Thứ Ba, 15 tháng 10, 2019

Cây tre cứu người

1. Cứu tô sâm
Theo hai cuốn sách thuốc bí truyền của cung đình nhà Nguyễn là Nguyễn Phúc tộc dược minh y kính và Nguyễn Phúc tộc y gia truyền thế thường hành, có tới hơn 200 vị thuốc từ cây tre, có thể chữa được nhiều bệnh tật của dân chúng, thương tật của quân sĩ trên chiến trường và làm đẹp cho các bà hoàng trong cung cấm.
Tôi sinh ra sau một lũy tre. Mười năm đầu đời sống với tre. Ăn, ở, chơi bời, cái gì cũng gắn với tre, bị đánh đòn cũng bằng roi tre. Tre thân thiết với cuộc sống người dân nông thôn miền Trung chúng tôi như cơm ăn áo mặc, như cha mẹ như chị em như bè bạn. Thân thiết nhưng không thấy quan trọng.
Lớn lên đi học thấy tre tràn ngập trong văn chương. Người ta đã viết quá nhiều về cây tre, từ cây tre của Thánh Gióng đến cây tre vót chông đánh giặc, sách vở thơ phú cổ kim đều dành cho cây tre một vị trí trân trọng. Tre nuôi nấng chở che cho bá tánh, tre là bạn của ẩn sĩ, tre cao khiết bên cạnh thánh hiền.
“Vị xuất thổ thời tiên hữu tiết/Đáo lăng vân xứ dã hư tâm”, một cao sĩ nào đó thời xưa đã làm hai câu thơ (câu đối) quá hay như thế về cây tre: Chưa nhú khỏi mặt đất đã có khí tiết (tiết: cũng có nghĩa là đốt tre), lên đến tận mây mà lòng vẫn trống không (hư tâm: cũng có nghĩa là rỗng ruột); tiết tháo của Khổng tử, vô vi của Lão tử, sự không chấp của Thích Ca “đồng nguyên” trong một cây tre.
Còn tre của Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Tú hoa dã trúc tam xuân hảo/Tinh nguyệt minh song nhất thất hư” (Xuân đán cảm tác), ông Đinh Gia Khánh dịch “Trúc hoang, hoa đẹp, ba xuân tốt/Cửa sáng, trăng trong, nhà trống trơ”. Theo tôi dịch như vậy không lột được ẩn ý sâu xa của hai câu thơ. Đặt dấu phẩy giữa “trúc hoang” và “hoa đẹp” làm hỏng câu thứ nhất, đặt dấu phẩy giữa “cửa sáng” và “trăng trong” làm hỏng luôn câu thứ hai. “Tú hoa dã trúc” chỉ là một, không phải là hai. Ở đây chỉ có tre thôi, Nguyễn Bỉnh Khiêm coi tre chính là hoa. Nếu hoa bên cạnh tre ở đây thì chỉ là câu thơ tầm thường. Không phải Nguyễn Bỉnh Khiêm tùy hứng coi tre là hoa, mà từ xa xưa cha ông ta đã gọi tre là “Quảng lịch thảo” hay “Quảng lịch hoa”. Cũng như vậy, ở câu thứ hai: song cửa và trăng không phải là hai thứ, mà “tinh nguyệt minh song” chỉ là cái song cửa, cái song cửa đọng ánh trăng tinh khiết mà thôi. Trạng Trình vốn coi tre là một thứ trân quý.

Có một chuyện bên lề không rõ thực hư:  Ông Nguyễn Phúc Ưng Viên hỏi tôi cậu có biết sau khi Hoa Đà mổ vết thương rồi cạo chất độc ngấm vào xương của Quan Công, ông ấy rịt vào đó thứ thuốc gì không, tôi nói tôi làm sao biết được. Ông bảo đó là “Phùng ma tán”, thuốc này được làm từ gốc tre già ngâm bùn (tre ngâm bùn gọi là “trúc nịch”). “Phùng ma tán” là thuốc “thiện trị khẩu thương bất hiệp” (đặc trị vết thương không lành).

Trong loạt bài Bí ẩn trầm hương (Thanh Niên, 4 - 7.1.2011), chúng tôi có đề cập đến lời của ông Nguyễn Phúc Ưng Viên “giá trị của tre không thua kém gì trầm”. Đó vẫn là một lời khiêm tốn, có phần thiếu công bằng đối với cây tre. Tri thức về cây tre được Nguyễn Bỉnh Khiêm cung cấp, trên cơ sở đó nhà Nguyễn đã có 400 năm khảo nghiệm và sử dụng trên mọi lĩnh vực của đời sống và quốc phòng, đúc kết thành pho y lý ghi trong hai cuốn sách thuốc bí truyền của dòng họ: Nguyễn Phúc tộc dược minh y kính và Nguyễn Phúc tộc y gia truyền thế thường hành.
