số 5 chứ không phải cơ số 10 như ngày này.

4 số sinh: 1, 2, 3, 4, và một số mẹ là số 5; tạo ra (5+1) = 6; (5+2) = 7; …

Hiện nay người Khmer vẫn dùng cơ số 5 này.

Tóm tắt: Cổ thư Trung Hoa gọi là Vũ Võng, Họ Sào để chỉ thời con người tiến từ người nguyên thủy thành người sáng suốt , thời khoa học gọi là “homo sapien”, theo niên đại khảo cổ học là giai đoạn kết thúc thời đồ đá cũ bước sang thời đồ đá giữa, cách nay khoảng 20.000 năm, khảo cổ học Việt Nam gọi là thời văn hoá Sơn Vi lấy tên một địa điểm khảo cổ ở tỉnh Phú Thọ, phiá Bắc Việt Nam.

Vũ Võng, Họ Sào cung cấp cho chúng ta những thông tin rất quí giá trong việc xác định địa bàn cư trú của người Trung hoa thời hoang sơ , đó chắc chắn là vùng nhiệt đới vì cái võng - lưới ban đầu chỉ có thể được đan bằng những sợi dây leo, và dây leo là sản vật của rừng nhiệt đới. Cây sào cũng là sản phẩm miền nhiệt đới, nơi có những cây tre cao tới 10 – 15m, và cây tre rất thân thiết với người Việt, người Việt có thể tạo ra mọi vật dụng hàng ngày bằng tre, từ nhà ở, thay thế cho cái nồi để nấu cơm, ghế, bàn, cho đến cái thúng, cái rổ và cây bút ban đầu chác cũng làm bằng tre vót nhọn đầu, cũng có thể chẻ tre làm lạt buộc, nối kết các vật lại với nhau, chắc chắn phương tiện thủy vận đầu tiên là bè, mảng kết bằng tre, vì cấu tạo bản thân cây tre lớn đã là cái phao tự nhiên, chỉ dân tộc thân thiết với cây tre như thế mới có thể phát sinh ra “sách thẻ tre” hay trúc thư. Tre lớn trong tự nhiên chỉ mọc ở vùng nhiệt đới, càng lên phía bắc tre càng nhỏ lại vượt qua Tứ Xuyên, Dương Tử tre chỉ to bằng cẳng tay, xa hơn về hướng bắc (hiện nay) tre chỉ bằng cỡ ngón tay người Hoa gọi là trúc. Sau này người ta đã thành công trong việc di thực tre lên phía Bắc nhưng cũng không thể có loại tre lớn được. Việc dựng cây sào đo bóng nắng để phân chia thời gian và định phương hướng vẫn còn lưu dấu trong tục dựng cây nêu ngày tết của người Việt, khoa dân tộc học đã cho thấy những điều này không hề có trong phong tục cư dân vùng Hoàng Hà – tức Hãn tộc

Bài 11 - thần thoại nước họ HÙNG

Nhân chủng học xác định người họ Hùng thuộc chủng Monggoloid nhánh phương nam.

- Tiểu chủng Mongoloid Sống ở Bắc Trung Hoa, Mông Cổ, Siberia, và Eskimo. Riêng Triều Tiên và Nhật Bản ít nhiều đã hỗn chủng với những chủng tộc khác.

- Tiểu chủng Nam Mongoloid ở Đông nam á và nam Trung hoa .

gồm có 2 nhánh:

+ Nam Á

+ Indonesien

Người Việt mang đặc trưng của cả 2 nhóm Nam Á và Indonesien , ở bất cứ nơi nào trên đất nước đều có mặt cả 2 nhóm trên. Sự kết hợp lâu đời và nhuần nhuyễn tới độ khó có thể phân biệt, Ngay trong một gia đình cũng có thể có mặt cả 2 loại hình Nam Á, và Indonesien , chuyện anh da trắng tóc thẳng (đặc điểm Nam Á), em da ngăm tóc quăn (đặc điểm Indonesien ) là chuyện không hiếm ở Việt Nam.

Nhóm Mongoloid Hán tộc ( tạm gọi như thế ) sống dọc theo Hoàng Hà, từ Tây sang Đông vào khoảng thời gian cách đây từ 8.000 đến 6.000 năm, họ để lại các di tích khảo cổ học gọi là văn hoá gốm đỏ, gốm đen và sau cùng là gốm xám được phát hiện ở Hà Nam. Cách đây khoảng 6.000 năm.

Phía Nam Trường Giang là nơi sinh sống của 2 nhánh thuộc tiểu chủng Nam Á và indonesien thuộc 2 ngữ hệ : Nam Á và Nam Thái , cư dân ngữ hệ Nam Thái đã để lại dấu ấn văn hoá dọc duyên hải Hoa Nam, nổi tiếng nhất là văn hoá khảo cổ Hà Mẫu Độ ở Phúc Kiến – Chiết Giang.

Khảo cổ học đã tìm được nhiều hiện vật còn lưu tồn trong lòng đất của 5 nền văn hoá cổ lớn ở Đông Dương và vùng liền kề mang dấu ấn niên đại từ khoảng trước 10.000 năm đến 7.000 năm trước Công Nguyên.

1. Văn hoá khảo cổ Soi Nhụ – Cái Bèo là tiền thân văn hoá Hạ Long.

2. Văn hoá Hòa Bình, nổi tiếng khắp thế giới và được các nhà khảo cổ coi như tiêu biểu cho toàn vùng Đông Nam Á.

3. Văn hóa Bắc Sơn và vùng núi phía Bắc Việt Nam, nền văn hóa này đã để lại 2 mốc của lịch sử tiến hóa của toàn vùng: đó là cái rìu bằng đá mài đầu tiên, và những mảnh gốm đầu tiên.

4. Văn hóa cổ tiêu biểu cho Miền Trung và Nam Việt bước đầu đã có những khám phá quan trọng, các nhà khảo cổ đang tiếp tục đào bới tìm kiếm, kết quả ban đầu tuy chưa nhiều lắm nhưng cũng đủ để khẳng định một nền văn hóa cổ.

5. Nền văn hóa Trung và hạ Mekong hay sông Cửu Long: chủ yếu ở vùng Đông Bắc Thái Lan và trung-nam Lào

Vượt qua Sơn Vi lùi về quá khứ đến tận thời đồ đá cũ ở Việt Nam có di chỉ Núi Đọ nổi tiếng và linh thiêng. Khi ấy con người ở chế độ thị tộc mẫu hệ, loại hình xã hội đầu của con người khi vừa bỏ qua loại hình bầy đàn và xa hơn nữa cũng có những vết tích của con người… chứng tỏ con người đã có mặt ở vùng đất này từ thời Thái cổ và liên tục phát triển cho đến tận hôm nay. Từ những câu truyện truyền miệng sau này được ghi lại ở Việt Nam và Trung Hoa, ta có thể tổng hợp để viết truyền thuyết lịch sử tức là loại hình nửa truyện nửa sử, nửa thực nửa hư . Chuyện thần tiên và con người quấn chặt vào nhau nhưng nếu khéo gở ta có thể thu lượm được những thông tin tương đối chính xác, gọi là tương đối vì dù khoa học tiên tiến đi chăng nữa thì cũng phải chấp nhận 1 sai số thời gian, chỉ đến thời Lịch Sử thì sai số này mới bằng không.

Truyền thuyết lịch sử Việt Nam chủ yếu dựa trên 2 tác phẩm “Lĩnh Nam Chích Quái” và Việt Điện U Linh” được biên soạn từ thế kỷ 13 và 15 không nhắc tới thần thoại, vì vua xa nhất được biết đến là Thần Nông, mãi tới năm 2003 Nguyễn Hồng Sinh mới công bố trong cuốn “Kinh Dịch Huyền Diệu và Ứng Nghiệm” 2 vì vua trước Thần Nông: đó là Đế Hòa thường gọi Hy Thúc hay Hy Hòa, vua của Lịch pháp … đáng chú ý là tổ bà tên là NỮ HOÀNG ANH. Kế tiếp là Phục Hy hay Bào Hy có tên Việt là Vua Cả – tổ của Hư không giáo, và tác giả cho Hư không giáo chính là Dịch Lý. Đối chiếu với truyền thuyết Trung Hoa có sự trùng khớp – trước Viêm Đế Thần Nông là Bào Hy hay Phục Hy tổ của Dịch Lý. Thuyết Quái ghi: “Ngày xưa họ Bào Hy ngẩng lên xem tượng trời, cúi xuống xét nét đất, quan điểu thú chi văn, gần thì thấy ở chính mình…xa là vạn vật để tác dịch” ; chữ Vua Cả đích thị là từ dịch của Thái cao (Chữ Nho) . Trước Bào Hy là Đế Hòa hay Hy Hòa, Đế Hy Hòa làm lịch đã được ca dao Việt Nam xác nhận:

“Ai về nhắn họ Hy Hòa

Nhuận đêm sao chẳng nhuận vài trống canh”

Sự than thở của đôi trái gái mới cưới tiếc đêm qua mau quá… 2 câu này rõ ràng nói Hy Hòa là tổ của Lịch pháp. Ở phần mới công bố này ta có được thông tin vô cùng quí giá: Tổ bà là Nữ Hoàng Anh trùng tên với 2 bà vợ công chúa con Đế Nghiêu gả cho Đế Thuấn là Nga Hoàng và Nữ Anh … cũng trùng hợp với thông tin Vua Nghiêu lệnh cho Hy Thúc … Trạch Nam Giao … từ mắt xích này ta lần ra một chuỗi sự kiện tiếp nối:

Bào Hy – Thần Nông – cách 2 đời – Hoàng đế-Đế Nghiêu – Đế Thuấn – Đại Vũ.

Nguyễn Hồng Sinh dựa vào tư liệu dân gian có chút lầm lẫn, Đế Hòa tức Hy Hòa không thể có trước Thần Nông và Bào Hy được, Qua 2 thông tin trên ta có thể khẳng định: Hy Hòa hay Hy Thúc chính là Đế Thuấn hay Ngu Thuấn là vị vua đã truyền ngôi cho ông Vũ, và đất Nam Giao nơi Hy Thúc đến theo lệnh vua Nghiêu chính là đất Quảng tây thuộc Lĩnh nam sau này.

Nam giao là một địa danh được viết theo cấu trúc Việt văn nghĩa là vùng đất ở phía nam Giao chỉ vì thời Nghiêu Thuấn cách nay khoảng 6000 năm thì Trung hoa cổ ở tận Sơn tây không thể nào với tới đất Giao chỉ để có một Giao chỉ ở phương nam (nếu hiểu Nam giao theo cấu trúc Hán văn).

Đã có Nam giao tất phải có Giao chỉ vậy Giao chỉ ở đâu ?

Thực ra Giao chỉ là từ chuyển ngữ từ Việt sang Hán , nguyên gốc là Giữa hay vùng đất ở giữa thiên hạ khi dịch sang hán ngữ buộc phải tạo từ bằng cách ghép 2 chữ :giao nghĩa là giao cắt,gặp gỡ và chỉ là ký âm từ chỗ của tiếng Việt, trọn nghĩa từ ghép này là : nơi hay chỗ bốn phương giao hội vậy đã rõ Giao chỉ là 1 địa danh nên từ nay xin chấm dứt lối giải thích vớ vẩn ....2 ngón chân cai bè ra nên khi đứng chạm nhau ....,Giao chỉ hay đất Giữa là quốc thổ của người Việt từ ngàn xưa tương đương với vùng bắc –trung và bắc Việt ngày nay, người Hoa còn 1 cách gọi khác :đất Việt là đất YUÊ thực ra Yuê chỉ là thổ âm của từ Giữa mà thôi có điều lạ không hiểu tại sao Việt nho lại đọc chữ Yuê thành Việt như hiện nay phải chăng đây là 1 kiểu đi tắt...nhấn mạnh Giao là Việt và Việt cũng là Giao-Giữa....

Sử thuyết họ Hùng đặt chương thần thọai lên đầu vì đấy là thời ông Bành tổ xa xưa lắm , chuyện hoàn tòan do tưởng tượng nên ‘phi’ không và thời gian , vậy bạn đọc đừng bao giờ đặt câu hỏi ...ở đâu,lúc nào ...sẽ không có câu trả lời về nơi sinh trú của ông bàn cổ cho đến đế Hữu sào vì chỉ là thần thoại ..., huyền sử Việt không có phần này nhưng thực kỳ lạ nếu xét danh hiệu các vua thái cổ của thần thoại Trung hoa theo nghĩa trong Hoa ngữ thì chẳng có gì liên quan tới lịch sử thậm chí ngớ ngẩn ... không lẽ thuỷ tổ Bàn cổ của Trung hoa là ... “cái bàn cũ” ?...đế Hữu Sào là vị vua phát minh ra cách làm nhà trên ngọn cây như loài chim...? nhưng khi biên tập lại lấy Việt ngữ làm gốc như đã trình bày thì đúng là những dòng sử sâu thăm thẳm tương đương sách sáng thế ký của phương tây.

Tiếp nối thần thọai là phần dã sử, dã sử được viết dựa trên truyền thuyết lịch sử tức đã có 1 phần sự thật làm nòng cốt từ đó mới hư cấu thành truyện, thêm vào những nhân vật những địa danh những tình tiết khiến câu truyện trở nên mạch lạc hấp dẫn và có ý nghĩa.

Đặc biệt truyền thuyết lịch sử Việt ở thời giáp công nguyên đã được xử dựng như một phương thức đặc thù truyền lưu lịch sử đích thực cho hậu thế, đấy là những bức thông điệp nhắn gửi cho con cháu về những bất thường của lịch sử dân tộc được ngụy trang dưới lớp vỏ bọc là những chuyện hoang đường trâu ma rắn thần..., nay nếu chúng ta khéo chắt lọc sẽ thấy được những lời nhắn nhủ đó, chắc chắn là những điều vô cùng quan trọng vì nếu không thì tiền nhân chúng ta đâu phải khổ công để truyền đời như vậy, đời cha học thuộc lòng rồi kể cho đời con ... cứ như thế truyền đến ngàn năm...mong mỏi rằng sẽ có ngày dân tộc qua cơn bĩ cực con cháu sẽ giải mã được những thông điệp của quá khứ tìm lại được nguồn gốc đích thực của dòng giống mình.

Trước khi đi vào phần dã sử cần thiết phải minh định ý nghĩa 1 số từ.

Ở trên ta đã biết :Lãnh thổ của Hữu Hùng quốc là đất GIỮA còn dân tộc ? , theo truyền thuyết họ Hồng bàng thì Kinh dương vương đặt tên nước là “xích qủy” nghĩa là nước... quỷ đỏ ?,thực ra đó chỉ là sản phẩm của ...tam sao thất bản mà thôi, chữ quẻ đã biến thành chữ quỷ nên mất hết ý nghĩa, ‘xích quẻ’ hay ‘xích quái’ nghĩa là quẻ màu đỏ tức quẻ Ly trong bát quái của dịch lý , ly là biến âm của lửa còn tượng trưng cho mặt trời, ánh sáng hay sự văn minh, ý nghĩa này được kiện chứng ngay trong từ họ HỒNG bàng chính xác phải là ‘Hồng bang’ , chữ hồng trong Việt ngữ ngoài sự đồng nghĩa với đỏ còn có nghĩa là ngọn lửa đuốc ;cả 2 nghĩa đều có gốc từ quẻ LY. Đặc biệt người xưa đã dành hẳn 1 truyền thuyết để chỉ bảo chúng ta về điều này đó là sự tích trầu cau, 2 anh em tức 2 vạch liền biến thành cây cau ở trên và hòn đá vôi ở dưới, còn 1 nữ là vạch đứt ở giữa làm cây trầu không ..., đó chính là hình tượng qủe LY, khi phối hợp cả 3 thì tạo thành chất nước màu đỏ....trong tiếng Việt từ nước ngoài nghĩa là 1 loại vật chất còn có nghĩa là quốc gia, qủe LY và màu ĐỎ...ở đây là lần nhấn mạnh thứ 3 cốt chỉ nói một điều : chúng ta là 1 quốc gia Văn minh hay quốc gia của những người văn minh., chính 2 thành tố : chính giữa và ngọn lửa đã tạo nên từ TRUNG –HOA sau này, chính xác là TRUNG-HOẢ, trung là dịch từ giữa ,còn hoả là lửa.

Đất là trung tâm của thiên hạ, và con người là người văn minh , Dân tộc ta là ánh đuốc soi đường cho thiên hạ, đấy là những gì tiền nhân nhắn bảo chúng ta về qúa khứ dòng họ Hùng.

Trung hoa chỉ trở thành 1 quốc hiệu từ cuộc cách mạng Tân hợi 1911 khi ông Tôn dật Tiên tuyên bố lập nước ‘Trung hoa dân quốc’, trước đó trung hoa là từ dịch của Giữa và Lửa dùng để chỉ nước do vua trực tiếp cai trị tức nơi cầm đầu cả thiên hạ, ‘Trung hoa’ ở đây là vế đối của ‘chư hầu’ để tạo thành ‘thiên hạ’ vì vậy với mỗi triều đại ta lại có 1 trung hoa khác, trung hoa nhà Chu không phải là trung hoa thời nhà Thương.v.v., ở Việt nam các vua nhà Trần cũng có khi xưng mình là Trung hoa (Việt nam sử lược- Trần trọng Kim) nên khi ta dùng các từ như trung hoa xưa hay cổ sử Trung hoa... là hoàn toàn do thói quen và không chính xác vì thời xưa làm gì có nước Trung hoa và dân tộc Trung Hoa.

Ta đi vào phần dã sử của nước họ Hùng dưới ánh sáng Dịch Lý.

Người họ Hùng lập quốc chính thức vào đời Hùng vương thứ 5 , triều HÙNG VŨ tức vua HÙNG , người Hoa đã tạo ra từ kép VŨ-VƯƠNG để chuyển ngữ từ VUA của Việt ngữ ; Vũ là mượn âm vương để chỉ ý .

Đã là người thì phải có tổ có tiên nên Hùng sử có 4 triều đại tiền lập quốc tượng trưng cho cả quãng thời gian từ khi thành người đến ngày trở thành 1 công dân .

Trên vùng đất ngày nay là đông dương cách nay 20.000 cho đến khoảng 6.000 năm là nơi sinh trú của 2 đại tộc :

-Đại tộc Khương sống ở Vùng trung và hạ lưu sông mêkông hay Mễ cương.

Khương là biến âm của khăng nghĩa là không đổi, đặc tính của phương tây theo dịch học,

Khương→Cương.→cứng.

Khăng →cang→cứng.

- Đại tộc Mi sinh trú dọc theo ven biển trung - bắc Việt nam và vùng biển liền kề .

Mi là biến âm của Mơi-mai ; sớm mai là lúc mặt trời mọc ở phương Đông.

Phương đông còn gọi là bên mục-hành mộc người Hoa đọc là mô; tất cả chỉ là biến âm cùa từ gốc là mọc trong Việt ngữ nghĩa là lên hay thăng

Đại tộc Khương phân hoá thành tộc Khương tây và Khương nam hay Cửu lê và Tam miêu sau này .

Đại tộc Mi cũng chia thành Mi đông và Mi bắc (bắc của dịch lý tức hướng xích đạo) tức họ Thần long hay Động đình và họ Cơ của Hoàng đế .

Bốn tộc người thời xa xưa này được dã sử Việt coi như tổ phụ thuộc 4 phương trời về sau hợp nhất để thành dòng họ Hùng tức tổ tiên người Việt .

Có thể nói tất cả người Đông nam Á ngày nay ;tùy theo sự đậm lạt của 4 dòng huyết thống kể trên mà hình thành các sắc tộc với Hình sắc bên ngoài có thể hơi khác nhau nhưng trong huyết quản thì chỉ là 1 giòng giống chung , Câu: thống nhất trong đa dạng dùng mô tả cư dân Đông nam á là hoàn toàn chính xác .

Bài 12 - Hùng triều thứ 1 - Hùng Dương vương .

18 Hùng triều .

* DÃ SỬ*

Tổ phụ phương Đông

1 – Hùng triều thứ 1 - .Hùng Dương – Tổ phụ phương Đông

Vua khai sáng:

Danh hiệu khác trong Việt sử :Động đình quân – Vua Cả Phục hy

Danh hiệu khác trong Hoa sử : Thái Cao thị –Bào Hy

Là thủ lãnh của tộc MY-ĐÔNG; (khoảng 20.000 – 17.000 trước CN) .

Dương là phương mặt trời mọc, nghĩa là đi lên, ngược với phương thụt (ký âm sai thành Thục), giống như trong đánh bài: dương (ngửa lên, đưa lên), thiệp (úp xuống). Dương biến âm thành ‘dâng-dưng’ (như nước dâng lên, dâng cúng…). Hùng Dương Vương là thủy tổ vì buổi bình minh mang ý nghĩa sự khởi đầu, sự khai sinh ra dân tộc.

Đây là thời Cổ sử Trung hoa gọi là thời Thái cao Bào hy hay Phục Hy, chữ Hy chính xác là Y, Bào -Y hay Phục- Y , chỉ là ký âm từ bao- áo của Việt ngữ, phục hy nếu viết lại là y- phục sẽ dễ dàng nhận ra chỉ là áo quần hay vật che thân nói chung .Đây là 1 bước trên đường văn minh của con người ; loài vật có bộ lông tự nhiên che phủ, còn loài người phải sáng tạo ra cách bảo vệ và điều hoà thân nhiệt bằng quần áo, có lẽ ban đầu chỉ là dây và lá cây ,sau là da thú ..., tiến thêm 1 bước là dùng các cây có sợi . .Giải quyết cái che thân là thành tựu khoa học kỹ thuật nổi bật đầu tiên của loài người nên dã sử Việt gọi là Dương coi như là lúc mặt trời văn minh mới mọc.