Với những công dụng chữa bệnh kỳ diệu, cây tre còn được các Chân y ngày xưa gọi là “Cứu tô sâm”, tức là một thứ sâm cứu người. Y lý bí truyền của nhà Nguyễn tổng kết có trên 200 vị thuốc từ cây tre. Toàn thân cây tre, không có bộ phận nào không có tác 
dụng chữa bệnh. Người Việt Nam ta sống với tre, sinh tồn với tre, vì sống với tre nên ít bệnh tật. Tre chữa bệnh đề cập ở đây là tre mỡ và tre gai, hai loại tre được trồng phổ biến ở miền Trung nước ta.
Ông Viên nói ngày xưa trị thương cho quân đội làm gì có các thứ giống tây y sử dụng như ngày nay, nhưng người lính bị thương do kiếm đâm đao chém, bị bỏng nặng do hỏa công, đều được chữa trị hữu hiệu bằng “trúc nịch” và các bộ phận khác của cây tre phối hợp với một số thảo dược. 
Chúng ta đều biết người bị bỏng nặng sẽ bị sốc huyết tương mà chết, tây y chỉ chữa được nếu bỏng không quá nặng. Cha ông ta trị bỏng, dùng “trúc tâm” (là đọt tre chưa xòe ra thành lá) kết hợp với cây chuối sứ con. Chuối con xắt lát giã nhuyễn vắt lấy nước. Đọt tre cũng hơ nóng giã nhuyễn vắt lấy nước. Hai thứ nước này trộn chung lại bôi đều lên vết bỏng, sẽ chống được sốc huyết tương, bảo toàn và làm hồi sinh các mạch máu. Sau khi bôi, đắp xác chuối và xác đọt tre lên vết bỏng, mỗi ngày thay một lần, ban đêm khi ngủ lấy lá chuối non hơ ấm quấn lại. Để vết thương mau lành, có thể kết hợp thêm với “trúc nịch”. Dùng phương cách này trong ba ngày sẽ ổn định. Sau khi lành, sẹo để lại rất giới hạn. 
“Trúc tâm” kết hợp với trầm hương, rễ tre và dịch của cây chuối hột chế ra một loại thuốc làm tái tạo men ruột cho người bị thương hàn, đồng thời cũng dùng làm thuốc trị bỏng và cầm máu; phối hợp với chè, trắc bá diệp, bồ công anh… để trị thủng ruột non do kiết lỵ nặng, trị chứng chảy máu cam kinh niên, chứng hơi thở nặng mùi hôi hám và trĩ ra máu nhiều.
Rễ tre tưởng là thứ vô dụng chỉ làm xấu đất, nhưng ông Ưng Viên bảo không. Nó là “trúc căn”, không những không làm xấu đất mà ngược lại nó làm tốt đất, bằng chứng là xung quanh rễ tre “tập hợp” rất nhiều giun dế. “Trúc căn” có tác dụng kiện tỳ trường vị, thanh can dưỡng tạng, rất tốt cho cơ thể. Rễ tre non có thể dùng làm dưa hoặc làm bánh, ngày xưa ở một số vùng miền Trung có món bánh phất làm bằng rễ tre non. Dưa rễ tre non hoặc bánh phất ăn vừa ngon vừa trợ tiêu hóa, cân bằng cường toan, giúp men ruột non tốt và giúp ruột non thủy phân thông suốt trực tiếp vào mạch máu.
Rễ tre (“trúc căn”) còn gọi là “lạp bát”. Nếu đem rễ tre non nấu cháo với vài loại cá chép hoang dã (cá chép vàng và đen) cùng một số rau rừng thì gọi là “Lạp bát thang” hoặc “Lạp bát hoa”, ăn rất ngon, vừa bổ dưỡng vừa chữa được nhiều bệnh và giải được độc.
Rễ tre non mọc xen dưới gốc chuối, mít, gọi là “trúc liên tiêu”, có thể dùng để bào chế thuốc trị chứng đau nửa đầu, chứng đau râm ran trong bụng sau khi bị tả lỵ và thương hàn. Lá tre, gọi là “trúc diệp”, trong tự nhiên giúp cân bằng sinh thái, khi rơi xuống đất có tác dụng khống chế, thuần hóa các vật ký sinh trong môi trường. “Trúc diệp” sát tạp khuẩn nên dùng để khử độc trong ẩm thực, gói bánh đặt một lớp lá tre giữa hai lớp lá chuối sẽ làm bánh ngon hơn và để được lâu hơn. Lá tre còn lông gọi là “trúc mao diệp”, có thể dùng làm thuốc trị đẹn, nhiễm trùng họng, nhiễm trùng hô hấp, nhiễm trùng sinh thực nữ; nó còn có thể trị được chứng trào ngược dạ dày và chứng ách nghịch (nấc cụt).
Chỉ sơ sơ vài bộ phận “râu ria” của cây tre, những thứ tưởng như bỏ đi, đã thấy quý. Những bộ phận khác của cây tre còn quý hơn nhiều, trong đó có những chứng bệnh các Chân y ngày xưa bảo phi tre không cách gì chữa khỏi. Theo sách Nguyễn Phúc tộc dược minh y kính, các chứng như: “tam quan tuy tuyệt uất đàm bạo nộ”, bệnh biểu hiện ở ba mạch quan trọng trên cơ thể đã chết, đàm kéo lên như cuồng phong (đàm ở đây là dịch bôi trơn của tế bào trong cơ thể đồng loạt tiết ra), chứng này là nan y, thầy thuốc ngày trước bó tay nếu như không có dược liệu từ cây tre; hoặc chứng “Lục mạch tuy đều hình nhục thoát tử vô sầu tuyệt”, biểu hiện ở 6 mạch đều bình thường nhưng cơ thể càng ngày càng gầy đi, trạng thái chờ chết nhưng không sợ chết, chứng này tây y gọi là “lao nhiệt”, đông y gọi là “lao sác”. Bệnh “lao sác” này dùng thuốc từ tre cứu được.
2. Dày đặc những vị thuốc 
Có quá nhiều các vị thuốc trong một cây tre, từ rễ tre đến gốc tre già, từ măng đến lá, từ mắt đến gai...
Việc dùng tre đặc trị những bệnh nan y cần sự bào chế công phu của thầy thuốc. Trong phạm vi một bài báo, chúng tôi chỉ xin giới thiệu một số phương thuốc trị bệnh hoặc món ăn tốt cho sức khỏe từ tre dễ áp dụng.
Măng tre (“trúc tử”) là món ăn khoái khẩu thông dụng của người Việt, nhưng dân ta cứ nghĩ măng tre chỉ được cái là ăn ngon chứ không “bổ béo” gì. Nghĩ như vậy là nhầm to. Ăn măng thường xuyên cực kỳ tốt cho hệ tiêu hóa, hệ tuần hoàn, tim mạch và giải độc. Mứt măng là món quý, được làm bằng măng tre thái mỏng, bản to như sợi mì quảng, cột chùm lại cho vào mật mía nấu sôi, để chừng một tiếng là lấy ra được. Mứt măng tốt cho sức khỏe đến mức ngày xưa ngựa chiến quân đội nhà Nguyễn mỗi tuần được cho ăn một lần.
- Măng và ruột tre non nấu vịt cùng tương đậu mèo, được gọi là món “Vịt chưng tương truyền chủng”, ăn vào tăng khả năng có con ở người hiếm muộn. Măng tre cùng xuyên bá mẫu, tử uyển… dùng trong bài “ôn phế chỉ khái” đặc trị được bệnh viêm amidale, ho.
- Măng tre phối hợp với xuyên khung, tiếp cốt thảo… cũng là phương “thiện trị thương khẩu bất hiệp” và bỏng nặng.
- Các thang thuốc “thiện trị” phụ khoa như “Hoàng hoa chỉ thống”, “Hoàng hoa bảo sản”, “Hoàng hoa dương xuân”… đều có măng tre.
- Măng tre vừa nhú gọi là “trúc nữ”, là món ăn tuyệt vời cho nữ giới. Dùng “trúc nữ” hầm với dương nhục (thịt dê) hoặc lao nhục tử (thịt bê), phụ nữ ăn vào phơi phới lòng xuân, rất tốt cho tâm sinh lý.
Trong ẩm thực truyền thống không chỉ có măng mới ăn được mà tre cũng có thể ăn tốt.
Cơm lam không chỉ là món ăn lạ miệng, nó cũng là món ăn chữa bệnh. Ăn cơm lam khỏe người hơn cơm thường và bài trừ được lam chướng, là do ruột ống tre tiết ra một chất gọi là “trúc nhự” ngấm vào cơm. “Trúc nhự” có tác dụng “điều quân khí mạch, điệu huyết dưỡng vệ”, làm kinh mạch điều hòa, khí huyết thông suốt, da dẻ tươi tắn. Dùng ống tre làm cơm lam nếu dùng 1 lần sẽ phí phạm, mà phải sử dụng đến lần thứ 4 mới thôi. Sau khi dùng đến lần thứ 4, cái ruột của ống tre cũng không được bỏ, nó chính là “trúc muội”, rất quý. Lấy một phần ba lớp ruột ống tre này, đem cài vào dưới đáy hoặc phía trên lọ mắm, cũng có thể sắp dưới đáy nồi kho cá. Ăn thứ mắm và cá có “trúc muội” sẽ làm cơ thể khỏe mạnh, không bao giờ bị bệnh đường ruột.