Truyền thuyết lập quốc người Việt gọi vị tổ phụ phương đông là ĐỘNG ĐÌNH QUÂN vua vùng Động đình hồ. Mới đây các nhà nghiên cứu Việt nam đã sưu tập được trong truyền thuyết dân gian tên 4 vì vua đầu của họ HÙNG là : VUA CẢ- THÁI CAO- THÁI VIÊM ( ĐẾ VIÊM) - THÁI KHANG VÀ THÁI TIẾT ; THÁI CAO chỉ là tên chữ nho của VUA CẢ mà thôi, ta thấy đế hiệu này trùng khớp với THÁI CAO - BÀO HY của cổ sử Trung hoa, theo 1 trật tự hợp lý luận thì THÁI CAO chỉ là tên khác của ĐỘNG ĐÌNH QUÂN vì cả 2 đều mang tính biểu thị cho phương đông; chính xác phải gọi là phương động là tính chất của can BÍNH- BẤN tượng số (8) trong thập can, từ Thái cao hay Vua cả chỉ sự khởi đầu một quốc thống , phương đông cũng là phương của màu xanh và tình thương , sách Lã thị xuân thu chép vua dựa vào mộc đức mà cai trị, số ứng là số 8 là số chỉ phương đông trong Hà thư, động vật tiêu biểu là loài có vảy tức loài rồng –rắn , kỷ cuả ngài gọi là mạnh xuân kỷ.

Động đình hồ ở đâu ? phần lớn những nhà nghiên cứu sử đều bị mê hoặc bởi đầm Vân mộng ở Hồ nam và xác định đấy là Động đình hồ của cổ thư, trong sách cổ của Trung hoa nói nhiều đến Chấn trạch hay Lôi trạch cả 2 đều có nghĩa là cái hồ ở phương đông ta thấy đầm Vân mộng không đủ các yếu tố theo chỉ định của ngôn ngữ vì nó nằm ở khoảng giữa đất Trung hoa..;Đình hồ nghĩa là cái hồ lớn có thể hiểu là biển nên động đình hồ phải dịch sang Việt ngữ là Biển đông mới đúng, Động đình quân là vua vùng biển đông, căn cứ vào năng lực con người vào thời đại ấy thì biển đông chỉ có thể gom vào vùng vịnh bắc bộ ngày nay là hợp lý, truyền thuyết Việt nam có nói đến Linh lang một vì vua được thờ rất nhiều đã hoá tức chết ở hồ Tây và hồn suôi về Động đình hồ ( nước trôi ra biển ) ,điều này kiện chứng thêm cho sự chỉ định trên vì đầm Vân mộng ở quá xa và không có lý do để hồn Linh Lang suôi về chốn ấy.

Sách Lã Thị Xuân Thu của Lã Bất Vi đã trích ở trên cho ta biết:

Thời Thái Cao ứng với số 8 – mùa xuân, Hành Mộc, thần tương ứng là Mộc Thần Câu Mang chính là dùng mã tin của Dịch Lý. Sự tương ứng các vì tổ phụ và các con số của Hà Thư, người xưa đã kết cấu thời khởi thủy của dân tộc theo 2 ý chỉ định của Hà Thư. Các số 6, 7, 8, 9 vừa chỉ 4 phương vừa chỉ 4 mùa, như thế ta có 4 địa phương của 4 tổ phụ đồng thời cũng có thứ tự thời gian 4 tổ phụ tiếp nối nhau; Thái Cao – Bào Hy hay Hùng Dương Vương được coi là là thủy tổ của dân tộc HÙNG

Sách cổ Trung Hoa viết “Mẹ Bào Hy sống ở vùng đầm Hoa My, nhân đạp dấu chân người khổng lồ mà sinh ra ông, lớn lên có thánh đức và khi ở ngôi lấy Mộc Đức mà cai trị”: từ nơi ở là đầm Hoa My ta có thể rút ra các thông tin: Hoa chính là tộc Hoa sau này , My hay Mỵ theo cổ thư Trung Hoa là Họ của dân Việt và Sở, Động cũng là Đông (đã dẫn ở phần trước) Đình là to lớn. Động Đình Hồ là hồ lớn ở phương Đông như thể Đầm Hoa My và Động đình Hồ chỉ là một , nơi có nền văn hóa khảo cổ Soi Nhụ – Cái Bèo sau là Vịnh Hạ Long, vì chỉ ở đấy mới có thể liên quan tới dân nước Việt và dòng giống vua Sở ( vua nước Sở họ HÙNG ) ở Hồ Nam Trung Hoa. Vòng cung – bờ biển Việt Nam, bờ biển Quảng Đông và đảo Hải Nam cho ta hình ảnh một cái hồ lớn ở phương Đông nước Việt.

Thủy tổ phương Đông là Hùng Dương, Bào Hy Thái Cao Thị cũng là Động Đình Quân. Còn niên đại thời Hùng Dương – Bào Hy? Chữ Bào cho ta 2 nghĩa:

- Bào là cái bọc nơi thai nghén 100 trứng sau là 100 họ vì thế người Việt Nam thường gọi nhau là ‘đồng bào’.

- Bào biến âm là ‘Bầu’, bầu là khối tròn, tiếng Việt chỉ sự mang thai, người có bầu thì sinh con, còn Đế Bầu (Bào Hy) thì sinh ra dân tộc của mình.

‘Bầu’ còn có nghĩa đặc biệt khi liên kết với truyền thuyết quả bầu và cơn ‘hồng thủy’, truyền thuyết lưu truyền ở hầu hết các dân tộc Đông nam Á, nhưng hoàn toàn vắng bóng ở cư dân Hoàng Hà. Tuy có điểm khác biệt, nhưng thống nhất trong ý : cơn hồng thủy tiêu diệt loài người, và loài người được tái sinh từ quả bầu, sau thành các dòng tộc chia nhau đi khắp 4 phương, về ý nghĩa cũng tương tự bọc 100 trứng nhưng ở đây ta có được một thông tin quan trọng xác định mốc thời gian mà câu chuyện tồn tại, đó là một cơn hồng thủy, nước dâng lên tràn núi lấp gò. Trong quá khứ ở Việt Nam khoa học ghi nhận có 2 đợt biển tiến:

- Đợt biển tiến Phlandrian cực đại vào khoảng 20.000 năm trước.

- Đợt biển tiến Holocene trung điểm cực đại cách nay hơn 4.000 năm.

Đợt biển tiến Phladrian tức cơn đại hồng thủy xãy ra ở Thời Đá giữa chính là niên đại của thủy tổ phương Động Bào Hy. Ta có thể kết luận niên đại thời Hùng Dương Bào Hy cách ngày nay khoảng 20.000 năm.

Cũng trong ý nghĩa “sự khởi đầu” như ban sớm, mùa xuân; Hùng Dương Vương – Bào Hy được coi là tổ của Dịch Lý hay rõ hơn là Dịch nút số (Hoàng Đế là tổ của Dịch Lý Vạch Quẻ). Ở Trung hoa trước đời Tống không ai biết gì về dịch học nút số, ngược lại ở Việt nam chỉ với câu “tam khoanh-tứ đốm” đủ xác định người Việt từ xa xưa rất rành về dịch học nút số, rành tới mức mà nó đã trở thành của dân gian , ai cũng biết cũng dùng .

-Khoanh biến âm là khuyên hay khoẻn ngày nay là chiếc nhẫn đeo tay hay đôi vòng đeo tai ta có thể hình dung ra ngay được đó chính là hình ảnh của nút trắng trong các nút số của Hà lạc.O

-Đốm trong việt ngữ thường đi đôi thành từ kép : “đốm đen” nghĩa rất rõ ràng chỉ các nút số đen cuả Hà lạc.●

Tam và tứ là 2 số trấn phương đông và phương tây của Hà thư.

Thành ngữ “đổi trắng thay đen” khiến ta còn phải suy nghĩ nhiều lắm, chắc chắn đây là 1 lời nhắn gửi của người xưa chỉ vẽ cho con cháu về hà thư-lạc đồ nhưng chúng ta vẫn phải tìm hiểu suy nghĩ thêm chưa vội kết luận về bất cứ điều gì.

Thời kỳ này là thời Homo sapien sapien tức ‘người hiện đại’; dưới ánh sáng Dịch Lý đúng nghĩa là ‘người văn minh’ và dịch cũng chính là ‘văn’, như đã biết ở phần Dịch Lý, Thập can hay ‘chục con’ chính là 10 con số , là những dấu hiệu nguyên khởi của văn minh khi người ta dùng nó như là một thứ văn tự.

Bài 13 - Hùng triều thứ 2 _ Hùng Hiển vương .
Tổ phụ phương nóng-xích đạo

Vua khai sáng :

Danh hiệu khác trong Việt sử : –Thái Viêm Thần nông

Danh hiệu khác trong Hoa sử : -Viêm đế Thần nông-Cao Tân thị

Là thủ lãnh tộc MY_BẮC ở hướng xích đạo (khoảng 10.000 trước CN) ;

Với thời Thái Viêm –Thần nông của sử Việt và Hoa , dã sử ghi nhận thời kỳ này là bước tiến lớn lao đưa con người bước đầu thoát khỏi sự phụ thuộc hoàn toàn vào giới tự nhiên, qua thời hái lượm - săn bắt với việc biết trồng trọt và chăn nuôi con người đã bước sang nền kinh tế sản xuất tức đã góp công cùng tạo hoá,trở thành tài Nhân trong tam tài ngang vế với thiên và địa vì vậy Hùng sử gọi là thời Hùng Hiển, ta ghi nhận : thần nông là cấu trúc Việt ngữ.

Phương nóng bức hay hướng xích đạo là nơi cai quản của THÁI VIÊM ; tổ phụ phương lửa hay quẻ LY.sách Lã thị xuân thu và các tư liệu lịch sử Việt nam đều gọi là VIÊM ĐẾ đây là sự khập khễnh đáng tiếc , khi đã xác định là 1 tổ phụ thời tiền lập quốc phải gọi là THÁI VIÊM mới chuẩn xác và nhất quán;truyền thuyết lich sử Việt nam coi Thái viêm -Thần nông là tổ cao nhất của mình; Đế MINH cháu 3 đời của Viêm đế Thần nông....dã sử Việt đã mở đầu như thế..., còn theo Lã thị xuân thu: Viêm đế cai trị bằng hoả đức, thần bảo hộ là hỏa thần Chúc dung, số tương ứng trong Hà thư là số 7 hướng xích đạo cũng là màu đỏ (sất tức số 7 chỉ là biến âm của xích), động vật tiêu biểu là loài lông vũ tức loài chim và nhiều sách cổ của Trung Hoa chỉ định rõ là chim khổng tước tức chim công. Thực tế ta hiểu thị tộc của Viêm đế có địa bàn sinh sống là vùng nóng nhất trong 4 thị tộc thời tiền lập quốc tức gần xích đạo nhất.Trung hoa xưa vẫn gọi miền trung Việt nam là miền bắc hộ ý nói vì đã vượt qúa xích đạo nên cửa mở về hướng bắc để đ̣ón ánh mặt trời.

Chúng ta thấy theo dịch lý :số (2-7) của Hà thư luôn gắn với quẻ Ly, màu đỏ , xích đạo và loài chim tức điểu.

Vậy mà ai đó đã cố tình cho là : nhất điểu nhì ngư tam xà tứ tượng , phương của Xà và Tượng là Đông và tây là chính xác nhưng Điểu và Ngư thì có phản ứng....; theo dịch học thì : nhất viết thủy...nếu : nhất điểu hóa ra là chim bay dưới nước .?. vì vậy : nhất điểu bị biến thành nhất Đểu....,nhị viết hỏa nếu nhì ngư đúng thì thành ra cá bơi ở trên trời... nên nhì ngư biến thành ...nhì ngu ; chỉ có kẻ vừa đểu vừa ngu mới cho phương Bức hay bắc là vùng tuyết trắng phủ dầy như Bắc cực hiên nay....

Tiếp nối thời Hùng Dương – Bào Hy là thời Hùng Hiền Vương, chữ ‘Hiền’ là ký âm của chữ ‘hiện’ hay ‘hiển’, vì mặt trời sau khi mọc (dương) ta thường nói “vừng dương ló dạng” sau giai đoạn ló dạng là hiển hiện rõ ràng, đầy đủ. Theo “tứ thời” nếu là một ngày thì sau ban sáng tới ban trưa, nếu là mùa thì mùa hạ tiếp nối mùa xuân, nên cổ sử Trung Hoa và Việt Nam gọi tổ phụ Hùng Hiển Vương là Thần Nông Thái Viêm, có sách chép là Viêm Đế nhưng từ Thái Viêm nghĩa là tổ phụ phương nóng bức (bắc) hay hướng xích đạo (phương Sóc) thì sát nghĩa hơn. Mặt trời ở ‘thiên đỉnh’ là lúc nguồn năng lượng tuôn xuống mặt đất nhiều nhất nên cũng là lúc nóng nhất nên cổ sử gọi là Thái Viêm. Trong 4 phương vì Việt Nam và Trung Hoa đều nằm ở Bắc bán cầu nên hướng xích đạo là nóng nhất còn được gọi là viêm phương, theo cổ sử thì ngày xưa Việt Nam được gọi là Viêm Bang. Truyền thuyết lịch sử của dòng giống Việt chép “Đế Minh (tổ dân Việt) là cháu 3 đời của Viêm đế Thần Nông” cũng là vì lẽ này. Trong dòng thời gian của lịch sử thì Thần Nông không chỉ có nghĩa là 1 vị vua mà còn có nghĩa là 1 thời đại, thời đại con người bước từ nền văn minh hái lượm sang thời văn minh trồng trọt, khai thác kinh tế sản xuất, có gieo – có gặt. Theo các nghiên cứu khoa học thì thời gieo trồng ở Đông Nam Á bắt đầu vào khoảng năm 10.000 trước Công nguyên. Tiêu biểu cho thời này, khảo cổ học gọi chung là thời văn hóa Hòa Bình, theo tên địa điểm tìm ra di chỉ khảo cổ .

Hùng Hiển Vương – Thái Viêm – Thần Nông được cổ sử Trung Hoa gọi là Hoàng đế Thần Nông – Cao Tân Thị (chính chữ ‘Hoàng đế’ này gây nhiều rắc rối, lầm lẫn cho các sử gia vì trùng với ‘Hoàng Đế’ tên riêng của quốc tổ Trung Hoa ở đời sau). Từ ‘Cao Tân Thị” thực ra là từ thuần Việt; Cao = cả nghĩa là thủ lĩnh, Tân là 1 trong Thập can nghĩa tiếng Việt là tâng (bốc), tung (lên), biến âm của tân là tôn: cao, hay là bề trên. Sở dĩ có tên như vậy là do Hà Thư đặt theo chiều đứng: số 2-7 chỉ trên cao, ngược với 1-6 chỉ dưới sâu, sâu → sáu → sáo = nước.

Nông dân Việt rất kính trọng ‘Tiên Nông”, ngày xưa mỗi khi khai vụ đều có lễ tế Tiên Nông xin cho được ‘mưa thuận gió hòa’ để mùa màng tốt tươi. Cổ sử Trung Hoa còn gọi Thần Nông với tên khác là Đế Cốc (có sách viết sai là Đế Khốc), ‘cốc’ là lương thực.. Theo Kinh Thi thì thời cổ dân Trung Hoa trồng 2 loại lúa là lúa ‘Tắc’ và ‘Thử”, “hoà, đao, chiêm, mạch” là tên 4 loại lúa chỉ xuất hiện sau cả ngàn năm so với tắc và thử.

Tắc chính là lúa nếp ngày nay. Tắc → đắc → đất; nghĩa là loại lúa trồng trên cạn (Xin lưu ý là người Hoa không có âm /đ/) ông tổ của lúa tắc là Hậu tắc, Thử là lúa tẻ ngày nay. Thử là biến âm của thủy (= nước), loại lúa trồng trong ruộng nước, thông tin tìm được ở đây cho ta nhận định : rất có thể lúa nước có trước lúa trồng trên cạn tức lúa nếp vì ông Hậu Tắc tổ nhà Chu chỉ là con cháu xa xăm lắm của Thần nông.

Đáng lưu ý “Hậu Tắc” là theo qui tắc ngôn ngữ Việt, nếu viết theo Hoa ngữ phải là: Tắc Hậu cũng như Thần Nông phải là Nông Thần. Và điểm đáng lưu ý nữa là: thời xưa do đặc điểm khí hậu ở khu vực bắc Hoàng Hà không thuận lợi cho cây lúa cả tắc lẫn thử vì cây lúa là giống ở miền nhiệt đới đòi hỏi cường độ ánh sáng cao và không khí ẩm, mà khí hậu vùng Hoàng Hà thì lại lạnh và khô.

Trở lại với Lã Thị Xuân Thu, ta có các thông tin: Viêm Đế tương ứng với số 7; số 7 theo Hà Thư là mùa hạ và phương viêm (nóng bức); Viêm Đế lấy Hỏa đức mà cai trị, vị thần tương ứng là Hoả Thần Chúc Dung. Chữ Viêm này cũng là chữ Viêm trong ‘Viêm thiên’ trong Cửu Thiên của Trung Hoa cổ. Nói tóm lại ý nghĩa các thông tin đều qui kết về vùng nhiệt đới, như thế thời Thần Nông không thể diễn ra trên lãnh thổ Trung Hoa hiện nay được vì vùng cực nam Trung Hoa cũng không thuộc vùng nhiệt đới.

Lưu ý theo sử thuyết họ Hùng thì có tới 3 vì vua liên quan tới chữ Viêm.

-Thái viêm là tổ phụ phương nóng bức hay viêm nhiệt của người họ Hùng.

- Viêm đế là vị vua đồng thời với Hùng Vũ ở thời lập quốc.

- Viêm lang hay Viên lang là đế Nghi trong sử Việt hay Nghiêu đế trong cổ sử Trung hoa.

Bài 14 - Hùng triều thứ 3 _ Hùng Nghị vương .

Tổ phụ phương Tây

Vua khai sáng : Bảo lang.

Dang hiệu khác trong Việt sử : Thái Khang

Danh hiệu khác trong Hoa sử : Thiếu Hạo-Kim thiên thị

Là thủ lãnh tộc Khương tây. (khoảng Năm 8.000 trước CN) .

Thành tựu khoa học kỹ thuật nấc 1 và 2 đã giải quyết cái mặc và cái ăn , nấc thang kế tiếp là nơi ở hay chỗ cư ngụ, định cư cũng là 1 bước tiến vì chỉ khi đã định cư ta mới có xóm giềng rồi bản làng sau nữa đến quốc gia, muốn định cư tức phải có nơi ăn chốn ở ổn định nghĩa là phải có nhà , rời bỏ hang hốc xuống làm nhà quần cư nơi đất trống là cả 1 bước tiến dài Hùng sử tượng trưng giai đoạn này bằng thời Hùng Nghị hay Ngụ , việc quần cư ổn định chỉ có thể diễn ra khi đã biết trồng trọt và chăn nuôi, với việc biết làm nhà để cư ngụ cuộc sống con người đã là cuộc sống văn minh bỏ lại sau lưng thời ăn hang ở lỗ.

Phương Tây là phương mặt trời lặn, mặt trời lặn là lúc nghỉ ngơi nên còn có tên là bên siêu hay siu nghĩa là nghỉ ngơi. Trong Tiên Thiên Bát Quái: Quẻ Ly trấn phương Tây ngụ ý là: Ly là ‘ly’́ là chủ đạo chi phối mối tương quan giữa con người và tự nhiên, ‘lý’ là Vĩnh Hằng, không thay đổi, vì là phương của Lý nên từ Việt có từ kép ‘nghĩ ngợi’.

Ly = Lý → nghĩ ngợi.

Ly = Lìa → nghỉ ngơi.

Từ ‘nghị’ cũng là nghĩa của ‘Lý’ chính vì vậy tổ phụ phía Tây mới có danh hiệu là Hùng Nghị Vương. Và bắt đầu từ tổ phụ thứ ba này có thêm danh hiệu thứ 2 dùng chữ ‘Lang’ ;Vậy chữ ‘lang’ nghĩa là gì ? Hiện nay từ ‘Lang’ còn dùng ở các dân tộc Thái – Mường chỉ người đứng đầu cộng đồng như Lang phìa, Lang tạo, V.v, Chữ ‘lang’ là biến âm của chữ ‘Long’ nghĩa là con rồng và cũng có thể gọi thay cho chữ ‘hoàng đế, như Tần Thủy Hoàng còn được gọi là: ‘Tổ Long’ trong sử ký của Tư Mã Thiên. Trong thể chế quân chủ của Trung Hoa và Việt Nam từ ‘long’ độc quyền trong việc chỉ về nhà vua và những gì thuộc về vua như ‘long thể’, ‘long ngai’, ‘long sàng’, ‘long bào’, ‘long xa’, V.v… Vậy ta hiểu ‘long’ cũng đồng nghĩa với ‘vương, ‘chúa’ được dùng ở sắc dân thuộc cộng đồng Trung Hoa gốc của từ Lang là số 5 - năm trung tâm của Hà thư-Lạc đồ (năm→lăm→Lang ) . Trong Hùng phả Phần danh hiệu dùng chữ lang này là vương hiệu vua khai sáng triều đại. Bảo Lang có nghĩa là chúa phía Tây ,chữ ‘Bảo’ hay bửu dịch sang Việt ngữ là ‘quí’ như trong quí báu. Với Thập Can thì quí là số 9, số 9 trong Hà Thư chỉ phương Tây ( 4 – 9 ). Sách Lã Thị Xuân Thu đặt Thiếu Hạo trong Mạnh Thu Kỷ; số tương ứng là số 9 (quí), lấy đức Kim (cang, cương) mà cai trị, thần tương ứng là Kim Thần Nhục Thu, như thế các mã tin Dịch Lý của kỷ này đều tương ứng với phương Tây, phương của mã nền là “không đổi”, và trong Cửu Thiên, trời Tây được gọi là ‘Hạo Thiên’ trùng với tên Thiếu Hạo tổ phụ phía Tây cũng như Thần Nông Thái Viêm trùng với Viêm Thiên chỉ trời phương Bắc của Dịch Lý. Thời Thiếu Hạo được cổ sử Trung Hoa gọi là Kim Thiên Thị, chữ Kim là ký âm sai của chữ Cang, cương hay cứng . hiện nay ai đó...đã cố tình gán nghĩa là kim loai cho hành Kim của ngũ hành.... xin thưa ở thời thái cổ khi lập ngũ hành thì con người làm gì đã biết đến kim loại ....?