Do đó chớ nên coi thường cái ống tre. Bánh kẹo để trong ống tre sẽ thơm ngon hơn. Dầu phộng sống đựng trong ống tre 1 tuần hoặc lâu hơn trước khi đem dùng sẽ ngon hơn, trợ tiêu hóa và chữa được bệnh viêm amidale. Nước uống đựng trong ống tre cũng tốt hơn đựng trong các thứ bình khác. 
Đừng tưởng cái gai tre chỉ dùng mỗi một việc là... lể ốc. Nó là “trúc thích”, một vị thuốc “quy tỳ bình vị, thiện trị tiện đường” (chữa bệnh tiểu đường), đồng thời tăng cường độ bền bỉ của men ruột. Lấy chùm gai tre nướng sơ qua, hấp vào nồi xôi (hoặc cơm), dịch gai tre sẽ “thăng hoa” xuống làm cho xôi trở nên mướt rượt, ăn rất thơm ngon, lại chữa được bệnh.
Hồi nhỏ tôi thường thấy người dân quê hứng sương đọng lên lá tre để nhỏ mắt cho trẻ con bị đỏ mắt, hỏi ông Ưng Viên việc này có phải chỉ là việc “làm phép” không, ông bảo nó là “Thái dương thủy nguyệt lộ” đấy. Đó là những giọt sương đọng trên lá tre qua một đêm trăng. Không phải người ta “làm phép” đâu, trong những giọt sương này có những phân tử li ti của lá tre, chính nó là thuốc chữa đau mắt. Còn những đêm trăng thường là những đêm trong lành, không có chướng khí lẩn vào. Sương mùa xuân đọng dọc thân tre cũng là thuốc, gọi là “Trúc lộ”, có thể dùng bào chế thuốc nhỏ mắt và chữa viêm họng.
Ở quê tôi, những gốc tre già thỉnh thoảng được đào lên phơi khô làm… củi đun, không hề biết nó là “trúc thạch”, một vị thuốc quý (khi ngâm bùn biến thành “trúc nịch” chế ra “Phùng ma tán” nói ở phần trước). Đó là đoạn gốc tre già sau khi cây tre bị đốn, chưa chết hẳn mà vẫn còn lốm đốm xanh. Đối với tre thường, “trúc thạch” là đoạn nằm sát đất, nhưng đối với cây tre trổ hoa thì toàn thân là “trúc thạch”. Trong “trúc thạch” có những hạt xoắn nằm trong mắt tre, gọi là “trúc tạo”. “Trúc tạo” dùng làm gia vị ăn uống, trị được chứng hơi thở hôi hám và ung xỉ (hỏng răng), đồng thời dùng làm chế phẩm làm đẹp cho nữ giới (sẽ nói ở phần sau). 
Chưa hết, trong gốc tre già còn có “trúc bội”, đó là cái mắt nằm dưới mặt đất. “Trúc bội” được dùng để bào chế thuốc trị chứng tê mỏi ống xương chân cho phụ nữ, kể cả khi chân nặng như chì với gót chân đau nhức không đi đứng được. Nó còn trị được bệnh cho người già mông nặng, đi đứng cử động khó khăn; trị viêm tuyến tiền liệt và uất nhiệt bí tiểu tiện. “Trúc bội” còn dùng chữa các bệnh phụ khoa và bổ khí huyết (bổ hơn đương quy), đồng thời còn có tác dụng “phá huyết khối” (làm tan huyết đóng khối do chấn thương).
Trên thân cây tre, giữa hai lóng là đoạn có mắt tre. Trong khi phát triển, thỉnh thoảng cây tre bị khựng lại, đoạn có mắt trên sẽ vẹo một chút và ra rễ xung quanh. Đoạn này gọi là “trúc hàm” (hoặc “trúc võng”), là một vị thuốc. Nó có tác dụng “cố thận, thanh vị, dưỡng tâm, tả can”, chữa được bệnh tụ huyết, loét dạ dày, trào ngược dịch vị, làm cho mạch máu gan thông suốt.
Những mắt tre bị hỏng (thường do kiến đục), dân gian gọi là tre mắt kiến. Chỗ mắt hỏng này đọng nước gọi là “trúc hư”, dùng bào chế thuốc nhỏ mắt, còn gọi là “trúc hoàng lâu”.
Những mắt tre có gai chùm gọi là “trúc thần”, dùng bào chế thuốc trị phụ khoa, những biến chứng do phá, sẩy thai; các chứng đau nhức trong ống xương và toàn thân.
Nếu là mắt tre non thì gọi là “trúc nha”, dùng bào chế thuốc trị bệnh ngoài da. Đặc biệt, “trúc nha” kết hợp với trầm hương tự nhiên và chè sẽ cho ra một loại mỹ phẩm làm đẹp tự nhiên cho phụ nữ.