Phương tây trước đây không được nói tới trong truyền thuyết lập quốc của người Việt nhưng đã được bổ sung là THÁI KHANG hay tổ phụ phương tây, từ khang thực ra là khăng , trong tiếng Việt khăng khăng nghĩa là không thay đổi, khăng =cang=cương=cứng là tính chất của phương tây theo dịch học: số 4 là cứng, số 9 là đinh hay tịnh, Lã thị xuân thu viết động vật tiêu biểu là loài lông mao ý nói loài sư tử , đây là cái sai rất điển hình của những người cố ý cạo sửa cổ thư vì sư tử là loài thú xa lạ với cả Đông nam á và Trung hoa, bạn có nghe nói đến sư tử đông á châu bao giờ chưa ?..Động vật tiêu biểu của phương tây phải là con voi vì can số 9 chỉ phương tây theo Hà thư là can: định, tịnh..;.bản thân chữ tịnh đã là con voi rồi vậy mà Có người còn cố ý nhập nhèm sửa đổi vì lý do phía bắc sông Hòang hà từ cổ chí kim làm gì có voi nên họ thay bằng con sư tử , cả sư và tử đều xuất phát từ âm tsi số 4 mà thôi,

Rất có thể sư tử là thần thú của dòng Hung nô ở trung á. Số 4 việt ngữ là bốn, biến âm thành bóng ,sáng bóng hay bóng láng dịch sang Hoa ngữ là HẠO hay CHIÊU nên phương tây còn gọi là bên Chiêu hay Châu, tổ phụ phương này là THIẾU HẠO; cổ thư trung hoa cũng nói đến sông KHANG hay KHƯƠNG như cái nôi của người cổ , bộ tộc của Hiên viên có gốc ở sông Khang sau mới thiên cư sang gò Hiên viên , từ Khương ký âm thành Cương cho phép ta liên kết với sông MỄ CƯƠNG chính là sông MÊCÔNG ngày nay.

Lưu ý cũng là từ KHƯƠNG nhưng dân Khương thời thái cổ này hoàn toàn khác với dân khương cuả sử Trung hoa thời trung cổ. Thời này từ Khương hay chi hay thổ phiên là từ chỉ người tây Tạng hiện nay.

Bài 15 - Hùng triều thứ 4 _Hùng Diệp vương .

Tổ phụ phương nam.

Vua khai sáng : - Quan lang (Quang)

Danh hiệu khác trong Việt sử :Thái Tiết-Vũ Tiên .

Danh hiệu khác trong Hoa sử : - Xuyên Húc –Cao dương thị

Là thủ lãnh tộc Khương nam.(Phương nam của dịch lý ngược với hiện nay- khoảng 7000 năm trước công nguyên).

Diệp là biến âm của từ dịch nghĩa là di chuyển, thời Hùng Nghị hay Ngụ con người đã tụ cư thành từng địa phận nay nối chúng lại thành thể thống nhất cho con người và sản vật được lưu chuyển khắp nơi , chế tạo được phương tiện giao thông là 1 bước tiến lớn về khoa học kỹ thuật nhờ đó quy mô cộng đồng ngày càng lớn rộng và đến một lúc nào đó đủ tầm vóc để hình thành quốc gia.Trên đồ biểu Hà thư, triều Hùng Diệp nằm ở phương nam, phương của sông nước , kênh lạch khiến ta liên tưởng đến khả năng thủy vận, suy nghĩ một cách hợp lý thì bè- mảng có thể là phương tiện giao thông vận tải đầu tiên của người họ Hùng và rất có thể là của cả nhân loại, bản thân cây tre đã là 1 cái phao, lấy chính những sợi lạt cũng bằng tre để liên kết nhiều cây lại là đã có cái bè đi lại trên sông nước, thực gỉan đơn nhưng lại là cả 1 bước nhảy vọt về khoa học kỹ thuật.

Việt ngữ gọi tháng 1 là tháng giêng, hoa ngữ ký âm thành giang đồng nghĩa với con sông thường được dịch thành xuyên, số 1 cũng là đơn biến âm của đen trùng khớp với huyền thiên trong cửu thiên cũng là mun, màu đen trong tiếng Việt để tạo thành nam mun hay man, vị vua của phương này truyền thuyết dân gian Việt gọi là THÁI TIẾT, thực ra là TIẾP mới đúng, tiếp là tiếp giáp; chỗ giao nhau của cũ và mới trước và sau còn là sự bắt đ̣ầu hay trước tiên theo nghĩa chữ giáp là đứng đầu , là thứ nhất nên Thái tiết còn có tên là Tiên đế, lĩnh nam trích quái gọi là bà VŨ TIÊN , ta thấy tất cả đều xoay quanh con số 1,Vũ tiên thực ra chỉ có nghĩa là vua vùng số 1 tức phương nam, vì vua của phương (1-6) này cổ sử Trung hoa gọi là XUYÊN HÚC, xuyên là con sông như ta đã biết ở trên còn Húc chỉ là ký âm sai của từ hắc nghĩa cũng là màu ̣đen,sông đen chuyển ngữ ký âm sai thành Xuyên húc .

Truyền thuyết lịch sử còn cho ta một thông tin khác, Hùng Diệp cũng chính là bà Vũ Tiên hay Vụ Tiên, vũ hay vụ là biến âm của từ vua, tiên là thứ nhất, đầu tiên hay số 1, ta đã biết số 1 chỉ phương Nam hay phương Thủy, Theo Hà Thư : Tiên đồng nghĩa với Thủy ( khởi thuỷ ), nhưng Thủy còn mang nghĩa khác là nước, phương nước tức phương Nam.

******************

Tóm lại : thời tiền lập quốc người họ Hùng đã dựa trên Hà thư để hư cấu thành 4 vị tổ phụ của 4 phương trời, mượn danh các vua nhưng thực ra để chỉ 4 thị tộc mà sau này cấu thành tộc họ HÙNG.

4 tổ phụ của 4 phương là sự Tổng kết về thời tiền lập quốc của họ Hùng nó diễn ra trong thời gian mà khảo cổ học gọi là thời Đá giữa, cách nay khoảng 20.000 đến 7.000, đó là lúc biển tiến Phadrian cực đại và rút dần, con người bắt đầu rời hang núi cao xuống các thung lũng, và đi xuống thấp dần theo nhịp nước rút, ở giai đoạn cuối đã đến trung châu chuẩn bị tiến xuống khai phá vùng đầm lầy mà sau này là đồng bằng.

Đối chiếu với khảo cổ học, ta xác định:

a. Dòng Hùng Dương Vương hay Thái Cao Thị chính là người Bắc Sơn / Soi Nhụ tiền thân của nền văn hóa khảo cổ Hạ Long, Động Đình Hồ là vịnh Bắc Bộ hiện nay, đây là đất khởi nguyên của dòng Nam Đảo Đông hay Indonesien Đông. Các cư dân nhánh Nam Đảo Đông tiến dọc theo bời biển Trung Hoa tới tận Phúc Kiến, Chiết Giang và đảo Đài Loan, nơi họ để lại dấu vết nền văn minh Hà mẫu độ rất nổi tiếng.

b. Dòng Hùng Hiển Vương hay Thần Nông Cao Tân Thị mà Dấu vết thời này còn lại chính là nền văn hóa mẫu Hòa Bình, gọi là mẫu vì văn hóa này đã được khoa học dùng để chỉ cả một đợt văn minh trên khắp cõi Á Đông. Người Hòa Bình tỏa xuống đồng bằng theo các sông Mã,sông Chu,sông Cả tiến tới bờ biển tạo nên các nền văn hoá khảo cổ lớn ở Thanh – Nghệ và dọc theo miền Trung.

c. Dòng Hùng Nghị Vương hay Thiếu Hạo Kim Thiên Thị: Hùng Nghị Vương là tổ tiên của cư dân hệ Môn Khmer mà đã lưu dấu trong các nền văn hóa khảo cổ ở Đông Bắc Thái lấy sông Mêkông làm xương sống , Nonotha và bản Chiềng là nền văn hoá cổ rất nổi tiếng được lấy làm tiêu biểu cho cả một vùng rộng lớn ở phía Tây Việt Nam, ta gọi họ là dòng tộc sông Công hay Cương thuộc hệ Nam Á ngành Môn-Khmer.

d. dòng Hùng Diệp Vương hay Xuyên Húc Cao Dương Thị : Hùng Diệp Vương là tổ tiên của dòng H’Mông cổ sử gọi là Hữu Miêu, chắc chắn có một nền văn hóa khảo cổ tiêu biểu cho cả một vùng núi rừng rộng lớn ở Bắc Việt Nam và trung tâm là hạ lưu sông Đà còn chưa được khám phá, hoặc bị chìm lấp, lẫn lộn với 1 nền văn hóa khảo cổ khác hiện nay chưa phân lập được, nhiều khả năng chính là phần văn hóa Hòa Bình ở núi rừng Tây Bắc Việt hiện nay.

Bài 16 - Hùng triều thứ 5 - Hùng Vũ vương .

18 HÙNG triều – Sơ sử

Đối chiếu với Hà thư

5 - Hùng triều thứ 5: Hùng Vũ Vương.

Tổ phụ vùng giữa và cũng là vua khai quốc

Vua khai sáng :– Hiền Đức Lang

Danh hiệu khác trong Việt sử : Vua Hùng, đế Minh, Thái Công

Vua cha ngọc hoàng thượng đế

Danh hiệu khác trong Hoa sử :– Hoàng đế Hiên Viên

Quốc hiệu : Nước họ HÙNG, Hữu HÙNG quốc, Viêm Việt đại hưng bang.

Niên đại : (3000 trước CN)

Chứng tích còn bảo tồn đến ngày nay :

1-các hiện vật khảo cổ của nền văn hóa Quỳnh văn –sông Cả , Nghệ an là vật chứng về sự tồn tại của người dòng CƠ ,bộ lạc của Hiền vương hay Hiên viên

2- nền văn khảo cổ hóa Đa bút là di tích của bộ lạc dòng Viêm đế .

3- miền đất Cánh đồng chum ở trung Lào chính là nơi cư trú của con dân dòng Xi vưu.

Hùng Vũ Vương là quốc tổ của dân Việt Nam và Trung Hoa; Hùng là dòng giống; Vũ và vương là từ kép để dic̣h sang Hoa văn từ Vua của Việt ngữ; Hùng Vũ Vương đồng nghĩa với ‘Vua Hùng”.

Trong vương hiệu ‘Hiền Đức Lang’ thì : Đức là biến âm của ‘Đế’ → Hiền Đế = Hiền Vương và Lang =Vương→Hiền lang =Hiền vương, ‘ Hiền đức lang’ ( thừa 1 chữ ) là kiểu sai thường gặp trong tiếng Việt như : sông Hương giang , núi Thái sơn..v.v., ‘ Hiền vương’ sử Trung Hoa ký âm sai thành ‘Hiên Viên’ .

Cổ sử Trung Hoa chép: “Hoàng đế tên tộc là Ngu, hiệu là Hiên Viên; bộ tộc sinh tụ tại vùng sông Cơ, sau lấy chữ Cơ làm họ, là vua nước Hữu Hùng …”

Đoạn sử tuy ngắn nhưng vô cùng quí giá đối với người nghiên cứu lịch sử Việt Nam và Trung Hoa.

a. Hoàng đế tên tộc là Ngu, đây là ký âm sai của chữ ‘Ngũ’, ngũ là số 5, trung cung của cả Hà và Lạc ; âm ‘vua’= ‘woo’ ký âm hoa ngữ phân hoá thành ‘ngu’ hay ‘ngũ’ và ‘Vũ’ , Và trung cung của ngũ sắc là màu vàng nên mới có từ ‘Hoàng Đế’ nghĩa là đế của vùng ‘giữa’ tức vùng ‘Giao-chỉ’ – vùng đất tổ của dân Việt theo chính sử.

b. Hiệu là ‘Hiên Viên’; ở trên ta đã chỉ ra là ký âm sai của ‘Hiền Vương’ .

Theo tryền thuyết thì Đế Minh là cháu 3 đời của Thần Nông - Thái Viêm ̣( không lầm lẫn với Viêm đế vị vua cùng thời với Hoàng đế hay đế Hoàng ), như ở trên đã dẫn Thần Nông Thái Viêm là Hùng Hiển Vương → Hùng Nghị Vương – Hùng Diệp Vương – đến Hiền Vương - đế Minh đúng là cháu 3 đời.

c. Hoàng Đế là tổ họ Cơ (lấy từ tên sông Cơ):Cơ là ký âm Hoa ngữ của từ Cả nghĩa là lớn nhất hay đứng đầu, Đoạn này cho ta những thông tin: Chữ ‘Cơ” không phải là họ Cơ mà là ‘Cô’. Sử ký của Tư Mã Thiên cho biết Cô là từ mà vua chúa xưng mình trước quần thần trong các buỗi thiết triều; cô là tiếng Việt còn lưu dấu trong thầy-cô, chữ cô này đồng nghĩa với từ ‘mẹ’, chỉ người sinh ra mình. Ở đây chữ ‘cô’ đồng nghĩa với chữ ‘cả’ là số 1 là đứng đầu chỉ thủ lãnh. Cổ sử Trung Hoa ghi Hiên Viên là tổ họ Cơ, ta hiểu đó là vị cô đầu tiên trong lịch sử dân tộc hay rõ ràng hơn là hoàng đế khai quốc.

Đặc biệt cụm từ có tính chìa khóa ‘HÙNG QUỐC’ không phải mới xuất hiện ở thời Hoàng đế , cố gíao sư Kim Định dẫn Đông chu liệt quốc cho biết ...cả Hoàng đế và Viêm đế đều là con của Thiếu ̣Điển , Thiếu điển còn tên khác là HÙNG QUỐC QUÂN nghĩa là thủ lãnh hay người đứng đầu Hùng quốc , đây là giấy trắng mực đen chứ không phải suy đoán gì cả ..., ở Trung hoa ngày nay vẫn lưu truyền ...người mang họ Hùng là dòng dõi trực hệ của Hoàng đế Xưa ... Tóm lại mối liên hệ giữa Hoàng đế hay đế Hoàng quốc tổ Trung Hoa và họ HÙNG là điều không thể phủ nhận .

Về địa bàn sinh tụ của dân tộc thời lập quốc là lưu vực sông Cơ, Cơ = Cả (tư liệu Lịch sử Việt ghi là: vùng đất lập quốc của các vua Hùng là sông “Côi”), chính là sông Cả ở Nghệ An Việt nam hiện nay , nơi đây có một địa điểm rất linh thiêng hàng năm dân chúng vẫn tiến hành lễ tế đó là ‘Hang Bua’, rất có thể đấy chính là “hoàng cung’ đầu tiên thời lập quốc. Thực là sức sống của dân tộc vô cùng mãnh liệt, nội việc cung vua là hang núi cũng đủ xác định thời gian rất xa xưa có thể cách nay khoảng 5.000 - 6.000 năm, tức vào thời con người ăn hang ở lỗ (ăn lỗ ở hang), xã hội còn là thị tộc hay liên minh thị tộc, mỗi hang là một cộng đồng nhỏ, là cơ sở của xã hội, sau hang → hương nghĩa là làng.

Di tích Hang Bua rất có thể là nơi cực thiêng đánh dấu thời khai quốc của người Việt Nam và Trung Hoa và vị vua khai quốc là Hùng Vũ Vương hay Hiên Viên trong truyền thuyết.

d. Hiên Viên là vua quốc gia Họ Hùng : Đây là phần rất quan trọng để xác định nguồn gốc dân tộc Việt; Hiên Viên hay Hiền Vương là Hoàng đế lập nên quốc gia Họ Hùng, quốc hiệu lưỡng tính này có Ý chỉ thời lập quốc hay thời tiến từ liên minh thị tộc lên quốc gia, giai đoạn đặc biệt khởi đ̣ầu với từ hữu và kết thúc bằng từ quốc .

Thời Hùng Vũ không biết kéo dài bao lâu , trong sử học đó là thời chuyển tiếp từ liên minh thị tộc sang tổ chức quốc gia chính vì thế mới có tên HỮU HÙNG QUỐC , khởi đầu với chữ ‘ hữu-họ’ và kết thúc ở chữ ‘quốc-nước’ và quốc tổ cũng khởi đầu với danh hiệu: THÁI CÔNG là tổ phụ cuối cùng sau biến thành HÙNG VŨ tức vua HÙNG Hoa sử gọi là HOÀNG ĐẾ .

Sử Trung Hoa có quy luật đặt vương hiệu đàng hoàng như Chu Văn Vương hiểu là chúa văn của nước Chu hay nhà Chu; Tần Nhị Thế là chúa đời thứ hai của nước Tần ; Hán Vũ Đế là chúa khai sáng triều Hán hay nước Hán. Riêng với chữ ‘Hùng’ lại rất đặc biệt, Hùng là dòng giống chứ không phải tên nước, tộc danh này bao trùm và ở trên quốc hay gia, thí dụ: dân họ Hùng có thể có nhiều quốc danh như :nước Lạc, nước Thao,nước Thục, nước Đại Cồ Việt ; mỗi một nước như thế lại có nhiều nhà như Đinh, Lê, Lý, Trần; … nhưng tất cả vẫn xuyên suốt 1 Họ Hùng hay dòng tộc Hùng, chính vì thế ta mới có Hùng Vương thứ nhất, Hùng Vương thứ 2, V. v… . Những dòng lịch sử này đã minh thị đích xác về Họ Hùng mà người Việt vẫn tôn thờ trong tâm thức mấy ngàn năm qua, cũng như dân tộc Trung Hoa tôn thờ Hoàng Đế Hiên Viên, hai dân tộc tôn thờ 2 danh hiệu của cùng 1 vì vua, và cùng nhận là quốc tổ của mình, khi nhận ra: Hiền Đức hay Hiền Vương và Hiên Viên chỉ là 1 nhân vật thì đã đến lúc viết lại sử Việt Nam và Trung Hoa đó là việc bắt buộc không thể chần chừ lâu hơn được nữa, vì để càng lâu thì tội bất kính – chửi cha mắng mẹ càng chồng chất.

Dựa trên truyền thuyết lịch sử Việt Nam và Trung Hoa ta dựng lại toàn cảnh của thời kỳ lập quốc:

5 bộ lạc đã thống nhất hoà huyết tạo nên dòng giống HÙNG:

1 / bộ lạc CẢ ở lưu vực sông Cả thủ lãnh là Hiên viên thuộc tộc My bắc.

2 / bộ lạc Cửu lê ở vùng cánh đồng chum thuộc trung- hạ nước Lào thủ lãnh là Xuy vưu tộc Khương tây.

3 / bộ lạc Mun hay Miêu ở hạ lưu sông Đà tên xưa là Hắc thủy hay Đơn thủy (đơn =đen) thủ lãnh là Hoan đâu, truyền thuyết Việt gọi là con gái bà Vũ tiên tộc Khương nam.

4 / bộ lạc Long hay thần long còn gọi là Động đình , cầm đầu là Long nữ con gái Động đình quân tộc My đông.

5 / bộ lạc Viêm ở vùng Hoà bình –Ninh bình thủ lãnh là Viêm đế . Bộ lạc Viêm là sự hòa huyết đầu tiên của 2 đại tộc KHƯƠNG và MY , cổ sử Trung hoa chép : mẹ của Viêm đế là bà NỮ ĐANG cảm Thần long mà sinh ra vương , Nữ chỉ đàn bà ; Đang là biến âm của Đanh – Đinh chỉ phương tây ,Thần long là tên khác của đại tộc MY.

Cả cổ sử Hoa và Việt đều lẫn lộn Viêm đế với tổ phụ Thái viêm đưa đến nhiều đoạn sử không thể hiểu nổi.

Sự tồn tại các tộc người vào thời điểm dựng nước được chứng thực bởi các hiện vật khảo cổ của các nền văn hóa Quỳnh văn ở sông Cả Nghệ an, Đa bút thuộc Ninh bình - Hoà bình Việt nam và cánh đồng chum ở trung Lào.

Tóm lược trang sử dựng nước cùa vua HÙNG :

Theo Cổ sử Trung hoa thì Hoàng đế và Viêm đế là hậu duệ của Thái Viêm Thần nông , đây chỉ là sự thể hiện sử tính của những con số thuộc Viêm phương theo Hà thư : 7=2+5 , số 7 chỉ Thái Viêm , số 2 là Viêm đế và số 5 là Hoàng đế hay Hùng Vũ – đế Minh

HIỀN VƯƠNG thủ lãnh của bộ lạc CẢ nghĩa là đứng đầu (cổ sử Trung hoa chép thành HIÊN VIÊN của tộc CƠ) thuộc dòng MY BẮC sinh trú ở lưu vực sông Cả đánh bại XUY VƯU vua của bộ lạc CỬU LÊ dòng Khương tây ; đoạn sử này xuất phát từ cặp số 4-9 chỉ phương tây của Hà thư, xuy là âm của số 4 còn cửu là số 9. Hiền vương thống nhất 2 bộ lạc sau đó đánh bại Viêm đế ở vùng Ninh Bình- Hoà bình Việt nam và đã đúc 3 bộ lạc thành một dân tộc, dân tộc HÙNG, lập nước họ HÙNG và lên ngôi HÙNG VŨ tức VUA HÙNG , lãnh thổ của nước họ HÙNG là đất GIỮA chuyển âm Hán ngữ thành YUÊ còn được dịch là GIAO CHỈ ; chỉ là ký âm hán tự của chỗ, nơi chốn . Đất ‘giữa’ nay là đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh và vùng núi rừng phía tây, người Hoa ký âm chữ giữa thành YUÊ ; Việt nho đọc thành VIỆT ( chưa hiểu tại sao ?).