Trên những lóng tre có các mắt nhỏ xíu viền xung quanh, cái này gọi là “trúc hoành khẩu”. “Trúc hoành khẩu” bào chế với trầm hương tự nhiên, lá và cọng chè, dịch trái ổi, lựu, khế, bưởi, sâm, thành một loại thuốc có thể cứu người hôn mê do đường huyết và huyết áp cao quá mức, đồng thời trị chứng sốc huyết tương “nhũ huyết” rất nguy hiểm đối với bệnh nhân bị bỏng nặng... 
3. Làm đẹp cho các bà hoàng và chữa bệnh nan y 
Ngày xưa không có mỹ phẩm đắt tiền như bây giờ, không có bác sĩ thẩm mỹ chuyên hút mỡ căng da, các bà hoàng hậu, công chúa, cung tần mỹ nữ làm đẹp bằng cách nào? 
Ông Ưng Viên bảo cách làm đẹp của các bà hoàng và cung tần mỹ nữ hoàn toàn bằng những thứ trong tự nhiên, không hề dùng bất cứ một thứ hóa chất nào nhưng hữu hiệu hơn nhiều so với các phương cách Âu - Mỹ hiện nay. Đơn giản và có hiệu quả nhất là bằng các chế phẩm từ cây tre.
Để chống dư thừa mỡ, nhất là vùng bụng, dùng kết hợp ba thứ: “trúc tạo”, “trúc nha” và “trúc nhự”. Ba thứ được trích lấy dịch, trộn ba thứ dịch ấy lại bôi lên xác trúc nhự đã lấy hết dịch. Đem chế phẩm này trải lên vạt giường tre, người nằm ép bụng xuống. Bên dưới, lấy than đốt lên xông, tốt nhất là dùng than ổi, thứ nhì là than đước.
Tác dụng: Làm săn cơ, khi cơ săn mỡ sẽ được đào thải qua hô hấp da; ba vị thuốc quý này còn làm ổn định mạch máu dưới hệ tiêu hóa, tác động đến hệ thần kinh thực vật, làm thông suốt kinh mạch, khiến cho cơ thể thon chắc, khỏe khoắn.
“Trúc nhự” là dịch tre non, cách lấy khá đơn giản, dễ nhất là cắt sâu vào thân cây tre non ở vị trí hai phần ba cây tre tính từ dưới lên, sau đó bẻ cụp cây tre xuống, cột vào vị trí bẻ cụp một dụng cụ (ống tre hoặc chai lọ) để hứng dịch. Sau một đêm đã có dịch chảy ra dùng được. Trúc nhự có mùi thơm rất dễ chịu, vì vậy mà cơm lam ngon hơn cơm thường. Lấy dịch “trúc tạo” và “trúc nha” phức tạp hơn, chủ yếu bằng phương pháp đốt nóng lên. 
Làm đẹp cho phụ nữ còn có một loạt các chế phẩm khác từ tre dùng để xoa, bóp hoặc làm các món ăn từ “trúc nữ”, “trúc liêu giao”, “trúc phấn”, “trúc bì”... Nhiều chế phẩm từ tre đặc trị bệnh phụ khoa cũng góp phần cho việc làm khỏe làm đẹp nữ giới.
Dân quê miền Trung mỗi khi bị sốt nóng lạnh thường lấy một đoạn tre tươi đốt lên hứng lấy nước uống. Ông Ưng Viên nói, thứ nước đó là “trúc lịch”, có tác dụng trị bệnh hư hỏa (cơ thể sốt cao nhưng trong người lạnh run) và chứng viêm sinh thực nữ... Dân gian băm cả đoạn tre bỏ vào ấm sắc uống cũng hạ được sốt. Cũng có thể băm nhỏ đoạn tre, gồm cả mắt, nướng lên ép lấy nước, cũng có tác dụng tương tự, thứ này gọi là “trúc lịch sái”. 
Nếu là tre non nướng chín vắt lấy nước, gọi là “trúc liêu giao”, được dùng để bào chế mỹ phẩm, làm gia vị ăn uống, hương liệu xông. “Trúc liêu giao” kết hợp với trầm hương thiên nhiên, chè, nếp dùng để trị chứng đau một bên đầu, xây xẩm kinh niên, huyết áp cao lẫn huyết áp thấp, chứng tỳ vị hư hàn ẩu thổ ẩu tả. Nó cũng có thể dùng phối hợp với một số vị thuốc khác để trị chứng liệt dương, lãnh cảm, trị bệnh tim và thống phong.
Măng vòi tre đài nướng vắt lấy nước gọi là “trúc thượt”. “Trúc thượt” phối hợp với mật ong, chè và trầm hương tự nhiên dùng bào chế thuốc trị các chứng ung nhọt độc, mạch lươn (rò hậu môn) ở phụ nữ.
Nhánh tre đài chỉ có gai mà không có lá, có măng nứt ra, cả nhánh tre này gọi là “trúc lự”, dùng bào chế thuốc trị ban và thương hàn.
Cái vỏ tre cũng hữu dụng không kém. Phần ngoài cùng là “trúc phấn”, dùng làm mỹ phẩm, thuốc sát trùng và điều kinh nữ. Bóc đi lớp trúc phấn, còn lại là “trúc bì”, cũng dùng làm mỹ phẩm, làm thuốc trị vết thương và làm dịch bôi cho sinh thực nữ.
Ruột tre tươi gọi là “trúc ẩn”, chuyên trị bệnh phụ nữ (huyết trắng, nấm ký sinh...), có thể hấp cơm hoặc chưng với đậu đen. Ruột tre sau khi chưng với đậu đen, bào chế thành thuốc bôi hoặc dùng nấu canh với cá, phụ nữ ăn rất tốt. Ruột tre ngâm muối gọi là “trúc diêm”, ngoài việc chữa bệnh phụ khoa còn dùng bào chế thuốc trị viêm họng, trị liệt dương. 
Hoa tre, gọi là “trúc ba” hoặc “trúc cái”, là vị thuốc chữa được nhiều bệnh. Trong hai loại tre làm dược liệu, chỉ có tre mỡ ra hoa, còn tre gai thì không (trong các loài tre khác có loài ra hoa quanh năm nhưng không có tác dụng chữa bệnh). Tre mỡ thường sống đến 60-70 năm, cây nào tồn tại đến cuối đời đều ra hoa, sau khi ra hoa thì tre sẽ chết. 
“Trúc ba” là vị thuốc cấp trị hen suyễn, làm cắt cơn cho những người bị hen suyễn nặng. Nó còn đặc trị bệnh hôi miệng, chế phẩm thuốc từ hoa tre dùng ngậm trị được bệnh amidale đã viêm mủ mà kháng sinh không còn tác dụng. Đặc biệt, hoa tre xông cùng với trầm hương thiên nhiên có thể tái tạo khứu giác của người bệnh.
Như đã đề cập, cả cây tre có hoa (trừ hoa) đều được gọi là “trúc thạch”, nhưng nếu dùng toàn thân cây tre này, kể cả hoa, băm ra sắc thành thuốc, gọi là “trúc ngọc lộ”. “Trúc ngọc lộ” phối hợp với một số dược liệu khác bào chế thành thang thuốc chữa được căn bệnh “Lục mạch tuy đều hình nhục thoát tử vô sầu tuyệt” nan y nói ở phần trước. 
Về căn bệnh nan y thứ hai “tam quan tuy tuyệt uất đàm bạo nộ”, có thể dùng “trúc nữ”, “trúc liêu giao”, “trúc liên hổ” bào chế với một số thảo dược khác, tất cả không quá 12 vị, nhưng các vị từ tre vẫn là vị quân (vị thuốc chủ đạo) để chữa trị.
“Trúc liên hổ” là chất thải trên mặt đất của một giống trùn ở dưới đất giữa bụi tre, chuối và mít. Ngoài công dụng nói trên, nó cũng được dùng hầm với thịt bê (lao nhục tử) có thể phối hợp trị bệnh lao sác.
Trong một bụi tre thường có những cây tre đực săn chắc, thường được chọn làm cán cuốc, làm đòn gánh, đòn xóc hoặc đan lát những dụng cụ lâu bền. Sở dĩ gọi là tre đực vì nó chỉ đứng một mình, dưới gốc không mọc măng, trên cây không có măng vòi. Cái mắt nào của tre đực bị côn trùng đục làm hỏng biến thành một cái rốn lõm sâu vào, cái mắt đó gọi là “trúc thị”. “Trúc thị” dùng làm thuốc trị ban, làm tan huyết khối và làm mỹ phẩm.
Đối với các dược liệu trị bệnh từ cây tre, dân tộc ta có hàng ngàn năm tích lũy kinh nghiệm, cho nên dân gian sử dụng rộng rãi tre trong ăn uống và chữa các bệnh thông thường, chỉ có lợi chứ hoàn toàn không có hại gì cho sức khỏe, vì toàn bộ cây tre không có bộ phận nào độc hại. Tuy nhiên, các vị thuốc từ tre bào chế cùng với các dược liệu khác để đặc trị, nhất là đặc trị các bệnh nan y, nhất thiết phải do thầy thuốc giỏi thực hiện, vì mặc dù tre không độc hại, nhưng do sự tương tác giữa các dược liệu với nhau, nếu không bào chế đúng cách đúng liều đúng lượng có thể dẫn đến kết quả không như mong muốn. 
4. Quý từ trong ra ngoài
Không những cây tre quý, mà dường như những gì “bám” vào cây tre cũng quý.