Vua Hùng dạo chơi phương nam gặp và kết hôn với con gái bà Vũ tiên hay tiên đế sinh ra LỘC TỤC, Lộc là biến âm của lục là số 6 và công thức đã ấn định trong hà thư để sinh ra Lục tộc - Lạc tộc : Hiên viên hay Hiền vương tên tộc là NGU chính xác là NGŨ số 5 ở trung tâm của Hà thư, lấy con bà Vũ tiên là số 1, sinh ra Lộc tục được chỉ bởi số 6 ; ta có: 5+1=6, sau vua HÙNG truyền ngôi cho con cả lập nên triều đế NGHI ở phương Bắc và Lộc tục được phong là vương phương Nam lấy hiệu là KINH DƯƠNG VƯƠNG, Kinh hay canh là biến âm của cóng nghĩa là lạnh cũng là một tên khác của quẻ Khảm chỉ NƯỚC trong cặp đối Lửa-Nước hay phương Bắc và phương nam,nóng và lạnh còn từ dương chỉ là biến âm của Giêng tức số 1 trấn phương nam trong Hà thư.Giòng con cháu đế NGHI gọi là người LA tượng trưng bởi qủe LY là lửa , qủe của Viêm phương trong dịch học .

Cổ sử Trung hoa không ‘thích’ con đường hôn nhân để kết hợp mà chọn đường chiến tranh để thống nhất , phải có chiến tranh và chiến thắng mới oai hùng ...nên viết HOÀNG ĐẾ tức HÙNG VŨ đánh bại HOAN ĐÂU con vua XUYÊN HÚC ở ĐAN THỦY, đan là biến âm của đen, Đan thủy hay HẮC THỦY cũng là con ‘sông đen’ mà thôi, HẮC THỦY là tên của sông ĐÀ xưa. HOAN ĐÂU là tổ của người MIÊU hay Hữu Miêu tức họ Miêu, chữ Miêu là ký âm sai của chữ MUN , người Mun ( màu đen ) nghĩa là người phương nam .Một học gỉa người Nhật đã phát hiện Tất cả người tộc Miêu đều nhận mình là người MUN- HMONG .

Thực tế thì chẳng có hôn nhân cũng chẳng có đánh nhau đấy chỉ là một lối ám chỉ ,diễn tả việc phát triển dân tộc HÙNG về phương nam ,ở đấy cộng sinh và hoà huyết với1 tộc người mới là người MUN kết qủa là tạo thành giòng tộc HÙNG phương nam gọi là người KINH _ CANH biến âm của CÓNG là tên khác của quẻ Khảm chỉ phương nước ngược với phương Ly-lửa.

LA và KINH là anh em cùng cha khác mẹ , cả 2 là con HÙNG VŨ tức vua HÙNG và đất giữa hay YUÊ cũng có Yuê-bắc và Yuê- nam, ngày nay kim chỉ nam còn được gọi là LA-CANH tức cây kim 2 đầu, 1 đầu Bắc và1 đầu Nam nhưng chỉ là 1 cây kim mà thôi . Người KINH mọi người đều biết là người VIỆT hiện nay còn người LA ?

Câu ca dao sau sẽ dẫn dắt chúng ta ̣đến 1 bất ngờ to lớn:

Ai ơi chớ lấy KẺ LA.

Cái dưa thì khú cái cà thì thâm.

Gạt bỏ ý tứ trong lối chơi chữ ‘dưa khú- cà thâm’ đi ta có được thông tin quan trọng và qúy giá đó là KẺ LA, kẻ nghĩa là người , kẻ La là người La tên người Việt gọi người CHĂM hay CHÀM; thì ra La và Kinh là chỉ người Việt và người Chàm hiện nay..., người Chàm là dòng đế NGHI con cả của vua HÙNG, thật là một bất ngờ to lớn khi biết La là quẻ Ly ;Kinh là quẻ Cóng hay khảm tức quẻ lửa và quẻ nước biểu thị sự phân cực của một thể thống nhất theo luật lưỡng nghi của dịch học.

Người Chàm chỉ là một phần của người La , người La hiện nay có mặt ở nhiều nơi trong vùng đông nam á và trung quốc, Lào là biến âm của LA tên Hán văn là LÃO QUA , Trung quốc có người DI LÃO hay CAĐAI và người LÊ, các từ Ly-la- lê-lão-lô..v.v chỉ là những biến âm của 1 từ gốc là LỬA, chữ Di là tàn tích của chữ NHÌ hay NHỊ .

DI-LÃO có 1 từ kép Đối xứng là KINH-LẠC, qủe Cóng đối với qủe Ly và Kinh đối với Lão; Lạc biến âm của lục số 6 đối lại với Di biến âm của nhị số 2, 6 và 2 là 2 số đối phân cực Bắc –Nam của Hà thư.

Người KINH- LẠC; ngoài người Kinh ở đất Việt hiện nay còn có dòng Bách-lộc và người Hẹ hay Hacka và người mang họ MẠC ở đất Trung quốc vì Chữ LẠC còn đọc là ḤẠC và MẠC-MẠCH, có điều lạ lùng là không hiểu sao người Tàu lại gọi người Cao ly là Mạch, có 1 sự lẫn lộn nào đó của lịch sử hay không ?.

Cổ sử cũng cho biết khởi thủy đất trung hoa chỉ có châu ĐÀO-ĐƯỜNG hay ĐÀO- DƯƠNG, thông qua các dịch tượng ta hiểu Đào đường hay dương cũng chỉ có nghĩa là bắc - nam hay lửa và nước mà thôi, cổ sử Việt có nói đ̣ến đất Việt thường đấy chính là nói về đất Đường trên, Đường là phát âm hán việt chữ thoòng hay thường mà thôi . Con dân vua HÙNG có người LA người KINH, đất có đất Đào đất Đường hay Việt thường, căn cứ vào thư tịch cổ ta còn thấy vua cũng có 2 dòng, đế KHAI-MINH và đế MINH-KHIẾT, ông KHIẾT là tổ của người Trung hoa vùng Trường giang ta có thể suy ra đế Minh Khiết hay MINH + KHIẾT là vua gốc dòng KINH- LẠC do sự hòa huyết của đế MINH và dòng VŨ TIÊN phương nam gọi tên khác là ông KHIẾT như truyền thuyết đã nói ở trên. Khi vua HÙNG truyền ngôi cho đế NGHI ở phương bắc ( dịch lý ngược với nay) tức đất Đào thì quốc hiệu là nước ‘ĐÀO’ dịch sang Hoa ngữ là HỒNG BANG ký âm sai thành HỒNG BÀNG, đấy là quốc hiệu đã được mọi người VIÊT NAM mặc nhiên công nhận.

Những dòng tóm lược về thời khai quốc trên đã cho thấy có sự trùng hợp hầu như hoàn toàn giữa 2 dòng sử VIỆT và HOA , sự việc này thực kỳ bí buộc ta phải đi sâu thêm để khám phá.

Cổ sử cũng nói đến 3 thành tựu khoa học và kỹ thuật của thời này:

1. Khi đánh nhau với Xi Vưu, vua phía Tây, Hiên Viên đã sử dụng kim chỉ nam để dẫn đường, đây là thành tựu tuyệt vời của khoa học kỹ thuật Việt, sau này người Phương tây đã học được và áp dụng để xác định phương hướng mãi cho đến ngày nay; không có kim chỉ nam hay la bàn thì không thể đi xa, không có ngành hàng hải tiến bộ vượt đại dương, bộ mặt của thế giới chắc chắn khác xa ngày nay và chắc chắn lịch sử thế giới không diễn ra như hiện có.

Kim chỉ nam là tên Việt trong đó từ ‘chỉ’ là động từ nên cả đoạn rất rõ nghĩa : là cây kim có đầu luôn chỉ hướng nam....; còn trong Hoa ngữ cụm từ ‘chỉ nam châm’ tương tự còn có ‘chỉ nam xa’ không tài nào hiểu nổi nghĩa....

2. Hoàng Đế Hiên Viên được tôn là tổ phụ của văn tự Trung Hoa, ý không phải nói hoàng đế chế ra loại chữ Trung Hoa đang dùng ngày nay, mà như đã nói Văn là Dịch và Dịch tức Văn. Nếu tổ thứ nhất của văn tự là Phục Hy với Dịch Lý nút số. Thì Hiền Vương – tổ thứ hai với Dịch Lý vạch – quẻ. Đạo Giáo hay Đạo Lão được xây dựng trên nền tảng học thuyết Hoàng – Lão (Hoàng Đế + Lão Tử). Tinh hoa của triết thuyết Lão Tử nằm trong Đạo Đức Kinh thì người ta đã rõ, còn với Hoàng Đế thì đóng góp gì ? Chắc chắn là Bát Quái ; Tiên Thiên Bát Quái thì đa phần học giả Trung Hoa đều đồng thuận với ý kiến này; chỉ còn tranh cãi về Hậu Thiên Bát Quái mà thôi ; Có 2 trường phái: thứ nhất cho rằng Hậu Thiên Bát Quái cũng do Hoàng Đế sáng chế; phái thứ hai cho là Hậu Thiên Bát Quái do Văn Vương tổ của nhà Chu sáng tác. Dù cho do ai sáng tác đi nữa thì Bát quái cũng vẫn là nền tảng của khoa học truyền thống Việt Nam - Trung Hoa, ý nghĩa của nó ta đã xét ở phần Dịch Lý.

3. Thành tựu kế tiếp là y học cổ truyền của Việt Nam và Trung Hoa:

Tương truyền sách “Hoàng Đế Nội Kinh Tố Vấn” có từ thời Hoàng Đế, trong đó đã có đầy đủ những nguyên lý của nền y học cổ, nền y học này đã vận dụng các nguyên lý Dịch học vào ngành cơ thể học và y học để trị bệnh cho con người, đấy là cuốn sách nền tảng của Đông y còn nguyên gía trị cho đến bây giờ và càng ngày càng có địa vị vững vàng trong thế giới hiện đại, đối với khoa học nó còn đầy những điều không thể hiểu nỗi … nhưng rõ ràng có tác dụng thực sự, dù tự nhận là tiên tiến nhưng người ta vẫn đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, nào kinh – lạc, nào huyệt đạo rồi châm cứu, châm tê V.v…, chữa bệnh ở nội tạng lại châm ở bàn chân hay vành tai … thực không hiểu nỗi.

Trung tâm của tổ quốc Họ Hùng là đất giao (giữa) lấy chuẩn là sông Cả, căn cứ vào những thông tin của địa lý –lịch sử Việt và sự phân bố các sắc dân có thể xác định : đất Giao là vùng đồng bằng Thanh – Nghệ – Tĩnh và vùng thượng nguồn các con sông : Cả, Chu, Mã ngày nay.

Câu ca dao mà mọi người Việt đều thuộc lòng:

“Công cha như núi Thái Sơn,
nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”

Người Việt dùng hai câu này sánh công lao cha mẹ như núi, sông nhưng nó còn chứa các thông tin khác. Nói đến cha mẹ không phải chỉ là cha mẹ, người Việt còn có tục đồng hóa vua với cha mẹ như “Bố Cái Đại Vương” chẳng hạn, và dân còn được gọi là ‘con dân’; công cha nghĩa mẹ còn dùng để ca tụng công đức của quốc tổ, cha mẹ chung đã sinh ra cả một dân tộc; dân tộc họ Hùng , địa danh ‘núi Thái Sơn’ (1 trong 2 từ ‘núi’ hay ‘Sơn’ là thừa) nếu liên kết với từ Thái trong Dịch Lý ta thấy : Thái còn dùng thay chữ Đại , Thái sơn cũng là Đại Sơn, người Việt thấy ngay là Hán văn chuyển ngữ từ ‘núi Đọ’; và câu ‘nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra’ cung cấp thông tin về con sông, sông Mẹ, sông Mã, Mã ký âm là ‘Mẹ’, cũng như chữ Chu trong sông Chu là Cha, tổng kết :. 3 con sông Cả, Cha, Mẹ (Chu và Mã) cộng với Thái Sơn đủ để ta xác định đấy là vùng đất khởi nguyên của tổ quốc Việt: đấy chính là đất Giao, mà tên gọi còn theo lịch sử in dấu tới tận ngày nay. Đất Giao hay Giữa là vùng đất Trung tâm, ngày nay gọi là Trung nguyên – trung thổ chứ không phải theo lối giải nghĩa vớ vẫn … Giao Chỉ là dân có 2 ngón chân … bẹt ra vì leo núi đá.

Lãnh thổ của đất nước chia làm 2 phần Bắc – Nam, dân Họ Hùng cũng chia làm 2 cộng đồng, dân Lửa và dân Nước. Người Lửa còn có các tên khác là: người Lão hay Di -lão, còn gọi là Liêu sống ở An Ấp ̣ ( không lẫn lộn với người Liêu ở bắc trung quốc hiện nay ) . Dân Nước còn gọi là dân Kinh hay Kênh-lạch, Trung Hoa gọi là người Bách Lộc,Hạc, Mạc.v.v. lãnh thổ là Lạc Ấp và Lâm ấp.

Đế Nghi nối ngôi Hùng Vũ hay Hoàng Đế Hiên Viên mở ra triều đại mới.

Tóm lược thời lập quốc: 2 dòng tộc Viêm và Cửu Lê, ngày nay khoa học gọi là Môn-Khmer và Indonesien đúc kết thành người Lửa, Liêu, Lão, La, Lê tụ cư ở vùng đất là Giao-Bắc , nay là đồng bằng Thanh – Nghệ – Tĩnh và núi rừng phía Tây. Sau đó dân Họ Hùng thiên cư về cõi Nam , cộng cư và cộng huyết với người Miêu (sử Việt gọi là dòng dõi bà Vũ Tiên), tức tổ tiên người Miêu sinh ra Lạc tộc, sử Trung Hoa gọi là người Bách Lộc, Hạc, Mạc .

Theo thông tin do Nguyễn Hồng Sinh đưa ra trong “Kinh Dịch Huyền diệu và Ứng nghiệm” thì Hùng Vũ hay Vua Hùng còn có danh hiệu: Vua Cha Ngọc Hoàng Thượng Đế và vợ là Đệ Nhất Tiên Thiên Thánh mẫu, dựa trên ngữ văn chắc chắn đây là truyền tích của Đạo Giáo, đặc biệt chi tiết “Thánh Mẫu” cho ta nhận định: Đạo Giáo và Đạo Mẫu ở Việt Nam có sự liên quan, Đạo Mẫu là đạo thờ mẹ, một tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam. Tồn tại từ thời xa xưa đây là biểu hiện của thời mẫu hệ nên gần nhất thì đạo này cũng có từ trước đời nhà Chu, vì nền văn minh Trung Hoa thì cuối đời Ân Thương là thời kỳ chuyển tiếp từ mẫu hệ sang phụ hệ để rồi phụ hệ được khẳng định ở thời nhà Chu. Thông tin quan trọng nữa mà cuốn sách trên nêu lên là quốc hiệu : “Viêm Việt Đại Hưng Bang” phải chăng đấy là cách gọi khác của Hồng bang ( tương quan VIÊM-HỒNG ) ? . Sau quốc đô dời về miền nam (bắc hiên nay) đổi thành “Bách Việt đại liên bang”; trên hành trình tìm về cội nguồn, bất cứ manh mối nào đối với chúng ta cũng quan trọng, đều là thiêng liêng. Nên chi tiết nào cũng rất đáng quan tâm và đào sâu nghiên cứu .

Do lẫn lộn không phân biệt giữa Thái viêm Thần nông tổ 3 đời của đế Minh và Viêm đế một thủ lãnh bộ tộc cùng thời với đế Minh hay Hiên viên- Hiền vương đã khiến cổ sử Việt mắc sai lầm cơ bản , do lẫn lộn Viêm đế với Thái viêm thủy tổ của dòng Việt ...mà Hoàng đế- Hiên Viên đánh bại và chiếm đất của Viêm đế lập nên nước Trung hoa ...nên các sử gia người Việt đã coi Hiên Viên là kẻ xâm lăng và hủy diệt nước của tiền nhân người Việt ....thực là lầm lẫn to lớn tai hại vô cùng hậu qủa còn kéo tới tận hôm nay .

Do những sai lầm của giới sử học tới tận hôm nay người Việt vẫn coi Hoàng đế Hiên viên là tổ của Hán tộc ....và Hán là Trung hoa ...

Thực sự ‘Hiên Viên’ chỉ là ký âm chữ hán của ‘Hiền vương’ tức Hùng vũ là vì thủ lãnh đã đúc ba bộ tộc thành ra họ HÙNG thủy tổ của người VIỆT ngày nay.

Bài 17 - Hùng triều thứ 6 - Hùng Hy vương .

Vua khai sáng : – Viêm Lang hay Viên lang

Danh hiệu khác trong Việt sử : Hùng anh vương – Đế Nghi

Danh hiệu khác trong Hoa sử : Nghiêu đế, Đường Nghiêu, Giao Thường

Quốc hiệu :Viêm bang hay Hồng bang

Niên đại (2879 năm trước CN)

Hùng Vũ – Đế Minh truyền ngôi vua cho con trưởng là Đế Nghi và phong cho Lộc Tục là “vương” phương Nam… đó là những thông tin của truyền thuyết lịch sử Việt Nam:

Âm ‘Hy’ trong Hùng Hy xuất phát từ âm gốc là số hai - 2 trấn phương Bắc của Hà thư.

Hai→ hải-hà-hạ-hè-hồ-hời-hoa-huy

Tương tự, âm ‘Lục’ là đất và số 6, cũng có cả 1 hệ biến âm:

Lục→ lộc-lạc-lịch-nác-nước

. Triều đại Hùng Hy – Viêm Lang có 2 vương được truyền thuyết lịch sử Việt Nam nói tới:

Đế Nghi – nối ngôi Đế Minh

Đế Lai – con của Đế Nghi, là cha của bà Âu Cơ.

Ta có âm Lửa→ -La-ly-lý-lê-lô-lai-lão

Trong Hoa ngữ số 2 còn gọi là ƠN hay ÔN và biến âm thành an,ân,yên,anh ... tiếng Việt là ấm nên triều Hùng Hy còn được gọi là Hùng Anh vua khai sáng là Viêm lang, các từ : hy-hai, anh-ấm, viêm-nhiệt ,ly –lai đều liên quan tới chữ LỬA chỉ vùng nhiệt đới-xích đạo tức phương bắc của Hà thư, đất ở đấy tên là đất Đào và khi trung tâm quốc gia ở đất Đào thì quốc hiệu nước ta là Viêm bang hay Hồng bang ( đào-hồng-xích cùng nghĩa là màu đỏ ), tất cả các từ dùng cho triều Hùng Hy đều là các đặc tính của quẻ LY như : lửa,sáng , nóng bức, màu đỏ.v.v.; người Hời ngày nay là con cháu chính dòng Hùng Hy.; quốc gia lập trên đất ấy thời xuân thu- chiến quốc là nước Yên, cổ sử trung hoa thường gọi con cháu Hùng Hy là người Di-lão, từ lão ta đã biết còn Di chỉ là biến âm của chữ nhị-nhì hay số 2 mà thôi, loài thú làm biểu tượng dân tộc là con HỔ, hổ cũng chỉ là biến âm của chữ hoả nghĩa là lửa đúng theo điểu thú văn mà ta đ̣ã từng nói đến.

Việt Nam có truyền thuyết Thần Trống đồng giúp Hùng Vương đánh giặc và sau đó để tưởng nhớ vua Hùng đã phong là “Đồng Cổ Sơn Thần” và đặt đền thờ ở núi Khả Lao.

Khả Lao thực ra là ‘Cả La’ nghĩa là vua hay chúa của tộc La như vậy núi Khả lão chính là nơi thờ Hùng Hy vương - Viêm lang hay Viên lang cũng chính là vua Công lưu của nhà CHU , sự liên quan huyết thống người La và người Chăm sau này được nhận ra nhờ ‘công thức’ Chứa trong đạo vuông –tròn :‘Viên lang’ đồng nghĩa với ‘Hoàn vương’ .Nước Hoàn vương còn gọi là Lâm ấp – Chiêm Thành chính là nước Yên của Thiệu công ;chính xác là Thiêu (đốt) công Thích , thủ đô là Sa huỳnh địa danh khảo cổ nổi tiếng ở miền trung Việt nam .Từ ‘Thiêu’ ở đây chỉ phương nóng hay Viêm phương tương tự như từ ‘Chu’ trong Chu công là chỉ phương tây .

Đế Lai được biết đến là cha của Âu Cơ, trong truyền thuyết Âu Cơ – Sùng Lãm. Về niên đại thời Hùng Hy Vương – Viêm Lang có thể ước đoán là thời kỳ đầu của đợt biển tiến Holocen Trung vào khoảng sau 3.000 năm và trước 2.000 năm trước Công nguyên.

Truyền thuyết Việt nói Kinh dương vương không lên ngôi đế vì nhường cho anh....nhưng cổ sử Trung hoa lại nói khác : Sở dĩ đế Nghiêu có hiệu là Đường Nghiêu vì trước khi lên ngôi vua có tước hiệu là Đường hầu hay vương đất Việt- thường, ta thấy Đường hầu hay Đường vương chỉ là cách gọi khác của Kinh dương vương mà thôi... tên tộc của đế Nghi là Giao thường , Giao thường nghĩa là đất Giao chỉ phía nam ( khác với đất phía nam Giao chỉ còn gọi là đất Nam giao )

Đế Nghi có công rất lớn khi cùng Thuấn đế mở mang bờ cõi về phương nam...chỉ một câu ngắn gọn ... “mệnh hy Thúc trạch Nam giao...” so ra bằng hàng mấy trăm năm mồ hôi đổ và có thể là cả máu để tạo cho con cháu mảnh đất Nam giao ...( phải viết là nam Giao chỉ mới trọn nghĩa cho câu) tức đất lĩnh nam ngày nay.,ở đây là phương Nam xưa theo dịch lý ngược với hiện nay.

Người La như ta đã biết chính là người Chàm hay Chăm còn gọi là Hời hiện vẫn còn giữ cả 2 tập tục cổ xưa của con cháu Hùng vương là nhuộm răng ̣đen và ăn trầu, ăn trầu là đặc điểm rất quan trọng để nhân diện dòng giống khi xét theo ý nghĩa của tập tục này mà ta đã nói đến ở phần trước khi bàn về sự tích trầu cau ; người La qủe Ly và Hồng bang hay Hồng bàng chính là những dấu tích của cộng đồng người họ Hùng thuở ban sơ đã ghi trong truyền thuyết .

Lưu ý : Lịch sử nước ta có 2 thời kỳ khác biệt hẳn nhưng lại trộn lẫn nhiều chi tiết đôi khi người đọc không hiểu nổi :

- Thời dựng nước truyền thuyết lấy Hà thư làm chuẩn trong đó số 2 trấn phương Bắc (xích đạo ), số 6 trấn phương Nam . Do tính chất các dịch tượng nên :

*số 2 gắn liền với các thông tin :

-qủe Ly, đất Đào, Viêm bang hay Hồng bang, triều Hùng Hy

*số 6 gắn liền với :

-Quẻ khảm hay Cóng, đấ́t Việt thường hay Đường, Nam bang, Kinh dương vương.

-qua thời Vương quốc cổ sử dùng Lạc đồ làm chuẩn số 2 chuyển về góc đông –bắc xưa theo dịch lý còn số 6 chuyển về góc đông –nam.

Hà thư đặt nằm ngang.

Lạc đồ đặt nằm ngang.

Nhưng các biểu thị của số 2 và 6 vẫn giữ nguyên nên ta có tới 2 đất Đào, 2 Viêm bang Hồng bang, 2 đất Việt thường hay Đường và 2 Kinh dương vương.

Khi gặp các thông tin trên phải cẩn thận xem thuộc thời kỳ nào như :

- Viêm bang hay Hồng bang 1 là tên nước thời lập quốc khi trung tâm quốc gia ở đất Đào , triều Hùng Hy.

-Hồng bang 2 là quốc hiệu thời Hạ vương hay Hải lang- Linh lang , còn gọi là nước THAO.

- An dương vương xây thành ở đất Việt thường thì đó là Việt thường 1 ở bắc Việt ngày nay.

- nước Việt thường cống chim trĩ cho nhà Chu là Việt thường 2 ở vùng Trường giang.

Nếu không phân định được thì có những tình tiết lịch sử đầy mâu thuẫn khiến ta không tài nào thông suốt .

Kinh Thư thiên Nghiêu điển còn lưu 1 dấu vết rất quan trọng để xác định về mặt địa lý lãnh thổ Trung hoa thời tối cổ : vua Nghiêu sai Hy Trọng đến đóng ở Ngung Di . gọi là Dương cốc , để định mùa xuân...; Ngung di là gốc cổ của tên thành Phiên ngung tức Quảng châu ngày nay và Dương cốc cũng chính là từ mẹ đẻ ra tên Dương thành nay vẫn còn tồn tại , đây là 2 chỉ dẫn đích xác cực kỳ qúy hiếm và khó có thể phủ nhận của cổ thư Trung hoa.

Bài 18 - Hùng triều thứ 7_ Hùng Thuấn vương .

Vua khai sáng : Lâm lang.

Danh hiệu khác trong Việt sử : Hùng Quốc Vương –Hùng Lạc vương-Nam triều thánh tổ ngọc hoàng thượng đế-Nam bang triệu tổ.

Danh hiệu khác trong Hoa sử : Thuấn đế- Ngu thuấn

Quốc hiệu là : nam bang ,lạc quốc, Bách Việt đại liên bang

Phương Nam (Nam của Dịch Lý là phương bắc hiện nay), các mã tin Dịch Lý của phương Nam là: màu đen, hành Thủy, phương 1 / 6 của Hà Thư.

Nguyễn Hồng Sinh đã viết trong “Kinh Dịch Huyền diệu và Ứng nghiệm”: danh hiệu Hùng Thuấn Vương còn trong ‘Hùng Vương Thập Bát Chi Thế Truyền’ và các tư liệu khác thì ghi là Hùng Quốc Vương .

Trong Việt ngữ chữ Nước có 2 nghĩa :

- nước là loại chất lỏng nền tảng cấu tạo nên mọi sinh vật.,dịch lý dùng chỉ phương nam đối nghịch với phương lửa ở hướng xích đạo.

-nước là Quốc gia

Theo Hà thư : phương nước cũng là phương nam như ngôn ngữ ta dùng ngày nay, Nam bang cũng là Nước bang hay Lạc quốc.; lạc là biến âm của :nước-nác-lạc.(nước vật chất).

Hùng quốc vương là chữ dịch lầm của từ Hùng Lạc tức Hùng nước; người dịch đã lẫn lộn nghĩa này sang nghĩa kia.

Như vậy từ “Nước” xưa là tên riêng của nước Việt khi trung tâm quốc gia chuyển về phương nam, quốc gia Nước đồng nhĩa với Nam bang hay Lạc quốc. Ban đầu là 1 danh từ riêng về sau người Việt đã biến nước thành danh từ chung nghĩa là quốc gia , như vậy cụm từ “Hùng quốc vương “hay“Hùng Lạc Vương” nghĩa là nguyên thủ của quốc gia Nước dòng họ Hùng ., ở Việt nam chỉ thấy có ông Nguyễn Trãi nói đến nước Hùng Lạc này.

Ta tìm hiểu chữ ‘thuần’ để xác định danh hiệu của vị vua này. Theo Hà Thư thì phương Nam (hướng Bắc hiện nay) được biểu tượng bằng cặp số 1 / 6, số 1 này cho ta từ ‘thuần khiết’ hay ‘duy nhất’, như thế vua Nam bang phải là Hùng Thuần không phải là Thuấn như sách sử đã chép.. Hùng Thuần Vương còn được gọi là Lâm Lang; lâm là biến âm của nam, phương Nam; nam → lam → lâm; Lâm Lang nghĩa là chúa đất phương Nam .

Chính sử Trung Hoa chép: “Kế vị Đế Nghiêu là Đế Thuấn, Đế Thuấn còn được Đế Nghiêu gã 2 công chúa là Nga Hoàng và Nữ Anh làm vợ. Tư liệu của Nguyễn Hồng Sinh nêu tên vợ của Hy Thúc hay Hy Hòa là Nữ Hoàng Anh, kết hợp 2 tư liệu này cho ta kết luận Đế Thuấn hay Hùng Thuần Vương chính là Hy Thúc người đã vâng mệnh vua Nghiêu “trạch Nam Giao” mở mang bờ cõi quốc gia về phương Nam (Dịch Lý). Nhưng tại sao lại là Ngu –Thuấn ? chỉ có dịch học mới mở được chữ Ngu này : trong dịch học có cặp đối : con- thằng, cong- thẳng, cong vòng – ngay thẳng, từ kép ngay thẳng biến âm ra:

-Thẳng→thằng→đàng→đường.

-Ngay→ngây→ngô→ngu.

Ta có 2 hình tròn và vuông là biểu tượng của âm dương , tròn tượng trưng cho trời, vuông tượng trưng cho đất , tròn là nét cong vuông là nét thẳng, luôn luôn tròn hoặc ở trên hoặc ở phương xích đạo tức phương bắc , vuông ở dưới hoặc phương nam (xưa- theo dịch lý); từ Ngu trong hiệu của Lâm lang là biến âm của Ngay trong ngay thẳng chỉ phương Nam.

Đất giao nam hay đất Đường hợp với đất mới khai phá là Nam giao chỉ thành ra đất LẠC hay LỤC = số 6 phương nam của Hà thư.

Đất Nam giao về sau sử Trung hoa gọi là đất Lâm (Nam→lam→lâm) có vị trí rất đặc biệt nằm giữa 4 vùng đất chính nên trong lịch sử đã nhiều lần bị tách ghép:

- ghép với đất Đường hay Việt thường thành “Đường lâm” quê của Ngô Quyền.

- ghép với đất Tượng ở phía tây thành “Tượng lâm”.

- ghép với Qúy châu thành ra “Quế lâm”.(Quý→Quế)

- ghép với Quảng đông thành “Nam hải” (Nam=Lâm)

Nam giao (chỉ) ban đầu chỉ là đất quảng tây về sau mở rộng thành cả vùng lĩnh nam .

Thủ đô của Nam bang thời Hùng Lạc hay Thuấn đế là Bồ bản ;Bồ bản không phải là tên riêng từ Bản ở đây là danh từ chung cũng chính là chữ bản trong bản làng ,Bồ Việt ngữ là lớn như thế Bồ bản đồng nghĩa với làng Cả hay Đô ấp tất cả đều có nghĩa là thủ đô hay kinh đô .

Quá tr̀inh mở nước hàng ngàn năm được tóm gọn trong bài thơ 4 câu :

Văn hiến thiên niên quốc

Xa thư vạn lý đồ

Hồng bàng khai tịch hậu

Nam phục nhất Đường Ngu

Trong bài thơ này đặc biệt câu : Nam phục nhất Đường Ngu ...nhiều bậc khoa bảng ̣đành chịu không hiểu nổi....không lẽ các vua Đường Nhiêu Ngu Thuấn lại đi mở nước về hướng nam cho người Việt ...? .Riêng chúng ta trong sử thuyết họ Hùng này thì hiểu rất rõ ý nghía câu thơ đó.

Đền Hùng là chốn linh thiêng bậc nhất của người Việt tương truyền ngôi mộ ở đấy là mộ thật của Hùng vương thứ sáu ; qua thiên khảo luận này có thể xác định đấy là mộ của HÙNG LẠC VƯƠNG , người đời đã lầm từ Lục là số 6 với từ LẠC là biến âm của nác hay nước nên cho là mộ của Hùng vương thứ sáu, chính câu “ Nam bang triệu tổ” đã giúp ta khẳng ̣định ; triệu là biến âm của “Chậu” tiếng Thái Lào nghĩa là ông hoàng hay vương, đồng nghĩa với Chủ- chúa trong Việt ngữ., ‘Triệu tổ Nam bang’ nghĩa là vua tổ của nước Nam cùng một ý nghĩa với đạo hiệu :NAM TRIỀU THÁNH TỔ NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ của Hùng Thuần vương trong Hùng phả.

Thời Hùng Lạc có bộ lạc thuộc tộc Mun bất phục bị Thuấn đế đuổi ra khỏi cõi Nam giao đày đến miền Tam nguy từ đó gọi là Tam miêu , đất Tam nguy nay là đông Qúy châu và tỉnh Hồ bắc Trung quốc.

Hán thư có 1 đoạn nói về Lạc Quốc như sau: “ … con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là My Nương, quan văn gọi là Lạc Hầu, quan võ gọi là Lạc Tướng, trăm quan gọi là Bồ Chính, dân khẩn ruộng lạc theo nước triều lên xuống …” Do Hán văn không có dấu chấm, phẩy nên nhiều người vẫn hiểu không đúng đoạn văn này, nay ta thử nhìn theo hướng khác: không có ai là Quan lang cả, giữa Quan và Lang phải có dấu phẩy, chính xác phải hiểu là: con trai vua gọi là Quân, là Lang; Quân và Lang là 2 từ thuộc 2 ngữ hệ nhưng cùng 1 nghĩa; tương tự con gái vua gọi là Mẹ, là Nương chứ không phải là Mỵ Nương. Lạc Hầu là quan văn của quốc gia “Nước”. Còn câu “dân khẩn ruộng lạc …” nghĩa là ruộng nước, nhưng đây là nước vật chất, 2 từ đồng âm nhưng dị nghĩa.

Dấu vết vật chất lưu tồn trong lòng đất đã khai quật được từ núi rừng bắc Việt nam tới tận bờ Châu giang được coi là thuộc văn minh của người Tày cổ chính là chứng tích thời Hùng Thuần hay Hùng Lạc .

Bài 19 - Hùng triều thứ 8 _ Hùng Việt vương .
Vua khai sáng :– Tuấn Lang

Danh hiệu khác trong Việt sử : Tản Viên, Sơn tinh, Tản Viên sơn thánh quốc chúa đại vương, Nguyễn Tuấn.

Danh hiệu khác trong Hoa sử : Đại vũ, Hạ vũ

Niên đại : 2200 trước CN

Truyền thuyết về Sơn Tinh thì nhiều vô vàn, nhưng rõ nhất là truyện Sơn Tinh – Thủy Tinh, tổng kết ta có thông tin: Sơn Tinh là người đã chiến thắng Thủy Tinh, ý nói đã thành công trong việc trấn áp cơn hồng thủy khủng khiếp, tái tạo lại quốc gia, được Hùng Vương gả con gái và truyền ngôi, Sơn Tinh Tản Viên lên ngôi vẫn giữ hiệu là Hùng Vương, đối chiếu với sử liệu Trung Hoa ta nhận ra Sơn Tinh và Hạ Vũ chỉ là 1 nhân vật , cũng trị thủy gian lao vất vả, cũng tận tâm tận lực đến 3 lần đi qua nhà nghe tiếng con khóc mà không có thời giờ bước vào nhà. Ngày nay, Sơn Tinh vẫn được dân chúng chung quanh núi Ba Vì thờ với tên hiệu đầy đủ là: Tản Viên Sơn Thánh Quốc Chúa Đại Vương. Trong dân gian, Sơn Tinh còn có rất nhiều tên khác: Sơn Tinh – Tản Viên – Cao Sơn – Quí Minh – Nguyễn Tuấn V. v… với các ‘thần tích’ khác nhau đôi chút. Danh hiệu Tản Viên là rõ nhất về ý nghĩa nối dòng Hùng, dòng Tản Viên tiếp nối dòng Hiên Viên, hay Hiền Vương chuyển tiếp sang Tuấn Vương như thế rất rõ ràng trong việc liên tục quốc thống Họ Hùng : Đế Minh → Đế Nghi → Đế Lai → dòng Tản Viên – Hạ Vũ .

Nguyễn Hồng Sinh công bố trong “Kinh Dịch Huyền diệu và Ứng nghiệm” một thông tin cũng rất hay:

Kinh Dương Vương ở đây là Hùng Lạc Lâm lang được tôn là ‘Nam Triều Thánh Tổ Ngọc Hoàng Thượng Đế’ và vợ được tôn là ‘Đệ Nhị Thượng Ngàn Thánh Mẫu’.

Hùng Vũ Vương – Hiên Viên được tôn là “Vua Cha Ngọc Hoàng Thượng Đế’

Hùng Việt Vương – Tản Viên được tôn là “Tản viên sơn thánh quốc chúa đại vương” là sự tiếp nối hợp lẽ dòng Hùng.

Truyền thuyết Sơn tinh Thuỷ tinh viết :...nước càng dâng lên thì núi càng vượt cao hơn nữa...ta chợt hiểu về ý nghĩa chữ Việt trong danh hiệu Hùng Việt , Việt là ký âm của từ Vượt của Việt ngữ , Vượt lũ ...đợt biển tiến Holosen , một thảm họa khủng khiếp mà cha ông ta đã kiên cường vượt qua sau cùng đã chiến thắng tai trời ách nước tất cả những thông tin về thời bi tráng ấy được cô lắng vào 1 nhân vật đó là Hùng Việt – Tuấn lang; từ Tuấn là ký âm bằng chữ Nho sai làm mất ý nghĩa chữ Tản trong Tản viên, Tản là tán đồng âm với Tốn là 1 quẻ của bát quái nghĩa là gió Hoa ngữ là phong chỉ phương tây đối lập với phương động - quẻ Chấn , Tản viên hay Tản vương đồng nghĩa với Tốn lang (không phải Tuấn) nghĩa là vương của đất Phong hay tây vương , Truyền thuyết Việt nói vua Hùng đóng đô ở Phong châu chính là chữ Phong này, đất Phong hay phong kinh của nhà Chu khi mới dựng nước cũng cùng một nghĩa , 2000 năm sau nhà Đường lập Phong châu đô hộ phủ cũng chính là chữ phong này.

Chính nghĩa Ngô Việt xuân thu nói: "Vũ đi khắp thiên hạ, trở về ĐẠI VIỆT, lên núi Mao để họp quần thần bốn phương, phong người có công, phong tước người có đức, chết rồi táng ở đây. Vũ là vua Hạ vũ , 2 chữ ‘Đại Việt’ ở đây đã khẳng định sự liên quan giữa danh hiệu Hạ vũ và Hùng Việt vương- Tuấn lang ,núi Mao thực ra là Mưu , mưu-mẹo chỉ phương tây như đã xác định trong bài ‘thập nhị địa chi Việt’ cũng chính là núi Tản , tản biến âm của Tốn , quẻ Tốn là phong –gió trấn hướng tây trong Tiên thiên bát quái .(nhìn trong không gian 3 chiều)

Tóm lại Tốn lang là vương của đất Phong tức đất phía tây của quốc gia tương tự như :

Viêm lang là vương phương bức (bắc).

Lâm lang là vương phương nam hay cõi Nam giao.

Sau cùng kế nghiệp Tốn lang là Lung lang hay Linh lang nghĩa là vương phương đông hay động mà ta sẽ kể đến ở chương sau ; như thế đất nước đã trọn đủ 4 cõi.

Kinh Dương Vương có nghĩa là vua hay Chúa phương Nam hay phương Nước ngược với Viêm phương (phương Dịch Lý) nên trong lịch sử có nhiều Kinh dương vương như Lâm lang, Tuấn lang.v.v. trong truyền thuyết Đạo Giáo Trung Hoa do không hiểu chữ ‘Hùng’ nghĩa là gì nên thời gian tiếp nối người ta “bịa” ra điều rất ngộ nghĩnh … sự kiện ông Vũ được truyền ngôi và trở thành Hùng Vương … biến ra : ông Vũ hoá thành con gấu … theo Hán ngữ ‘Hùng’ là con gấu; vợ của ông Vũ sợ quá chết hóa ra hòn đá núi, chữ đá núi này chắc chắn có “gốc” là chữ “Đồ Sơn”, tên vợ ông Vũ là “Đồ Sơn Thị”. ‘Đồ’ là biến âm của từ đá, sơn là núi, qua 5, 7 lần dịch và sao chép …. từ Đồ Sơn biến ra ‘Đá núi’ thì cũng không lạ lắm.

Vua Vũ đã có lần hội chư hầu ở Côi kê..., hầu hết các sách sử đều chép như thế chỉ riêng có ông Trần trọng Kim trong Việt nam sử lược viết vua Vũ hội chư hầu ở Đồ sơn ; xét kỹ ta thấy ông Trần trọng Kim đúng vì lúc vua Vũ hội chư hầu làm gì đã có đất Cối kê, cả hai ba trăm năm sau khi vua Vũ chết thì Thành vương thời nhà Hạ trung hưng mới phong cho con thứ đất ấy làm chốn riêng thờ vua tổ , sử còn chép rõ..: vua tôi cắt tóc ngắn , xâm mình lội nước lao động cật lực khai phá đất mới...., vì là đất dành riêng thờ vua Vũ hay Hùng Việt nên sau này lập quốc vẫn gọi là nước Việt.

Khi hình thành nên tộc Kinh-Lạc dòng máu người họ HÙNG đã là sự hòa huyết của 3 thị tộc gốc: người dòng CẢ của phương bắc, người CỬU_LÊ của phương tây, người MUN hay MIÊU của phương nước hay nam xưa tức phương bắc ngày nay.

Truyền thuyết Việt nói : KINH DƯƠNG VƯƠNG kết hôn cùng LONG NỮ con ĐỘNG ĐÌNH QUÂN; thế là người họ Hùng đã đi hết đoạn đường mà tạo hóa sắp đặt để hòa thêm dòng máu thứ 4 vào huyết thống của mình dòng máu của LONG tộc ở phương ĐÔNG, diễn biến này được Truyền thuyết lịch sử Trung hoa viết :Vua ĐẠI VŨ lấy vợ là ĐỒ SƠN THỊ, Đồ sơn thị là người con gái ở ĐỒ_SƠN ; phải chăng là bãi biển Đồ sơn ở Hải phòng bắc Việt hiện nay ? cổ thư trung hoa có nói đến việc họ KINH XUYÊN và ĐỘNG ĐÌNH đời đời là thông gia..

Hùng Việt Vương – Tuấn Lang vẫn giữ quốc hiệu là Nam bang hay Lạc quốc .

Ta nên chú ý về những từ đồng âm dị nghĩa nếu không sẽ không thể hiểu khi đọc lịch sử Trung Hoa vì trong cổ sử chứa rất nhiều Dịch tượng . Thí dụ: cũng là từ Mun hay Man, khi dùng chỉ người Mông Cổ hay Mãn thì có nghĩa là người phương Nam (phương của Dịch Lý), vì phương Nam trong Ngũ Sắc là phương màu Đen là Huyền Thiên. Còn khi dùng để chỉ định sự vật theo màu sắc thật, thì ý nghĩa khác hẳn như gọi người Khmer là người Miên, người Miến Điện là Môn ý nói họ có màu da đen. Mun → Môn → Miên.

Núi thờ Tản Viên Sơn thánh là Núi Ba Vì, truyền tích của Việt Nam theo các tư liệu dân gian mới tìm được thì vua Hùng có 3 người con: Nguyễn Nghi Nhân, Nguyễn Minh Khiết và Nguyễn Long Cảnh.

Trong bối cảnh cổ sử đó nhiều người cho là:

Nguyễn Nghi Nhân là đế Nghi, Nguyễn Minh Khiết là đế Minh như thế thì không ổn, gây ra sự lộn xộn rối rắm vô cùng, Nguyễn Minh Khiết là vua Hùng lại trở thành con vua Hùng …, đế Nghi là con cả vua Hùng lại trở thành anh em sinh đôi của đế Minh tức vua Hùng ...thực không hiểu nổi. Ta có thể hiểu theo cách nhìn mới hợp lý hơn: Nghi Nhân, Minh Khiết, Long Cảnh là 3 cộng động người đã tái lập quốc gia họ Hùng sau cơn hồng thủy Holocene, 2.000 năm trước Công Nguyên. Nghi Nhân là cộng đồng người Lửa là con cháu đế Nghi, Hùng Hy Vương ở An Ấp do ông Cao Giao lãnh đạo. Minh Khiết là cộng đồng người Kinh ở Lạc Ấp, do ông Vũ hay Sơn Tinh (cũng có tên là Cao Sơn, Quí Minh Lãnh đạo). Long Cảnh là cộng đồng người ở nơi sau này là Lương Ấp, là con cháu của Long Nữ – Đồ Sơn Thị là vợ ông Vũ hay Tản Viên. Như thế trong cơn nguy nan do giặc nước gây ra, 3 cộng đồng đã đồng sinh đồng tử vượt thắng thiên tai và Tản Viên được thờ cùng với 2 thủ lãnh dân đất Đào và dân Lương Ấp thành ta có Núi Ba Vì.