Nhà báo Nguyễn Minh Sơn (Báo Sài Gòn tiếp thị) kể tôi nghe, người Pu Péo ở bản Tiến Xuân, huyện Bắc Mê, Hà Giang có món độc đáo chỉ dành đãi khách quý đến thăm. Đó là nước tầm gửi cây tre nướng trên bếp than, anh Sơn nói đây là phương thuốc bí truyền của họ, uống vào rất tốt cho sức khỏe.
Ông Ưng Viên bảo đây chính là “Quảng lịch ký sinh”, một kỳ thảo trong thiên nhiên. Tầm gửi trên cây dâu tằm, gọi là “Tang ký sinh”, cũng quý, nhưng đứng thứ nhì. Tầm gửi bám ở đoạn từ 2/3 cây tre trở lên là tốt nhất, bám ở dưới không tốt bằng. “Quảng lịch ký sinh” có tác dụng “điều khí thanh phế, thiện trị hàn tà, đả độc dũ phong”, rất tốt cho phổi, chống được tà khí làm lạnh phổi và giải độc. Nó còn có tác dụng bình quân năng lượng trong cơ thể, tốt cho thận và mạch máu. Chính vì vậy nó còn là vị thuốc ngừa và trị được chứng thượng mã phong. “Quảng lịch ký sinh” có thể sắc hoặc nướng lấy nước uống, làm gỏi ăn thì rất ngon; uống hoặc ăn nó sẽ không bị thượng mã phong, tức là về mặt đề phòng chứng thượng mã phong, dùng “Quảng lịch ký sinh” là hữu hiệu.
Nhưng trị thượng mã phong thì rất khó, vì nó là chứng đứt mạch máu não gây tử vong cấp, nguy hiểm hơn nhiều so với các chứng đột quỵ hoặc đứt mạch máu não thông thường. Để trị bệnh này, phải kết hợp “Quảng lịch ký sinh” với “Trúc thượng ngự”. Hai thứ kết hợp sắc lấy nước trị bệnh.
“Trúc thượng ngự” là đọt của cây tre (khác với “trúc tâm” là đọt của lá tre). Đó là đoạn 1/3 của cây tre tính từ trên xuống. Ngày xưa các bà vợ có ông chồng ham mê tửu dục thường lấy vỏ “trúc thượng ngự” vót thành kim giắt lên tóc, phòng khi chồng uống rượu quá nhiều, thận bị lạnh, nhưng không kìm được chăn gối, dễ đứt mạch máu gây thượng mã phong. Khi ấy, lấy trâm châm liền vào huyệt nhân trung, vào xương cùng (xương cụt) và huyệt đồng tử liêu nằm ở hốc mắt (để không cho đồng tử nở ra). Sau đó lấy nước thuốc nói ở trên nhỏ vào mũi và miệng, xác suất cứu được mạng khoảng 70%.
Hai thứ này còn chữa được bệnh “thương phòng” (còn gọi là “phòng thử”). Đàn ông khi ra mưa ra gió bị nhiễm cảm, những lúc ấy hệ đề kháng của cơ thể tăng lên để dồn sức chống đỡ. Do hệ đề kháng tăng lên nên tạo cảm giác ham muốn tình dục. Trường hợp đó mà chăn gối thì 70% đàn ông sẽ ngộ chứng thương phòng. Khác với thượng mã phong gây tử vong cấp, thương phòng gây tử vong chậm với triệu chứng: người bắt đầu yếu đi chỉ sau 2-3 tiếng chăn gối, tiếng nói yếu, môi xanh, kế tiếp mặt xanh như tàu lá, xuất hiện “tán đại nguyên dương” (nguyên khí của cơ thể đồng loạt phát tán) làm khắp người lạnh buốt, nhưng mồ hôi thì ra dầm dề kể cả trong mùa đông. Sớm thì 2 ngày, chậm thì 11 ngày sẽ tử vong. Bệnh này dùng “Quảng lịch ký sinh”, “trúc thượng ngự” phối hợp với một số vị thuốc khác chữa rất hữu hiệu.
Dường như những gì “bám” vào cây tre đều quý, trong đó có kiến và mối. “Trúc chương - lang tử” là trứng của một loài kiến và mối sống trong thân cây tre khô. Dùng kết hợp với kiến cao cẳng (loài kiến mang ký sinh tạo trầm hương tự nhiên), bào chế thành thuốc trị các chứng tai biến méo miệng, ăn nuốt nhễu nhão khó khăn, đớ lưỡi không nói rõ tiếng, sặc khi uống nước, hốt khóc hốt cười và thường bí tiểu tiện...
Một loài rắn nhỏ sống trong ruột tre hư, ban đêm thường nhảy lách tách trong bụi tre để kiếm mồi, rắn đó gọi là “Trúc xà” (còn gọi là “Trúc điểu” hoặc “Trúc hoa xà”). “Trúc xà” cực độc nhưng cực quý, dùng để bào chế thuốc trị chứng có nguy cơ gây mù mắt, làm lành vết thương, trị chứng hư phổi, nhiễm trùng thận do sởi, đậu mùa...