Dân tộc Việt tồn tại tới tận ngày nay, vẫn gọi tổ quốc mình là “Nước” và nhận định mình là người “Kinh” đủ thấy ấn tượng thời Hùng Việt Vương in đậm trong tâm thức con người đến chừng nào trên 4.000 năm qua bao cơn quốc nạn, sử sách bị tiêu hủy, bị tráo đổi nhưng “bia miệng vẫn còn trơ trơ”. bất chấp sự tàn độc và muôn vàn mưu ma chước qủy ta vẫn là ta thuở nào. Cổ sử Trung Hoa rất coi trọng ông Hạ Vũ thực ra không có ông Hạ Vũ, Hạ Vũ nghĩa là Vua Hạ Khi về già muốn truyền ngôi cho ông Cao giao nhưng ông đã chết trước, điều này cho thấy Hạ Vũ nhận vương quyền từ họ Cơ, họ của Hoàng Đế, nay muốn trao lại cho chính họ Cơ nhưng Cao Giao đã chết, nên ông Vũ muốn truyền ngôi lại cho ông Ích là con ông Cao Giao nối tiếp dòng Hùng Vũ (ông Vũ là con rể) theo đúng quan niệm đạo đức truyền thống. Nhưng sự việc đã diễn biến khác để sau đó có triều Hùng Hoa Vương kế tiếp.

Trong việc trị thủy của Hạ Vũ, cổ thư Trung Hoa có nói đến một điển hình “khai sơn phá thạch” đó là ông đã đục bạt cả một phần ngọn núi tên là Long Môn Sơn để khai thông dòng nước chảy ra biển. Hán Thư cũng có đoạn ngắn nhắc đến việc trị thủy: “Ở Giao Chỉ trước Công Nguyên, người Giao Chỉ đã đắp đê ngăn không cho nước sông Long Môn tràn bờ gây lụt lội…”

Để chỉ định chính xác Long Môn xưa, nay là con sông nào thì các nhà khoa học còn phải mất nhiều công sức, ở đây ta chỉ có thể liên kết 2 sự kiện: Núi Long Môn chắn dòng sông Long Môn là nơi Hạ Vũ đã “khai sơn phá thạch” khiến thông dòng nước chấm dứt cơn hồng thủy để ức đoán chính là vùng sông Đà núi Tản nơi có đền thờ Sơn tinh quốc chúa, với công trạng như thế đương nhiên ông Vũ trở thành thủ lĩnh của tổ quốc thời phục hưng, sử chép là ông được vua Hùng gả con gái và truyền ngôi , đô ấp của ngài là Khang địch , chữ địch là biến âm của chữ đoạt tên khác của quẻ Đoài cũng dùng chỉ phương tây trong hậu thiên bát quái , Khang hay khăng là phía tây theo Hà thư như vậy đô ấp Khang đoạt đồng nghĩa là Tây đô.

Hùng Việt-Tuấn lang đã theo lệnh đế Thuấn tiến đánh Tam miêu nhưng không thành công, sau vua không đánh nữa mà lo mở mang “văn đức” để giáo hoá thiên hạ, chúa Tam miêu đã đến chầu nghĩa là thần phục như xưa.

Thời Hùng Việt Vương, Hạ Vũ đã gây ấn tượng rất sâu sắc trong lòng người Việt không bao giờ phai mờ và người Việt coi ông là tổ trực tiếp của quốc gia – dòng giống mình, trong dòng chảy liên tục của lịch sử, triều Hùng Việt Vương – hay Tản Viên Quốc Chúa cũng là thời điểm đặc biệt: là bản lề giữa ngàn năm lập quốc, thời đúc kết các dòng tộc thành một dân tộc thống nhất để sau đó chuyển mình trở thành 1 vương quốc. Về mặt lịch sử cũng chấm dứt thời sơ sử đề bắt đầu thời lịch sử.

Dấu tích thời Hùng Việt -Tuấn lang lưu lại trong lòng đất đã được khảo cổ học Việt nam khám phá - khai quật và đặt tên là nền văn hoá Phùng nguyên, tuy còn đang tiếp tục nghiên cứu nhưng sơ bộ xác định các hiện vật thu được có nhiều nét tương đồng với các hiên vật cùng niên đại thuộc về nền văn minh tạm gọi là của người Tày cổ phân bố rộng từ núi rừng bắc Việt nam tới tận bờ Châu giang như vậy là hoàn toàn trùng khớp với đất Nam giao...(chỉ )thời Đường- Nghiêu Mở nước về phương nam xưa.

Bài 20 - Hùng triều thứ 9 _ Hùng Hoa vương

18 HÙNG triều –Lịch sử.
Vua khai sáng : – Hải Lang

Danh hiệu khác trong Việt sử : Linh Lang

Dang hiệu khác trong Hoa sử : Khải , Hạ vương

Quốc hiệu : Hồng bang 2, nước Thao hay Đào.

Niên đại : cách nay 4.000 năm

Khi Kinh Dương Vương – Hạ Vũ mất thì con ông là Khải dựa vào những người ủng hộ mình làm cuộc lật đổ để lên ngôi chúa, ông Bá Ích phải bỏ nước đi ẩn ở Kỳ Sơn. Thực ra ông Khải mới chính là người lập ra triều Hạ và ông tôn vua cha coi như người khai sáng triều đại mới, chữ ‘Khải’ là biến âm của từ ‘khởi’ trong tiếng Việt. Khi lịch sử đặt tên cho ông ta là ‘Khởi’ là ý nói ông là người khởi đầu lập ra nhà Hạ; lịch sử không nói nhưng chắc chắn đã có một cuộc tranh giành ngôi vương giữa 3 cộng đồng trong Họ Hùng.

Ông Khải là con của Hạ Vũ và Đồ Sơn Thị, (nghĩa là người đàn bà ở Đồ sơn), nay thuộc Hải Phòng sát với Quảng Ninh, nhờ liên kết được 2 cộng đồng bên bố và bên mẹ nên ông Khải đã thắng và Ông Ích phải đi ẩn nhưng thực ra là lưu vong ở Kỳ Sơn. Truyền thuyết Việt nói: “Kinh Dương Vương (Tuấn lang ) kết duyên cùng Long Nữ con gái Động Đình Quân, vua vùng Động Đình Hồ … như ở phần trước ta đã khẳng định, Đồ Sơn Thị và Long Nữ là tên của 1 người viết theo 2 dòng sử khác nhau, ông Khải chính là Lạc Long Quân của truyền thuyết Việt; Lạc là dòng Bố, Long là dòng mẹ, quân là thủ lãnh. Nhiều thần tích, thần phả còn ghi lại: Linh Lang hóa (chết) ở Hồ Tây, Hà Nội thì hồn theo dòng nước ngầm xuôi về Động Đình Hồ … điều này giúp ta thêm khẳng định, Động Đình Hồ trong truyền thuyết lịch sử Việt Nam là biển Đông chứ không phải Động Đình Hồ của Trung Quốc hiện nay, Linh là biến âm của Lung (Hoa) hay Long (Hán Việt ) nghĩa là con rồng chỉ phương đông trong dịch học, quẻ Chấn, số 3, con rồng ,màu xanh là những dịch tượng chỉ phương đ̣ông . Truyền tích đạo giáo cho biết quê mẹ của Linh Lang là xứ Bồng Lai , cụm từ “Bồng Lai Tiên cảnh” gợi cho ta thắng cảnh Hạ Long ở Vịnh Bắc bộ càng giúp khẳng định đấy chính là Động đình hồ, nền văn hóa Hạ long mà khảo cổ học đã xác định được càng giúp ta cả quyết hơn . Linh lang là vì vua được thờ kính nhiều nhất tại Việt nam khắp nơi đều có đền thờ nhưng tới nay vẫn chưa xác định được ngài là ai trong lịch sử ?.Từ Hạ người Hoa phát âm là Xạ hay Xịa đồng âm với xà là con rắn bản gốc cuả thần thú Rồng, tam xà cũng là chỉ nhà Hạ ở phương đông.

Con rồng là thần thú người ta đã tạo ra để làm biểu tượng cho mối lương duyên Lạc và Long tức sự phối hợp của 2 cộng đồng người sống ở lãnh thổ phía nam (xưa) và phía đông, phương Nam loài thú tượng trưng là con sấu , phương đông là con rắn hay xà...’vẽ rắn thêm chân’ ra con rồng , cụ thể rồng là thần thú có đầu,chân và đuôi của cá sấu nhưng mình lại là mình rắn..., chính xác tên là con ‘rung’ tức động sau biến âm ra rồng Hoa ngữ ký âm thành ‘Lung’ Hán Việt đọc là ‘long’ sau này trong văn hóa Việt –Hoa long đã đoạt ngôi của Xà trong cương vị là biểu tượng cho phương đông.

Bản thân rồng không thể hiện hữu bên ngoài môi trường vùng vẫy của rồng , nói khác đi là không thể có rồng nếu không có biển Đông hay Chấn trạch, Lôi trạch ; dù có đào được cả trăm chứ đừng nói 1 cái bình có hình rồng ở chốn sa mạc nóng bỏng hay vùng băng gía tuyết dầy thì đấy cũng chỉ là cục đất xét vì rồng là Thần- thìn , mỗi lần Rồng hiện là 1 lần kinh thiên động địa , gío bão sấm sét làm rung động trời đất thì mới xứng với Thìn- thần ; hỏi Thiểm Tây- sơn tây và cả những vùng cận kề có mưa bão sấm sét hay không ?

Cổ sử Trung Hoa viết: sau khi lên ngôi ông Khải đã tiến đánh Hữu Hộ Thị vì bất phục lấy đấ́t An ấp của họ làm kinh đô đày dân Hữu hộ thị đi khắp nơi gọi là tứ Di ( di tiếng Việt đồng nghĩa với dời không phải là từ mang nghĩa miệt thị ) ;nguyên nhân sự bất phục ở trên ta đã biết, Hữu là họ Hộ thực ra là Hổ biến âm của từ Hỏa nghĩa là lửa, vậy Hữu Hộ Thị chỉ nghĩa là tộc họ Hỏa, hay Lửa chính là người La còn gọi là Di-lão . Đế Minh đã chia nước làm 2 miền: Bắc – Nam hay Lửa – Nước, và truyền ngôi cho Đế Nghi là con trưởng, phong Lộc Tục làm vương phương Nam hay phương Nước. Họ Lửa chính là dân của Đế Nghi ở đất Giao-bắc, là Vùng Thanh – Nghệ – Tĩnh hiện nay, Cao Giao nghĩa là thủ lãnh dân Giao (bắc), ông Cao Giao mất người kế nghiệp ông là Bá Ích, Ích là biến âm của ất hay úp là Can số 2 trong Thập Can, chỉ phương bức (nóng), cùng vị trí với Quẻ Lửa trong Hậu Thiên Bát Quái, và Hành Hỏa trong Ngũ Hành ; La-Lê- Liêu và Lão đều nằm trong cụm từ có gốc là âm Lửa.

Cổ sử Trung Hoa chép kinh đô thứ 2 của nhà Hạ là An ấp, an là biến âm của ôn là ấm cho biết đó là vùng nhiệt đới, rất có thể kinh đô An ấp triều Hạ là động Hoa lư ở Ninh bình Việt nam , Hoa là tên triều đại Hùng Hoa, lư là biến âm của Ly-Lửa chỉ mặt trời cũng còn dùng chỉ ông vua trong văn hoá Việt-Hoa.

Vì đô ấp ở đất Đào nên tên nước trở lại là Hồng bang, để dễ phân biệt ta gọi là Hồng bang 2.,cổ sử Trung Hoa gọi là nước Thao biến âm của Thiêu nghĩa là đốt –cháy.

Ông Ích lưu vong đến Kỳ Sơn. Cổ sử Trung Hoa cũng chép: Ông Cổ Công Đản Phụ dẫn dân “ấp” mình sau 5 lần tạm dừng bước, mới định cư hẳn ở Kỳ Sơn, ông Cổ Công Đản Phụ là tổ nhà Chu; liên kết 2 biến cố ta có thể kết luận: ông Cổ Công Đản Phụ chính là Bá Ích, vì 1 vùng Kỳ Sơn không thể có 2 chúa trong lịch sử, thêm bằng chứng nữa là qúy tộc ở vùng Kỳ Sơn mang họ Cơ như Cơ Xương, Cơ Phát, mà họ Cơ phát xuất từ sông Cơ, sông Cả đất Giao-bắc của người Lửa nơi khởi nguồn của dân tộc Hùng , một học giả Trung hoa đã viết rõ hơn trong phần thuyết minh Chu dịch : dân ‘Mân ấp’ đã lũ lượt kéo nhau theo chúa của mình đến Kỳ sơn...sự ràng buộc (giữa chúa và dân) chắc như cột bằng da bò vàng...., Mân ấp khiến ta liên tưởng tới đế Minh tên gọi khác của vua Hùng....cùng với dòng đế Khai Minh của nước Thục sau này ; Mân ấ́p là cách viết gỉan lược cuả ‘đô ấp Mân’ đồng nghĩa với kinh đô Mân hay Mân đô –Minh đô , Kinh Thư nói đến 4 địa danh đánh đấu lãnh thổ quốc gia thời vua Đại vũ là : Dương cốc, Muội cốc , Minh đô và U đô...; có sự tương thông ngữ nghĩa giữa Mân ấp và Minh đô hay không ?; thực ra cả 4 địa danh này đều có gốc là Việt ngữ được chuyển sang Hoa văn hết sức kỳ lạ độc đáo..., 1 phần ký âm còn phần kia dịch nghĩa :

-Cốc là biến âm từ Gốc –góc của Việt ngữ tương tự :

Kà→gà

Cái→gái.

Dương cốc hay dương góc nghĩa là ‘góc mặt trời mọc’

Muội cốc là ‘góc mặt trời khuất’ tức lặn .

Từ góc này đồng cách với ‘góc trời’ cuả Việt ngữ ngày nay mà chúng ta thường dùng.

- Đô là biến âm của ‘đầu’.

Minh đô là đầu sáng, u đô là đầu tối.

Đầu sáng chỉ hướng xích đạo , đầu tối chỉ hướng địa cực bắc hiện nay .

Rất có thể Dương cốc chính là Dương thành tên xưa của Qủang châu, Muội cốc là Kiểu kinh hay Cửu kinh thời Tây Chu , Minh đô là cố đô Hoa lư ở Ninh bình Việt nam và U đô là 1 thành phố ở Quảng tây hay Quí châu . , chữ U này chính là chữ Âu trong Âu cơ chỉ có nghĩa là phương nam đồng nghĩa với huyền phương mà thôi .

Triều Hùng Hoa Vương – Hải Lang, sử Trung Hoa gọi là nhà Hạ hay triều đại Hạ, ta thấy trong vương hiệu: Hùng Hoa – Hải lang đã thấp thoáng bóng ‘Hoa –Hạ’ rồi .. Đất Lạc Long của Lạc Long Quân gồm đất Lạc là Bắc Việt Nam cộng đất Lâm tức Quảng tây ngày nay, đất Long là đông Quảng tây và Quảng Đông; sử Trung Hoa ký âm sai thành đất ‘Lục Lương’. Những dòng sử trên cho ta xác định: danh xưng Trung Quốc -Hoa Hạ xuất phát từ triều Hùng Hoa này ; Hải Lang và Hạ Vương là 2 cách gọi khác nhau của cùng 1 vua; Hùng Hoa Vương được người Việt gọi là Linh Lang, Linh là biến âm của Lung như ta đã biết; đất của Hải Lang ký âm sai thành đất Hải Nam nay còn chứng tích là Vịnh Hạ Long hay Hạ Lang và đảo Hải Nam

Hải Nam là đất của Hải lang – Hạ Vương.

Vân Nam là đất của Văn Lang – Văn Vương.

Chu nam và Thiệu nam 2 vùng đất nổi tiếng trong Kinh Thi cũng ở dạng ‘cố tình sai’ này ; chính xác là ‘Chu lang’ và ‘ Thiệu lang’ tên thực ấp của 2 đại công thần nhà Chu là Chu công Đán và Thiệu công Thích , Chu lang và Thiệu lang được người Tàu đổi thành Chu công và Thiệu công vì Hoa ngữ không có chữ ‘lang’ còn thực ấp thì đổi ‘lang’ thành ‘nam’, tương tự khi vua Mông cổ gọi dân bắc Trường giang là người Hãn tức dân gọi vua là Hãn, nam Trường giang là người LANG vì gọi vua là Lang ai đó đã cố tình chuyển Hãn ra Hán, Lang ra nam nhằm thủ tiêu những dấu tích lịch sử bất lợi cho ý đồ của họ.

Ở phần trước ta đã minh định về 2 thời kỳ: lập quốc và vương quốc của lịch sử họ Hùng .Bước sang giai đoạn đã trở thành vương quốc Cổ sử Trung Hoa viết : xưa Trung Hoa chỉ có 2 Châu: Châu Đào và Châu Đường, gọi tắt là đất Đào - Đường hay Đào – Dương (2), dùng các dịch tượng của Dịch Lý ta xác định: đất Đào , màu đỏ là lãnh thổ nhà Hạ, Đường hay dương là lãnh thổ nhà Thương. Đất khởi phát của nhà Hạ là lưu vực sông Hồng, hay Nhĩ hà, Hồng cũng là màu đỏ người Thái gọi là ‘Nậm tao’

Tao biến âm ra Đào và Thao.

Chữ Hồng trong Hồng bang là màu đỏ ↔ Đào.

Hồng còn nghĩa là bó đuốc → đốt → thiêu → Thao, Thao là biến âm của thiêu nghĩa là đốt (cháy). Ngày nay ở Việt Nam còn dấu vết: Có 1 khúc sông Hồng vẫn được gọi là sông Thao.

Dấu tích của thời nhà Hạ hay Hùng Hoa còn lưu lại ở 3 nền văn hoá cùng thời mà khảo cổ học đã khám phá gọi là nền văn hóa Phùng Nguyên, hay di chỉ khảo cổ Phùng Nguyên thuộc lưu vực sông Hồng, sơ bộ khảo cổ học Việt Nam nhận định đấy là lưu tồn vật chất của người Tày cổ mà phạm vi phân bố tới tận lưu vực sông Tứ hay Châu Giang; trùng khớp với địa bàn dòng Bách Lộc hay Lạc Tộc như đã biết,thứ 2 là nền văn hóa Hạ long và thứ 3 là nền văn hóa Hoa lộc ở vùng Ninh bình - Hoà bình cùng lưu vực sông Mã ., các hiện vật thu được ở 3 nơi có sự đồng nhất nhưng cũng có những sự khác biệt , điểm khác chỉ ra là có 3 cộng đồng người khác nhau , điểm đồng nhất cho thấy đã có sự hợp nhất để trở thành một dân tộc.

Thao và Đào đều là đồng nghĩa của chữ Hồng chính vì vậy mà sau này ta mới có tên vua Nam Việt là Triệu Đà ( Đào ) hay Triệu Tha ( Thao ) , Lịch sử thời này được minh xác trong bài thơ sử của Phạm sư Mạnh thế kỷ thứ 14 :

Nghỉ thuyền hà thạch tố thanh ba

Lũng lại tranh nghênh sứ Bái qua

LÔ THỦY phân ly THAO tục LẠC

VĂN LANG nhật nguyệt THỤC sơn hà.

câu : Lô thủy phân ly Thao tục Lạc nghĩa là : Nước và Lửa , bắc và nam tức người Kanh và người La trước là anh em một nhà nay tách biệt ; Lạc liên kết với Long thành Lạc- Long hay Hoa mở ra chiến cuộc Hoa-Di mà tàn cuộc chiến nước Thao ra đời thay cho nước Lạc hay Lạc quốc.

Hồng Bàng Thị nghĩa là ‘thời Hồng bang’,. Việt Thường Thị là ‘thời nhà Thương’, hay Việt Thường, cũng là Đường quốc.

Đô ấp thứ 2 của nhà Hạ là An ấp, bị Hậu Nghệ cướp ngôi khi phục quốc dời đô về vùng Nam Hải hay Hải Nam tức Quảng Đông ngày nay, cổ sử ghi là Đô Ấp thứ 3 nhà Hạ là Dương Thành, chính là Quảng Châu ngày nay.

Thời Hải Lang Hạ Vương, vương triều đầu tiên trong Tam Đại của Trung Hoa là thời đã hoàn tất việc đúc kết dân tộc và kết tinh văn hóa. Bốn dòng : Hồ Động Đình, sông Cả, sông Cương và sông Hắc ; dần theo thời gian cộng sinh và cộng huyết đã dần đúc nên hình nên dáng của dân tộc Việt ngày nay, đó cũng là sự kết tinh văn hóa của 4 phương nên trong người Việt hiện nay là tổng hoà các yếu tố văn hóa các dòng ngôn ngữ : Môn-Khmer, Tày-Thái, Nam đ̣ảo và sau cùng là sản phẩm của lịch sử... người Việt đã buộc phải thêm vào kho ngôn ngữ của mình dòng ngôn ngữ Hán -Tạng.

Ngày nay Đông nam Á đã là một Hiệp hội ,tiến tới chắc hẳn có một hiến ước và rồi tất phải có một ngôn ngữ Đông nam á ; ứng cử viên sáng giá nhất cho chiếc ghế này là Việt ngữ vì về ‘hình’ thì Việt ngữ đã cách tân dùng mẫu tự Latinh là loại mẫu tự dễ dàng tiếp cận với nền khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới còn về ‘thanh’ thì bản thân tiếng Việt do lịch sử hình thành đã là ‘tiếng’ Đông nam á từ mấy ngàn năm nay rồi.

Con cháu Viêm Đế + con cháu Thiếu Hạo → người La con cháu Hiền Vương – Hiên Viên, Trên lãnh thổ tây bắc Việt Nam, người La lại hòa huyết với người Miêu, con cháu của tổ phụ Xuyên Húc (sông Hắc) hay Vũ Tiên thành ra người Kanh -Lạc; Bước sau cùng của quá trình đúc kết là thời Kinh Dương Vương kết duyên cùng Long Nữ hay ông Vũ lấy vợ là Đồ Sơn Thị sinh ra Lạc Long Quân mở ra thời kỳ lịch sử Việt Nam gọi là triều Hùng Hoa – Hải lang.

Hùng Hoa cho ta dân tộc Hoa.

Hải Lang – Hạ Vương cho ta vương triều Hạ.

Đất Đào hay Đào Ấp cho ta tổ quốc “Thao” hay Hồng Bang (Hồng Bàng Thị). Tiền nhân người Việt đã hao hơi tổn sức không biết bao nhiêu để sáng tác và lưu truyền hàng ngàn năm truyện sự tích trầu cau, cốt lõi chỉ nhằm giúp con cháu xác định được dòng giống của mình. Trong sự tích trầu cau ta thấy sự hiện diện của 2 ông, 1 bà; 1 ông biến thành cây cau, chính xác là cao, trên cao là thiên, 1 ông biến thành hòn đá là địa, có thiên có địa rồi còn ngôi “nhân” dành cho người nữ, đó chính là hình dạng quẻ Ly theo Dịch Lý họ Hùng (ngược với Dịch Lý của Trung Hoa), 2 ông là 2 vạch liền, 1 bà ở giữa là vạch đứt: đấy chính là ý nghĩa của nước “Xích Qủy” trong truyền thuyết rồng tiên, Xích quẻ tức màu đỏ, quẻ Ly mà ai đó đã cố công biến ‘quẻ” thành “qủy” để che mắt thiên hạ. Khi nhai trầu thì biến ra thứ nước “màu đỏ’ trong tiếng Việt ‘nước’ là 1 thứ vật chất nhưng cũng có nghĩa là quốc gia, “nước đỏ” chính là “Đào quốc” hay “Hồng Bang”.

Ngành khảo cổ học Việt Nam đã có đầy đủ các dữ kiện để xác định trên lãnh thổ Bắc Việt hiện nay thời trước Công Nguyên đã có mặt ít nhất 3 thành phần văn hóa chính thể hiện trên những lưu tồn vật chất mà khảo cổ học đã khai quật được; núi rừng Tây và Bắc mang đậm yếu tố “Tày cổ” đồng dạng với văn minh Tây Giang cùng thời kỳ; chếch về hướng Đông là các yếu tố văn hóa Hạ Long, đồng dạng với các yếu tố văn hóa dọc bờ biển nam Trung Hoa; và sau cùng là các yếu tố văn hóa của người “Thanh – Nghệ” tiến ra khai phá Đồng bằng sông Hồng ..

Thời Lạc Long Quân – Hùng Hoa : 2 thành tố Lạc và Long đã tạo ra thành tố Hoa.

Thời Hùng Việt → người Việt, dân tộc Việt.

Thời Hùng Hoa → người Hoa, dân tộc Hoa.

Người Việt Nam cũng rất tự hào về thời quá khứ Hồng Bàng Thị hay Hồng Bang của dân tộc mình. Hồng Bang, đất Đào, quốc gia Thao đều phát xuất từ mã tin Dịch Lý: Quẻ Ly tức ngọn lửa biểu trưng cho ánh sáng và sức mạnh hay nguồn năng lượng của mặt trời chiếu dọi xuống trái đất tạo nên mầm sống.

Tương truyền là ông Khải cho đúc 9 cái vạc đồng làm quốc bảo, như thế vào đầu đời Hạ, Trung Hoa đã bước vào thời đồ đồng. Nhà Hạ có 2 thời kỳ: thời lập triều và thời tái lập. Ông Khải truyền đến Thái Khang thì bị Hậu Nghệ cướp ngôi; cháu chắt Khải đế phải chạy đến vùng định cư của con cháu ông Thuấn nhờ sự giúp đỡ và ủng hộ của họ Thiếu Khang đã đánh bại Hàn Tróc dành lại ngôi vua, lịch sử gọi là Thiếu Khang Trung Hưng.

Cổ sử Trung Hoa chép nhà Hạ có 3 đô ấp:

- Thứ nhất là Khang Địch nghĩa là đô ấp ở phía tây đất nước.

- Thứ hai là An Ấp đã xác định ở trên.

-Đô ấp Thứ ba là Dương Thành, Dương Thành nghĩa là thành phố phía đông, còn gọi là Long Thành chính là thành phố Quảng Châu ngày nay, Dương Thành đã có lịch sử trên 4.000 năm và dứt khoát không phải là thành phố của dê (dương là dê), như ai đó muốn bôi bác nó để chối bỏ lịch sử.

Chúng ta xếp vương triều Hạ khởi đầu thời Lịch sử vì đã có đủ thông tin về 17 đời vua và 3 kinh đô.

Vương triều Hạ kể cả Hạ Vũ là 17 đời, lãnh đạo nước Đào hay Thao trên 400 năm, vua sau cùng là hôn quân bạo chúa tên Kiệt bị Thành Thang đánh bại và nhà Thương thay nhà Hạ. Các vua nhà Hạ, Hồng bang là: 1. Vũ, 2. Khải, 3. Thái Khang, 4. Trọng Khang, 5. Tượng, 6. Thiếu Khang, 7. Trữ, 8. Hòe, 9. Mang, 10. Tiết, 11. Bất Hàng, 12. Quynh, 13. Cẩn, 14. Khổng Giáp, 15. Cảo, 16. Phát, 17. Kiệt. Từ thời Thiếu Khang Trung Hưng, trung tâm Thao Quốc chuyển về Quảng Đông không nằm trên đất Việt nữa, tới thời Kiệt dân chúng thường nguyền rủa: “Mặt trời ơi, hãy tắt đi chúng tao vui lòng chết cùng mày.” Việc này chỉ ra: dân chúng nhà Hạ gọi vua là mặt trời hay Ly – Lửa (Quẻ Ly cũng chỉ mặt trời, hay nguồn năng lượng), sau Ly biến thành họ Lý, họ Lê ; Con cháu nhà Hạ đã có công khai phá vùng Phúc Kiến-Triết giang lập nên nước “Việt” thời Chiến Quốc vùng này cũng gọi là Mân Ấp – vùng đất dành riêng để thờ cúng các vua nhà Hạ.

Trong triều đại Hùng Hoa-Hải lang ; Hậu Nghệ là thủ lãnh tộc Di vì Thái Khang là vua ngu tối không lo chính sự chỉ ham săn bắn, có lần đi săn ở Nam Lạc Thủy cả 100 ngày không về, Hậu Nghệ đem quân chặn ở Bắc (Dịch Lý) Lạc Thủy, thế là Thái Khang đành sống lưu vong. hậu Nghệ tôn em Thái Khang là Trọng Khang lên ngôi nhưng thực quyền đều nằm trong tay Hậu Nghệ, sau khi Trọng Khang chết thì Hậu Nghệ chính thức lên ngôi vua. Lạc Thủy nay chỉ còn là con sông nhỏ chảy qua rừng quốc gia Cúc Phương, thuộc Ninh Bình – Việt nam .

Sử Trung Hoa viết, thời đó trên trời có tới 10 mặt trời, nóng quá mặt đất khô khan không còn giọt nước, dân chúng kêu than vang trời, Hậu Nghệ dùng cung bắn 9 phát rụng liền 9 mặt trời chỉ để lại 1 mặt trời như ngày nay; truyền thuyết là vậy, sự thực ra sao? Đây chỉ là hiện tượng thời tiết tự nhiên ,qua cơn hồng thủy đến thời hạn hán , khi hạn hán mặt ao đầm khô nước nứt nẻ thì thủy quái thuồng luồng làm sao sống ?, nhưng truyền thuyết chép là Hậu Nghệ dùng tài bắn cung bách phát bách trúng diệt hết thủy quái cứu dân; điều này chứng tỏ tâm tình của nhân dân rất kính trọng Hậu Nghệ chứ không chê bai khinh thường như 1 kẻ cướp ngôi … vô đạo. Hậu Nghệ là cấu trúc tiếng Việt; còn cấu trúc Hán văn là Nghệ Hậu. Hậu Nghệ là thủ lãnh tộc Di, tộc Di hay Di Lão chính là người La bị Đế Khải đánh đuổi phải di cư lên phía Bắc đến núi Kỳ Sơn; tộc Di Lão còn được gọi là Di Việt sau Hậu Nghệ bị Hàn Tróc giết và cướp ngôi, Thiếu Khang con cháu nhà Hạ được sự ủng hộ của bộ tộc Hữu Ngu dòng Đế Thuấn đã đánh bại hàn Tróc khôi phục vương triều Hạ .

Chúng ta thấy truyền thuyết lịch sử đã không công bằng với Hậu Nghệ tuy nói rõ vì vua ngu tối ham hưởng lạc mới đưa đến việc soán ngôi , khi ở ngôi Hậu nghệ đã làm bao điều ích quốc lợi dân nhưng vẫn không ̣đ̣ược coi là 1 triều đại chính thống .

Dương Thành là 1 trong những thành phố cổ xưa bậc nhất của Trung Hoa, nó đã được lập nên trước Công Nguyên, nên ít nhất cũng hơn 2.000 năm tuổi (người Trung hoa tính ra như thế , còn trong thiên khảo luận này Dương thành đã có khoảng 4000 năm) Trung Quốc công nhận thời gian lịch sử của nó nhưng lại gán cho nó 1 nghĩa “quái gỡ”, Dương Thành là thành phố dê (con dê). Dương Thành thật ra mang nghĩa ‘thành phố ở phương đông’ mà các sử gia Trung Hoa cũng không rõ … hay là cố tình gán ghép như thế để tránh tìm ra phần “tương đối của nó theo luật âm dương lưỡng lập của Dịch Lý” Đã có thành phố phía đông thì phải có thành phố phí tây là hạo kinh, thành phố phương nóng là Đại la thành, thành phố ở giữa là ung hay ương thành...

Bài 21 - Hùng triều thứ 11 _ Hùng Uy hay Hùng Vỹ vương

Vua khai sáng : – Hoàng Hải Lang .

Danh hiệu khác trong sử Việt :

Danh hiệu khác trong sử Hoa : Bàn canh -Triều đại Ân Thương

Niên đại : cách nay 3.500 năm

Chứng tích vật thể lưu tồn là các hiện vật thuộc nền văn hoá Đồng đậu ,Việt nam

Trước hết ta khẳng định là ‘Ân” trong “Ân Thương” có nghĩa là Thứ 2, số 2, số đếm của người Trung Hoa xưa thì số 2 là ‘nhị’ cũng gọi là ‘ơn’, vậy Ân Thương chỉ có nghĩa là triều Thương thứ hai mà thôi.

Vua thứ 19 triều đại Thương hay Việt Thường là vua Bàn Canh quyết định dời đô về phía Nam Dương Tử (phương nam Dịch Lý) nhà Thương đã phải dời đô nhiều lần vì lụt lội do sông Dương Tử gây ra vậy Tại sao mãi tới thời vua Bàn Canh mới quyết định dời đô? Vì dân Miêu thời nhà Hạ mới chỉ sinh sống ở Bắc (Dịch Lý) Trường Giang – tức vùng Ngũ Lĩnh sau này gọi là Giang Nam, sang đời Thương dân Miêu mới vượt Trường Giang sinh sống ở bờ bên kia, vài trăm năm sau đã đông đúc lập nên vùng Kinh Man như thế là đủ để Bàn Canh an tâm dời đô, vậy mà vua cũng không thuyết phục nổi tầng lớp quí tộc, sau cùng hoàng gia phải đi một mình cùng với tầng lớp bình dân, vì vậy ta mới có tên triều Ân Thương, không còn tiếp nối bình thường quốc thống nhà Thương, có sách sử ghi chép như là 1 triều đại mới, và có sách vẫn xếp triều Ân Thương là 1 phần của triều đại Thương. Nhà Ân Thương khi mới vượt Trường Giang đóng đô ở An Huy, dựa vào tên tỉnh An Huy ngày nay ta có thể khẳng định như vậy.

Triều Thương sử liệu Việt gọi là Hùng Huy – Long Tiên Lang ; An Huy hay Ân Huy có nghĩa là triều Hùng Huy thứ 2 tương tự như Ân Thương ; từ vùng này sau khoảng 300 năm nhà Ân Thương tiến tới bờ Hoàng Hà làm chủ cả 1 vùng rộng lớn gồm các tỉnh ngày nay là An Huy, Hồ Bắc và Hà Nam của Trung hoa . Tới thời vua Trụ dân Trung Hoa bắt đầu vượt Hoàng Hà ở cực bắc Hà Nam hiện nay, Trụ Vương đã xây dựng Biệt Đô Triều Ca và Lộc Đài , Cự kiều ở đấy, từ ‘ biệt đô’ chỉ rõ cho chúng ta: đó là vùng đất tách biệt hẳn với đất truyền thống của Trung hoa , sau này người ta phát hiện những dấu vết của kinh đô Trung Hoa cổ, cũng như thu được rất nhiều Giáp Cốt Văn trên bờ Bắc sông Hoàng Hà và coi đấy như 1 trong những bằng chứng chính để khẳng định quê hương người Hoa là lưu vực Hoàng Hà. Sự thực ra sao?

Giới nghiên cứu khoa học đang đặt câu hỏi, sông Hoàng Hà không hề có loài rùa lớn sinh sống vậy những mai rùa khắc chữ lấy ở đâu ra ? các sử gia Tàu gỉai thích : Từ thời nhà Thương đã có sự giao lưu giữa cư dân ở 2 con sông Hoàng Hà và Trường Giang, số mai rùa khắc chữ được mang từ Trường Giang lên.

Theo chính sử Trung Hoa thì đời Thương chưa có liên hệ gì đến Trường Giang, phải đến đời Trụ Vương nhà Ân Thương mới đánh dẹp và mở rộng lãnh thổ về hướng sông Hoài và sông Dương Tử “đem văn minh Trung Hoa trải đến vùng đó”. Việc Trụ Vương trước sức tấn công thần kỳ của ông Cơ Phát đã vội vã tha các “lao công tù binh” bắt ở vùng sông Hoài, phát vũ khí biến họ thành chiến binh, kết quả họ đã quay giáo đánh lại quân Trụ … việc này nói lên rất rõ là: Trụ Vương chưa chinh phục xong miền đông để tiến đến biển, như thế sự phát triển của Trung Hoa từ tây sang đông dọc theo Hoàng Hà mãi tới đời Trụ Vương mới tới gần biển mà thôi. Chúng ta nghĩ xem ở Hoàng Hà không có mai rùa thì làm sao nhà Thương có thể phát minh ra cách khắc chữ lên mai rùa? Phải ở nơi có sẵn mai rùa người ta mới có thể nghĩ ra cách sử dụng chúng , về mặt lý luận không thể nào nghĩ khác được là đời Thương không ở Hoàng Hà mà ở Trường Giang nên khi mở rộng từ sông Dương Tử lên Hoàng Hà người ta vẫn tìm về chốn cũ để lấy mai rùa đem về sử dụng.

Sử Trung Hoa cho biết vào thời Thọ Tân Hoàng Đế tức Vua Trụ thì Trung Hoa đã có chư hầu ở 4 phía:

- Phía Bắc là nước Thao.

- Phía Nam là nước Quang.

- Phía Đông là nước Từ.

- Phía Tây là nước Chu. Ở đây cổ sử Trung Hoa đã dùng đúng phương của Dịch Lý.

Ta đã biết:

a. Nước Thao chính là đất Đào là đất của triều Hạ hay Hải Lang, về sau còn gọi là vùng Việt hay Nhiệt.

b. Nước Quang là viết sai chữ Quan, Quan là dịch từ chữ Nom của Việt ngữ, Nom hay nhìn ta đã lý giải ở phần trước, nó chính là phương nước, Hành Thủy, Huyền Phương.

c. Nước Từ cũng là dịch sang Hán ngữ chữ “Thương” của Việt Nam: Theo Dịch Lý Thương hay Tình Thương là phương Đông đối đẳng với phương Tây là phương của lý lẽ. Chính xác là chư hầu của Trung Hoa gọi là Nước phương Đông … dịch thế nào lại thành nước Từ , sau thời Chiến Quốc trở thành nước Tề là vùng Sơn Đông ngày nay. Chữ Từ này lại cận âm với chữ ‘Tà’ (chiều tà), Tư, Tử, Tây, Tề. Tề là 1 nước ở phía Tây Trung Hoa. Như vậy thời Chiến Quốc có tới 2 nước Tề, 1 nước Tề ở phương Đông và 1 ở phương Tây Trung Hoa. Nước Tề phương Tây là nước của nhà Chu phong cho Thái Khương, 1 đại công thần khai quốc. Thái cũng có nghĩa là đại, chỉ ông lớn hay cả, hay thủ lãnh; Khương là biến âm của Khăng, Cang chỉ phương Tây, nó cũng chính là ký âm bằng Hán tự chữ Khmer ngày nay.

d. Nước Chu chính là vùng đất gốc của nhà Chu sau này. Thực ra chữ ‘Chu’ cũng là chữ ‘Chiêu’ bên chiêu, ban chiều chỉ phương Tây mặt trời lặn hay thụt xuống, thụt biến thành Thục nghĩa là đất phía Tây.

Trong số 4 nước thì 2 nước phía Nam (Dịch Lý) nước Quan, phía Đông nước Từ là ngoại tộc thuộc chủng Mongoloit là giống người khác hẳn người Hoa – Việt. Lịch sử Trung Hoa gọi họ là người Lu tức mờ tối hay phương Nam – Huyền Thiên, sau Lu → Liêu và ta có 2 nước của người Lu.

- Nước Quan trở thành nước Quan Lu, tức Quan Liêu là nước Đông Hán sau này.

- Nước Từ trở thành nước Tào Lao hay Từ Lu, sau này là “nòng cốt” làm ra nước Ngụy của Tào Tháo.

Trụ là vua sau cùng của triều Ân Thương vô cùng tàn ác bị dân chúng nguyền rủa là ‘Ác Lai’, lai là biến âm của ly, lửa nghĩa đen là mặt trời, nghĩa bóng chỉ hoàng đế; Ác lai là ông vua ác, hay bạo chúa. Thực ra Trụ không phải là tên riêng của Thọ Tân Hoàng Đế. Tiếng Thái Lào vua là ‘Chậu’, tiếng Việt là ‘chủ’ ; chậu-chủ biến âm ra Trụ do ký âm Hán ngữ sai biến“chậu” là danh từ chung thành “Trụ” tên riêng.

Triều đại Thương, vua khai sáng là Thành Thang, lập đô ở vùng sông Đường hay sông Thường. sang triều Ân Thương lần đầu tiên dân Trung Hoa tiến đến Hoàng Hà và Hoàng Hà lúc đó là cực Nam (Dịch Lý) của Trung Hoa nên lịch sử gọi là triều Hùng Vỹ , Vỹ là cái đuôi chỉ vùng cực Nam, gọi Hoàng Hải Lang vì kinh đô dời về vùng Hà Nam bên bờ Hoàng Hà đồng âm với Hoàng Hải .

Đuôi và Đầu là 1 cặp đối , triều Hạ là nước Đào hay đầu ở phương Bắc (xưa) triều ân thương là Hùng vỹ nghĩa là triều Hùng phương nam .

Bài 22 - Hùng triều thứ 12 _ Hùng Chiêu vương
- 1* Nước Cao-Ly hay Cao- Lê của Sùng Lãm.

- Hoa văn dịch là nước Sùng , Kinh Thư gọi là nước Lê là phần tây bắc ( xưa) của Hồng bang thời nhà Hạ , cũng là đất Giữa thời lập quốc ngày nay là đất Bắc và bắc trung Việt.

- 2 * Nước Đào hay nước Thao., là phần phía đông của Hồng bang thời nhà HẠ còn được gọi là đất Đông Hạ nay là Quảng đông Trung quốc.

- 3 * Đất phong của Tây bá Xương thường gọi tắt là đất Bá cổ sử Việt gọi là Âu biến âm của ‘ô’ nghĩa là màu đen , ‘phương Ô’ đồng nghĩa với ‘Huyền phương’ trong cửu thiên tức phương Nam (xưa) nay là tây nam Quảng tây.

- 4 * Nước Mật tu ký âm sai của Mặt tây nay là Vân nam Trung quốc.

- 5 * Nước Thục còn gọi là đất Quý đất gốc tổ của nhà Chu nay là Quý châu Trung quốc. Hoa sử thường ghép nước Thục với đất Bá ông tây bá Xương thành đất Ba- Thục .

- 6 * đất trung tâm của nhà Thương hay ‘trung Hoa’ thời Thương , sử Việt gọi là Việt Thường sau là đất Đường-Ngô nay là Hồ nam và Giang tây Trung quốc.

- 7 * Nước Việt , đất dành riêng thờ Sơn tinh quốc chúa hay Hạ vũ nay là Phúc kiến- Chiết giang Trung quốc.

- 8 * đất trung tâm của nhà Ân- Thương nay là Hà nam Trung quốc , đây là phần đất cực Nam ( xưa) của Trung –Hoa , nơi có đất Hà nội là mảnh đất duy nhất vượt Hoàng hà về phía bắc (phương hiện nay), nơi đây Trụ vương đã xây biệt đô Triều ca.

- 9 * Nước Qủy phương là nước đã được nói đến trong kinh Dịch , chính xác là nước Cửu phương , phương số 9 là phương tây của Hà thư , cửu còn biến âm thành ‘cẩu’ nghĩa là con chó vì dân nhà Tần chọn chó Sói làm thần thú tượng trưng cho tộc mình , Quỷ phương còn được gọi là Xuyên Thục nghĩa là đất tây-nam (xưa) , Hoa sử thường gọi tắt là đất Thục gây ra sự lẫn lộn với Ba thục ;việc này ảnh hưởng rất lớn khi tìm hiểu về lịch sử Trung hoa , đất Qủy phươngnay là Tứ xuyên Trung quốc.

*********

Vua khai sáng : – Quốc Tiên Lang dị bản : Lang Liêu lang

Danh hiệu khác trong sử Việt : An dương vương , Thục vương tử.

Danh hiệu khác trong sử Hoa : Cơ xương , Chu Văn Vương

Quốc hiệu : Văn Lang – Âu Lạc

Niên đại : cách đây 3.100 năm

Lưu tồn vật chất là những hiện vật khảo cổ thuộc nền văn hóa Đông sơn sớm ,Việt nam .