Và như mọi người đều biết, tre được người dân Việt Nam từ xưa tới nay dùng làm vật kiến trúc, làm công cụ lao động và dụng cụ trong nhà, ngay cả ở đây tre cũng chứng tỏ tính ưu việt so với nhiều loại vật liệu hiện đại.
Điều kỳ lạ là có thứ vật liệu từ tre làm thuốc cũng được mà làm vật liệu xây dựng cũng được, chẳng hạn như tre ngâm bùn. Tre ngâm bùn lâu ngày gọi là “trúc bồi” (khác với “trúc nịch” là gốc tre già ngâm bùn), có tác dụng “kiện tỳ trường vị” dùng để bào chế thuốc trị chứng ăn khó tiêu, bụng luôn phát ách. Trong xây dựng, nó chính là vật liệu dùng để làm nhà, không bị mối mọt và rất lâu hư hỏng, bền chắc hơn sắt thép. Dùng cọc tre đóng dưới móng nhà nơi có nước phía dưới là sự độc đáo của kỹ thuật xây dựng Việt Nam, vì những cái cọc đó gần như là vĩnh cửu.
Trong các công trình kiến trúc cổ, trong đó có các tháp Chăm, ngày xưa không có vữa liên kết như ngày nay nhưng kết cấu nền móng và tường vô cùng bền chắc, đặc biệt là chống được sét và không bị rêu phong. Bởi tiền nhân đã dùng “Trúc hồ”, còn gọi là “Trúc ngọc cương”, là chất dịch từ cây tre ngâm giã nhuyễn kết hợp với dịch nước ô dước, bồ lời, vôi sữa, mật mía... Thứ vật liệu xây dựng đó khiến các nhà nghiên cứu ngày nay phải kinh ngạc.
Còn rất nhiều, rất nhiều thứ vô giá khác từ cây tre mà trong phạm vi một bài báo chúng tôi chỉ giới thiệu một cách khái quát và sơ sài. 
Lâu nay chúng ta quá coi thường cây tre trong khi tre là nguồn tài nguyên quý như châu báu. Mấy chục năm qua, các lũy tre, các vườn tre ở miền Trung dần dần mất đi, không mấy ai có ý định khôi phục. Sự đối xử phũ phàng đối với cây tre gần như là một sự phản bội. Nhưng rất may mắn là khác với trầm hương, cây tre chưa đến mức đứng trước nguy cơ tuyệt chủng.
Theo ông Ưng Viên, chúng ta hoàn toàn có thể khôi phục và phát triển tre của đất nước, ở cả nông thôn và thành thị.
Ở thành thị, trong phạm vi gia đình, nhà nào có đất nên trồng một bụi tre mỡ, ai không có đất cũng có thể trồng một bụi tre gai trong chậu kiểng. Cần lưu ý, tre mỡ là loại tre to có gai. Còn tre gai, không giống như tên gọi, nó là loại tre thân nhỏ nhưng... không có gai. Ở nơi công cộng, cứ cách 50 hay 100m nên trồng một khóm tre. Nơi nào rộng lớn, nên tạo một quần thể tre cho thành phố.
Ở nông thôn, cần khôi phục lại các lũy tre trong phạm vi làng xã, còn trong vườn của mỗi gia đình cần trồng nhiều bụi tre, kết hợp với chuối, mít, ổi và các loại cây ăn trái khác. Như đã nói, rễ tre không hề làm xấu đất, vấn đề là biết cách trồng xen sao cho tre và các thứ cây khác cây nào cũng có phần đất dinh dưỡng. 

Hoàng Hải Vân 
Nguồn: bloghoanghaivan

3 nhận xét:

Unknown nói...

Tôi thấy bài này quá hay, những bộ phận của Tre , Trong cuoc sống hằng, chỉ nghĩ rằng chỉ phục vụ cho việc xây cất nhà cửa hoặc đồ thủ công mỹ nghệ, không nó lại có tác to lớn về mặt y học đến vậy. Tôi mong rằng tác giả của tài liệu này, nếu được thi nên phổ biến thật cụ thể những bài thuốc quý từ Cây Tre ( những bài thuộc chốn cung đình quý giá ) vào đời sống thực tế của nhân dân để cứu giúp người trị bệnh ( vì minh không sợ rằng Tre sẽ tuyệt chủng bằng bất cứ giá nào)
Đôi lời chân thành

Cẩm Nang nói...

Chào bạn, nếu tôi muốn tìm hiểu sâu vè chủ đề này thì có thể tìm những tài liệu này ở đâu, mong bạn chỉ dùm. Rất xin ám ơn.

Hoàng Lạc nói...

Bạn hãy vào trang blog Hoàng Hải Vân để tìm tài liệu.