Theo truyền thuyết dân gian Quốc tiên lang còn được gọi là : Lang Liêu , Cổ Thục.

Văn lang đồng nghĩa với Văn vương ; trong thiên khảo luận này đã nhiều lần ban đến , khi ta nói nước Văn lang tức là nói nước của vua Văn , là danh xưng cổ xưa của nước Việt ngày nay.

Quốc tiên lang nghĩa là vua khai quốc.

Sử Trung Hoa ghi vua Trụ cực kỳ xa hoa và tàn ác, có những hành động dã man và quái gở. Chú ông ta là Tỉ Can can ngăn cũng bị “thằng cháu trời đánh” mổ bụng moi tim trong khi đó ông Cơ Xương là người có thánh đức rất được lòng dân chúng, theo 1 sử liệu Trung Hoa thì Cơ Xương bị vua Trụ bắt giam vì 1 lời sàm tấu của Sùng Hầu Hổ nghĩa là quí tộc tước hầu đất Sùng tên là Hổ; nơi Cơ Xương bị giam là ngục “Dĩu Lý”, Dĩu Lý không phải là tên riêng mà : ‘Lý’ là luật, lệ; ‘Dĩu’ là tiếng Việt biến âm: Dĩu → giữ, ta có thể hiểu là nơi giam giữ tức nhà tù tương tự ngày nay hay nói là vòng lao lý đúng ra phải là lưu lý , lưu cũng là giữ , sau nhờ sự “chạy chọt” của quí tộc nước Thục dâng rượu ngon, gái đẹp … Trụ mới thả Cơ Xương ra và phong là Tây Bá Hầu cũng gọi là vạn gia bá hay vạn hộ hầu . Được sự phò tá của Thái Công Lã Thượng và sự ủng hộ của dân chúng phía tây, Cơ xương bắt đầu gây dựng đế nghiệp. Đầu tiên ông đánh nước ‘Mật Tu’ vì chúa nước ấy tàn bạo bị dân chúng oán ghét. Mật Tu là nước nào? Mật Tu là từ Việt ký âm bằng Hán ngữ sai đi: Mật Tu = Mặt Tây. Mặt Tây của đất Bá-Thục hay 3 Thục chính là vùng Vân Nam ngày nay.

Ở trên ta đã biết thời nhà Thương hay Việt Thường thì Ngũ Lãnh tức trung tâm quốc gia là Hồ nam, phía Tây Hồ Nam là đất Thục phía Đông là đất Dương ;Thục là từ Việt Thụt → Thục , thục cũng nghĩa là chín phản nghĩa với sanh nhưng thục lại là đồng âm với chín -9 là số chỉ phương tây trong Hà thư , tóm lại theo dịch lý thì sanh chỉ phương đông thục chỉ phương tây .

Đất Thục chính là Quý châu ngày nay ; Quý là can số 9 trong thập can nên Qúy và Thục là từ đồng nghĩa cùng chỉ đất ở phương tây của thiên hạ .

Cha của Văn vương là Vương Qúy , vương Qúy không phải tên mà là tước hiệu của thủ lãnh đất Qúy như vậy cũng đồng nghĩa với Thục vương mà theo truyền thuyết Việt thì Thục Phán – An dương vương là Thục vương tử nghĩa là con của Thục vương suy ra An dương vương cũng chính là Văn vương trong Hoa sử , An dương vương chỉ là biến âm của Âm dương vương hay vua dịch lý điều này hoàn toàn khớp đúng với việc Văn vương tác dịch . Thông qua Dịch học ta thấy rất có thể các từ : zhu –mùa thu ; zhu – đất Thục và shu – nhà Chu cùng xuất phát từ 1 âm gốc thời cổ .

Người Việt hay dùng thành ngữ : đen như cổ thục nhưng đoan chắc rất ít người biết Cổ Thục là gì ; Cổ Thục là biến âm của Cả Thục nghĩa là thủ lãnh đất Thục rõ ràng là từ dân gỉa gọi An dương vương hay Văn vương , Kinh Thư cho thông tin : Văn vương người cao và đen cháy...

Thông Qua việc tác Dịch ta nối kết được các nhân vật : Cổ Thục , Âm dương vương hay An dương vương , Văn vương –Văn lang và Lang Liêu của Truyền thuyết ‘bánh dầy bánh chưng’ cả bốn chỉ là danh hiệu của một người ; bánh dầy bánh chưng là biến âm của bánh giời bánh giăng hay bánh trời bánh trăng cũng là Âm dương của dịch học , trong truyền thuyết này ta còn thu được thông tin hết sức qúy gía : Lang Liêu đồng nghĩa với Liêu vương hay vua của dân Liêu tên khác của người Di Lão mà ta đã biết , Liêu-Lê-La-Lão... đều là biến âm của từ Lửa ,các tộc này hiện là dân chủ lực vùng tây nam (nay) Trung Hoa và được gọi chung là người Kađai hay tây đồ di , lưu ý từ Liêu ở đây biến âm từ Lửa hoàn toàn khác với từ Liêu chỉ người Liêu thời trung cổ mà chính xác phải gọi là người Lu nghĩa là mờ tối .

Trung Hoa có 2 đất Thục :

- đất Bá Thục gọi sai ra ba Thục là Qúy châu ngày nay; còn Xuyên Thục nghĩa là đất Tây nam (theo Dịch Lý) nay là Tứ Xuyên , Khi phân lập dựa trên mã tin Dịch Lý thì Tứ Xuyên cũng có nghĩa là Tây Nam. Tứ là số 4 phương Tây, Xuyên là sông, chỉ sông nước phương Nam. rất nhiều tư liệu lịch sử chỉ viết có mỗi chữ Thục nên gây ra sự rối bời sau này. Đất Ba Thục là Quí Châu ngày nay, nơi sinh sống chính của người Liêu hay Di Lão còn . Các nhà khoa học Việt Nam đã phát hiện đường thiên di từ phía tây Quảng Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh qua tây Bắc Việt Nam lên tới Quí Châu nhưng lại nhận định ngược chiều là từ Quí Châu xuống Việt Nam . Đường thiên cư này chính là con đường của Bá Ích đi ở ẩn và cũng là con đường Cổ Công Đản Phụ dẫn dân di cư sau 5 lần dừng chân, cuối cùng mới ở hẳn Kỳ Sơn.

Đất Kỳ Sơn sau là Kỳ Châu . Kỳ Châu → Ký Châu thời Ân (phía đông Qúy châu là đất của Tô Hộ cha Đát Kỷ , Tô Hộ là truyền nhân của Thái Bá bác của Văn vương ? ); Ký Châu → Quí Châu. Quí là Can chỉ số 9 trong Thập Can. Số 9 trong Hà Thư là số chỉ phương tây đồng nghĩa với Thụt – Thục. Tới đây ta có thể xác định: Quí Châu là đất Ký Châu nơi có Kỳ Sơn xưa. Quí Châu cũng là đất Thục trong sử Trung Hoa và Việt Nam, chi tiết quan trọng giúp ta khẳng định điều này la: cha của Văn Vương tên Vương Quí , nghĩa là Vương đất Quí (Châu) như đã nói ở đoạn trên, vương Qúy là cấu trúc Việt ngữ , Hán văn gọi là Quý vương.

Một dẫn chứng cho việc xác định đất Bá Thục

Nùng trí cao lấy đất phiá nam Đại Việt tự lập làm vua đặt tên nước là Đại Lịch sau đổi là Đại nam , theo chính sử Trung hoa : Trí cao ‘chiếm’ lấy Quảng đông-Quảng tây rồi từ đây tiến đánh Ba thục khiến cả triều đình nhà Tống rung rinh....; thử hỏi nếu Ba thục là Tứ Xuyên thì làm sao Nùng trí cao tiến đánh được ..?. vì Quảng tây ngăn cách với Tứ xuyên bởi Quý châu , quân đi ngả nào mà đến đánh Tứ xuyên được .? hay thời ấy Nùng trí cao đã có lính nhảy dù...? mà việc Nùng trí cao đánh Ba thục là việc có thực điều này dẫn đến kết luận : đất Bá thục là Qúy châu ngày nay không thể nào là Tứ xuyên được .

Ta cũng khẳng định được người Liêu hay Di Lão chính là nhánh Lửa của Họ Hùng con dân của Đế Nghi trước ở đất Giao –bắc tức đồng bằng Thanh nghệ tĩnh và núi rừng phía tây đã bị Hạ Khải đánh đuổi trở thành tứ di của Hoa sử . Con đường thiên di xuất phát từ phía tây Nghệ An – Hà Tĩnh chính là đường chạy trốn của Hữu Hổ Thị , Hiện nay dân thành phố Côn minh thủ phủ Vân nam vẫn coi hổ là thần thú biểu tượng của dân tộc , họ Cơ của Cơ Xương, Cơ Phát cũng cho thấy họ là hậu duệ chính truyền của Hiên Viên tổ họ Cơ . Hiên Viên- Hiền Vương- Hiền Đức, Hùng Vũ chỉ là 1 vị vua mà cả người Việt và Hoa tôn làm quốc tổ . Ý nghĩa của tên Cơ Xương- Cơ Phát là : Cơ, Cô nghĩa là thủ lãnh ; Xương là từ Việt (Hán ngữ là ‘Cốt’) : ‘Cơ Xương’ là thủ lãnh gây dựng nền tảng . ‘Cơ Phát’ là thủ lãnh mở mang, phát triển. Tất cả là danh hiệu do các sử gia đặt chứ không phải là tên riêng như chúng ta ngày nay.

Lạc long quân tức đế Khải hợp nhất dân 2 vùng Lạc và Long lập nên triều Hùng Hoa lấy con rồng làm biểu tượng dân tộc , người Di lão hay hữu Hổ thị trước sống ở vùng sông Cả thuộc hướng xích đạo , quẻ Lửa nên lấy con hổ làm biểu tượng , cuộc đối đầu Hoa –Di trở thành cuộc Long tranh Hổ đấu , long là thần thú hổ cũng không chịu thua và người Di đã thần hóa hổ thành con Ly hay Lân , không hiểu tại sao gọi là con Lân khi tứ linh vẫn là Long-Ly-Quy-Phụng , Lân còn được gọi là Kỳ Lân không hiểu chữ Kỳ nà có liên quan gì với Kỳ sơn hay không ?, long- hổ thường được nói đến trong từ kép Thanh long- Bạch hổ , chính những từ này giúp ta xác định sư thiên di của người Di-lão ; Hổ hay Ly chỉ ra gốc tổ của họ là vùng nóng bức gần xích đạo , bạch là màu trắng sắc của phương tây , từ kép bạch- hổ đã chỉ ra đường thiên di của của người Di lão đi từ phía bắc sang phía tây , phía tây chính là ‘đất Thục - triều Chu’ của lịch sử.

Sử Trung Hoa ghi: 3 năm sau khi chiếm Mật Tu Cơ Xương chiếm nước Sùng, nước lớn nhất miền Tây Trung Hoa, sử không nói đến việc Cơ Xương thành lập quốc gia nhưng lại nói ông xây kinh đô ở đất Sùng và gọi đó là đất ‘Phong’. Việc sát nhập vùng đất của Cơ Xương và đất Sùng được truyền thuyết lịch sử Việt Nam gọi là: “Sùng Lãm kết duyên cùng Âu Cơ”. Mẹ Âu Cơ của truyền thuyết Việt Nam chính là Cơ Xương , truyền thuyết Việt Nam có sự lẫn lộn : Lạc Long Quân có trước Sùng Lãm khoảng 1.000 năm nhưng sử Việt lại ghi đó chỉ là 2 danh hiệu của 1 nhân vật ; ghép thành Sùng Lãm hiệu là Lạc Long Quân . Theo Truyền thuyết Hùng vương đóng đô ở Phong châu , đấy cũng chính là đất Phong nơi Chu văn vương lập quốc.

Phong Châu là miền Tây Bắc Việt Nam nơi mà nhà Đường sau này đặt Phong Châu Đô Đốc Phủ để trông coi các Châu Ki Mi.

Cơ xương đánh chiếm nước Sùng truyền thuyết chép là Sùng lãm kết duyên cùng bà Âu-cơ , chữ Âu là biến âm của Ô là màu đen tên gọi khác của huyền thiên , ngày nay ta gọi là phương nam, đất Ô chính là cõi Nam giao còn có tên khác là đất Lâm hay Lam là Quảng tây –trung quốc ngày nay . Cơ là dòng họ của Hoàng đế hay Hùng Vũ ,cũng là biến âm của ‘Cả’ chỉ người đứng đầu hay thủ lãnh . Âu cơ là danh hiệu của chúa đất Nam hay Lâm với danh hiệu này có thể xác định đất Trụ vương ban cho Tây bá hầu –Cơ xương nằm trong tỉnh quảng tây ngày nay.

Theo kết quả nghiên cứu cuả khảo cổ học Việt Nam thì Lào Cai là 1 trung tâm cổ, rất có thể là thực ấp của ông Chu Công chúa nước Lỗ. Lào biến âm của từ lửa cũng như Liêu- Lỗ, cai là biến âm của Cô, hay cơ ; Lào Cai nghĩa là chúa đất Lão hay nước Lỗ . Nếu Lào cai là thực ấp của Chu Công do Chu Văn Vương phong khi lập quốc Âu Lạc, thì Chiêu Công Thích cũng có thực ấp là Yên Bái, chính xác là “Yên Bá” vì sau này khi Chu Vũ Vương lên làm thiên tử của Trung Hoa thì ông Chiêu Công Thích được phong là chúa nước Yên với tước bá trong hàng quí tộc gọi tắt là ‘Yên Bá’.

‘Chu công’ đồng nghĩa với ‘Chu lang’ của Việt ngữ , từ Lang người Tàu ký âm cố tình sai thành nam ; Chu lang biến thành Chu nam , tương tự như vậy đất Thiệu nam là thực ấp của Thiệu lang hay Thiệu công Thích , thật bất ngờ khi Chu nam và Thiệu nam hai vùng đất nổi tiếng về phong hoá được chép trong kinh THI lại là đất Lào cai và Yên bái của Việt nam ngày nay.

Cơ Xương chính là Thục Vương tử người đã sát nhập đất Thục với đất Sùng lập nên quốc gia Âu Lạc để Sau này Cơ Phát là cháu Thục Vương (sử Việt gọi là Thục Phán) diệt vua Trụ chấm dứt triều Hùng Vỹ – Hoàng Hải Lang, sử Việt Nam gọi là chiếm nước của Hùng Vương . Cơ Xương lên ngôi vương nước Âu Lạc hiệu là An Dương Vương, ở phần Dịch Lý đã nói tới: An Dương vương cũng là Âm Dương vương hay vua Dịch Lý, điều này xác định Cơ Xương và Âm Dương Vương là 1 nhân vật, là Lang Liêu trong cổ tích, cũng chính là Chu Văn Vương. Và 1 điều vô cùng quan trọng đối với lịch sử Việt Nam là xác lập được :

-Văn Vương cũng là Văn Lang đều có nghĩa là “vua Văn”.

Người Việt Nam ai cũng biết Văn Lang là quốc hiệu thời cổ xưa của nước mình, nhưng chỉ coi đấy là từ chỉ sự linh thiêng, là nơi ẩn chứa anh hồn tổ tiên nhưng không biết Văn Lang cũng chính là Văn vương tổ nhà CHU theo sử Trung hoa, khi ta nói nước Văn Lang là có ý nói : Nước của vua Văn.

- Chu Văn Vương là tổ triều đại Chu.

- Chu Vũ Vương là hoàng đế sáng lập triều Chu.

Văn Lang hay Văn Vương là vua nước Âu Lạc, thời Chu Vũ Vương Âu Lạc trở thành “Trung Hoa” của thiên hạ, chính vì thế mà triều Hùng Ninh vua khai sáng có danh hiệu là ‘Thừa Văn Lang’nghĩa là người kế thừa vua VĂN . Gọi nước Văn Lang là gọi theo tên vua khai sáng. Gọi Âu Lạc là gọi theo tên tộc người và mảnh đất đã tạo thành quốc gia , Lạc là con cháu Lộc Tục, Âu cũng là ‘ô’ là đen, mã tin chỉ vùng phương Nam đất trung tâm ( Giao Chỉ.) Văn Lang - Âu Lạc là 2 tên của 1 nước . Cổ sử Việt Nam đã sai lầm vô cùng lớn khi viết là Thục Vương đánh bại Hùng vương chiếm nước Văn Lang lập nên nước Âu Lạc, và thủ đô quốc gia là Phong Châu . Cương vực nước Văn lang hay Âu- Lạc truyền thuyết đã chỉ định hoàn toàn chính xác chỉ bị đổi phương hướng mà thôi ; vì chúng ta đã cột chặt mình vào đường biên quốc gia khỏang ngàn năm trở lại đây , tự giam hãm tâm trí mình không dám thóat ra để nhận một tổ quốc rộng lớn hơn dù đã có lời nhắn gửi chỉ dẫn của tiền nhân qua truyền thuyết lịch sử .

Theo truyền thuyết thì nước Văn Lang :

Bắc giáp Động đình hồ.
Nam giáp nước Hồ tôn tức Chiêm thành xưa.
Đông giáp nam hải .
Tây giáp nước Thục.

Động đình hồ không phải là Động đình hồ ở Trung quốc ngày nay , trong những phần trước đã luận bàn nhiều ; Động đình hồ với nghĩa là biển Đông buộc ta phải chỉnh sửa cổ thư :

Nước Văn lang : phía đông giáp biển Đông.

Phía tây giáp Xuyên thục tức tỉnh Tứ xuyên Trung quốc ngày nay , thục chỉ có nghĩa là hướng tây.

Phía bắc giáp nước Hồ tôn sau là Chiêm thành , Hồ là biến âm của hai tức số 2, tôn là can Tân hay tưng, tênh đi cặp với nhị biến âm của nhẹ thành từ kép ‘nhẹ tênh’, nhẹ tênh là tên của cặp số 2- 7 trấn phương Bắc tức hướng xích đạo theo Hà thư.

Phía nam giáp Hồ nam 1 tỉnh của Trung quốc., Hồ nam bị sửa thành Hải nam rồi Nam hải như chép trong truyền thuyết.

Cụ thể ta có thể xác định lãnh thổ nước Văn lang xưa là :

Quý châu-Vân nam- Quảng tây thuộc Trung quốc ngày nay.

Miền Bắc và Bắc trung bộ thuộc Việt nam ngày nay.

Quý châu và Vân nam là miền tây Văn lang , Qủang tây và phần đất thuộc Việt nam ngày nay hợp thành Đông Văn lang ; 2 miền đông và tây sau trở thành địa giới của 2 triều Đông Chu và Tây Chu .

Lãnh thổ nhà nước Văn lang theo truyền thuyết chính người Hoa đã xác nhận trong khi người Việt lại chối bỏ...?

Sách Nguyên hòa quận chí chép : “ Quý châu cố tây âu lạc Việt chi địa “ , Thông điển chép “ Quý châu bản tây âu Lạc việt chi địa “

nghĩa là: “ Quí Châu là đất Tây Âu -Lạc Việt xưa”;

Truyền thuyết Phù đổng thiên vương chép ...” giặc Ân sang đánh nước ta ...” nhiều sử gia Việt nam đã gạt ngay đi ...Lãnh thổ nhà Ân ở tận đâu đâu ...làm sao đánh nước ta được...

Tệ hơn nữa là ở những năm 50 thế kỷ này một nhà nghiên cứu Trung quốc đã gửi cho Việt nam bản dập của tấm ’thẻ ngọc An dương’ mà họ tìm được ở gần Quảng châu . Căn cứ vào loại chữ khắc trên đó là loại ‘cổ trựu’ sơ bộ xác định An dương vương sống cách nay khoảng 3000 năm ....vật chứng rành rành như thế mà cũng không thèm đếm xỉa gì tới ...không hiểu các vị làm khoa học kiểu gì đây ....thay vào đấy lại tưởng tượng ra những chuyện như Thục vương trong truyền thuyết Việt là con cháu của Thục vương bên Tàu bị Tần thủy hoàng chiếm mất nước nên chạy đến vùng đất gần Việt nam....thật hết biết luôn....

May mắn còn có vị khoa bảng thế kỷ thứ 14 là Phạm Sư Mạnh để lại mấy bài thơ nói về tổ quốc xưa của dòng Hùng Chiêu hay Chu.

“Văn Lang Nhật Nguyệt Thục Sơn Hà"

Văn Lang Nhật Nguyệt mà dịch là ‘Ngày tháng Văn Lang’ là trật rồi. Ta nghe chữ ‘Kinh Xuân Thu’ mà hiểu là bộ Kinh về mùa xuân và mùa thu thì chẳng có ý nghĩa gì. Thời cổ chưa dùng chữ lịch sử nên dùng 2 mùa xuân và thu tượng trưng cho thời gian là 4 mùa xoay vần nghĩa là những gì đã trải qua của 1 dân tộc, 1 đất nước, hay 1 con người trong 1 thời gian nào đó, tức là lịch sử vậy. Chữ nhật nguyệt ở câu thơ này cũng vậy; nó chỉ yếu tố động trong quốc gai nghĩa là triều đại. ‘Văn Lang Nhật nguyệt’ phải dịch là ‘Triều đại Văn Lang’ mới đúng. (Lang = Vương) và vế đối trong câu thơ là: sự chỉ định yếu tố tĩnh của quốc gia là lãnh thổ mà người xưa gọi là sông núi, sơn hà ; Câu “Thục Sơn Hà” đã chỉ rõ nước Thục là đồng nghĩa của Quốc Tây hoàn toàn đúng với truyền thuyết.

Tóm tắt:

Hùng Chiêu Vương – Quốc Tiên Lang cũng là ông Tây Bá; Cơ Xương , Chu Văn Vương cũng là Lang Liêu, An Dương Vương, cổ Thục và bà Âu Cơ trong truyền thuyết Bọc trăm trứng .

Chiêu vương và Chu vương là cận âm rất dễ nhận ra , truyền thuyết chỉ thêm chữ Hùng vào để xác định dòng giống mà thôi.

Văn Lang và Âu Lạc là 2 tên của 1 quốc gia và chính là ‘Trung Hoa’ của thiên hạ thời nhà Chu.

Không có nhận xét nào: