Thứ Ba, 8 tháng 12, 2015

Mật Mã Tây Tạng 2 (phần D)

CHƯƠNG 13
CHÚNG TA BỊ BỘ LẠC ĂN THỊT NGƯỜI BẮT RỒI
Trước mặt năm tên du kích, một nhân vật trông như tế sư mặc áo choàng đen, đội mũ lông chim, trang sức rực rỡ, mặt vẽ đủ thứ màu sắc, tay cầm con dao lóc xương nhọn hoắt, miệng lẩm bẩm niệm chú gì đó. Sau lưng tế sư có một chiếc bàn gỗ, đại khái lớn hơn bàn làm việc một chút, nhưng nhỏ hơn bàn bóng bàn, bên cạnh tế sư còn có mấy gã cao to lực lưỡng đứng ngạo nghễ, tay chắp sau lưng, ngọn lửa đỏ rực chiếu hắt lên làn da màu đồng cổ và cơ thịt rắn chắc của họ.
 Thạch trận
Con thú khổng lồ ấy hình dáng giống lợn, nhưng lại không có mõm nhọn răng nanh như lợn rừng, hình thể to lớn, bốn chân như bốn cái trụ, đứng sừng sững ở đó trông như con bò, mà không, có khi  còn lớn hơn bò nữa, chiều cao e rằng phải đến một mét bảy, gần như ngang với Trác Mộc Cường Ba. Mặc dù đã khôi phục ít nhiều thể lực, nhưng đối mặt với con quái nặng cả tấn này, Trác Mộc Cường Ba vẫn không khỏi cảm giác lực bất tòng tâm, một người một thú bốn mắt nhìn nhau, hai bên đều cảnh giác nhìn đối phương bằng ánh mắt dò xét. Một lúc lâu sau, Trác Mộc Cường Ba cảm thấy trong cặp mắt trâu kia cũng toát lên vẻ kinh hoảng giống như gã, nhìn bề ngoài, con vật này trông to lớn, nhưng trong mệng nó không có nanh sắc mà chỉ có răng hàm to tướng, chắc hẳn là một loại động vật ăn cỏ chứ không sai.
Thấy con vật không có ý đồ tấn công, Trác Mộc Cường Ba cũng táo gan dần lên, gã thử bước tới trước, miệng gầm gừ phát ra những âm thanh uy hiếp của dã thú, thân hình khổng lồ kia quả nhiên không chịu nổi khí thế ấy, không ngừng giật lùi về sau. Trác Mộc Cường Ba cũng không dám ép thái quá, nhỡ chẳng may con quái này mà nổi cơn điêm, chỉ cần húc khẽ một cái, chắc chắn gã sẽ bẹp gí dưới đất, tiếp sau đó dù không bị giẫm nát thành cháo thịt, thì cũng khó mà tránh khỏi gãy mấy khúc xương, đây là điều chắc chắn. Con vật khổng lồ kia cũng không phải thứ ngu xuẩn, sau mấy lần ướm thử , nhận ra khả năng tấn công của Trác Mộc Cường Ba còn thấp hơn nó tưởng lần, liền gấp nhiều lần liền ngó qua nhìn lại, đột nhiên chạy vòng qua trước mặt gã. Trác Mộc Cường Ba lấy làm kinh hãi, Sean vẫn còn đang nằm ngủ đằng kia, nếu bị con quái này giẫm cho một giẫm,  vậy chẳng phải là sẽ toi đời hay sao!
Con quái thú lợn chẳng ra lợn trâu  không ra trâu ấy nhìn bề ngoài thì béo mũm mĩm, song động tác lại nhanh nhẹn lạ thường, chỉ thoắt cái nó đã luồn ra khoảnh đất trống chỗ Sean đang nằm ngủ, rồi nằm ngửa ra lăn lộn như lên cơn động cỡn. Trác Mộc Cường Ba nhìn mà giật mình thon thót, đã mấy lần thân thể đại tướng ấy suýt chút nữa là đè lên người Sean rồi. Gã không ngừng huýt sáo, hai tay vung lên giả bộ muốn đánh hoặc vung vẩy khúc cây, nhưng con vật to đầu kia cứ như thể đã chắc chắn Trác Mộc Cường Ba không làm gì được nó vậy, cứ hờ hững như không mặc sức lăn qua lăn lại, không ngừng dầm mình xuống đống đất bùn. Thấy nó có vẻ cũng không định lăn lên người Sean, khúc cây trong tay Trác Mộc Cường Ba lại buông xuống, rồi gã bỗng chợt hiểu ra, chẳng trách khoảnh đất này lại không có gốc cây ngọn cỏ nào, thì ra là bị con quái vật này lăn lộn gây ra, xem ra đây chính là bãi tắm bùn của nó rồi.
Con trâu lợn đó lăn chừng mười phút rồi mới uể oải đứng dậy, đủng đà đủnh đỉnh lắc lư thân hình béo ú của nó. Trác Mộc Cường Ba biết, trên mình các động vật cỡ lớn như con này, trong các nếp nhăn trên da có rất nhiều côn trùng ký sinh, bọn chúng thường dùng cách tắm bùn hoặc tắm cát để giết chết hoặc đuổi lũ ký sinh trùng này đi, nếu không thì phải nhờ tới các sinh vật khác giúp đỡ. Có điều con quái vật kỳ hình dị tướng này thì đừng nói là nhìn thấy, cả nghe gã cũng chưa từng nghe nói đến bao giờ, không hiểu là lai lịch của nó thế nào.
Bảo vệ Sean, Trác Mộc Cường Ba không dám đi xa, chỉ hoạt động trong phạm vi có thể trông thấy được anh ta, đặc biệt là ban đêm, để đề phòng bọn dã thú tấn công, gã đốt liền bảy đống lửa, vây mình và Sean lại vào giữa. Anh chàng Sean này ngủ một giấc cũng thật dài, kéo suốt cả một ngày một đêm. Đến tận trưa hôm sau, anh ta mới tỉnh ngủ. Bốn bề hoang vắng không dấu chân người, đồ ăn được lại chỉ có một cái cây không biết tên gì, hai người bàn tính một hồi, cảm thấy cứ ở mãi đây cũng không phải là cách, lại còn không biết bọn Trương Lập giờ đang ở chỗ nào, cuối cùng quyết định tiếp tục mạo hiểm đi sâu vào rừng thử xem có thể tìm được mấy người bọn Trương Lập hay không, hoặc giả tìm được một con đường thông đến đô thị hiện đại, tóm lại là cứ phải thử vận may một phen còn tốt hơn là chết ở nơi rừng sâu hoang vắng không ai hay biết này.
Chỉ là dòng sông cuốn họ tới chỗ này cũng hết sức cổ quái, theo như Sean nói, nhìn từ xa thấy con sông này chảy theo đường cong, hơn nữa lại còn có rất nhiều chỗ ngoặt, nếu tiếp tục đi dọc theo bờ sông, chỉ sợ phải đi thêm quãng đường vòng dài gấp đôi, vậy là hai người liền chuẩn bị đủ nước, rời khỏi bờ sông, bắt đầu đi dọc một con đường thẳng xuyên qua rừng. Mặc dù không có thiết bị nhận biết phương hướng, nhưng với tri thức phong phú về mặt sinh tồn trong rừng của mình, Sean cũng có thể dựa vào một số loài thực vật và vị trí của mặt trời mà phán đoán ra phương hướng.
Hai người bắt đầu tiến bước, bọn họ bây giờ đã hiểu rõ làm sao tránh khỏi một số loài có độc và mãnh thú thường gặp, có điều nếu lại gặp phải bọn sinh vật không biết tên gọi là gì mà Trác Mộc Cường Ba gặp hôm trước thì tình hình cũng rất khó nói. Trác Mộc Cường Ba miêu tả lại con vật gã trông thấy cho Sean, nhưng anh ta ngẩn người ra một hồi lâu, nghĩ mãi cũng không nhớ ra đó là loài sinh vật gì, chỉ đành lắc đầu, nói có lẽ khi nào nhìn thấy thì mới biết được. Hai người cũng không biết mình đi được bao lâu, rừng sâu rậm rạp vô cùng, đâu đâu cũng thấy đủ các loài sinh vật kỳ quái, nhưng đi mãi cũng không thấy hy vọng thể ra khỏi khu rừng này. Về sau, hai người lại phát hiện ra một dòng sông nhỏ, đi dọc theo bờ sông, trên đường Sean nhận ra mấy loài động vật có thể dùng làm thực phẩm, hai người liền hợp sức bắt lấy ăn cho qua bữa, rồi lại tiếp tục đi về hướng Đông, thoắt cái, trời đã chạng vạng tối, cơn mưa khiến ngườinghĩ mà sợ kia cũng tạnh từ lâu. Lúc này, Sean đi phía trước, Trác Mộc Cường Ba đeo ba lô đi phía sau, bỗng nhiên Sean ra sức gạt bụi cây rậm rạp chặn đường sang hai bên, mừng rỡ reo lên: “Có ánh sáng, có ánh sáng!” Nói đoạn, anh ta liền rảo chân bước nhanh mấy bước.
Trác Mộc Cường Ba cũng cả mừng, trong khu rừng này, lúc nào cũng âm u tối tăm không thấy ánh sáng, nếu có ánh sáng, có lẽ là họ đã ra khỏi rừng, đến một nơi nào đấy khác cũng nên. Sean mặc cho gai nhọn đâm vào da thịt, lách người tiến lên phía trước, vừa chen ra khỏi đượng bụi cây, anh ta liền kêu lên: “Trời ơi! Nhanh tới xem này! Johnson! Ông Johnson! Tới xem chúng ta phát hiện ra gì này! Nhanh lên!” Tiếng Anh của anh ta không thể nào phát âm được tên của Trác Mộc Cường Ba, mà cứ thích gọi gã là Johnson luôn.
Trác Mộc Cường Ba cũng đến phía sau Sean, cũng hệt như khi hôm đó bọn họ phát hiện ra đại bản doanh của quân du kích, cảnh tượng trước mắt khiến hai mắt gã sáng bừng lên. Giữa khu rừng có một khoảng đất trống do con người khai phá, mặt đất lát bằng những phiến đá khổng lồ, trong các khe hở giữa những phiến đá, cỏ dại mọc lên tua tủa, cũng có cả những cây nhỏ to bằng bắp tay người đẩy lệch phiến đá, trồi hẳn lên mặt đất. Ở đầu kia con đường lát đá ấy là mấy tảng đá to tướng đứng sừng sững, nhìn xa trông rất giống với tượng người khổng lồ trên đảo Phục Sinh, tất cả đều đứng thẳng thớm ở đó, không rõ đã bị cây rừng cỏ dại che phủ mất mấy ngàn năm rồi. Trong rừng sâu khắp nơi đều là màu xanh, màu xám, màu nâu, bỗng nhiên trông thấy kiến trúc nhân tạo lớn như vậy, toàn bộ đều bằng đá tua tủa, cũng có cả những cây nhỏ to bằng bắp tay người đẩy lệch phiến đá, trồi hẳn lên mặt đất. Ở đầu kia con đường lát đá ấy là mấy tảng đá to tướng sừng sững, nhìn xa trông rất giống với tượng người khổng lồ trên đảo Phục Sinh, tất cả đều đứng thẳng thớm ở đó, không rõ đã bị cây rừng cỏ dại che phủ mất mấy ngàn năm rồi. Trong rừng sâu khắp nơi đều là màu xanh, màu xám, màu nâu, bỗng nhiên trông thấy kiến trúc nhân tạo lớn như vậy, toàn bộ đều bằng đá cỡ đại, công nghệ thô sơ nhưng lại toát lên vẻ huy hoàng trong quá khứ, Trác Mộc Cường Ba không cảm thấy gì đặc biệt, nhưng Sean thì sớm đã không kìm nén được tâm trạng kích động, anh ta quỳ  một chân xuống đất, đưa tay vuốt nhẹ lên nền đá mát lạnh, lẩm bẩm nói một mình: “Anh nhìn đi, đây là di tích, di tích của cổ nhân đấy. Chúng ở nơi này, không biết đã trải qua bao nhiêu năm tháng, chứng kiến lịch sử của cả một dân tộc. Những tảng đá lớn như thế này, họ mang ở đâu tới? Tại sao lại xây dựng ở đây? Thật không thể nào tin nổi, đúng là không thể nào tin nổi!” Sean nói, rồi lại rạp người quỳ xuống, thân hình khẽ run rẩy, Trác Mộc Cường Ba không ta dám tin anh ta lại kích động đến độ như vậy.
Phạm vi được lát đá phiến đại khái to bằng một sân bóng rổ, xung quanh có kiến trúc nào khác nữa mà chỉ có mấy tảng đá lớn dựng đứng sừng sững, thoạt nhìn có vẻ như mấy tảng đá ấy ghép lại thành đồ án gì đó, nhưng có một số tảng đã bị sụp đổ, thậm chí có dấu vết bị dã thú dịch chuyển, rất khó xác định được ban đầu chúng như thế nào nữa. Sean rờ tay lên một tảng đá lớn, rồi lại trèo lên một tảng khác, hay rạp người xuống đất quan sát khe hở giữa hai phiến đá, thật chẳng khác gì một đứa trẻ lần đầu tiên tới khu vui chơi, đối với thứ gì cũng đều cảm thấy vô cùng mới lạ.
Trác Mộc Cường Ba đi theo Sean tới trước tảng đá khổng lồ, mỗi tảng đều cao tới bốn năm mét, tuyền một màu trắng, khắp xung quanh đều có hình chạm khắc mờ mờ, phong cách cổ xưa trang nhã, hình tượng kỳ lạ đặc biệt, trước giờ chưa từng thấy. Đặt chân lên nền đá trắng, ngẩng đầu nhìn tảng đá khổng lồ trước mặt, bầu trời xanh ngắt xa xa, nơi chân mây thoáng ẩn hiện ráng hồng, một đàn vẹt châu Mỹ bay vụt qua, nhìn quang cảnh đó, Trác Mộc Cường Ba không khỏi dâng trào lên cảm xúc thê lương. Nhưng người sáng tạo ra chúng đã biến mất, chỉ còn lại những tảng đá này lặng lẽ kể lại lịch sử, trước năm tháng vĩnh hằng, lịch sử của một dân tộc chẳng khác gì ánh sao băng lóe lên rồi vụt tắt. Trác Mộc Cường Ba vòng qua sau lưng một tảng đá lớn, nhìn một tảng đá khổng lồ đổ vật trên nền đất, bên trên khắc đầu người, hình tượng động vật và các loại hình vẽ cổ quái khác, đặc biệt là phần bên dưới, toàn bộ là những đồ án hình chữ  nhật góc tròn. Bên trong cũng là những đầu người, động vật ở các tư thế khác nhau, nhưng những hình này lại đều chằn chặn, vừa giống hình vẽ lại vừa như chữ viết. Lúc này Sean đã trèo lên một cây to, ngước mắt nhìn ra xung quanh, sau rồi anh ta lại leo xuống, nói với  giọng tiếc nuối: “Chỉ có mỗi chỗ này, những nơi khác không thấy gì cả, kỳ lạ thật, một khoảng đất nhỏ tẹo như thế này thì dùng làm gì được chứ nhỉ?”
Trác Mộc Cường Ba chỉ những đồ án bên dưới bệ đá cho Sean xem, anh ta vừa nhìn liền lập tức nhận ra ngay, rú lên như cú đêm: “Maya! Đây là chữ của người Maya! Cả đây nữa, trời đất! Ở đây sao lại có văn tự của người Maya được? Ở đây cách Trung Mỹ cả ngàn cây số cơ mà!” Sean bỗng vỗ mạnh lên trán, “Không đúng, đáng chết thật, nếu người Kukuer là hậu duệ của người Maya, vậy thì tổ tiên của họ chắc chắn phải để lại đây thứ gì đó chứ, đáng lẽ tôi phải nghĩ ra ở đây cũng có di tích của người Maya rồi mới phải! Sao tôi không nghĩ ra từ sớm nhỉ. Nếu có máy ảnh ở đây thì tốt rồi, nếu có máy ảnh thì tốt rồi…” Không biết Sean đã nhắc đi nhắc lại câu cuối cùng đó bao nhiêu lần nữa.
Trác Mộc Cường Ba đi xuyên qua các cột đá lớn đó, mỗi cột đều khắc các hình vẽ khác nhau, nhìn những sản phẩm kết tinh của nền công nghệ cổ đại, trong lòng không khỏi thầm cảm thán cuộc đời sao quá ngắn ngủi, hiểu biết sao quá ít ỏi. Lúc này, nghi vấn lớn nhất của gã cũng giống như Sean, đó là trong rừng sâu khai khẩn ra một mảnh đất như vậy, dựng lên những tảng đá khổng lồ thế này, rốt cuộc là có mục đích gì? Gã hỏi: “Anh biết tiếng Maya không?”
“Không biết, có điều tôi đã thấy ở Mexico, giờ nhìn một cái là nhận ra ngay, chúng không giống với văn tự của bất cứ dân tộc nào, chỉ riêng người Maya mới có thôi.” Sean rờ lên một tảng đá, ủ rũ nói: “Đáng tiếc thật, trong tay chúng ta chẳng có dụng cụ gì, nếu ghi chép lại được, những tư liệu này có thể thay đổi hoàn toàn quan niệm đế quốc Maya chỉ tồn tại ở vùng Trung Mỹ của mọi người. những tảng đá này xếp thành một đồ án, chắc hẳn là thể hiện điều gì đó, nơi này cũng không có kiến trúc gì khác, chẳng lẽ là một khu mộ!” Trác Mộc Cường Ba để ý nhận thấy, khi nhắc đến khu mộ, hai mắt Sean chợt sáng rực lên, ánh mắt đó, tuyệt đối không phải là của một quý ông Anh quốc, ngược lại có chút gì đó giống với gã cao lớn mặc quân trang có ý đồ theo dõi gã trước đó, ánh mắt tham lam, tràn ngập ham muốn chiếm hữu ấy, không khỏi khiến người ta không rét mà run.
“Khu mộ? Anh nói đây là khu mộ ư?” Trác Mộc Cường Ba dường như nhớ ra điều gì đó, nhưng nhất thời hình ảnh đó chỉ mơ hồ trong ý thức, cứ có cảm giác như đã nghe ở đâu đó rồi, nhưng lại hết sức mông lung mờ ảo.
“Phải, anh nhìn xem…” Sean khoa tay nói, “Giữa những tảng đá khổng lồ này, lại có những tảng đá trắng bắc ngang, giống như một cánh cổng vậy, dù đa phần đã sụp đổ, hơn nữa còn có dấu vết bị dịch chuyển, nhưng nếu quan sát cẩn thận, sẽ không khó phát hiện ra, tổng cộng có một,hai, ba, bốn,… bảy, bảy trụ đá, chúng…”
“Đợi chút đã!” Nghe Sean nhắc tới số bảy, trong óc Trác Mộc Cường Ba dường như lóe lên điều gì đó, nhưng Sean vừa nói lời tiếp theo, gã lại lập tức quên béng đi mất. Trác Mộc Cường Ba nói: “Anh nói có bảy trụ đá phải không? Đừng nói gì cả, để tôi nghĩ xem nào, bảy trụ đá, bảy trụ đá? Bảy trụ, bảy…” Trác Mộc Cường Ba lẩm nhẩm đọc thầm, “Rốt cuộc là đã nghe ở đâu rồi nhỉ, bảy trụ đá, tại sao nghe số bảy quen thuộc thế nhỉ?”
“Bảy trụ đá, tượng trưng cho bảy dân tộc, bọn họ chung sống hòa bình trong rừng; cùng nhau bảo vệ lăng mộ của tổ tiên, trong đó bộ tộc dũng cảm nhất, chính là người Kukuer…” Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba cũng nhớ ra, đêm đó, dưới bầu trời sao lấp lánh, tiếng ca trong trẻo dễ nghe của Babatou vấn vít bên tai, tựa như âm thanh nơi tiên giới, khiến người ta không sao tin nổi. Từ đó tới giờ Trác Mộc Cường Ba vẫn luôn coi nửa trước bài ca lịch sử của người Kukuer là huyền thoại, hơn nữa đêm đó đầu óc gã cũng u u mê mê, không nhớ được toàn bộ, giờ bỗng nhiên nghĩ tới, không khỏi toát hết cả mồ hôi lạnh. Không ngờ, bài ca uyển chuyển du dương ghi lại lịch sử của người Kukuer ấy, toàn bộ đều là sự thực, vậy thì lúc này, dưới chân bọn gã đây, chẳng phải chính là…
Khi Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu ra khỏi cơn ngơ ngẩn, gã nói với giọng thấp trầm: “Không sai, Sean, có lẽ anh nói đúng rồi đấy, lúc này chúng ta đang đứng trên lăng mộ của một vị tổ tiên người Kukuer đấy!”
Sean trợn mắt há hốc miệng, hoàn toàn đờ người ra, hồi lâu sau mới trấn tĩnh lại được, chộp lấy vạt áo rách rưới của Trác Mộc Ba giật giật liên hồi: “Anh nói cái gì? Đúng là lăng mộ? Sao anh biết? Anh biết những gì hả? Cho tôi biết đi, nói hết cho tôi đi!” Trác Mộc Cường Ba đứng yên cho anh ta lắc gần mười phút đồng hồ, Sean mới  người tỉnh mộng, ngại ngùng buông tay ra, ngượng ngập nói: “Thật là, tôi thất lễ quá. Chỉ có điều, có điều là tôi kích động quá. Giống…giống như, như Stephens lần đầu tiên phát hiện ra thành cổ Maya vậy ấy.”
Trác Mộc Cường Ba không biết Stephens là ai, gã cũng không nghe rõ anh ta nói gì, gã đang cố gắng nhớ lại tiếng hát của Babatou đêm đó. Gã điềm đạm nói: “Tôi biết không nhiều lắm, đêm đó, tôi cũng  uống say rồi, không nhớ được bao nhiêu. Ở đây có lẽ là mộ tổ tiên chung của người Kukuer và mấy bộ tộc khác, nhưng gọi là gì thì tôi không nhớ được nữa, dường như là xảy ra trên đường di cư thì phải, lúc đó tổ tiên người Kukuer vẫn chưa tìm được vùng đất nào thích hợp để xây dựng thành trì, vẫn đang phải phiêu bạt, khi đi qua quê hương của mặt trời, bọn họ lại có một vị thủ lĩtứ nh khác sắp lìa đời…sau đó chôn ở nơi nào đó trên đường, sự tình trải qua rất nhiều năm, tòa thành màu trắng bị sụp đổ, mọi người bỏ chạy tứ tán, một số người không muốn rời xa quê hương, đã tìm được lăng mộ vị tổ tiên đã đưa họ đến khu rừng này. Họ ở trước mộ lập lời thề, sẽ bảo vệ tổ tiên chung của mình, hình như là đã lập bảy cột trụ, khắc lời thề và quyết tâm của họ lên trên đó. Đại để là như vậy, có rất nhiều nội dung đúng là tôi không thể nhớ nổi.”
Nghe Trác Mộc Cường Ba nói xong, Sean thấp giọng lẩm bẩm nhắc lại: “Chết trên đường à.” Trác Mộc Cường Ba dễ dàng nhận ra trong giọng anh ta thoáng có vẻ thất vọng, cảm thấy phản ứng của tay Sean này thật cổ quái. Một hồi lâu sau, Sean mới có vẻ như bước ra khỏi cái bóng ủ rũ ấy, mỉm cười nói: “Thôi bỏ qua đi, đằng nào chúng ta cũng chỉ là khách qua đường, làm được trò trống gì đâu chứ, chỉ có điều những tư liệu này không thể bảo tồn được, thật là đáng tiếc, nghỉ ngơi một lát rồi đi tiếp thôi, giờ quan trọng nhất chính là ra khỏi được nơi này. Chà, không biết đến bao giờ chúng ta mới được trở lại thành thị hiện đại nữa đây.”
Trác Mộc Cường Ba không lạc quan như vậy, gã lạnh nhạt nói: “Sợ rằng rất khó, nếu đây đúng là lăng mộ của vị tộc trưởng đó, vậy thì lúc này chúng ta đang ở trung tâm của rừng Than Thở, cấm địa Ah Puch!”
Lần này, cả Sean cũng không nói năng gì, anh ta đã nghe bọn Trác Mộc Cường Ba nói qua rồi, khu rừng cấm này không có cả trên bản đồ của người Kukuer, có quỷ mới biết nó rộng thế nào, bên trong có những gì. Cấm địa yên nghỉ của Ah Puch, bản thân mấy chữ này đã là một lời nguyền, kẻ nào đặt chân vào đây, chỉ sợ không ai có thể yên nghỉ nổi. Trác Mộc Cường Ba lại càng hiểu rõ hoàn cảnh trước mắt của họ, từ chỗ người Kukuer, bộ lạc còn tương đối hiện đại cuối cùng, bọn gã tiến vào rừng Than Thở, sau đó đi tới nơi đây, tổng cộng đã ngốn mất nguyên một tuần. Lúc này, thức ăn của họ đã hết sạch, trong tay lại không có công cụ nào, vậy mà phải đi trong cấm địa yên nghỉ của Ah Puch còn nguy hiểm hơn rừng Than Thở gấp bội này bao nhiêu lâu? Ít nhất cũng phải mất một tuần mới ra khỏi đây được, thế nhưng gã bây giờ, quả thực là không biết có thể dựa vào cái gì để sinh tồn ở đây một tuần nữa. Gã lên tiếng: “Theo như cách nói trong bài sử ca của người Kukuer, vùng đất thề do bảy cây trụ quây lại này, tương tự như một cánh cửa dẫn vào cấm địa, bước qua cánh cửa này, là sẽ đi vào cấm địa của Ah Puch. Tôi còn nhớ trên bản đồ của người Kukuer, chỗ này cách….ở phía Đông còn xa hơn chỗ chúng ta đến, nếu muốn chọn một con đường tắt ra khỏi rừng, e là chúng ta cần quay đầu, đi ngược lại con đường cũ mới được.”
Đương nhiên là không cần nói Sean cũng biết, cấm địa yên nghỉ này nhất định đáng sợ hơn những khu rừng họ đi qua trước đây rất nhiều, một nơi đến cả thợ săn người Kukuer cũng không thể thăm dò, không ai lại không cảm thấy run sợ trước cái tên này cả. Anh ta gượng cười nói: “Tôi rất đồng ý với quan điểm của anh, nhưng giờ thì không được. Có mấy vấn đề, thứ nhất, chúng ta không biết mình đã bị nước lũ cuốn đi bao xa, rốt cuộc là bị cuốn theo hướng nào, ‘đi theo đường cũ’ là đường nào, chỉ sợ cả anh lẫn tôi đều không tìm được. Thứ hai, đồ của chúng ta đã dùng hết rồi, ở bất cứ nơi nào trong rừng sợ rằng cũng đều như nhau cả, dù là nguy cơ nhỏ hay lớn, cơ hội chúng ta có thể tránh được đều không lớn lắm. Thứ ba, giờ cơn lũ đã qua, đám du kích kia chắc chắn cũng bị lũ xối cho tơi bời hoa lá giống chúng ta vậy, giờ mà trở về, khẳng định là sẽ gặp phải chúng, hoặc ít nhất là xác suất gặp phải chúng rất lớn, tôi nghĩ, sau mấy lần thiệt hại nặng nề như thế, chắc chúng cũng không đến nỗi lấy cháo ngô với hoa tươi ra hoan nghênh chúng ta trở về đâu. Thêm nữa, bây giờ trời đã sắp tối, ít nhất trong đêm nay chúng ta cũng phải làm rõ mấy vấn đề, muốn đi thì để sáng mai hãy đi.” Lúc nói những câu này, Sean cũng không ngờ được, anh ta đã khiến hai người bọn họ bớt được bao nhiêu là đường.
Mỗi vấn đề đều khiến hai người phải đau đầu, thảo luận mãi không ra kết quả, Sean chán nản vung chân hất những mẩu đá dưới đất, ráng hồng cuối cùng nơi chân trời đang biến mất, hai người đành chuẩn bị ngủ lại một đêm trong khu mộ của vị tổ tiên vĩ đại kia, hy vọng có thể mơ thấy thần thánh chỉ đường cho họ ra khỏi khu rừng nay. Nằm nghỉ một lúc, Sean lại đứng dậy đi đi lại lại trên con đường lát đá trắng, hình như hy vọng tìm được đường vào lăng mộ hay sao đó. Lúc này trời vẫn chưa tối hẳn, Trác Mộc Cường Ba thấy hơi đói, nhưng vỏ cây trong ba lô không còn nhiều lắm, gã đang chần chừ, chợt nghe Sean reo lên kinh hãi: “Johnson, mau tới đây!” Giọng anh ta toát lên vẻ mừng rỡ chưa từng thấy, không biết là lại có phát hiện kinh người gì nữa.

Bộ lạc ăn thịt người
Trác Mộc Cường Ba chạy ào tới, chỉ thấy Sean đang ngồi xổm bên trên một phiến đá, trên đó khắc một hình vẽ kỳ quái, đường dao xiên xiên xẹo xẹo, hoàn toàn không thể bì được với nét khắc trên trụ đá, hơn nữa cạnh đó còn có một ít đá vụn nữa. Cả Trác Mộc Cường Ba cũng ý thức được hình vẽ này không phải là của người xưa, mà mới được khắc cách đây không lâu.
Hình vẽ được khắc ngay trên phiến đá bên cạnh trụ đá bị đổ, nếu có người cẩn thận quan sát hình khắc trên trụ đá, nhất định sẽ phát hiện ra dấu hiệu rõ ràng này; hơn nữa nhìn đá vụn còn chưa bị thổi đi khỏi đường khắc, có thể xác định hình vẽ mới khắc ngày hôm nay, nói không chừng chỉ trước khi bọn họ tới đây một lúc. Là dấu hiện của ai để lại? Tại sao lại để lại? Trác Mộc Cường Ba cho rằng điều này không hề quan trọng, quan trọng là, chắc chắn đã có người khác tới đây, bọn họ không chỉ có một mình, trong rừng sâu hoang vắng lạnh lẽo này, có thể nhìn thấy dấu hiệu của con người, đó là điều vui hơn tất thảy rồi.
Sean khẳng định: “Hình vẽ này, chắc hẳn là một loại dấu hiệu, dùng để liên lạc với đồng bạn bị thất lạc, họ để lại ở vị trí tương đối rõ ràng này, chính là để truyền tin tức đó. Không biết là của quân du kích hay là bạn anh nữa?” Nói đoạn anh ta ngước mắt lên nhìn Trác Mộc Cường Ba đầy mong đợi, hy vọng gã có thể phát hiện được gì đó.
Trác Mộc Cường Ba cẩn thận quan sát hình vẽ một lần nữa, rồi vỗ mạnh vào trán, thầm mắng mình ngu ngốc, đây chẳng phải là một trong những dấu hiệu lúc huấn luyện Lữ Cánh Nam đã dạy cho họ hay sao, gã mừng rỡ đến nỗi không biết phải nói gì, chỉ gật đầu thật mạnh. Sean kích động nói: “Là bọn họ à? Ai để lại vậy? Ba Tang hay là Trương Lập thế?”
Trác Mộc Cường Ba hưng phấn nói: “Không biết, đây chỉ là tọa độ thôi, tọa độ của nơi lưu giấu tin tức.” Thấy Sean không hiểu, gã liền giải thích sơ qua: “Nếu là dấu hiệu chỉ hướng bình thường, ai nhìn cũng hiểu ngay thì sẽ không có tác dụng bảo vệ bản thân, lường gạt kẻ thù rồi, vì thế chúng tôi mới dùng dấu hiệu kép. Đây là dấu hiệu đầu tiên, nó chỉ dẫn ra nơi có dấu hiệu thứ hai, ở ngay gần đây thôi, như vậy, dù kẻ địch có phát hiện ra cái này thì cũng không biết nó có ý nghĩa gì cả.”
Nói đoạn, ngón tay gã chỉ vào chữ thập trên hình vẽ: “Đây là phương vị, lợi dụng sự thay đổi của mặt trời và hoàn cảnh xung quanh, nó có nghĩa là…” Ngón tay gã lại chỉ về phía giữa hai cây trụ, nói: “Hướng này, sau đó chữ số La Mã bên dưới là chỉ khoảng cách, số ba tức là dùng bước chân để đo, tổng cộng bảy bước.” Vừa nói, Trác Mộc Cường Ba vừa nhấc chân đi bảy bước theo hướng đó, đoạn mở ba lô, rút ra một thứ giống cây đèn pin chiếu xuống đất, một hàng chữ đen lập tức hiện ra dưới ánh sáng màu đỏ.
Sean ngạc nhiên thốt: “Không phải bút huỳnh quang? Đây là?”
Trác Mộc Cường Ba mỉm cười giải thích: “Đây là bút quang phổ tần suất, ánh sáng khác nhau thì có tần suất khác nhau, giống như mật mã thông tin vậy. Nếu là bút huỳnh quang, dùng ánh sáng tím hay tia tử ngoại là phát hiện ra ngay, còn bút quang phổ tần suất thì khác, mỗi loại tần suất chỉ tương ứng với một quang phổ. Mỗi lần trước khi xuất phát, chúng tôi mới xác định quang tần sử dụng trong chuyến đi đó. Vì vậy, chỉ có chúng tôi mới phát hiện ra được những dấu vết này thôi.” Trải qua huấn luyện đặc biệt, Trác Mộc Cường Ba đích thực là đã tiến bộ hơn rất nhiều so với hồi ở Khả Khả Tây Lý.
Vẻ mặt Sean có vẻ như vừa được mở mang tầm mắt, vội nói tiếp: “Trên đó viết gì vậy? Tiếng Trung hả? Sao phức tạp thế?”
Trác Mộc Cường Ba không giải thích thêm nữa, bởi vì gã không tiện giải thích, đây không chỉ là tiếng Trung, mà còn là loại văn tự lưu truyền ít nhất trên thế giới, tiếng Tạng cổ! Hiện nay trong đội ngũ của bọn gã, người có thể thông thạo loại văn tự này chỉ có bốn người, bản thân gã, giáo sư Phương Tân, Ngải Lực Khắc và lạt ma Á La. Vừa nhìn hàng chữ này, Trác Mộc Cường Ba lập tức biết ngay đây không phải của Ba Tang hay Trương Lập để lại, mà thuộc về nhóm của giáo sư Phương Tân, bọn họ cũng đã tới đây, hơn nữa theo nội dung của văn tự, bọn họ cũng bị lạc nhau mất rồi, thật đúng là tin tức chẳng lành.
“Đi theo hướng này, thẳng tiến hướng Tây.” Tám chữ đơn giản biểu thị hy vọng người đi sau sẽ tìm kiếm theo hướng này, chỉ là hàng chữ cuối cùng viết rất tháu, nét cuối cùng bị kéo ra vừa cong queo vừa dài thượt, xem ra bọn họ rất hoảng hốt, cả nhân số và số hiệu họ tên cũng không kịp để lại. Rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì? Trác Mộc Cường Ba thấp thỏm, nỗi lo trong lòng gã đã thành hiện thực, nhóm người của Đường Mẫn đang gặp nguy hiểm.
“Sao vậy? Tin xấu hả?” Sean thấy sắc mặt Trác Mộc Cường Ba không ổn bèn lên tiếng hỏi, gã liền giải thích cho anh ta biết lần này bọn họ chia làm hai nhóm xuất phát, tin tức này là do nhóm kia để lại. Thành viên của nhóm thứ hai cũng bị thất lạc, hơn nữa tin tức cũng không hoàn chỉnh, chạy đi hết sức hoảng loạn, dường như đã gặp phải tình huống bất ngờ gì đó.
“Đi theo hướng này à?” Sean nghe xong, liền tiếp tục đi vào giữa hai trụ đá, thân thiết nói, “Không cần lo lắng, họ đã qua được mưa gió bão táp và cả cơn lũ quét, chứng tỏ rằng họ không hề kém chúng ta, gặp phải tình huống bất ngờ chắc cũng ứng phó được thôi. Họ đã qua đây, nếu quanh đây không có người nào khác tới nữa, vậy thì, chắc là có thể tìm được …dấu vết khác. Ở đây rồi!”
Sean ngồi xổm xuống một phiến đá, trên lớp bùn đất có dấu chân hiện lên rõ ràng, Trác Mộc Cường Ba cũng sụp xuống xem. Sean chỉ vào dấu chân nói: “Bước chân rất lớn, rất hỗn loạn, đúng là họ gặp phải chuyện gì đó mà không thể không bỏ chạy. Những dấu chân này toàn bộ đều là ủng đi mưa, nhìn dấu vết thì là của hai hoặc ba người gì đó.”
Nghe Sean giải thích, Trác Mộc Cường Ba nhẹ cả người, Đường Mẫn không biết nhiều tiếng Tạng cổ lắm, vậy nên những chữ kia không thể là để lại cho cô được. Giờ nhìn dấu chân, có thể xác định quá nửa là Mẫn Mẫn đang ở cùng giáo sư Phương Tân hoặc những người khác, chỉ cần người bị thất lạc không phải là Mẫn Mẫn là gã đã yên tâm không ít rồi. Bởi trong nhóm của giáo sư Phương Tân, ngoài Mẫn Mẫn ra, những người còn lại đều là bậc lão luyện, điều này thì trong quá trình huấn luyện thường ngày Trác Mộc Cường Ba đã nhận thức được rồi. Loại ủng đi mưa này, vốn là trang bị để đi trong rừng nhiệt đới, có điều vừa tới Putumayo bọn gã đã bị người ta truy đuổi, nên cũng chẳng kịp đổi giày nữa. “Đợi chút đã, Johnson, anh xem cái này!” Sean lại chỉ vào chỗ cách vết ủng chừng dăm ba mét, gương mặt lộ ra vẻ kinh hoảng.
Trác Mộc Cường Ba đi tới, chỉ thấy trên đất bùn cũng có dấu chân để lại, chỉ khác một điều là, những dấu chân này chính là dấu chân, dấu vết bàn chân trần của người nào đó. Quả tim Trác Mộc Cường Ba lập tức nhảy vọt lên đến cổ họng, trong rừng sâu, không đi giày mà vẫn chạy như bay thì chỉ có dân cư của các bộ lạc sống trong rừng mà thôi, mà các bộ lạc bán văn minh như bộ lạc Kukuer, cũng đều sử dụng loại giày đặc biệt bện từ vỏ cây và cỏ, bộ lạc đi chân trần, khẳng định là chẳng được văn minh cho lắm. Mà ở trong rừng Than Thở và cấm địa yên nghỉ này, bộ lạc đông nhất chỉ có một loại – bộ lạc ăn thịt người!
Sắc mặt Trác Mộc Cường Ba xám xịt như tro, gã chưa bao giờ sợ hãi như vậy, dù gặp phải khó khăn lớn hơn chăng nữa, gã cũng quyết không sợ hãi thế này. Gã không dám tưởng tượng, nếu giáo sư Phương Tân và Mẫn Mẫn bị bộ lạc ăn thịt người đuổi giết, cảnh tượng ấy sẽ thế nào, nếu họ bị bắt, gã lại càng không dám nghĩ đến hậu quả nữa. Cứ nghĩ đến cả một tổ chức vũ trang hung hãn như đám quân du kích cũng phải chọn cách lùng bắt  bọn gã trong đêm để tránh chạm mặt với bộ lạc ăn thịt người, Trác Mộc Cường Ba không khỏi giật thót mình lo sợ, cả thế giới này đều biết, những bộ lạc ăn thịt người đó đáng sợ nhường nào!
Trác Mộc Cường Ba tự nhắc nhở chính mình: “Bình tĩnh, nhất định phải bình tĩnh!” Gã hỏi: “Anh nhận ra được có bao nhiêu người đi chân trần không?
Sean vuốt mồ hôi lạnh trên trán, kiểm tra lại mấy lần rồi mới nói: “Không rõ, dấu chân hết sức hỗn loạn, nhiều nơi bị giẫm lên không chỉ một lần, nhưng có một điểm tôi khẳng định được…chính là có không ít người đâu!”
Trác Mộc Cường Ba không thể bình tĩnh nữa, gã lập tức chỉnh lại hành trang, nói: “Chúng ta , chúng ta phải đi tìm họ.”
Sean kéo chiếc áo rách của gã lại, thấp giọng can ngăn: “Anh điên rồi à, bộ lạc ăn thịt người đấy! NGười nào ở trong rừng này cũng đều biết, cách càng xa đám người ấy ra càng tốt, người khác nghe thấy cái tên này muốn trốn còn chẳng kịp, vậy mà anh còn muốn đi tìm chúng hả, tôi thấy chúng ta nên nhân lúc tối trời mà tẩu thoát thì hơn.”
Trác Mộc Cường Ba nôn nao trong dạ, gã biết, Sean như thế là đã tận tình tận nghĩa lắm rồi, bản thân gã quả thực không có lý do ép anh ta làm bất cứ điều gì cả, nhưng nếu không có Sean, một mình gã thực sự không thể làm nổi, đích thực là nửa phần chắc chắn cũng không có. Muốn cứu người, không chỉ mình gã đi là được, mà còn cần có cả anh phối hợp nữa, Trác Mộc Cường Ba khẩn thiết nói: “Không được, chúng ta phải đi tìm họ, anh không biết, họ là chiến hữu của tôi, là bạn tôi, là người thân của tôi, là người một nhà với tôi!” Trong một câu mà Trác Mộc Cường Ba nâng quan hệ với các thành viên còn lại trong đội lên tới bốn lần, hy vọng có thể thuyết phục được Sean.
Sean chỉ lặng yên không nói, quỳ một chân dưới đất, lấy ngón tay gõ lướt trên phiến đá, có vẻ như đang rất trù trừ lưỡng lự. Trác Mộc Cường Ba thấy một tia hy vọng xuất hiện, liền nói tiếp: “Anh chưa biết quan hệ giữa tôi và họ đâu, trong nhóm có vợ tôi, người thầy tôi yêu quý nhất, một người bạn vong niên và người đối với tôi như cha vậy, cho dù thế nào, dù khó khăn tới đâu, tôi cũng phải đi cứu họ. Tôi biết, anh đã giúp tôi rất nhiều rồi, nhưng thực lòng tôi rất hy vọng, anh có thể giúp tôi thêm lần này nữa.”
“Vợ anh à!” Sean kinh ngạc ngẩng đầu, Trác Mộc Cường Ba gật đầu khẳng định một cách mạnh mẽ. Sean thấy vậy đành thở dài: “Ừm, được rồi, nhưng nhất định phải cẩn thận đấy, quan sát trước đã, tuyệt đối không được làm ẩu làm bừa.” Trác Mộc Cường Ba mừng rõ thốt: “Đương nhiên!”
Hai người lần theo dấu chân, tới bên một con sông nhỏ thì mất dấu vết. Người trong cuộc lòng dạ rối bời, Trác Mộc Cường Ba lúc này đã cuống hết cả lên, lo lắng nói: Sao lại mất dấu rồi? Chẳng lẽ họ đã bị bắt?”
Sean nói: “Đừng hoảng loạn, dựa vào phương hướng hiện thời, có thể thấy họ đi đúng hướng đã để lại trong lời nhắn, chúng ta cứ thuận theo hướng này mà đi tiếp, xem có phát hiện gì mới không?” Nói đoạn, anh ta lại nhắc nhở Trác Mộc Cường Ba, “Trời đã tối rồi đấy, anh cũng biết tiếp tục đi sẽ có hậu quả như thế nào chứ.” “Tôi biết.” Trác Mộc Cường Ba dứt khoát trả lời.
Tiến lên trong bóng tối, khi sao đêm phủ kín bầu trời, Trác Mộc Cường Ba và Sean đã có thu hoạch, họ nghe thấy một thứ âm thanh kỳ dị từ đằng xa vang tới, đó là…tiếng trống!
Nghe như hiệu lệnh chiến đấu, âm thanh mộc mạc lưu truyền từ thời viễn cổ, trống, là nhạc khí được con người chế tạo sớm nhất, và cũng chỉ có trong một khu rừng như vậy, tiết tấu rõ ràng, âm chất dày đặc đó mới dung hợp được với tự nhiên một cách hoàn mỹ nhường ấy. Càng lúc càng gần, càng lúc càng gần, từ từ, từ từ, trong rừng thấp thoáng ánh sáng của ngọn lửa, Trác Mộc Cường Ba có cảm giác, tiếng trống đó dường như đang hòa cùng nhịp đập với tim gã, càng lúc càng rõ rệt, tim đập mỗi lúc một dữ dội. Gã giật thót mình, thì ra Sean vỗ vỗ lên vai, mượn ánh sao yếu ớt, Trác Mộc Cường Ba trông thấy gốc cây Sean chỉ, gật đầu hiểu ý, hai người lần lượt trèo lên một thân cây cao chừng ba chục mét, luồn qua tầng tầng lớp lớp chướng ngại vật, hướng về phía nguồn sáng.
Sean lấy cái ống ngắm ra, nhìn một lát rồi đưa cho Trác Mộc Cường Ba, lúc đón lấy ống ngắm, gã phát hiện bàn tay đối phương đang khẽ run lên. Cảnh tượng hiện lên trong ống ngắm tựa trong ống kính máy quay, chính giữa là một căn nhà lớn dựng bằng cỏ tranh và cây gỗ, hai đầu cong lên như những con thuyền nhỏ thành Venice, trên ván gỗ vẽ một đôi mắt khổng lồ đen trắng và rõ ràng, cửa sơn đỏ choét, nhìn như miệng con cá mập đang há rộng. Phía trước căn nhà lớn đó là một giàn giáo khổng lồ dựng bằng gỗ, bốn phía xung quanh giàn giáo có các chảo tròn kê trên giá ba chân, bên trong không biết để nhiên liệu gì mà lửa cứ cháy phừng phừng. Dưới giàn giáo đầu người nhấp nhô, vô số thổ dân ăn mặc gần giống người Kukuer đứng bên dưới, già trẻ nam nữ đều có cả, nửa thân để traanfl trên xăm hình totem. Bọn họ có một điểm chung, đó chính là, người nào người nấy đều hai tay bưng một thứ đồ đựng, có bát, có gáo, có rổ, có rá. Còn phía trên giàn giáo, hai bên trái phải có bốn chiếc trống lớn, bốn người đàn ông lực lưỡng đang vung tay đánh trống, mồ hôi rẩy xuống như mưa. Ở giữa là năm chiếc giá lớn, bên trên trói năm người đàn ông, nhìn kỹ lại thì Trác Mộc Cường Ba chẳng nhận ra ai cả, nhưng trông cách ăn mặc, có lẽ là thành viên của quân du kích. Trước mặt năm tên du kích, một nhân vật trông như tế sư mặc áo choàng đen, đội mũ lông chim, trang sức rực rỡ, mặt vẽ đủ thứ màu sắc, tay cầm con dao lóc xương nhọn hoắt, miệng lẩm bẩm niệm chú gì đó. Sau lưng tế sư có một chiếc bàn gỗ, đại khái lớn hơn bàn làm việc một chút, nhưng nhỏ hơn bàn bóng bàn; bên cạnh tế sư còn có mấy gã cao to lực lưỡng đứng ngạo nghễ, tay chắp sau lưng, ngọn lửa đỏ rực chiếu hắt lên làn da màu đồng cổ và cơ thịt rắn chắc của họ. Phía sau đám tên du kích, trên một cái bệ nhỏ cao hơn, còn một người ăn mặc rực rỡ hơn, trên đầu cắm lông chim lộng lẫy đủ màu, không biết là tộc trưởng hay đại tế sư nữa, phía trước y đặt một món đồ bằng gỗ trông giống cái đỉnh, có vẻ rất cổ phác.
Nhìn bề ngoài, dường như họ đang cử hành đại lễ sinh sát, còn những người bưng đồ đựng bên dưới, chắc hẳn là ai cũng muốn chia phần chứ chẳng nghi. Khó trách Sean lại run rẩy như thế, nhìn điệu bộ này là chẳng cần giải thích gì nhiều nữa, đây chính là bộ lạc ăn thịt người, trăm phần trăm là bộ lạc ăn thịt người rồi.
Bộ dạng năm người bị trói đều hết sức ủ rũ chán nản, e rằng còn hơn cả sợ hãi, có người ngoác miệng mắng chửi, có người lại khóc rống lên, có kẻ rũ ra trên giá, hay run rẩy không ngừng, cũng có tên thì cứ nghiến răng kèn kẹt.
Tế sư lẩm bẩm tụng niệm xong, liền lấy con dao sáng loáng kia giơ lên, đến trước mặt tên du kích điệu bộ hung hãn nhất, xem ra là sắp ra tay tới nơi. Trác Mộc Cường Ba hơi do dự, gã không biết mình có nên xem tiếp hay không nữa, nhưng gã biết, cảnh tượng tiếp sau đây rất có thể sẽ vượt quá phạm vi chịu đựng của mình. Tính năng của ống nhòm này thật quá tốt, thậm chí gã còn nhìn rõ cả nụ cười điên dại trên gương mặt bôi trét đầy màu mè của tên tế sư kia nữa.
Khi thấy tế sư vung mũi dao lên, chuẩn xác đâm vào tim tên du kích, cuối cùng gã cũng không kìm nén được mà buông ống ngắm xuống, ngoảnh mặt đi nơi khác. Gã nghe thấy cả tiếng lưỡi dao cắt vào da thịt, nghe thấy tiếng máu trong huyết quản trào ra “ồng ộc”, lại càng nghe rõ hơn tiếng thét gào thảm thiết như xé gan nát phổi kia. Kế đó hòa lẫn trong âm thanh lóc da lóc thịt đó, lại vang lên cả tiếng gầm gừ đầy khát vọng của đám người bên dưới.
Trác Mộc Cường Ba không thể nghe thêm nữa, gã vẫy tay ra hiệu với Sean, tỏ ý mau mau rời khỏi đây, ngàn vạn lần chớ để bọn người này phát hiện ra. Sean cũng đồng ý ngay, nhưng hai người ở trên cây quá lâu, lại không hề cử động, thậm chí cả thở mạnh một hơi cũng không dám, lúc này nhích động thân thể, lập tức cảm thấy chân tay tê rần. Trượt xuống được một nửa, Trác Mộc Cường Ba chạm phải một cây mây, gã lại tưởng là rắn, trong lúc kinh hoàng để mất thăng bằng, Sean định chộp lấy kéo Trác Mộc Cường Ba lên, kết quả chính anh ta lại rơi bịch xuống, trong bụi cây lập tức vang lên tiếng cành gãy răng rắc, đám ăn thịt người liền có phản ứng trong khoảnh khắc. Trác Mộc Cường Ba trượt nhanh xuống, kéo Sean dậy rồi co giò chạy ngay, kết quả là chưa được hai bước, đã cảm thấy chân trái mắc vào dây leo, cơ hồ như có một sức mạnh rất lớn, muốn nhấc gã lên khỏi mặt đất, nhưng lại bị Sean ở bên cạnh giữ chặt lại, gã hiểu ra, mình đã giẫm phải bẫy của bộ lạc ăn thịt người kia!

Bộ lạc ăn thịt người (II)
Trọng lượng của Sean và Trác Mộc Cường Ba cộng lại cũng phải hơn trăm cân, không ngờ vẫn không thể chống lại được sức kéo khổng lồ kia, sợi dây leo quấn chặt chân Trác Mộc Cường Ba, kéo luôn cả Sean lên không, trong lúc hoảng loạn Sean vội buông tay, làm Trác Mộc Cường Ba bắn vọt lên cao, treo ngược đầu trên cành cây. Trong rừng vang lên tiếng còi hiệu, vô số ngọn đuốc lao về phía này với tốc độ tên bắn, Trác Mộc Cường Ba biết lần này e là không còn hy vọng nữa, liền tháo dây buộc ba lô, lớn tiếng hét: “Đi nhanh lên, mang cả ba lô nữa.” Sean tuyệt vọng ngước mắt nhìn gã, thấp giọng nói: “Tôi sẽ trở lại cứu anh!”
Không ngờ, anh ta mới đi được hai bước, một gốc cây bỗng nhiên im lìm lặng lẽ vòng ra ôm chặt lấy, Sean bị một người đầu mặt gắn đầy cành lá lòa xòa bịt chặt lấy miệng, sau đó bị đánh cho ngất đi. Trác Mộc Cường Ba bị treo ngược bên trên, chỉ chớp mắt cái đã không thấy bóng Sean đâu, đang kinh ngạc trước tốc độ quá nhanh đó, thì đám đuốc kia đã tới trước mặt gã.
Lần này Trác Mộc Cường Ba nhìn càng rõ hơn, đám ăn thịt người này trán cao mũi rộng; mắt sâu mày cao, nhìn bề ngoài có vẻ cường tráng hơn người Kukuer, trên người dùng hai màu chủ đạo là trắng đỏ vẽ các đồ hình tượng trưng cho mãnh thú nhe nanh múa vuốt. Một đám người vây Trác Mộc Cường Ba vào giữa, những ngọn đuốc bập bùng giơ cao quá đầu, ánh lửa chiếu lên gương mặt họ, nhìn khắc khổ đầy những nếp nhăn, tựa hồ như một lão phù thủy già trong thế giới ma pháp vậy.
Phát hiện một con mồi lớn lọt bẫy, đám ăn thịt người tỏ ra vô cùng hưng phấn, vừa hát vừa nhảy. Bỗng nhiên, một tên bỗng đổ gục xuống, không kịp kêu tiếng nào, trên cổ y ghim nghiêng một mũi tên nhỏ, loại tên này thực ra trông khá giống một cây bông, Trác Mộc Cường Ba đã không lạ lẫm gì với nó nữa rồi. đây là một mũi tên thổi. Trác Mộc Cường Ba lập tức cảm thấy có hy vọng, người Kukuer, lẽ nào người Kukuer lại cứu gã một lần nữa?
Trong rừng bỗng nhiên thấp thoáng hiện ra vô số bóng người, bọn họ khoác vỏ cây, cắm cành lá quanh người, đứng bên cạnh gốc cây hoặc trèo lên nằm phục trên cành, lúc bất động, thật không thể nào nhận ra đâu là cây rừng đâu là bọn họ nữa. Trác Mộc Cường Ba thầm thở dài, gã và Sean còn đờ người ra đó xem bộ lạc ăn thịt người tế lễ, ở đây từ trước đã có bao nhiêu người ẩn nấp cũng hoàn toàn chẳng hay biết gì. Đồng thời gã cũng ý thức được, nếu đám người này sớm đã ẩn nấp tại đây từ đầu, vậy thì Sean làm sao mà thoát nổi, nghĩ lại chắc là đã bị bắt sống mất rồi.
Rất nhanh sau đó, Trác Mộc Cường Ba nhận ra đám người thứ hai này không phải là người Kukuer, tướng mạo bọn họ trông còn khó coi hơn cả đám dân bộ lạc ăn thịt người, ai nấy đều có một cái khuyên mũi to tướng. Vũ khí trong tay họ cũng rất kỳ dị, cong cong như vầng trăng khuyết, hơn nữa lưỡi dao bên ngoài sắc lẻm, bên trong lại có răng cưa, nhìn như cái liềm cắt lúa, cái thì chuôi ngắn như thước kẻ, cái thì dài như cán chổi. Hai chủng tộc này hình như có thù hận gì nhau, vừa thấy mặt là đã mặt đỏ tía tai, ánh lửa ánh máu rợp trời, mùi tanh xộc thẳng vào mũi, nhất thời trong rừng vang dậy tiếng chém giết ầm ĩ. Trong đó, một người đàn ông đeo khuyên mũi đặc biết cao lớn, làn da nâu đỏ trông hệt như lực sĩ thể hình, trong tay anh ta cầm một lưỡi liềm to hơn hẳn những người khác, đi tới đâu là máu tóe ra xung quanh đến mấy mét.
Trong lúc hỗn chiến, không biết ai đã chạm phải chốt bẫy, Trác Mộc Cường Ba chỉ  thấy chân mình hẫng một cái, cả người đã rơi bịch xuống đất, đúng vào giữa hai nhóm người, song phương đều vung vũ khí bổ về phía gã. Trác Mộc Cường Ba đương nhiên biết rõ, giờ lọt vao tay nhóm người nào thì cũng chẳng khác nhau là mấy, vội gắng sức phản kháng, cố giữ để mình không bị trọng thương, đồng thời di chuyển ra chỗ ít người, hy vọng phát hiện ra Sean.
Trác Mộc Cường Ba tìm thấy Sean đang hôn mê dưới một gốc cây, bên cạnh còn có chiếc ba lô nữa. Gã vội đeo ba lô lên, đang chuẩn bị đỡ Sean dậy, chợt nghe "soạt", một thứ vũ khí sắc bén đã rạch toác chiếc ba lô đang buộc chắc vào lưng gã ra, kế đó là một tiếng "cạch", Trác Mộc Cường Ba ngoảnh lại nhìn, chỉ thấy thánh thạch của người Kukuer rơi ra. Gã liền lăn sang một bên, sau đó mới ngẩng đầu lên xem ai đã ra tay sau lưng mình, chỉ thấy một tên ăn thịt người đang chỉ tay vào thánh thạch, nét mặt lộ vẻ sùng bái, hò hét gì đó, mới được hai ba câu, ánh đao lướt qua, một lưỡi liềm đã khiến đầu hắn chuyển nhà đi nơi khác. Trác Mộc Cường Ba tranh thủ cơ hội, nhặt lại thánh thạch, rồi đỡ Sean dậy, đang chuẩn bị bỏ chạy thì sau gáy bỗng bị thứ gì đập mạnh một cái, thề là không còn biết gì nữa.
Trác Mộc Cường Ba tỉnh lại, đã thấy mình ở trong một căn phòng nhà tối om, xung quanh tỏa ra một mùi hương là lạ. Nơi này cũng giống như nhà của người Kukuer, tường bằng ván gỗ, nóc nhà lợp cỏ tranh, hàng hiên bên phải có cửa sổ, trên tường treo các loại da thú, đuốc cắm ở bốn góc tường cháy phừng phừng, đó là đèn cầy hay những cái gậy màu đen Trác Mộc Cường Ba cũng không rõ nữa. Gã chống người đứng dậy, chọn một cái ghế gỗ ngồi xuống, trong nhà có một bàn gỗ cũ nát, và mấy chiếc ghế đơn sơ.
Sean tỉnh trước một lúc, thấy Trác Mộc Cường Ba đã tỉnh, bèn nói: "Mặt trăng hôm nay lớn hơn lúc ở đàn tế của bộ lạc ăn thịt người một chút, không ngờ chúng ta lại ngủ một giấc lâu như vậy."
Trác Mộc Cường Ba nghiêng người đứng dậy, kinh ngạc nói: "Anh nói là chúng ta đã hôn mê cả một ngày?"
Sean an ủi: "Đúng vậy, coi như là đại nạn không chết, xem ra, cả hai chúng ta đều gầy quá, vẫn chưa thể ăn ngay được mà phải vỗ béo thêm nữa đã."
Trác Mộc Cường Ba hỏi: "Ai cứu chúng ta vậy?"
"Gì hả? Cứu chúng ta? Không phải chúng ta bị bộ lạc ăn thịt người bắt rồi à?" Vẻ nghi hoặc trên mặt Sean tuyệt đối không kém Trác Mộc Cường Ba chút nào.
Trác Mộc Cường Ba nói: "Không, không phải vậy." Đoạn gã kể vắn tắt sự việc xảy ra lúc đó lại một lượt, Sean nghe xong mới nói: "Thì ra là vậy, lúc đó tôi đón cái ba lô anh ném xuống, rồi bị người ta tóm lấy làm ngất đi, có thể nói là chẳng hiểu chuyện gì cả, hơn nữa tôi cũng vừa mới tỉnh lại thôi, cũng hoàng toàn không biết gì cả. Theo như anh nói, là hai bộ lạc khai chiến, bộ lạc toàn người đeo khuyên mũi tiến đánh bọ lạc ăn thịt người chúng ta nhìn thấy ban đầu phải không?"
Trác Mộc Cường Ba chữa lại: "Không, là một bộ lạc phục kích hay bao vây bộ lạc còn lại thì đúng hơn. Như những gì tôi thấy, bộ lạc đeo khuyen mũi lớn mạnh hơn bộ lạc ăn thịt người một chút, con dao mà họ sử dụng, nhìn thật đáng sợ, giống như là lưỡi hái Tử thần vậy."
Sean nói: "Vậy  theo anh, chúng ta bị bộ lạc ăn thịt người bắt lại hay được những người đeo khuyên mũi cứu? Chủng tộc đeo khuyên mũi đó, rốt cuộc là cứu chúng ta hay bắt chúng ta vậy?"
Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: "Không biết. em thử có thể chạy ra ngoài được hay không trước đã." Gã vừa nói tới đây, tấm rèm cửa liền hé ra, một cô gái thổ dân đeo khuyên mũi tủm tỉm cười đi vào.
Cô gái thổ dân này da ngăm ngăm đen, có thể nói là tướng mạo quái dị, đặc biệt là chiếc khuyên mũi cô ta đeo còn lớn hơn những người trước đó Trác Mộc Cường Ba trông thấy nữa, khuyên mũi rủ xuống che kín cả miệng. Cô gái này xem chừng không có ác ý gì, cười che cả môi hồng răng trắng ra, nhưng hai người bọn Trác Mộc Cường Ba nhìn ngang nhìn dọc thế nào cũng cảm giác giống một cái chậu đầy máu. Cô gái thổ dân bộ dạng không được dễ coi cho lắm này bưng vào một khay hoa quả mà cả Trác Mộc Cường Ba lẫn Sean đều không gọi được tên, chứng tỏ ý bảo hai người cứ yên tâm mà ăn đi, sau đó ngồi xuống, một tay chống quai hàm, cứ nhìn chằm chằm vào Trác Mộc Cường Ba, làm gã cũng cảm thấy ngại ngùng.
Cô gái này lẩm bẩm nói gì đó, gương mặt già nua nở một nụ cười hòa nhã nhưng cũng không kém phần dữ tợn, gương mặt đáng sợ đó mà tỏ vẻ uốn éo làm bộ làm tịch quả thực không phải là một chuyện thích mắt gì cho lắm. Nhưng ai cũng nhìn ra được, cô gái thổ dân này đang bạo dạn bày tỏ tình ý với Trác Mộc Cường Ba, Sean thỉnh thoảng cũng nói chuyện phiếm với Trương Lập và Nhạc Dương, đã nghe qua học thuyết Cường Ba thiếu gia hấp dẫn giống cái của họ, giờ đã được kiểm chứng, quả nhiên là khiến người ta được mở mang tầm mắt.
Dưới đôi mí mắt híp tịt như lợn của cô nàng thổ dân là đôi mắt to như hai cái mõ trâu, đang tinh nghịch liếc nhìn Trác Mộc Cường Ba, tình ý dạt dào, ỏn à ỏn ẻn như đang trách móc: "Anh yêu em không? Có yêu em thật không?"
Trác Mộc Cường Ba chớp chớp mắt, mắt trái nháy, mắt phải liếc, không dám nhìn thẳng vào làn thu ba ngồn ngộn của nàng thổ dân kia, rồi lại liếc sang phía Sean nhướng nhướng mày, ý chừng muốn hỏi: "Làm sao bây giờ? Nghĩ cách để cô ta đừng nhìn chằm chằm vào tôi nữa."
Sean cười thầm, cũng nhướng mày lên với gã, ý nói: "Không ngờ sức hấp dẫn của anh lại kinh người đến thế, vậy mà tôi lại không nhận ra. Cô gái này cũng hay lắm, cứ ráng chiều theo cho xong chuyện đi."
Trác Mộc Cường Ba giận dữ trừng mắt lên, như muốn bảo: "Anh đúng là đồ chẳng ra gì."
Lúc này, tình ý dạt dào lúng liếng kia lại tràn tới, lần này thì ý tứ khêu gợi càng rõ rệt hơn, rõ ràng là đang ám thị: "Anh đẹp trai, đừng có ngại nữa mà."
Sean ngồi bên cạnh không ngừng nhíu mày nháy mắt, lại ngấm ngầm nhìn ra phía cửa, như đang nói: "Đại ca, xem ra lần này chúng ta phải dùng đến mỹ nam kế rồi, vì tính mạng của hai người, anh hy sinh một chút nhan sắc có được không?"
Trác Mộc Cường Ba trợn trừng hai mắt lên, nghiến răng kèn kẹt, tự nhiên là đang thầm mắng: "Anh chết đi cho rồi! Sao anh không hy sinh đi chứ!"
Sean trợn tròn mắt, ngứơc nhìn lên trần, ý tứ rõ ràng là: "Tôi cũng muốn hy sinh lắm chứ, nhưng có lọt được vào mắt xanh của người ta không?"
Lúc này, lại có người khác vén cửa bước vào, làn da đen đúa, thân hình khôi vĩ ấy chính là người đàn ông nổi bật nhất trong trận chém giết của hai bộ lạc đêm trước, cảnh tượn anh ta cầm câu liêm như lưỡi hái Tử thần, hai tay dang rộng ngửa đầu lên gào rú dưới ánh trăng đã ăn sâu vào trong ký ức Trác Mộc Cường Ba. Lúc này, hai bên hông và trước ngực anh ta đều treo một cái đầu lâu vẫn chưa khô máu, khiến người ta nhìn mà không khỏi tim đập chân run. Anh ta bước vào, trước tiên là thân thiện nói mấy câu với cô nàng thổ dân kia, cô ta cũng thân thiện lắc đầu, sau đó giọng hai người càng lúc càng lớn, ngữ khí càng lúc càng thêm nặng nề, âm điệu cũng càng lúc càng cao, phát âm vừa nhanh vừa dồn dập, dường như là bắt đầu cãi nhau, vừa tranh cãi vừa dịch dần ra bên ngoài. Trác Mộc Cường Ba không hiểu bọn họ nói gì, nhưng Sean thì hình như đã đoán ra được chút manh mối, mặc dù bề ngoài Sean vẫn tỏ ra ngây ngô không biết gì như Trác Mộc Cường Ba, nhưng anh ta đang không ngừng đung đưa run rẩy. Trác Mộc Cường Ba đã hiểu được đại khái các thói quen của con người này, biết mỗi khi căng thẳng anh ta đều thích đung đưa nhún nhảy, có lúc lấy gót chân gõ phách xuống đất, khi lại dùng đầu ngón tay gõ lên đùi hay mặt bàn theo tiết tấu nhất định, phát ra âm thanh như nhịp trống. Còn lúc này, thân thể anh ta không nhúc nhích, nét mặt thản nhiên, song đôi chân vắt tréo thì không ngừng vung vẩy, rõ ràng là đang hết sức căng thẳng.
Khi tiếng tranh cãi càng lúc càng lớn, cách gian nhà bọn họ đang ở  mỗi lúc một xa, Sean bỗng đứng phắt lên, bất an ngước mắt nhìn quanh quất: "Chúng ta phải rời khỏi đây ngay, ngay lập tức!"
Trác Mộc Cường Ba vẫn chưa nuốt trôi cục tức, vừa rồi thằng cha này bán bạn cầu sinh, quả thực là vô cùng đáng ghét, liền nhạt giọng đáp: "Chà, thật không đơn giản nhỉ, cả tiếng thổ ngữ ở đây anh cũng nghe được! Bọn họ nói cái gì vậy?"
Sean nói: "Ngôn ngữ  của bọn họ, phát âm khá giống với tiếng Quechua, tôi cũng chỉ nửa nghe nửa đoán thôi, đại khái cũng hiểu được phần nào, bọn họ cũng là bộ lạc ăn thịt người, chỉ la thuộc chi nhánh khác thôi."
"Ăn thịt người!" Vừa nghe thấy mấy chữ này, Trác Mộc Cường Ba đã nhảy dựng lên theo phản xạ, hỏi, "Anh không đùa đấy chứ?"
Sean vội vàng nói: "Anh thấy tôi giống đang đùa lắm hả? Anh có biết họ vừa rồi tranh luận cái gì không? Họ đang tranh luận xem anh thuộc về ai đấy."
Trác Mộc Cường Ba nói: "Cái gì mà thuộc về ai?"
Sean giải thích: "Cô  gái mắt to đó, là con gái của đại tế sư ở đây, cô ta bảo anh là người đàn ông đẹp trai hiếm có, vì vậy anh nên để cô ta ăn. Còn tên chiến binh vào sau thì nói, anh là người cường tráng khỏe mạnh hiếm thấy, thế nên cần phải để anh ra xơi, chiến sĩ mạnh mẽ nhất, mới xứng ăn người khỏe mạnh nhất."
Trác Mộc Cường Ba nhìn vẻ mặt Sean, nghi hoặc nói: "Tranh nhau ăn tôi? Không phải vậy chứ, nhìn cô gái kia, đâu giống là có ác ý gì chứ?"
Sean nói: "Giờ  không phải là lúc giải thích, để bị phát hiện ra là toi đời đấy, chúng ta chạy trước đã." Hai người nhảy qua cửa sổ, trong bóng tối không kịp xác định phương hướng, thấy chỗ nào ít người là chạy về phía đó. Đây là một ngôi làng lớn, đâu đâu cũng thấy nhà gỗ mái tranh, có căn bên ngoài còn cắm cả ngọn đuốc, từ ánh đuốc mà đoán, ngôi làng này lớn hơn làng của người Kukuer nhiều.
Vừa chạy khỏi căn nhà  kia chưa được trăm bước, đã nghe tiếng hò hét ầm ĩ, vô số thổ dân đeo khuyên mũi cầm dao cầm liềm chạy ùa ra khỏi các căn nhà tranh, lớn tiếng hô hoán, quát hỏi lẫn nhau. Trác Mộc Cường Ba và Sean nấp trong bóng tối chỉ biết kêu khổ không thôi, thật chẳng ngời nhanh như vậy đã bị đối phương phát hiện rồi, xem ra lần này có mọc cánh cũng khó thoát nổi.
Bên trái bỗng nhiên có  tiếng động, đám người kia đều ào về phía đó, kế đó ở phía trước lại vang lên mấy tiếng súng lác đác, lại có một nhóm tách ra xông lên trước, Trác Mộc Cường Ba và Sean vui mừng khôn xiết, đúng là trời không tuyệt đường con người, thì ra đám người này làm náo cả lên không phải vì bọn họ. Hai người nhắm vào khoảng trống bên phải, cuống cuồng chạy tiếp.
Chưa chạy được bao xa, hai người liền phát hiện phòng ốc phía trước càng lúc càng nhiều, càng lúc càng tập trung đông đúc, xem ra không phải bọn họ đang chạy ra xa khỏi bộ lạc, mà là tiến sâu vào khu trung tâm. Vòng một chỗ ngoặt, suýt chút nữa thì đụng phải đám ăn thịt người đeo khuyên mũi, hai người nấp vào một góc tối đen, đến cả thở mạnh cũng không dám. Sean thấp giọng thì thầm: "Xem ra mục tiêu của họ không phải chúng ta, chớ nên mạo hiểm đi sâu quá, quan sát rõ tình hình rồi hãy đi." Hai người lần lần mò mò, đi dọc theo chân tường, hoặc tìm những cây to ẩn náu, đi được chừng hai ba mươi phút, tiếng người nhỏ dần, nhà cửa cũng bắt đầu thưa thớt, xem ra cũng sắp thoát khỏi cái bộ lạc man rợ này rồi.
"Đợi một chút, đừng đi thêm nữa." Sean bỗng nhiên dừng bước. Trước mặt họ, chỉ có mấy căn nhà tranh nhỏ trơ trụi giữa bãi đất trống, không có đuốc, có vẻ như cũng không có ai ở bên trong thì phải.
Trác Mộc Cường Ba lấy làm khó hiểu, rõ ràng chỉ cần đi thêm mấy bước nữa là ra khỏi bộ lạc này rồi, tại sao Sean lại dừng bước không đi nữa. Chỉ nghe anh ta nói: "Thấy mặt đất bên dưới không? Đang động đậy kìa."
Gặp lại 
"Hừ, bọn thổ  dân ngu xuẩn." Trong bóng tối một bóng đen lao vút qua giữa các gian nhà, hướng đi của y không ngờ lại trùng hướng bọn Trác Mộc Cường Ba và Sean đang chạy. Trong ánh lửa bập bùng, gương mặt tựa như bị muôn ngàn con rắn cùng cắn xé kia của Soaers trông càng thêm dữ tợn, y thuần thục đảo người lao vào một gian nhà lớn, sục sạo một hồi bên trong, lát sau, đã thấy y lộ vẻ mừng rỡ đi ra, mang theo một cây trượng bằng đá.
Có được cây trượng đá, Soares lại vòng ngược trở lại phía Đông, tới bên dưới gốc cây to dễ bốn năm người ôm, xung quanh không một bóng người, dường như tất cả đều đã chạy sang phía Nam rồi thì phải. Soares cắn chặt cây trượng trong miệng, dùng cả tay lẫn chân bò lên chừng mười mét, bỗng nhiên cảm thấy dưới chân có gì không ổn, tựa như đạp rơi thứ gì đó, y vội lách người sang trái, rút con dao san ra cắm vào thân cây để trụ ổn thân hình. Cơ hồ như cùng khoảnh khắc ấy, nơi y vừa trèo qua, một mũi giáo đen ngòm đâm vọt ra, tựa như một con mãnh thú bị kinh động đột nhiên phát ra một chiêu chí mạng vậy, một lát sau không thấy gì xảy ra nữa, mũi giáo kia lại chầm chậm rút trở lại. Soares tái mặt nhìn cảnh tượng vừa xảy ra trước mắt, thầm nhủ: "Nguy thật, không ngờ cả cành cây cũng có bẫy, mũi giáo độc kia đen ngòm thế, không biết là đã hút máu bao nhiêu người rồi." Không nghĩ ngợi nhiều, y chỉ dừng lại một thoáng, rồi nhanh chóng tiếp tục trèo lên chỗ cao hơn. Đến chỗ thân cây rẽ nhánh, thì thấy một tấm ván phẳng, chẽ cây bị giẫm cho bằng phằng, ngay chính diện có một cái bàn tời bằng gỗ. "Đây rồi." Soares cả mừng, liền lấy cây trượng đá mới trộm được cắm vào cái lỗ giữa bàn tời, chỉ nghe "cạch cạch cạch cạch" bốn tiếng, sau khi trượng đá cắm hẳn vào giữa bàn tời, lại phát ra mấy tiếng "lách cách" nữa.
Soares cầm tay nắm bàn tời, quan sát sợi dây thừng gắn vào đó, thầm nhủ: "Dây vẫn còn mới, xem ra bọn chúng vẫn cử hành nghi thức cúng bái thánh thạch mỗi năm một lần, bọn ngu xuẩn này, thánh thạch dùng làm gì cũng chẳng biết, cứ cắm đầu lễ với chả bái." Y vận hết sức lực toàn thân, bắt đầu xoay chuyển bàn tời, bàn kéo chuyển động, dây thừng dẫn  động các chốt bẫy, cây cổ thụ lại phát ra những tiếng "cạch cạch cạch."
Trác Mộc Cường Ba nhìn theo hướng Sean chỉ tay, quả nhiên, ba bốn gian nhà gỗ phía trước đang nhúc nhích chuyển động cực khẽ, tựa như một con thuyền nhỏ dập dềnh trên mặt nước hồ phẳng lặng, chầm chậm nhô lên nhấn xuống vậy, hết sức đặc biệt. Còn vùng đất bùn phía trước cũng đang hơi nhấp nhô lên xuống như có sóng, không nhìn kỹ thì căn bản không thể nhận ra.
"Cái gì vậy?" Trác Mộc Cường Ba không hiểu.
Sean thở hắt ra một tiếng, nói: "Nguy hiểm quá, cái bẫy này được che chắn ghê quá. Phía trước là vùng lầy đấy.
"Vũng lầy!" Trác Mộc Cường Ba cả kinh thốt. Sean lại nói: "Ừm, bọn họ cố ý đặt gian nhà tranh rất nhẹ kia lên bề mặt vũng lầy, xung quanh còn đầy lá rụng với cành cây tạp nữa. Nếu kẻ địch bên ngoài xâm nhập, không hiểu chuyện mà muốn lại gần gian nhà tranh kia, chắc chắn là sẽ không thể thoát chết."
Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên hỏi: "Đặt mấy gian nhà tranh lên bề mặt vũng lầy để mê hoặc kẻ địch ư?" Sean đang chuẩn bị giải thích, bỗng cả hai cùng nghe thấy trên cây đại thụ phía bên phải, phát ra những tiếng "cạch cạch" nghe rợn cả người. Cùng với âm thanh ấy, một cành cây thò ra, không ngờ lại hướng đúng về phí trên một gian nhà tranh giữa vũng lầy.
Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt: "Đó, đó là gì vậy?"
Sean chau mày nói: "Lẽ  nào, trong gian nhà kia có thứ gì đó? Bộ lạc này chỉ lợi dụng vũng lầy để đảm bảo đồ đạc bên trong không bị ai trộm đi?"
Trong nháy mắt, từ  cành cây đó thõng xuống một sợi dây, một người đầu chúc xuống chân chổng lên trườn xuống, trong bóng tối chỉ thấy một cái bóng mờ mờ, nhưng tay chân thì nhanh nhẹn như khỉ vậy. Trác Mộc Cường Ba cảm giác cái bóng ấy hết sức quen thuộc, dường như gã đã trông thấy ở đâu rồi thì phải. Lúc này Sean bỗng làm đứt mạch suy tư của gã, cuống quýt nói: "Không xong, đay là kế giương Đông kích Tây của người này! Y dẫn dụ đám ăn thịt người đi chính là để tới đây trộm đồ, bọn họ sẽ quay lại ngay bây giờ đấy, chúng ta phải tức khắc đi ngay!"
Soares cuốn hai chân vào sợi dây, trượt nhanh xuống gian nhà bên dưới, tới gần nóc nhà, gạt đống lá cọ sang một bên, một cánh cửa gõ có tay kéo hiện ra. Soares nghĩ ngợi giây lát, rồi dịch người sang một bên, sau đó mới kéo cánh cửa, vừa kéo vừa nghiêng tai lắng nghe, bên trong không có tiếng động gì, chờ thêm một lúc, cũng không thấy có tên nỏ gì bắn ra,y mới lấy một cây pháo sáng, vừa giật chốt, ánh sáng ma giê chói mắt lập tức lóe lên. Soares ném cây pháo sáng vào, nhìn rõ bày trí bên trong, cả gian nhà chỉ có một chiếc bàn gỗ, bên trên xếp thẳng thớm năm món đồ kim loại trông như quả trứng, dưới bàn dây thừng căng chi chít như mạng nhện, cả cánh cửa y vừa mở ra cũng có một sợi dây nối xuống. Soares biết rõ, những quả trứng kim loại dưới kia đều là vàng nguyên chất, nhưng chỉ có một quả là chứa thứ y muốn tìm, còn những quả khác, đều có vô số cạm bẫy đang lợi dụng trọng lượng của vàng để nén xuống, một khi chọn sai, thì tình hình sẽ hết sức nguy hiểm. Nhưng đằng xa đã nghe tiếng người náo động, đám ăn thịt người kia đã nhận ra, và đang chạy lại phía này, không còn thời gian nữa, Soares lại tiếp tục dòng dây chui vào gian nhà tranh ấy.
Chỉ thấy bốn bức vách chỗ nào cũng có các lỗ nhỏ, Soares hiểu rõ, đây là một gian nhà lớn lồng bên ngoài gian nhà nhỏ, chỉ cần chạm phải chốt, những lỗ đó sẽ lập tức phun lửa, phun độc, bắn tên, thứ nào cũng đủ khiến người ta mất mạng. Đồng thời, y cũng hiểu, những thứ này đều không phải kết tinh trí tuệ của đám ăn thịt người kia, mà là tổ tiên của các dân tộc ở đây. Nghĩ tới chuyện này, y lại tức thầm trong bụng: "Rõ ràng là đã suy bại cả ngàn năm rồi, vậy mà vẫn còn để lại những thứ này hại người." Nhớ lại những đồng bọn phải chết tức tưởi kia, trong lòng Soares cũng không khỏi bồi hồi thương cảm.
Những quả trứng vàng nhấp nhóa dưới ánh sáng ma giê ở ngay trước mắt, Soares thoáng trầm tư, chợt nghĩ, dù cho cẩn thận thế nào chăng nữa, quả trứng vàng thường xuyên bị lấy ra sử dụng tế bái kia chắc chắn vẫn có dấu vết bị dịch chuyển. Người lấy trứng ắt hẳn cũng phải treo ngược người đầu chúc xuống đất chân chổng lên trời như y lúc này, lúc đem trả lại, ắt hẳn không thể hoàn toàn khớp dấu di dịch ban đầu. Tìm thấy rồi, Soares cẩn thận mở phần nắp bên trên quả trứng thứ ba, quả nhiên, một quả trứng đá có cánh nhỏ hơn đang nằm bên trong, cơ hồ như giống hệt với thánh thạch của người Kukuer. Soares cầm quả trứng đá ấy lên tay, trong lòng kích động tự nhủ: "Cuối cùng cũng tìm thấy chiếc chìa khóa thứ sáu rồi, giờ chỉ còn lại chiếc cuối cùng thôi, rốt cuộc là ở đâu đây? Nói gì thì nói, khó khăn lắm mới đến cấm địa Ah Puch một lần, đã đến rồi, không có lý do gì mà không đi tới đó cả, bảy năm trước ta đã không mở được cánh cửa ấy, lần này nhất định là phải được."
Tiếng "cách cách" lại vang lên lần nữa, Soares giật bắn mình, không ngờ  bàn tời gỗ kia cũng có thời gian của riêng nó, sau thời gian định trước lại tự động xoay trở về, cả cánh cửa mở ra trên đầu y cũng đang "cạch cạch" từ từ khép lại. Cũng may là y chân tay nhanh nhẹn, trong lúc ngàn cân treo sợi tóc đã kịp lách người thoát ra được, kế đó y trèo lên cành cây đang rụt trở về, theo nó dịch chuyển ra ngoài khu vũng lầy. Nhìn bề mặt vũng lầy trông chẳng khác gì đất bằng bên dưới, Soares lại nhớ tới ba phần tử tinh anh trong đội, năm đó ba người này đã bị cạm bẫy nhìn bề ngoài hoàn toàn chẳng có gì nguy hiểm này nuốt chửng, đến giờ thân xác vẫn còn nằm trong đó.
Soares giấu viên thánh thạch vào người, trườn xuống gốc cây rồi chạy về hướng Tây, chưa đầy năm phút sau, phía trước bỗng sáng bừng ánh lửa, vô số thổ dân ăn thịt người giơ đuốc chạy ra khỏi rừng cây. Soares lùi lại một bước, phía sau cũng đầy dân ăn thịt người đứng chen chúc, trên vai họ xốc mấy con khỉ vừa quậy phá ở đàn tế giờ bị bắn cho chi chít như lông nhím, trừng trừng nhìn vào Soares, nhưng cũng không ai ra tay cả. Soares cũng ngấm ngầm sợ hãi, tay không đối phó với nhiều người như vậy, y căn bản không có khả năng chiến thắng, nếu lợi dụng thuốc để dẫn dụ các loài sinh vật mà họ sợ thì tốn thời gian, nhưng sao đám người này vẫn chưa động thủ? Soares đang nghĩ ngợi, bỗng trông thấy viên đá màu hổ phách trước ngực mình, y cười nhạt một tiếng, cầm viên đá lên tay, chìa ra trước mặt từng người một, trong ánh mắt đám ăn thịt người ấy, y nhìn thấy sự kính sợ, thành kính và cả sùng bái nữa. Soares cầm viên đá tượng trưng cho khế ước đó, ung dung đi qua đám dân ăn thịt người, đi tới đâu, là họ lục tục lùi lại nhường lối tới đó, ánh mắt sùng kính, sắc mặt nhún nhường. Sau đó trong đám thổ dân không hiểu ai gào lên một tiếng, cả bọn như sực tỉnh cơn mê, nhanh chóng đuổi theo hướng Trác Mộc Cường Ba và Sean đào tẩu.
Chạy thục mạng khỏi làng của bộ lạc ăn thịt người một lúc lâu, Soares mới dám dừng lại, để quả tim nãy giờ vẫn đập thình thịch trở lại nhịp bình thường, thở phào một hơi nhẹ nhõm. Y nhìn viên đá hổ phách, rồi lại lấy chiếc máy theo dõi nhỏ kia ra quan sát lộ tuyến chạy trốn của bọn Trác Mộc Cường Ba, nụ cười âm hiểm lại hiện lên trên gương mặt: "Trác Mộc Cường Ba, năng lực của mày thì chẳng ra sao, nhưng phúc duyên thì không tệ đâu."
Trong bóng tối chẳng kịp phân biệt phương nào hướng nào, chỉ cần là nơi thân thể có thể chui qua được là họ xông qua, ánh lửa sau lưng không bớt đi, mà ngược lại còn càng lúc càng nhiều, càng lúc càng lại gần, Trác Mộc Cường Ba cảm thấy lịch sử dường như đang lặp lại, Kể từ khi đặt chân vào vùng rừng nhiệt đới này, số mệnh của gã không sao thoát khỏi chuyện chạy trốn, cơ hồ như ngày nào cũng phải chạy trốn, đến giờ coi như đã có chút tâm đắc, có khi trở về viết một quyển sách về chuyện này kiếm được chút tiền cũng không chừng. “Bịch”, xung quanh đã tối lại phải chạy cuống cuồng, Trác Mộc Cường Ba không biết đụng phải thứ gì đó, còn chưa định thần lại đã cảm thấy có vật gì như cái gậy chọc vào bụng dưới, gã liền lập tức không dám động đậy, bởi rất rõ ràng, đó là một họng súng. Lúc này, Sean bỗng xổ ra một tràng tiếng Quechua, rõ ràng anh ta cũng bị khống chế rồi, chỉ nghe đối phương lằn nhằn chửi bằng tiếng Trung: “Mẹ nó, lại là quân du kích, bị bọn ăn thịt người đuổi, lại còn bị quân du kích đuổi nữa, giết mẹ chúng đi!”
Trác Mộc Cường Ba vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, cũng ngoác miệng chửi: "Nhạc Dương, cậu dám à!"
"Cường... Cường... Cường Ba thiếu gia? Đúng là anh à? Cường Ba thiếu gia!" Trương Lập đang khống chế gã quăng súng sang một bên, ôm chầm lấy Trác Mộc Cường Ba, kích động đến độ khóc òa lên thành tiếng. Bên kia Nhạc Dương và Sean cũng ôm nhau, sau một phen sinh ly tử biệt, nay lại trùng phùng, niềm vui trong lòng bốn người lúc này thật khó mà biểu đạt nổi.
Sau khi biết đối phương là Trương Lập và Nhạc Dương, Trác Mộc Cường Ba cũng bớt đi phần nào căng thẳng, ngoảnh đầu nhìn lại, thấy ánh lửa càng gần thêm, gã vội thúc giục Trương Lập, giậm chân nói: "Đi nhanh! Nhanh, rời khỏi đây trước rồi nói sau." Bốn người liền chạy thẳng vào khu rừng tối đen phía trước.
"Cường Ba thiếu gia, sao các anh lại tới đây vậy?"
"Tại sao bọn họ phải bắt các anh bằng được như thế? Tôi lại còn tưởng là đuổi bắt chúng tôi nữa cơ đấy."
"Cường Ba thiếu gia, các anh ở lại chỗ bộ lạc ăn thịt người một đêm rồi à? Có cô nào xinh xinh không?"
Cảm giác hân hoan khi gặp lại đồng bạn làm dọc đường Trương Lập và Nhạc Dương cứ hỏi han không ngừng, Trác Mộc Cường Ba kể vắn tắt một lượt những chuyện họ gặp phải trong mấy ngày này, đã mệt đến thở không ra hơi. Đoạn gã lại hỏi chuyện của Trương Lập với Nhạc Dương, chỉ nghe Nhạc Dương đáp: "Chúng tôi à, chuyện của chúng tôi thì đơn giản hơn nhiều, sau khi bị nước lũ cuốn tới đây, tôi và Trương Lập cứ đi vòng vòng trong rừng, tuy là có súng, nhưng đạn thì còn ít lắm, muốn ra khỏi rừng mà không ra nổi, ngay hôm kia ấy, suýt chút nữa thì đụng đầu với quân du kích rồi!" Kế đó, anh ta lại liến láu kể sơ qua tình cảnh đám thổ dân ăn thịt người bắt cả nhóm du kích ngay trước mắt hai người ra sao, cảnh tượng cơ hồ cũng sặc mùi máu tanh hệt như cảnh tế sống bọn Trác Mộc Cường Ba trông thấy. Sau khi biết được đây là địa bàn của bộ lạc ăn thịt người, hai anh chàng lại càng thấp thỏm bất an, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ. Ngay vừa mới đây, họ đang đi trong rừng, vô ý gặp phải mấy tên ăn thịt người, nổ hai phát súng, không ngờ bộ lạc của họ lại ở ngay đấy, kết quả là tiếng súng còn kéo thêm cả một đám khác ào tới, hai người vừa đánh vừa chạy, cuối cùng thì gặp bọn Trác Mộc Cường Ba cũng đang chạy trối chết.
Trác Mộc Cường Ba nói: "Thì ra là các cậu nổ súng, bọn tôi còn tưởng là quân du kích đánh tới nữa."
Sean nói: "Phải rồi, các anh nói muốn ra khỏi rừng mà không ra nổi là thế nào?"
Trương Lập nói: "Ủa, vậy các anh còn chưa biết à? Vùng này là một khu tách biệt, bốn phía đều bị vách núi vây kín, bên dưới sâu cả trăm mét, phẳng lỳ như dao cắt, bên dươi nữa là dòng sông cuồn cuộn, hai bờ cách nhau tới mấy chục mét, căn bản là không thể qua nổi. Tôi và Nhạc Dương đi dọc theo vách đá gần hai ngày trời mà vẫn chưa thấy tận cùng, có khi là một khe núi hình tròn cũng nên, cả khu rừng này nằm giữa khe đó. Lúc lẽ quét qua, nước dâng cao, vừa hay cuốn chúng ta tới đây, lúc tỉnh lại thì nước rút đi mấy chục mét rồi, vậy là không thoát được."
Trác Mộc Cường Ba và Sean đưa mắt nhìn nhau, nếu chiều tối hôm qua bọn họ quay đầu đi ngược lại, gặp phải tình cảnh ấy chắc cũng chẳng thể làm gì. Trác Mộc Cường Ba chợt hỏi: "Phải rồi, hai ngày nay các cậu ở trong rừng, có gặp nhóm giáo sư Phương Tân không?" Dù gã cũng biết, chỉ có Trương Lập và Nhạc Dương đi với nhau, vậy thì quá nửa là hai anh chàng này chưa gặp mấy người giáo sư Phương Tân, nhưng cứ phải hỏi thì gã mới yên lòng được.
"Giáo sư Phương Tân! Bọn họ cũng ở đây à?" Nhạc Dương kinh hãi kêu lên.
Trác Mộc Cường Ba gật đầu nói: "Ừm, chúng tôi thấy ký hiệu của nhóm bọn họ để lại, họ cũng bị tản mát ra rồi. Nếu đúng như các cậu kể, có lẽ họ cũng giống như chúng ta, đang ở trong khu rừng này thôi."
Trương Lập thốt: "Nhưng khu rừng này lớn quá, chúng tôi cứ đi mãi, mà cảm giác như là chưa đi được bao xa ấy."
Sean nói: "Chắc là phải có cách ra khỏi đây chứ, bằng không thì các bộ lạc ăn thịt người trong rừng cũng không thể sinh tồn được, trừ phi... trừ phi..." Anh ta không dám tin tưởng, trừ phi là khu rừng này lớn khủng khiếp, mới có thể cho mấy bộ lạc cùng lúc sinh tồn mà vẫn tự túc tự cấp được.
Nhạc Dương nói: "Mấy người nhóm giáo sư ở đây thì hay quá rồi, nếu tìm được họ, tình hình nhất định là tốt hơn lúc này."
Sean lo âu nói: "Nhưng sau khi tìm được họ thì sao, có thể ra khỏi khu rừng bị vách núi vây quanh này không? Có đấu lại được quân du kích và thổ dân ăn thịt người được không?" Nhạc Dương vốn là người lạc quan nên chưa nghĩ tới những chuyện này.
Trương Lập lắc đầu: "Anh sai rồi, không thể lấy thực lực của chúng tôi ra so với tổ của giáo sư Phương Tân được, khoảng cách là rất lớn đấy, những chuyện chúng tôi không làm được, chưa chắc mấy người đó đã không làm được đâu. Điều tôi lo lắng là, nếu như bọn họ rời khỏi đây trước, bỏ chúng ta ở lại thì thật là tai hại đó."
Trác Mộc Cường Ba thúc giục: "Thế nào cũng được, nghĩ cách thoát khỏi đám đang đuổi giết đằng sau đi đã."
Sean lắc đầu: "Xem ra bọn họ coi chúng ta thành kẻ trộm đồ kia rồi, cũng không biết tên kia đã lấy cái gì, à..."
Chạy được chừng mười phút nữa, bên tai đã nghe tiếng tên bay vù vù, bốn người lại mất một phen luống cuống tránh tên, Sean nói nhanh: "Trong rừng đua tốc độ với thổ dân ăn thịt người, chúng ta không có cơ thắng đâu."
Nhạc Dương thốt: "Vậy phải làm sao? Giơ tay đầu hàng chắc?"
Sean lắc đầu: "Chớ có mà nghĩ thế, bọn ăn thịt người còn khó nói chuyện hơn quân du kích nhiều, muốn nói, họ sẽ cho anh vào bụng mà nói đấy."
Trương Lập chợt kêu: "Phía trước không có đường nữa rồi, hình như có một ngọn núi chắn trước mặt thì phải!"
Sean ngạc nhiên: "Không phải đấy chứ! Đây là rừng rậm, sao lại có núi được?"
Trương Lập cũng nói: "Hình như là thật đấy, chúng ta chạy tiếp về phía trước thử xem, khu rừng này tối om om, nhìn không rõ gì cả."
Chạy thêm mấy bước nữa, phía sau lại có tiếng gầm gào đuổi giết, và tiếng tù và chiến đấu đặc biệt của đám thổ dân ăn thịt người. Nhạc Dương nói: "Không phải núi! Là rừng đấy! Trời ơi, cây trong rừng này sao cao thế, lại còn mọc sít sịt thế này nữa? Sợ rằng chúng ta không len vào được mất."
Chắn phía trước mặt họ chẳng phải núi non gì, mà là một khu rừng toàn những cây cổ thụ cao ngất, cây nọ chen chúc cây kia, cành lá quấn vào nhau, rễ cây cuốn rễ cây, nhìn xa chẳng khác nào một ngọn núi cả.
Trương Lập nói: "Nhìn xem, có sông kìa, có sông chảy vào rừng, nhanh theo đường đó mà vào. Lúc ấy chúng ta chốt ở đầu đường, chúng sẽ không dám đuổi theo nữa đâu!" Bốn người không nghĩ ngợi gì, liền phóng ngay vào khu rừng rậm xưa nay chưa từng thấy này.
Chỉ lát sau đó, đám ăn thị người đã đuổi đến cửa sông, cả đám người đều dừng lại, nhìn khu rừng rậm rạp, cành lá xen lẫn vào nhau, dưới ánh lửa, sắc mặt người nào người nấy đều trở nên nặng nề, lộ vẻ sợ hãi. Chiến binh cao lớn nhất dẫn đầu kia dang rộng hai tay chắn phía trước, lớn tiếng hô hoán gì đó, sau đó kiên quyết lắc đầu, quyết không để người trong bộ lạc mình tiến thêm nửa bước. Kế đó, y dẫn đầu những người còn lại hướng mặt về phía bọn Trác Mộc Cường Ba bỏ chạy, cao giọng niệm một tràng gì đó, cả đám người đều thành kính quỳ gục mặt xuống, tiếng cầu khấn vút cao bay xa.

Sau khi đám ăn thị người bỏ đi, Soares cầm chiếc máy theo dõi đến cửa sông, nhìn những cây cổ thụ cao vút đứng san sát như những người khổng lồ chen vai sát cánh trong bóng tối, nét mặt y hiện lên vẻ không tin tưởng, lắc đầu nói: "Đây là... là rừng Mãng Xà mà, sao bọn này không nghĩ ngợi gì đã chui vào luôn rồi!" Đoạn y lắc lắc đầu chán nản, lần này bất kể làm sao cũng không thể tiếp tục đi theo nữa, nơi này, lần trước có nhiều người như vậy mà bọn y còn phải đi vòng qua, giờ chỉ có một mình y lại càng không dám mạo hiểm.
Rừng Mãng Xà
Rừng rậm nhiệt đới bốn mùa nóng bức, dù mưa to gió lớn thì cũng vẫn ấm áp hơn mùa xuân ở Trung Quốc, nhưng lúc này, bốn người bọn Trác Mộc Cường Ba đều cảm thấy hơi lành lạnh. Quần áo bốn người đã rách bươm, nhưng lúc ở bên ngoài khu rừng này thì không hề thấy lạnh, vào trong rừng mới thấy như nhiệt độ giảm một lúc mười độ, ai nấy đều nổi hết cả da gà.
Trương Lập nói là chặn chốt ở cửa sông, nhưng thực tế là bốn người đang không ngừng đi sâu vào bên trong, chỉ e đi chậm quá bị đám ăn thịt người đó bắt lại. Phía sau có tiếng ồn ào náo động, nhưng rốt cuộc cũng mỗi lúc một xa dần, Nhạc Dương đắc ý nói: "Chúng ta cứ đi dọc theo bờ sông, bọn chúng bị mất phương hướng, nhất định là bị lạc trong rừng rồi. Ôi cha... lạnh quá."
Trương Lập đang ôm súng cũng rùng mình, Sean nói: "Chỗ này có gì đó không ổn, cứ âm u lành lạnh, không giống với rừng rậm ngoài kia, chẳng có chút sinh khí nào cả."
Ba người bọn Trác Mộc Cường Ba đều trừng mắt lên nhìn Sean, lần trước anh ta nói một câu không ổn, kết quả năm người phát hiện ra mình đã đi nhầm vào rừng Than Thở, tiếp đó chẳng có lấy một ngày được yên thân, giờ anh ta lại nói không ổn lắm, đúng là điềm báo hết sức tệ hại. Còn Sean thì chẳng hiểu mình nói sai gì, xòe tay ra, nhún vai, ý như muốn hỏi, mấy người bị làm sao vậy? Người nào người nấy cứ trợn mắt lên nhìn tôi là sao?
Bốn người lội qua con sông nhỏ, nói một cách nghiêm khắc, đây thực ra không thể coi là sông được, mà cả suối cũng chưa chắc đã phải, cùng lắm chỉ có thể nòi là một rãnh nước chảy qua rừng mà thôi. Vô số cây mọc giữa dòng nước, rễ cây chĩa ngang chĩa ngửa, có cành cây còn rủ xuống dưới nước, dòng nước thì luồn lách qua kẽ hở giữa các thân cây róc rách chảy. Trận mưa lớn mới rồi khiến vô số rễ cây rủ xuống vẫn còn đọng nước, phất vào mặt vào đầu khiến người đi bên dưới lạnh buốt. Rừng sâu tối om như mực, một chút ánh sao cũng không lọt xuống nổi, bốn người đều đi rất chậm chạp, chỉ sợ giẫm hay đụng phải thứ gì đó. Chằng rõ họ đi như vậy được bao lâu, sau khi cả bốn đều đã vấp ngã rất nhiều lần, Trương Lập không nhịn nổi thốt lên: "Hình như phía sau không có người đuổi theo nữa từ lâu rồi, cả ánh lửa cũng không thấy nữa, chúng ta đốt cái gì lên cho sáng đi, ở đây chẳng thấy gì cả."
Sean cẩn thận nói: "Hãy cứ lên cây quan sát trước thì tốt hơn."
Nhạc Dương đang đứng dựa vào một thân cây, cái cây này vừa nãy đã cho anh nếm đầy một mũi những bụi là bụi, anh đưa tay sờ, rồi nói: "Các anh lại sờ xem, to như vậy làm sao mà trèo được." Ba người còn lại liền sánh vai đi tới chỗ Nhạc Dương, sau đó cũng sờ thử. Kết quả bốn người cầm tay nhau mà hình như cũng chưa ôm được một nửa đường kính cái cây đó.
Trác Mộc Cường Ba nói: "Nếu chúng ta không thể leo lên, thì đám ăn thịt người kia e là cũng khó lên nổi, chiếu sáng xem thử đã, nếu không ổn thì lại dập đi." Vậy là, một ống pháo sáng được giật chốt, hai loại hóa chất bên trong hòa vào nhau, liền phát ra chùm sáng chói mắt không thua gì lựu đạn quang, người cầm lắc lắc khống chế mức độ hòa trộn của hóa chất, là có thể điều tiết được cường độ ánh sáng phát ra. Bốn người trông như cầm bốn cây đuốc, giơ cao chiếu rọi bốn bề xung quanh.
Chỉ thấy bốn người đều mặt nhem mày nuốc, bùn đất đầy người, râu tóc ướt sũng dính chặt vào mặt, nước nhỏ tong tỏng không ngừng, chẳng hiểu Sean đã đụng phải chỗ nào, khi ấy chỉ nghe thấy anh ta "ối cha" một tiếng, giờ có ánh sáng cả bọn mới nhận ra, có hai vết máu đang chả dài từ lỗ mũi xuống môi trên. Trương Lập thốt: "Chà, không ngời ngài Sean của chúng ta đây cũng vẫn còn là thanh niên máu nóng cơ đấy."
Nhạc Dương ở đầu bên kia kêu toáng lên: "Trời ơi, mấy cái cây này sao mà to thế!" Chỉ thấy dưới ánh sáng ma giê nhập nhòe, thân cây lúc nãy họ vừa lần mò hiện ra to đến kinh người, ít nhất phải mười gã lực lưỡng thì mới ôm hết được, rễ cây phủ kín cả con sông nhỏ, lại còn chằng chịt quấn vào các rễ cây khác. Nếu trổ một lỗ ở gốc cây này, xe lửa có thể chạy qua, nếu chặt cây đi để lại bệ gốc, xây nhà bên trên cũng được, đây là lần đầu tiên bốn người trông thấy cây to như vậy. Càng làm người ta kinh hãi hơn là, không chỉ một cây này, mà cả khu rừng, toàn bộ đều là những cây khổng lồ như vậy. Trong các khu rừng họ đã đi qua trước đây, cây cao hai ba mươi mét là thường, cao hơn năm mươi mét đã là hiếm thấy, giữa tán cây rừng, cảm tưởng như hạc giữa bầy gà vậy. Còn cây cối ở đây đều sừng sững chọc thẳng lên trời, ngẩng đầu lên, căn bản không thấy ngọn cây đâu, chỉ nhìn thân cây phán đoán, mỗi cây cũng phải cao trên trăm mét. Loại cây khổng lồ như vậy, có thể tính đến vân sam ở Bắc Mỹ, nhưng đây rõ ràng chẳng phải vân sam, cũng chẳng hiểu là loại gì, cây nào cây nấy đều giống những tảng đá lởm chởm, đứng cạnh nhau trông không khác gì vách núi trùng điệp. Không chỉ cây to, mà cả cậy bụi cũng cao tới cả chục mét, cả cỏ dại dưới đất cũng phải tới mấy mét, làm cho người ở trong đây cảm tưởng như lạc bước vào thế giới người khổng lồ trong chuyện cổ tích vậy.
Bốn người càng đi vào sâu, các loại thực vật càng thêm cổ quái, có cây dùng bộ rễ quấn lấy một cây khác, cơ hồ như muốn nuốt trọn cả cây đấy vậy; có cây thì mọc thẳng ra từ chỗ rẽ nhánh của cây khác, bộ rễ bò khắp thân cây kia, tựa như ký sinh trên đó; có loại hoa nở phanh thành hai nửa, toàn bộ phần rìa đều có răng cưa, trông như những cái miệng quái thú đang ngoác ra. Rừng cây càng rậm, nhiệt độ càng thấp, hơi sương bốc mù mịt trên mặt sông, vấn vít quanh các thân cây cổ quái, chỉ nghe tiếng nước chảy róc rách, ngoài ra không còn bất cứ âm thanh nào khác nữa. Bốn người cảm thấy hơi thở hà ra trong miệng mình đã hòa cùng với màn sương mông lung thành một thể, không phân biệt được. Hơi sương mù mịt, lúc thì biến thành mãnh thú thời viễn cổ, lúc lại hóa ra mỹ nữ yểu điệu, khi thì ảo hóa ra đô thị hiện đại, lúc lại thành vũ trụ mênh mang, quái dị ly kỳ, như mộng như ảo. Nhạc Dương không khỏi rùng mình, làu bàu nói: "Tôi đói quá, Cường Ba thiếu gia, các anh còn gì ăn được không? Tôi với Trương Lập hai ngày nay đã ăn hết sạch các thứ rồi." Nói đoạn, anh chàng chỉ vào hai chiếc ba lô xẹp lép của mình và Trương Lập, quả nhiên đã nhỏ hơn trước rất nhiều. Nhưng Trác Mộc Cường Ba và Sean cả ba lô cũng mất, tình hình còn tệ hơn họ nhiều.
Trác Mộc Cường Ba nói: "Chúng tôi cũng không có, sau khi bị nước lũ cuốn tới đây, chúng tôi đã ăn hết rồi, vốn là cũng tìm được một ít vỏ cây ăn được, tiếc là đã bị đám ăn thịt người kia lấy đi hết." Nói xong, gã mới sực nhớ ra những thứ mình ăn vào đã nôn sạch lúc ở bộ lạc ăn thịt người rồi, giờ vừa lạnh lại vừa đói, bụng sôi lên ùng ục.
Nhạc Dương nhắc tới, bốn người mới phát hiện, thì ra mình sớm đã đói đến không thể chịu nổi. Trương Lập ngồi phịch xuống một đoạn rễ cây, lầm bầm: "Không đi nổi nữa, hết hơi rồi." Nhạc Dương cũng chọn một cây thấp dựa vào, nói: "Tôi cũng...có người!" Anh chàng đột nhiên nhảy dựng lên, sắc mặt cổ quái nhìn ra sau lưng.
Ba người còn lại cũng giật bắn mình, căng thẳng đứng tại chỗ trố mắt ra nhìn, Trác Mộc Cường Ba còn suýt nữa ném cả cây pháo sáng đi. Chợt thấy Nhạc Dương lấy tay rờ rờ lên thân cây thấp mình vừa dựa lưng vào, ngượng ngùng nói: "Xin lỗi, tôi nhầm, không phải người." Trác Mộc Cường Ba bước tới sờ thủ cái cây ấy, quả nhiên thấy mềm nhũn, rất giống da người. Nhạc Dương lúc này đã giơ cao pháo sáng lên, trên đỉnh đầu là tán cây tròn, trông như một cái chòi nghỉ mát. Trương Lập đứng khá xa, nhìn rõ được toàn bộ cả "cái cây" ấy, thảng thốt kêu lên: "Là nấm đấy, có khoa trương quá không vậy, nấm mà cũng to thế!"
Thì ra, chỗ Nhạc Dương dựa lưng vào, là một cây nấm cao tới ba mét, anh chàng dựa vào chân nấm, chẳng trách như cảm thấy dựa vào người khác. Nhìn cây nấm lớn đó, Nhạc Dương lập tức nhỏ rãi thèm, vội nói: "Nấm to vậy cơ mà, đem nấu canh đi."
Sean nói: "Không ăn được, đây thực ra không thể gọi là nấm, có lẽ nên gọi là một loại chân khuẩn. Cụ thể là loại nào thì tôi chịu, có điều cá thể này không thể tính là lớn được, tôi từng thấy cái lớn hơn nhiều, hơn nữa các anh nhìn mà xem, ở rìa mũ nấm màu sắc rực rỡ, quá nửa là không ăn được rồi."
Nhạc Dương kêu lên: "Không ăn thì chúng ta không còn sức mà đi nữa đâu." Nhìn cây nấm lớn như vậy mà lại không được ăn, Nhạc Dương đã đói lại càng thêm đói.
Sean nói: "Theo lẽ  thường, nơi đây rừng sâu cỏ rậm, đáng lẽ phải có nhiều động vật mới phải, nhưng chúng ta đi trong rừng lâu như vậy, không ngờ lại chẳng gặp sinh vật nào, chuyện này thật cổ quái vô cùng, chi bằng hai anh ở đây nghỉ một lúc đi, tôi và Johnson đi xung quanh chừng trăm bước thử xem."
Nhạc Dương cầm súng lên, nói: "Súng này." Sean lắc đầu: "Không cần, tiếng động lớn quá. Nếu gặp phải loài vật nào cần dùng đến súng, chúng ta đối phó sao được." Trương Lập rút con dao găm đưa cho Trác Mộc Cường Ba nói: "Dùng cái này vậy." Trác Mộc Cường Ba cầm lên ước lượng, thấy cũng khá vừa tay.
Trương Lập nói: "Nếu được thì nên trèo lên cây xem thử, cây ở đây lớn như vậy, nói không chừng các loài động vật đều sống trên cây hết cũng nên." Nhạc Dương bổ sung thêm: "Có khi chúng còn đang ngủ ấy."
Sean và Trác Mộc Cường Ba đều nói: "Tất nhiên rồi." Trác Mộc Cường Ba lại nhắc nhở: "Dọc đường không trông thấy loài mãnh thú nào nhưng cũng chớ có vì vậy mà lơi là cảnh giác, hai người cậu phấn chấn lên đi." Nói đoạn, hai người giẫm lên rễ cây, đi ngược dòng sông.
Trương Lập và Nhạc Dương dựa lưng vào cây nấm nghỉ ngơi, chưa đầy năm phút sau, Trác Mộc Cường Ba và Sean đã quay lại, hai người đều có vẻ mừng rỡ, vừa trông thấy Trương Lập liền kêu lên: "Nhanh lên, tới đây giúp một tay đi, có thịt nướng ăn rồi."
Trương Lập và Nhạc Dương ngước lên nhìn, liền được một phen kinh ngạc. Trác Mộc Cường Ba và Sean một người khiêng đầu, một người khiêng chân, không ngờ đã vác về một con cá sấu dài hơn hai mét. Nhạc Dương lắp bắp kêu: "Ở đâu...ở đâu ra cái con to tướng này vậy!"
Trác Mộc Cường Ba vui vẻ đáp: "Ngay phía trước thôi, lần này có thịt cá sấu ăn rồi."
Trương Lập nói: "Da thô thịt dày thế này, ăn được không?"
Sean nói: "Đương nhiên là được." Trác Mộc Cường Ba cũng đáp: "Đừng chê nó da thô thịt dày, món cá sấu này từ ngàn xưa đã là đặc sản rồi đấy." Nhạc Dương bước lại gần, thấy con cá sấu này bị quấn dây quanh miệng, vùng bụng mềm mềm, hóa ra là vẫn còn sống, anh chàng ngạc nhiên thốt lên: "Sao hai anh bắt được nó vậy?"
Trác Mộc Cường Ba và Sean ngượng ngùng nhìn nhau, nói lảng sang chủ đề khác: "Cái này cậu không cần biết, tóm lại là cứ mài dao đốt lửa đi, chúng ta lột da xẻ thịt nó ra chia nhau ăn."
Thì ra, Trác Mộc Cường Ba và Sean chưa đi được bao xa thì phát hiện ra rễ cây trên mặt sông phía trước rất không bình thường, thoạt nhìn như có vô số quái vật mắc cạn. Sean bảo đi trước thăm dò, kết quả mới đi được vài bước liền nhận ra, trên mặt sông nằm lê lết mấy chục con cá sấu đang ngủ say sưa, anh ta rón ra rón rén vòng lại, nói phía trước quá là nguy hiểm, rủ Trác Mộc Cường Ba đi vòng qua, kết quả chẳng hiểu vì sao, một con cá sấu đang ngủ giật mình tỉnh dậy và bò tới. Sean ngoảnh đầu lại nhìn, vừa trông thấy con quái vật há to miệng định đớp, Sean hoảng hồn suýt nữa thì kêu gào cứu mạng, cũng không cần để ý tới hình tượng, lập tưc nhảy chồm về phía trước như con chó, suýt chút nữa thì bị đớp cho một phát vào mông. Con cá sấu kia một đớp không trúng, lại táp thêm miếng nữa, không ai nghĩ động tác của cá sấu ở đây lại nhanh nhẹn đến vậy, Sean vừa lăn vừa bò, ống quần cũng bị xé rách một miếng to tướng. Trác Mộc Cường Ba thấy tình cảnh đó, vội chạy tới giúp Sean, nhưng cũng không biết phải xử lý thế nào, đành vung chân hất con cá sấu sang một bên. Con cá sấu lừ mắt một cái, rồi quay sang tấn công Trác Mộc Cường Ba, Sean liền thừa cơ lăn sang một bên, trong lúc hoảng hốt cũng không quên nhắc nhở Trác Mộc Cường Ba: "Tìm cách không cho nó mở miệng, con quái này cắn cái gì thì chặt lắm, nhưng sức lực lúc mở miệng thì không lớn lắm đâu."
Hoảng loạn  cuống cuồng, Trác Mộc Cường Ba trước nay chưa từng bắt cá sấu lần nào còn trượt ngã oạch một cái, nào nghĩ ra cách khiến con quái này không thể hả miệng. Mắt thấy nó tỏ ra vô cùng hứng thú với hai chân mình, gã liền rụt chân lại, bật tung người lên, vừa hay đúng lúc con cá sấu há miệng bổ tới, kết quả là lúc Trác Mộc Cường Ba xoay người rơi xuống, liền cưỡi đúng lên lưng nó. Gã chẳng kịp nghĩ ngợi, lập tức vươn đôi tay khỏe khoắn của mình xuống, ôm chặt miệng con vật, không cho nó mở miệng ra nữa. Con cá sấu liền bám chặt chân xuống đất, đuôi quẫy loạn xạ, vùng vằng định hất gã to xác trên lưng xuống, nhưng Trác Mộc Cường Ba đã ôm được miệng nó, sao mà gã dám buông tay ra chứ.
Hai bên đang giằng co, viên thánh thạch của người Kukuer lăn ra khỏi túi áo Trác Mộc Cường Ba rơi xuống đất, gã liền ngoảnh đầu nhìn theo hướng đó, vừa hay gặp phải ánh mắt con cá sấu, chỉ thấy hai mắt con quái thú xấu xí ấy xanh lè, điệu bộ xem chừng rất không cam tâm. Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ: giờ tao thắng thế, chẳng lẽ lại sợ mày chắc, dám trừng mắt hả! Hai mắt gã cũng trợn trừng lên nhìn lại, con cá sấu đáng thương cũng chưa từng gặp thứ nào giống gã, mới đầu còn chuẩn bị làm một bữa ngon, không ngờ ngược lại còn bị đối phương giữ cho không mở miệng ra được, có lẽ trong lòng nó cũng đang thầm nghĩ: "Ấy cha, đây là quái vật gì vậy!" Bị Trác Mộc Cường Ba trừng mắt lên nhìn, hai mắt con cá sấu trợn ngược, không ngờ lại ngất xỉu luôn. Lúc này bọn Trác Mộc Cường Ba còn cách đàn cá sấu mấy chục mét, những con khác vẫn đang thiu thiu ngủ, chứ chưa bị kích động tới.
Trác Mộc Cường Ba thấy con cá sấu bên dưới đã ngừng nhúc nhích, tưởng nó giả chết, lại ôm một lúc nữa, tới khi Sean nói: "Nó ngất rồi, mau kiếm thứ gì buộc chặt miệng nó lại đi." Gã mới buông tay, cảm giác hai cánh tay vừa mỏi, vừa tê, rõ ràng là đã dùng sức quá độ. Trác Mộc Cường Ba nhặt lại viên thánh thạch, ba lô của gã đã bị đám ăn thịt người cướp mất, giờ chỉ còn lại mỗi viên thánh thạch nhét trong người này thôi. Gã đứng lên nhìn con cá sấu bụng ngửa lên trời, đầu ngoẹo hẳn sang một bên, để mặc Sean lấy dây mây buộc chặt miệng lại, lấy làm ngạc nhiên hỏi: "Sao lại ngất đi được nhỉ?"
Sean buộc chặt miệng con cá sấu, đề phòng nó nổi điên lên cắn người, rồi lại bảo Trác Mộc Cường Ba bồi thêm hai dao vào chỗ hiểm, sau đó mới giải thích: "Đừng nhìn cái miệng như cái chậu máu của nó mà sợ, thực ra bọn cá sấu này nhát gan lắm, nhất định phải quần cư mới dám càn quấy. Lực cắn của cái miệng này có thể lên tới mấy tấn, đớp một phát răng xuyên qua thiết bản dày hai centimet là thường, nhưng cơ thịt nó há miệng ra lại không phát triển lắm, một người đàn ông trưởng thành là có thể dễ dàng khiến nó không mở miệng ra được rồi, những người săn cá sấu đều lợi dụng nhược điểm này để đối phó với chúng. Cá sấu mà không mở được miệng ra, thì khác gì hổ bị nhổ mất răng đâu, trong lòng khó tránh khỏi sợ hãi căng thẳng, lúc này phản ứng bản năng của sinh vật sẽ khiến nó giả chết ngất đi, giống như đà điểu lúc gặp nguy hiểm thì vùi đầu xuống cát, đít ngỏng lên trời vậy. Cái này gọi là gạt mình gạt người. Nhanh nào, chúng ta vác nó về làm thịt ăn trước đã."
Vậy là, con cá sấu bị xuyên qua cành cây, nướng đến mỡ chảy ròng ròng.
Một mùi hương khen khét lan tỏa, bốn người đều đói sôi cả bụng, nuốt nước miếng ừng ực. Sean vừa xoay xoay cành cây vừa nói: "Mặc dù cá sấu nhìn bề ngoài xấu xí vậy thôi, nhưng thịt ăn rất ngon, ở các nước như Australia, Thái Lan, thịt cá sấu đã trở thành món chính từ lâu rồi, làm được rất nhiều món khác nhau đấy nhé. Đuôi cá sấu nấu đông là món mà tôi tương đối thích, nếu bên trong đánh vào thêm hai quả trứng cá sấu thì hết sức hoàn mỹ."
Nhạc Dương liếm liếm môi thốt lên: "Ngửi thơm quá, không biết ăn thì ra vị gì nhỉ?"
Sean đáp: "Gần giống thịt gà hay thịt bò ấy, nướng lên thì vị giống bít tết hơn, nếu mang đủ gia vị thì tốt quá, cho chút hoa hồi, thêm rau thơm với mù tạc, à, cả ớt nữa, thế mới gọi là ngon chứ."
Trương Lập nghe mà không chịu nổi, luôn miệng thúc giục: "Ăn được chưa vậy? Ăn được chưa vậy?"
Sean xoay thêm một vòng nữa, mỉm cười nói: "Chưa được đâu, đây là thịt cá sấu hoang dã, ít nhất cũng phải nướng cho chết sạch lũ kí sinh trùng trong thịt thì mới ăn được, không giống trong nhà hàng, họ toàn dùng cá sấu nuôi, đối với việc trừ bệnh khuẩn và vi trùng đều hết sức nghiêm khắc. Tôi còn nhớ ở Kenya, thổ dân bản địa cũng dùng một loại hương liệu đặc biệt trong rừng để hun thịt thú hoang, sau đó ướp thành thịt khô, vị cay mà chỉ hơi mặn, nhai sướng miệng lắm."
Nói tới đây lại làm Nhạc Dương nhớ tới thịt bò khô, anh chàng khốn khổ nuốt nước bọt đánh ực. Trương Lập cười hì nói: "Không ngờ anh lại nghiên cứu cả về nghệ thuật ẩm thực như vậy."
Sean chỉ cười điềm đạm, đáp: "Đối với một người du lịch, ăn món ngon đặc sản các vùng, tìm hiểu phong thổ nhân tình khắp nơi, thưởng thức phong cảnh tự nhiên, ba thứ này chính là hưởng thụ lớn nhất trên đường du lãm đó. Thông thường một người dịch chuyên nghiệp đều kiêm luôn cả nhà nghiên cứu ẩm thực, người mê mỹ thuật, rồi cả nhà nghiên cứu dân tộc học nữa. Vào thời khắc đói khát nhất, có thể ăn một bữa no thỏa thích, thể nào cũng có cảm giác đi chuyến này không uổng chút nào, hô hô."
Nhìn ba người nói cười vui vẻ, Trác Mộc Cường Ba chợt dâng lên một cảm giác lạ lùng, gã nhớ đến hai bộ lạc ăn thịt người. Lúc ăn thịt cá sấu, mọi người có thể nói nói cười cười, lúc bọn gã giết cá sấu, trong lòng cũng tràn ngập khoái cảm, thấy hưng phấn vô cùng vì sắp sửa có bữa ăn ngon. Nhưng xét về mặt bản chất, người và cá sấu đều là động vật, tại sao lúc thấy đám thổ dân ăn thịt người kia mổ bụng moi gan người sống, chia nhau ăn uống, gã lại cảm thấy buồn nôn và sợ hãi như thế; liệu có phải lúc đám thổ dân đó ăn thịt người, cũng nói nói cười cười, bình đầu phẩm chân như bây giờ họ ăn thịt cá sấu hay không. Từ ăn uống, con người được thỏa mãn nhu cầu cơ bản nhất, rồi còn phát triển ăn uống thành một thứ văn hóa, đối với cùng một loại thịt lại có nhiều cách làm khác nhau, điều hòa các loại mùi vị, sao cho thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ của các giác quan. Nếu loại thịt đó đổi lại thành thịt người thì sao? Trác Mộc Cường Ba hết sức nghi hoặc, hôm đó khi nhìn thấy cảnh bộ lạc tế sống, toàn thân gã như rơi xuống hố băng, tứ chi lạnh buốt, tay chân run rẩy, nhưng quá trình giết một con cá sấu và quá trình giết lợn mổ bò vốn hệt như nhau cơ mà, tại sao lúc đó gã lại sợ hãi đến vậy? Chỉ bởi vì người không ăn thịt người thôi sao? Không, người có ăn thịt người, không chỉ có bộ lạc ăn thịt người ở đây, mà trong sách sử Trung Quốc cũng có ghi: "Những năm đói kém, dân không có ăn, đổi con mà thịt." Ý muốn nói, trong những năm mất mùa đói kém, người không có gì ăn, chỉ còn cách ăn thịt người mà thôi; người lớn khỏe mạnh có sức thì có quyền ăn lũ trẻ con không có khả năng phản kháng; nhưng họ lại không nỡ ra tay với con cái mình sinh thành nuôi dưỡng, vậy là các nhà liền đổi con cho nhau mà ăn, ăn thịt con người khác, trong lòng chắc cũng dễ chịu hơn nhiều. Thời xưa, chính quyền tàn bạo, xa hoa dâm dật cũng có nhiều chuyện ăn thịt người, chẳng hạn Trụ Vương đời Thương, đã giết chết con trai vị đại thần mà y hoài nghi bất trung với mình, làm thành thịt viên rồi bắt vị đó ăn, hay còn xẻ thịt vị đại thần ông ta cho là phản nghịch nấu canh, chia cho những người khác ăn. Nói cách khác, chuyện người ăn thịt người ngàn xưa đã bị cho là chuyện tàn bạo nhất, đáng sợ nhất rồi, nhưng tới lúc không thể không ăn, người ta vẫn sẽ ăn thịt người thôi...
"Rắc," âm thanh vang lên trong rừng làm đứt đoạn dòng suy nghĩ  của Trác Mộc Cường Ba, dường như có khúc rễ cây nào đó bị thứ gì đụng gãy, bốn người miệng vẫn nhai thịt cá sấu, song vẻ sợ hãi đã ngưng kết trên mặt.
CHƯƠNG 14
THÀNH PHỐ THẦN THÁNH CỦA NGƯỜI MAYA
Đứng bên bờ vách núi, mấy trăm tòa kiến trúc màu trắng thu cả trong tầm mắt, vô số đền thờ, cung điện, quảng trường thi đấu, trụ đá kỷ niệm, mỗi kiến trúc đều đẹp tinh tế vô ngần, tất cả đều là tác phẩm nghệ thuật. Có thể nói, đây là quần thể kiến trúc quy mô lớn nhất, bảo tồn hoàn chỉnh nhất kể từ khi con người phát hiện ra các di chỉ Maya cổ đại tới nay. Chúng nằm tản mát trong bóng cây, nhưng bóng cây hoàn toàn không che mờ được ánh sáng của chúng, bụi cát phủ trên di chỉ, không sao che giấu nổi lịch sử huy hoàng; cỏ hoang chốn hư phế đang kể lại câu chuyện về một nền văn minh sáng chói. 
Con thú khổng lồ
Nhạc Dương và Trương L ập nhặt ngay khẩu súng dưới đất lên với tốc độ nhanh nhất có thể, Trác Mộc Cường Ba và Sean cũng đứng bật dậy, chuẩn bị bỏ chạy bất cứ lúc nào, Sean nhanh nhẹn cho thịt cá sấu đã nướng chín vào túi. Lại nghe tiếng “rắc rắc rắc” liên hồi, con vật đang lại gần tuyệt đối không thể nhỏ, bởi đây là âm thanh phát ra lúc nó cố len khoảng trống giữa các cây, đè cho rễ cây biến dạng nát bấy. Sean cảnh giác nhìn đống thịt cá sấu nát bấy dưới đất, thầm nhủ chẳng lẽ mùi máu tanh đã dẫn dụ loài thú lớn nào tới đây?
“Binh!” Con thú khổng lồ trong bóng tối hình như bị kẹt cứng giữa hai cây đại thụ, có vẻ như đang muốn hất cả cây mà chui qua. Nhạc Dương ném một cây pháo sang lại chỗ đó, cùng lúc hét toáng lên: “Nhìn cái gì kìa. Á! Cá Sấu chúa! Là cá sấu chúa đấy!”
Dưới ánh sáng lập loè, một cái miệng to như chậu máu đầy răng nhọn hoắt, cái đầu trông khá giống với đầu khủng long cổ đại kẹt giữa hai thân cây, đang vùng vằng muốn thoát ra. Trong lúc tra tìm tư liệu, bọn Trác Mộc Cường Ba từng đọc một bài báo kiểu chuyện lạ đó đấy, nói trong rừng nguyên sinh có một loài cá sấu thể hình siêu lớn, nhỏ hơn cá sấu khổng lồ thời tiền sử, nhưng phải to gấp đôi cá sấu thông thường, người địa phương gọi chúng là cá sấu chúa, nghe nói cũng là một loại biến chủng kỳ dị, giống như ếch máu hay ếch khổng lồ vậy. Giờ đây, trước mắt bốn người là một con cá sấu to tới bất thường, riêng cái đầu thôi đã gấp đôi con cá sấu họ vừa làm thịt rồi, dù ánh sáng không chiếu tới phía sau hai gốc cây, nhưng từ tỷ lệ cái đầu cũng đoán được, đây chắc chắn là một con cực lớn, chiều dài phải chừng năm mét trở lên.
Trương Lập và Nhạc Dương nhân lúc con cá sấu khổng lồ còn chưa xông qua được khe kẹt giữa hai gốc cây, nổ súng xạ kích, nhưng đạn bắn vào da con quái, chỉ nghe “cạch cạch” rồi bật cả ra ngoài. Con cá sấu nổi cơn điên, dùng hết sức chen mạnh, không ngờ đã chen cả nửa thân ra khỏi chỗ kẹt, xem ra nửa thân sau cũng sắp thoát ra tới nơi, Sean vội kêu lên: “Chạy mau!”
Bốn người vừa ăn được một nửa, đã lại buộc phải bắt đầu tập chạy bộ nhảy vào trong rừng luôn.
Con cá sấu chúa kia lao vụt qua vùng ánh sáng, bốn chân guồng như máy, tưởng như muốn bay lên khỏi mặt đất, tốc độ nhanh tới kinh người, thể hình quả nhiên dài khoảng năm mét, cái miệng đầy răng nhọn lởm chởm kia ước chừng chỉ cần một phát là có thể nuốt nguyên cả một người sống. Nhạc Dương thấy ánh lê thấp thoáng, liền rú lên: “Xem kìa, nó đang khóc, chắc là chúng ta xơi mất con của nó rồi!” Trương L ập quát: “Bớt chút sức lực chạy nhanh lên, tôi thấy quá nửa là tại nó ngửi thấy hormone nam tính trong người Cường Ba thiếu gia nên mới mò tới đấy.”
Nhạc Dương vừa chạy vừa chửi bới: “Ông Trời chết toi, rừng rậm chết toi, chết toi…” Trương L ập hỏi: “Liên quan gì tới ông Trời?” Nhạc Dương nói: “Nếu không phải trận mưa đó thì làm gì có lũ, nếu không có lũ thì chúng ta làm sao bị cuốn tới chỗ này, nếu không phải ở đây thì chúng ta là gì đến nỗi phải vào khu rừng đáng sợ này, nếu không vào đây làm sao chúng ta đụng phải lũ quái vật này… anh nói đi, chẳng lẽ không trách được ông Trời à?” Trương L ập lắc đầu: “Nếu nói như vậy thì không đúng rồi, nói theo kiểu của cậu, nếu không có lần huấn luyện này sao chúng ta phải đến cái chỗ đáng sợ này chứ, muốn trách thì phải trách giáo quan ấy.” Nhạc Dương nói: “Không sai, giáo quan đúng là đồ ác quỷ!”
Sean thì không hiểu hai người nói gì, Trác Mộc Cường Ba trong đầu đang căng thẳng tính toán: cứ theo tốc độ này, sớm muộn gì cũng bị nó bắt kịp, bốn người chạy liên tục cả đêm, thể lực còn chưa kịp hồi phục. Nếu nói sinh vật này có linh tính hay dựa vào dấu vết mùi vị gì để phán đoán đồng loại đã bị hại, nói thế nào thì cũng sẽ tìm tới gã, đâu cần phải hy sinh vô ích làm gì, nếu chạy vòng qua chỗ cây rừng mọc dày đặt hơn, con quái vật không chui qua được, có lẽ là sẽ thoát. Chủ ý đã quyết, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên chuyển hướng rẽ sang trái, kêu lên trong ánh mắt kinh hoảng của ba người còn lại: “Tách ra! Chạy vào chỗ nào có nhiều cây ấy!”
Sean hét lớn: “Không thể tách ra được ! Không tách được!” Trác Mộc Cường Ba mặc kệ Sean, ra sức vung vẩy ống pháo sáng trong tay. Quả nhiên con cá sấu chúa kia vẫy mạnh đuôi, quật cho rễ cây xung quanh gãy nát kêu “răng rắc”, rồi chuyển hướng đuổi theo gã.
Trác Mộc Cường Ba gắt lên: “Đừng chạy theo, các anh đi trước đi, tôi sẽ nghĩ cách thoát khỏi nó!”
“Xem chưa, tôi nói đúng rồi còn gì.” Trương L ập nhìn con cá sấu chúa đuổi theo Trác Mộc Cường Ba, miệng thì nói vậy, nhưng trên mặt lại hoàn toàn không có vẻ gì là đang đùa cợt, hậu quả của việc bị con quái đó bắt kịp, ai cũng đều biết cả. Nhạc Dương cũng nghĩ hệt như Trương L ập, liền tức khắc đuổi theo sau con cá sấu, Sean cũng theo sát phía sau. Vì con quái có thể ngoảnh đầu lại đớp bất cứ lúc nào, ba người chi dám chạy xa xa phía sau, không dám lại gần. Vừa chạy được một lúc, Sean ở phía sau bỗng nhiên giơ tay ra, kéo cổ áo Trương L ập và Nhạc Dương lại. Trương L ập kêu toáng lên: “Làm cái gì vậy?” Nhạc Dương cũng hỏi: “Chuyện gì thế?”
Chỉ thấy dưới ánh sáng ma giê, gương mặt trắng bệch của Sean ánh lên sắc xanh, lo ngại nói: “ Không ngửi thấy gì à?”
Trương Lập híc mạnh một cái, chau mày nói: “Tanh quá, chẳng lẽ ở đây có cá chết à? Mùi tanh quá đi.”
Sean trầm giọng nói: “Mùi tanh này… các anh đã xem một bộ phim, tên là Anaconda chưa?” Anh ta đột nhiên đổi chủ đề
Nhạc Dương không nghĩ ngợi gì đã đáp ngay: ”Xem rồi, phim thảm họa phải không, sợ ra phết, thực ra làm gì có loại rắn nào to thế chứ. Hả? Sao anh tự dưng hỏi câu này vậy?”
Sean nhìn chằm chằm xuống đất: “Nếu tôi nói cho các anh biết, đó là thật thì sao?”
Trương Lập mỉm cười, nói: “Làm gì có chứ, trăn…khổng lồ!” Nói tới đây, bỗng nhiên sực nhớ ra chuyện gì đó. Sean làm dấu chữ thập trước ngực, lẩm bẩm nói: “Chúng ta cầu nguyện cho Johnson đi!”

Trác Mộc Cường Ba giở hết bản lĩnh, leo lên nhảy xuống, chỉ nhằm vào chỗ nhiều cây mà chạy, cuối cùng ánh lửa phía sau cũng không chạy theo nữa, gã thầm thở phào một hơi. Nhưng con cá sấu chúa khổng lồ kia thì cứ bám chặt không chịu buông tha, mỗi lần gặp phải khe hẹp cản trở, nó lại vòng qua đuổi tiếp, các bụi cây nhỏ thấp thì xông thẳng qua luôn, giống như một chiếc xe tăng đang càn quét trong khu rừng vậy. Cây cổ thụ phía trước có một nhánh mọc chéo chéo xuống đất, giống như bắc một cây cầu dốc hướng thẳng lên cây vậy. Trác Mộc Cường Ba cả mừng, vì cây ở đây đều rất to nên không thể trèo lên được, giờ tự dưng có đường tắt, gã liền lập tức chạy vù lên, trong lòng thầm nhủ con cá sấu kia quá nặng nề, quá nửa là không thể lên theo được, dù có lên được chăng nữa, với thể hình to lớn như thế, ở trên cây nó cũng không thể muốn làm gì là làm được.
Cành cây đó ban đầu hơi nhỏ, càng lên cao thì càng lớn, Trác Mộc Cường Ba chạy lên được một nửa, dưới chân đã chẳng khác gì mặt đường bằng phẳng rộng một mét, nhưng càng lên cao thì cành cây lại càng ẩm ướt, ngược lại còn khó đi hơn. Trác Mộc Cường Ba dùng cả chân lẫn tay, nửa bò nửa chạy, được nửa đường thì bị trượt chân, gã vội vàng ôm cả người vào đó, người sang trên tay rơi xuống đất, hồi sau, bên dưới mới vang lên tiếng ống pháo sáng chạm đất. Trác Mộc Cường Ba nghiêng đầu nhìn thử, thấy mình đã cách mặt đất chừng hai ba chục mét, tán cây trên đầu phản xạ ánh trăng nên cũng lờ mờ nhìn thấy, vài tia sáng xuyên qua cành lá, rải xuống những đốm bàng bạc. Bỗng nhiên thân cây khổng lồ ấy rung lên, ngoảnh mặt quan sát, chỉ thấy bóng đen to tướng đó đang chầm chậm bò lên, không ngờ móng vuốt của con quái vật lại găm được vào thân cây như móc sắt, ngược lại còn leo lên nhanh hơn cả Trác Mộc Cường Ba. Gã không kịp nghĩ ngợi gì nhiều, đành gia tăng tốc độ bò tiếp lên trên, bất chợt, cành cây phía trước gã hình như nhúc nhích, Trác Mộc Cường Ba tưởng rằng mình bị hoa mắt, đúng lúc ấy, một cơn gió tanh thổi tới, thân cây phía trước Trác Mộc Cường Ba bất ngờ dựng đứng lên, lộ rõ bản mặt của nó dưới ánh trăng!
Trác Mộc Cường Ba nín thở, trợn tròn mắt lên, đờ đẫn ngẩng đầu, ngây ra nhìn con hung thú trong truyền thuyết đang ở ngay trước mặt, chỉ thấy thân hình khủng khiếp của nó đang ngồn ngộn dưới ánh trăng, đôi mắt to như đèn lồng đang nhìn chằm chằm vào người gã, cái miệng phả ra hơi tanh thối lè lè lưỡi, nó là thứ có thể khiến mọi sinh vật khác dâng lên cảm giác sợ hãi tự nhiên, đồng thời cũng là mắt xích cuối cùng trong chuỗi thức ăn ở đại lục Nam Mỹ này.
Anaconda, trăn khổng lồ Nam Mỹ, là cá thể có hình thể lớn nhất trong các loải động vật họ rắn, một con Anaconda trưởng thành bình quân dài hơn mười mét, bảo nó to hơn cái thùng nước thì cũng không quá đáng chút nào, đây mới là thợ săn siêu cấp của rừng già. Sức mạnh của báo châu Mỹ khiến nó trở thành tượng trưng của vương quyền ở Nam Mỹ, còn Anaconda loài vật với ưu thế vượt lên tất cả này đã trở thành tượng trưng cho thần quyền cổ nhân sùng bái nó, Anaconda, là chung cực của mọi sức mạnh, khả năng của con người không thể so sánh được. Đây là tên thợ săn quen thói ôm cây đợi thỏ, nó có thể ở nguyên một chỗ mấy tháng liền không ăn không uống, nếu có con mồi nào đi qua phạm vi khống chế, nó sẽ không chút do dự mà cuộn lấy, rồi lợi dụng ưu thế tuyệt đối về thể hình của mình, dù con mồi có lớn thế nào cũng nuốt trọn, rồi lại ẩn đi, mấy tháng sau không cần ăn uống. Loài sinh vật đáng sợ này, cả bọn báo châu Mỹ gặp phải cũng không thể không nhượng bộ lui bước.
Trác Mộc Cường Ba bị kẹt giữa cành cây, phía trước là ánh mắt tà ác của con trăn khổng lồ Nam Mỹ đang nhìn món điểm tâm tự dưng đưa tới tận miệng; sau lưng con cá sấu chúa đã hoàn toàn chặn mất đường lui, cái miệng đầy răng lởm chởm ấy thâm chí còn to hơn cả con mãng xà kia nữa; giờ chỉ còn cách nhảy xuống, nhưng chỗ này cách mặt đất tới hai ba chục mét, khác gì toà nhà mười tầng đâu. Trác Mộc Cường Ba cơ hồ muốn ngất xỉu, gã vỗ vỗ khắp người, tìm xem có thứ gì dùng được không. Cuối cùng, gã cũng rờ được con dao găm của Trương L ập, chuyện đã đến nước này rồi, cũng chỉ còn cách đánh liều một phen mà thôi. Thân thể to lớn của con trăn Nam Mỹ từ trên không bổ tới, còn con cá sấu chúa kia cũng bật mình vọt lên, ngoác cái miệng to như chậu máu…
Trác Mộc Cường Ba cầm chắc con dao trong tay, thầm cầu nguyện trong đầu, rồi nghiến răng lăn tròn một vòng xuống bên dưới cành cây, đồng thời vung tay đâm mạnh con dao lên trên, dùng hết sức lực cắm ngập cả con dao vào cành cây đó. Lưỡi dao găm sắc bén hơi trượt xuống dưới, cuối cùng cũng giúp Trác Mộc Cường Ba trụ lại. Cùng lúc ấy, một tiếng “bình” vang lên, con trăn khổng lồ và con cá sấu chúa kia đã húc thẳng vào nhau, hai con quái thú cùng phẫn nộ gầm ghè, con trăn quấn vào, thân thể co chặt, lập tức làm con cá sấu kia rống lên; cá sấu chúa cũng không chịu kém, tứ chi chĩa ra ngoài điên cuồng cào cấu cào vùng da bụng mỏng nhất của con trăn. Hai con thú dữ quấn chặt vào nhau, lăn nửa vòng rồi rơi thẳng xuống dưới. Độ cao này với con người thì khó mà thoát chết, song với hai con thú khổng lồ này lại chẳng gây ra bất cứ tổn thương nảo, mà ngược lại còn làm chúng quấn chặt vào nhau hơn. Trác Mộc Cường Ba khó khăn lắm mới leo trở lại được cành cây xiên chéo ấy, bàn tay vẫn còn hơi run run. Lúc này gã mới sực nhớ ra, hai loài này vốn đã có thâm thù truyền kiếp, trăn Nam Mỹ còn nhỏ rất dễ bị cá sấu xơi tái, còn lúc chúng lớn lên rồi, liền quay trở lại bắt cá sấu ăn, mối thù này, chẳng biết đã có từ mấy vạn năm trước rồi.
Không dám ở lại lâu, nhân lúc hai con quái thú còn đang quần thảo, Trác Mộc Cường Ba vội vàng leo xuống bỏ chạy thục mạng, giờ đã biết trên cây có loại sinh vật đáng sợ này, có nói gì gã cũng không dám leo lên nữa rồi. Lại một lần mất đi nguồn sáng, trong bóng tối cũng không thấy ánh đèn của bọn Nhạc Dương, Trương L ập, mới vòng vòng mấy lượt, Trác Mộc Cường Ba đã nhận ra, gã đã lạc đường. Cây cối trong rừng đều rất lớn, nhiều nơi buộc phải đi vòng qua mới được, cộng với hơi nước mù mịt khiến cảnh vật trước mặt đều mông lung, vòng qua vòng lại, căn bản không thể biết mình đang ở chỗ nào nữa. Trác Mộc Cường Ba nắm chắc con dao, công cụ phòng thân duy nhất của gã lúc này, đến giờ gã mới hiểu được, tại sao khu rừng này lại tĩnh lặng như vậy, có bọn thợ săn siêu cấp này tiềm phục bên trong, thử hỏi còn loại động vật nào dám tiến vào đây nữa chứ. Đêm tối, mệt mỏi, đói khát, nhưng lại không dám nhắm mắt vì sợ hãi, giờ thì gã chỉ còn lại một mình, đây là lần đầu tiên, lần đầu tiên Trác Mộc Cường Ba cảm thấy bất lực đến thế. Trên thương trường, trong những khu rừng khác, gã đã biết sợ là gì đâu? Nhưng giờ đây, trên mảnh đất hoàn toàn xa lạ này, mỗi sinh vật đều có thể đẩy gã vào chỗ chết. Khi những cảm xúc bất an và nơm nớp lo sợ đó trào dâng, Trác Mộc Cường Ba chợt cảm thấy, gã cần được giúp đỡ, dù chỉ là một người để nói chuyện thôi cũng tốt lắm rồi. Cảm giác này thật hệt như hai mươi năm về trước, mở mắt trân trân ra nhìn người thân nhất bị kẻ khác bắt đi, nằm trên mặt đất băng lạnh, cố nhịn cơi đau bụng, lúc đó, trong lòng gã cũng vang lên một âm thanh run rẩy: ai đến giúp với, ai đến giúp tôi với!
Con người ai chẳng lớn lên trong vòng tay bảo vệ của mẹ cha, sống thì hoạt bát, chết thì cứng đờ, những người bề ngoài kiên cường mấy chăng nữa thì nội tâm cũng chỉ như con ốc sên núp kín trong vỏ, lúc nào cũng hoang mang lưỡng lự, chẳng ai tránh được. Đời người lúc nào cũng có quá nhiều trắc trở, cuối cùng bao giờ cũng có một khó khăn không thể vượt qua, không ai vượt qua được. Rượu mạnh chỉ có tác dụng tê liệt thần kinh, không phải tinh thần; khi khó khăn vượt quá cực hạn chịu đựng, ý chí của con người ắt sẽ sụp đổ. Nếu nói đây là một khảo nghiệm, vậy thì Trác Mộc Cường Ba cho rằng vậy đã là quá đủ rồi, gã không muốn tiếp tục khảo nghiệm thêm một chút nào nữa, tất cả chuyện này đã vượt quá phạm trù khảo nghiệm, thuần tuý chỉ là giày vò hành hạ, đày đoạ của thể xác lẫn tinh thần. Cứ tiếp tục thế này, gã sẽ không cầm cự nổi, thể lực, ý chí, tinh thần đều đã tới cực hạn chịu đựng, bao nhiêu áp lực sinh tồn đè nén, làm gã đã không sao thở nổi.
Trác Mộc Cường Ba tựa như một kẻ lữ hành trong sa mạc bị mất nước, lê đôi chân nặng như đeo chì tiếp tục tiến lên. Khu rừng tĩnh mịch ẩn chứa những uy hiếp chí mạng, xung quanh chỉ có bóng đêm vô cùng tận, mỗi tiếng động nhỏ vang lên đều khiến trái tim gã không thể kiềm chế mà đập như điên cuồng mấy phút liền, nơi đây đúng là một vùng đất ma quỷ. Trác Mộc Cường Ba không còn đi nổi nữa, gã dựa vào một thân cây ướt rườn rượt nghỉ ngơi, ra sức hất nước lạnh lên người mình. Nếu như vậy còn không hết buồn ngủ, gã sẽ dùng dao rạch da ra, đau tới thấu xương, chỉ có cơn đau mới đuổi được cơn buồn ngủ; chỉ có không ngủ, gã mới có hy vọng sinh tồn.
Gã không biết mình đã đi như thế bao lâu, bóng đêm trải ra vô tận, dừng một chút, rồi lại tiếp tục tiến lên phía trước, gã ngẩng đầu nhìn trời, chút ánh sáng mờ mờ lấp ló qua cành lá chứng tỏ giờ vẫn là đêm, vẫn chỉ có ánh trăng. Trác Mộc Cường Ba ngầm tự hiểu, giờ muốn gặp lại bọn Sean và Trương L ập, Nhạc Dương, hy vọng thật quá mong manh, muốn ra khỏi khu rừng này, sợ rằng cơ hội còn mong manh hơn bội phần.
Bỗng một tiếng “soạt” vang lên, trong bụi cây phía trước lại xuất hiện một con trăn khổng lồ to bằng người. Trác Mộc Cường Ba lúc này lòng nguội ý lạnh, ở nơi thế này gặp phải con quái vật như vậy, cả sức lực bỏ chạy cũng tiết kiệm được luôn, gã thầm nhủ: “Cuối cùng vẫn không thoát khỏi đây được rồi.” Con trăn Nam Mỹ dài cả chục mét kia lúc này còn cách Trác Mộc Cường Ba chừng ba chục mét, như một mũi tên, thân hình uốn èo đã bổ về phía gã, tốc độ kinh người. Trác Mộc Cường Ba nhắm nghiền mắt lại chờ đợi, chợt nghe một tiếng động lớn, mở mắt ra xem, thì thấy con trăn kia đang lăn lộn dưới đất, trong đêm tối nhìn không được rõ lắm, nhưng chất dịch nhầy dinh dính của nó thì đã phun đầy người gã, tanh hôi khủng khiếp. Trác Mộc Cường Ba không dám tin mình lại may mắn tới vậy. Con trăn kia lăn lộn một lúc rồi nằm im bất động, xem ra là do máu đã chảy hết. Trác Mộc Cường Ba cẩn thận nhích lên, dưới chân không biết giẫm phải thứ gì liền té bổ nhào xuống, thò tay ra sờ thử chỉ thấy vừa dính vừa mềm, con trăn lớn kia không ngờ bị rạch toác cả bụng, bao nhiêu thứ bên trong chảy hết cả ra ngoài. Trác Mộc Cường Ba đứng lên, mượn ánh trăng yếu ớt quan sát, quả nhiên dưới đất thấy có anh sáng loé lên, nửa lưỡi dao sắc lẻm dựng đứng trên mặt đất, lộ lên trên chừng ba mươi centimet, vừa rồi con trăn bò trườn dưới đất, lưỡi dao lạnh lẽo này đã không chút khách khí rạnh đôi phần bụng nó ra. Trác Mộc Cường Ba không đụng tới lưỡi dao đó, kiểu chuôi dao này vốn là kỹ thuật chỉ có những thợ săn cực kỳ lão luyện mới biết sử dụng, rắn  có đường của rắn, cáo có vết của cáo, những thợ săn trong rừng sâu núi thẳm thường nói với nhau như vậy. Chôn lưỡi dao trên đường rắn thường bò qua, có thể giết rắn trong vô hình, không ngờ trong rừng này không chỉ có người, lại còn có cả bẫy rập do con người bố trí. Mạng gã chính là do người thợ săn vô danh kia cứu về, Trác Mộc Cường Ba cười khổ một tiếng, trong màn sương phía trước chợt thấp thoáng một bóng ảnh, không hiểu lại là gì nữa. Trác Mộc Cường Ba đứng nguyên tại chỗ như lão tăng nhập định, cảnh giác nhìn chằm chằm về phía có âm thanh truyển tới kia.
Bỗng nhiên có tiếng gió nổi lên phía trái, Trác Mộc Cường Ba rùn người né tránh, đồng thời đá tạt ra sau một cú, chỉ một động tác này là gã đã biết đồi phương là người, bởi chỉ có con người mới có thể lặng lẽ vòng ra sau lưng kẻ địch trong thời gian ngắn như vậy, mà đòn vừa tấn công gã ban nãy…là tiếng gió của bàn tay tạt ra! Người kia đột nhiên biến chiêu, chặt xuống đùi Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba lấy làm kinh hãi, phản ứng như gã đã là hiếm có rồi một cước này vừa nhanh vừa ổn, người khác khó lòng cản nổi, hơi nghiêng người rồi tung chân đá ra luôn, dù đối phương có giỏi thì gã cũng vẫn kịp quay đầu lại đối mặt với y, nhưng kẻ tập kích này rõ ràng là tài cao hơn gã một bậc, không ngờ nửa đường vẫn biến chiêu được. Trác Mộc Cường Ba rụt chân về, đột nhiên xoay dao găm đâm ra, cùng lúc ấy cũng chớp cơ hội quay đầu lại. Đúng vào khoảnh khắc đó, người kia cũng ung dung bắt lấy cổ tay gã, hơi dùng sức vặn một cái, dao găm lập tức rời tay, kế đó là một đòn chặt nhằm tới cổ họng gã. Trác Mộc Cường Ba bị giữ cổ tay, hơn nữa còn bị cầm đúng chỗ hiểm, có thể nói là hoàn toàn không thể phản kích, trong lúc cuống cuồng, gã chỉ kịp hét lên: “Á La thượng sư!”
Trác Mộc Cường Ba chỉ thấy cổ họng hơi nhói đau, bàn tay đối phương đã dừng sững lại cách cổ họng gã chưa đầy một centimet. Tiếp sau đó, bên tai gã cũng vang lên giọng hơi khàn khàn của lạt ma Á La: “Cường Ba thiếu gia, sao câu lại ở đây?”
Trác Mộc Cường Ba thực ra cũng không nhìn rõ người mới xuất hiện là ai, chỉ thấy cái đầu trọc phản chiếu dưới ánh trăng, đành đánh liều một phen. Ngay từ đầu gã đã biết, năng lực cận chiến của người này cao hơn mình rất nhiều, gù không phải lạt ma Á La, nghe gã nói vậy, nói không chừng cũng sẽ hỏi cho rõ rồi mới ra tay hạ sát thủ cũng nên. Trác Mộc Cường Ba sờ sờ cổ họng vẫn còn đang đau, vừa kinh ngạc lại vừa mừng rỡ, tựa như người chết đuối vớ được phao, nhất thời chẳng nói được tiếng nào.
Chuyến đi của lạt ma Á La
 Lạt ma Á La cũng giống như Trác Mộc Cường Ba, hai tay trống không, quần áo rách rưới, nhưng tinh thần thì có vẻ tốt hơn Trác Mộc Cường Ba nhiều.
Dăm câu ba điều, Trác Mộc Cường Ba kể vắn tắt lại cho lạt ma Á La những chuyện gặp phải trong hơn mười ngày qua bằng lời lẽ đơn giản nhất. Lạt ma Á La vừa nghe, vừa lột da con trăn, lấy dao lóc chỗ thịt rắn mềm nhất ra ăn sống tại chỗ, còn chia phần cho Trác Mộc Cường Ba nữa. Nhưng Trác Mộc Cường Ba vừa ngửi thấy mùi tanh đó là muốn nôn oẹ, nói thế nào cũng không nuốt trôi. Lạt ma Á La nhắc nhở : “Cường Ba thiếu gia, con người ở trong hoàn cảnh cực cùng, cái gì cũng phải ăn hết. Đây là đồ ăn thượng hảo hạng đó, cũng là hy vọng duy nhất đảm bảo cậu sẽ tiếp tục sống, cả chuyện này mà cậu cũng không làm nổi, thì làm sao mà đi tìm Bạc Ba La, làm sao mà đi tìm Tử Kỳ Lân hả ?”
Lạt ma Á La nói vậy, Trác Mộc Cường Ba nghĩ lại cũng thấy đúng, cả Sean còn có thể ăn nhện để sống, tại sao gã lại không thể chứ ? Nghĩ đoạn, gã không nói lời nào, đón lấy một miếng thịt lưng trăn, tay xé miệng nhai nuốt ừng ực, mới đầu dạ dày sôi lên ùng ục, sau khi cố ép cảm giác muốn nôn đó xuống, dần dần cũng thấy thịt trăn này không khó ăn cho lắm. Hai người ngồi luôn đó, vừa ăn vừa nói chuyện mình gặp phải trên đường.
Hầu hết những gì Trác Mộc Cường Ba kể, lạt ma Á La đều không lưu tâm lắm, có điều khi gã kể tới bộ lạc Kukuer, ông bắt đầu lưu tâm, hỏi cặn kẽ về tập quán sinh sống, tình tiết trong lễ tế của người Kukuer, căn vặn kỹ càng nhất là về bài sử ca kia. Chỉ tiếc thứ Trác Mộc Cường Ba nhớ ít nhất lại chính là bài ca đó, lạt ma Á La lắc đầu không thôi, hồ như cảm thấy hết sức tiếc nuối vì mình không được đến thôn làng của người Kukuer vậy.
Khi Trác Mộc Cường Ba kể tới đoạn lũ chó trong bộ lạc Kukuer đều không sủa, người kể vô ý, nhưng người nghe lại có tâm, hai mắt lạt ma Á La sáng bừng lên, không khỏi mỉm cười. Hành động kỳ dị của vị lạt ma thường ngày ít nói chẳng cười này tự nhiên không thể thoát khỏi ánh mắt của Trác Mộc Cường Ba, gã không kìm được buột miệng hỏi : “Có phải thượng sư biết chuyện gì rồi không ?”
Lạt ma Á La đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, đoạn hỏi ngược lại :  “Nói tới chó, Cường Ba thiếu gia lớn lên ở quê hương chó ngao, chắc hẳn cũng đã nghe không ít truyền thuyết liên quan tới chiến ngao rồi chứ ?”
Trác Mộc Cường Ba lại gật gật đầu tiếp.
Lạt ma Á La hỏi tiếp : “Vậy xin hỏi Cường Ba thiếu gia, câu có biết chiến ngao có một đặc điểm là gì không?”
Trác Mộc Cường Ba ngớ người ra, truyền thuyết về chiến ngao thì gã đã nghe không ít, nhưng phương pháp bồi dưỡng huấn luyện chiến ngao thì đã thất truyền từ lâu, giờ trên toàn thế giới cũng chẳng có con chiến ngao nào cả. Trác Mộc Cường Ba từng mời các chuyên gia huấn luyện chó tới huấn luyện cho lũ ngao ở cơ sở của gã, song đám to xác ấy tính cách hết sức quật cường, vẫn chẳng biết sợ gì cả, không dập đầu vào tường thì không quay đầu, mà đập đầu vào tường rồi cũng không chịu quay đầu, còn chiến ngao trong truyền thuyết thì không phải vậy, nó nhanh nhạy, thông minh, có thể phán đoán tình huống trong lúc nguy cấp nhất, dùng phương pháp có hiệu quả nhất để cứu chủ. Nhưng còn đặc điểm của chiến ngao, ngoại trừ thông minh đặc biệt ra, Trác Mộc Cường Ba quả thực không nghĩ ra còn gì khác nữa, cả lại, chuyện này và chó của người Kukuer nuôi không sủa có liên quan gì với nhau chứ ?”
Lạt ma Á La điềm đạm nói : “Một con chiến ngao đạt tiêu chuẩn, cả đời cũng không sủa tiếng nào.”
“ Cái…cái gì hả ?”  Đây là lần đầu tiên Trác Mộc Cường Ba nghe được chuyện này, chiến ngao không sủa? Gã cười khổ nói : “Tôi không hiểu ý thượng sư lắm.”
Lạt ma Á La nói : “ Không sai đâu, cách huấn luyện chiến ngao cổ đại đã thất truyền, nhưng Cường Ba thiếu gia, cậu đã bao giờ nghe thấy trong truyền thuyết nào nhắc đến chuyện chiến ngao gào rú hay sủa ầm ĩ chưa ? Chiến ngao sở dĩ có thể trở thành chiến ngao, tượng trưng cho bách chiến bất bại, chính là vì có khả năng chúng là loài chó ám sát duy nhất trên thế giới này. Như cậu biết đấy, chó ngao có thể hình khoẻ mạnh cao lớn, chạy ào ào như gió, sức khoẻ như trâu, móng sắc như hổ báo sư tử, vốn đã là giống chó xuất chúng trong các loại chó, chỉ với ưu thế về thân thể, người ta cũng có thể liệt nó vào hàng đại sư chiến đấu rồi. Có điều, một con chiến ngao đạt tiêu chuẩn, tuyệt đối không giống như vị tướng quân chiến thắng trở về, hay võ sĩ quyền Anh vừa vô địch, bước đi huênh hoang cao ngạo, điệu bộ như coi thường cả thiên hạ đâu. Thực tế hoàn toàn ngược lại, chiến ngao được huấn luyện thành thục, nó sẽ thu mình lại, ẩn giấu nanh vuốt, ánh mắt cũng không hung ác tàn bạo, nó sẽ cúi gằm đầu xuống, tai cụp che mắt, trông như một con chó bình thường hoàn toàn không có gì nguy hiểm vậy. Thậm chí khi kẻ thù lại gần, nó còn làm ra vẻ mệt mỏi lười nhác, nằm ườn ra đất ngủ khò khò, kỳ thực là đang ngấm ngầm tính toán khoảng cách giữa mình và kẻ địch, chỉ cần kẻ đó bước vào phạm vi công kích, chiến ngao sẽ như một con rắn độc…vù…. “  Nói tới đây, lạt ma Á La chặt tay về phía trước, phát ra một tiếng “vù”.
Trác Mộc Cường Ba không kiềm chế được tự lùi về phía sau một bước, phảng phất như cổ họng mình đã bị con thú hung mãnh ấy cắn trúng. Chiến ngao không sủa, đích thực đây là lần đầu tiên gã nghe nói đến , không khỏi có chút đờ đẫn thần người ra. Đặc biệt là câu “chiến ngao sở dĩ trở thành chiến ngao, chính là vì chúng là loài chó ám sát” , làm gã cực kỳ chấn động, đó khác gì một người vốn đã là cao thủ tuyệt thế, lại chuyên đi ám sát, thử hỏi có chuyện gì đáng sợ hơn nữa đây chứ.
Lạt ma Á La không biết Trác Mộc Cường Ba nghĩ gì, lại nói tiếp : “Tại sao chỉ có truyền thuyết một ngao giết mười sói, một ngao đấu ba hổ, mà các loại chó khác không làm được ? Đó chính là vì chiến ngao rất tinh thông thuật ám sát, chúng biết tiềm phục ẩn nấp giống bọn hổ báo, lặng lẽ chờ đợi kẻ địch xuất hiện ; chúng còn rải hơi mùi của mình khắp chiến trường để làm hỗn loạn quân địch, còn chính chúng lại dùng mùi của một số thực vật hoặc động vật khác để che lấp hoàn toàn mùi của mình đi ; chúng đớp một phát là nhằm ngay cổ họng kẻ thù, coi trọng một đòn chí mạng với tốc độ nhanh nhất, sau đó kéo xác kẻ thù ra chỗ dễ nhìn để dẫn dụ bọn khác hiện thân. Khi đối mặt với kẻ địch đông hơn, chúng sẽ dựa vào yêu cầu trên chiến trường mà phán đoán xem nên tấn công kẻ mạnh nhất hay yếu nhất, uy hiếp kẻ thù, phân hoá kẻ thù, dẫn dụ kẻ thù. Chúng giống như những nhà chỉ huy am hiểu chiến thuật, vừa có thể hợp lực tác chiến, cũng thiện nghệ hơn đơn đả độc đấu. Chiến ngao được huấn luyện đặt biệt có thể trèo lên cây, lặn dưới nước, phân biệt được những mùi mờ nhạt nhất trong không khí, truy kích kẻ địch ngoài trăm dặm. Có thể nói thế này, phóng mắt nhìn khắp loài chó, chỉ có chiến ngao, mới có thể đối phó được chiến ngao mà thôi.”
Lạt ma Á La nhắm mắt lại, thở dài một tiếng, cơ hồ như nhớ lại gì đó, than rằng : “Nhớ năm đó, thời cương triều Thổ Phồn còn lớn mạnh nhất, từng có một quân đoàn như thể, mỗi chiến sĩ đều có một con chiến ngao phối hợp, quân đoàn ấy, đã trở thành huyền thoại bất bại trên chiến trường. Cũng chính vì đám chiến ngao đó hành động trong đêm, hễ đánh là thắng, nên mới trở thành trợ lực rất lớn trong rất nhiều truyền thuyết về thần phật. Còn Tử Kỳ Lân mà Cường Ba thiếu gia muốn tìm kiếm, chính là một trong nhiều phiên bản truyền thuyết về chiến ngao đó thôi.”
Trác Mộc Cường Ba ngây ra một hồi lâu mới định thần lại được, đúng là gã đã nghe không ít truyền thuyết liên quan tới chiến ngao, nhưng truyền thuyết dù sao vẫn là truyền thuyết, chứ nói rành mạch rõ ràng như lạt ma Á La, phảng phất như đã tận mắt trông thấy thì mới là lần đầu tiên. Còn trận đại chiến chiến ngao ngàn năm về trước, lại càng khiến tâm tư Trác Mộc Cường Ba miên man bất định.  “Sao thượng sự biết nhiều chuyện về chiến ngao vậy ?” Trác Mộc Cường Ba hỏi.
Lạt ma Á La mỉm cười đáp : “Trong những kinh điển mà ta tiếp xúc, có rất nhiều đoạn miêu tả cảnh tượng chiến ngao chiến đấu, vì vậy, hiểu biết của ta về chiến ngao, có lẽ nhiều hơn trong truyền thuyết một chút.”  Nói tới đây, trong lòng ông bỗng dâng lên một nỗi bi thương: “Quân đoàn bất bại trong truyền thuyết, rốt cuộc tại sao các người lại biến mất trong lịch sử ? Giờ đây, các người đang ở nơi đâu ?”
Trác Mộc Cường Ba chợt liên tưởng đến người Kukuer, không kìm được buột miệng hỏi :
“Thượng sư nói cho tôi biết chiến ngao tuyệt đồi không bao giờ sủa, chuyện này và việc tất cả chó của người Kukuer nuôi đều không sủa, có liên hệ gì với nhau thế ?”  Lúc này đầu óc Trác Mộc Cường Ba đã bấn loại, những tập tục giống tập tục của người Tạng một cách đáng ngạc nhiên, chiến ngao không bao giờ sủa…gã dường như đã cảm nhận được gì đó, nhưng lại thiếu mất một chút, chỉ một chút nữa thôi, là có thể liên hệ mọi chuyện này với nhau được rồi.
Lạt ma Á La nhìn Trác Mộc Cường Ba, chậm rãi thong thả nói : “Có lẽ là vậy, tôi chẳng qua chỉ nghe Cường Ba thiếu gia nói chó ở đó đều không sủa mà nhất thời cảm thán thôi. Phải rồi, để tôi kể cho Cường Ba thiếu gia chuyện chúng tôi gặp phải nhé, có lẽ nghe xong, lại tìm ra được nơi cô Mẫn Mẫn có thể tới cũng không chừng.” Lạt ma Á La đổi chủ đề, trong lòng thầm nhủ : “Đúng là làm khó cho cậu rồi, Cường Ba thiếu gia, rồi sau này cậu sẽ hiểu ý nghĩa của chuyến đi này của chúng ta lớn tới nhường nào. Từ lúc bị nước lũ cuống lạc khỏi đội ngũ, tôi cứ ngỡ phải một mình đi thăm dò nơi kìa cơ, không ngờ lại gặp được cậu, thật đúng là ý trời, ý Trời mà.”
“ Á La Thư ợng Sư, ngài sao vậy ?”  Trác Mộc Cường Ba thấy lạt ma Á La nghĩ ngợi đến bần thần, không nhịn được lên tiếng hỏi, những điều gã muốn hỏi quả thực quá nhiều, ngược lại thành ra không biết bắt đầu hỏi từ đầu. Lạt ma Á La ngẩng đầu lên : “Ừm, không có gì, tôi chỉ không ngờ các cậu lại gặp phải nhiều chuyện như vậy, dọc đường bao nhiêu gian khổ khó khăn, nhưng các anh đều đã vượt qua được hết.”  Đồng thời, trong lòng ông cũng nghĩ : “Là kẻ nào đã xúi bẩy quân du kích ngăn cản bọn Cường Ba thiếu gia ? Chẳng lẽ bọn chúng muốn tranh thủ thời gian để giở trò ? Những kẻ ấy, liệu có phải chính là những kẻ người kia nói tới không ? Thật không ngờ, chỉ là trùng hợp thôi ? hay là…. Không biết bọn họ đã tìm thấy nơi đó chưa, ừm, thôi bỏ đi, đều đã tới đấy rồi, bất kể làm sao cũng phải đi xem thử một lần. Bạch thành, toà thành được ánh sáng toả chiếu phong ấn bên trong Bạch thành, hôm nay cố nhân ở quê nhà tới thăm ngươi đây!”
Nghe lạt ma Á La nhắc tới Mẫn Mẫn, tâm tư Trác Mộc Cường Ba đang ở chỗ người Kukuer lại thu về, cuống quýt hỏi: “Phải rồi, Á La thượng sư, ngài mau kể đi, tại sao ngài lại ở đây ? Tại sao lại chia tách với mấy người giáo sư Phương Tân ? Những ký hiệu ở trận đồ đá kia có phải do ngài để lại không ?”
“ Ừm”, Lạt ma Á La xắp xếp các sự kiện trong đầu, điềm đạm kể lướt qua một lượt chuyện của nhóm ông, tính ra thì đơn giản hơn bọn Trác Mộc Cường Ba rất nhiều. Bọn họ xuất phát trước một ngày, nhưng mới đầu không đi đường thuỷ, mà đi trên bộ, họ thuê một đoàn ngựa thồ, gần chục con ngựa, bảy tám người cùng đi. Trong rừng cũng gặp phải quân du kích, nhưng đại khái đều có thể thông qua an toàn, về sau gặp bọn buôn ma tuý, trong lúc hỗn loạn đã chết mất hai người tuỳ tùng. Cả đoàn lại tiếp tục đi sâu nữa vào trong, khi tới rừng Than Thở, một người trong đám họ thuê cương quyết không chịu đi tiếp nữa, mãi tới khi nghe anh ta kể chuyện về rừng Than Thở, lúc ấy họ mới biết la bàn đã chỉ sai hướng. Họ định điều chỉnh phương hướng thì lại gặp phải bộ lạc ăn thịt người, buộc phải chạy sâu hơn nữa vào rừng, lại còn để mất năm con ngựa. Trong rừng Than Thở, ngựa bị ăn dần từng con từng con một, hoặc bị dã thú kéo cả con đi, năm người đang cuống cuồng tìm cách ra khỏi rừng Than Thở thì trời bắt đầu mưa, cả bọn trôi dạt trên thuyền hơi cứu sinh hai ngày liền, về sau khi lũ quét hất tung cả thuyền, người bên trên bị cuốn đi mỗi người một hướng. Lạt ma Á La cuối cùng nói : “Nửa đoạn đường đầu tiên các cậu gay go hơn chúng tôi, đoạn ở giữa mọi người gần như nhau, đoạn cuối cùng này thì cậu may mắn hơn tôi một chút đấy.”
“ May mắn hơn ngài !?!’  Trác Mộc Cường Ba không thể nào hiểu nổi  “may mắn” mà lạt ma Á La nói rốt cuộc là ý tứ gì, gã kể lại một lượt chuyện vừa tới vùng đất cấm này đã gặp phải hai nhóm ăn thịt người, rồi lại gặp phải quái thú trong khu rừng tối tăm đáng sợ này nữa, sau đó làu bàu chất vấn, “Thế còn gọi là may mắn ư ?”
Lạt ma Á La điềm đạm mỉm cười :  “Cậu mới ở trong khu rừng âm u này có một đêm, còn tôi đã ở đây ba ngày rồi.”
Thật không sao hình dung nổi cảm giác kinh hoàng của Trác Mộc Cường Ba lúc này, khó mà tưởng tượng được, vị lạt ma tuổi tác đã cao nhìn bề ngoài lại gầy gò như vậy đã trải qua ba ngày ở đây như thế nào, không ngờ một câu tiếp sau của lạt la Á La càng khiến gã như nghe chuyện cổ tích. Lạt ma Á La nói : “Đã ba ngày nay không ăn thứ gì rồi, vì vậy, tôi buộc phải ăn chút gì đó để duy trì thể lực.” Quai hàm Trác Mộc Cường Ba suýt chút nữa thì trật khớp, miệng há hốc không ngậm lại được, chỉ ngây ngây nghe lạt ma Á La nói tiếp : “Khu rừng này rất lớn, hơn nữa về đêm là hơi nước sẽ hình thành sương mù, rất dễ mất phương hướng, tôi từ phía Tây Bắc, từ đầu tới giờ vẫn nhắm hướng Đông Nam tiến lên, ước chừng hôm nay là có thể ra khỏi đây được rồi.”
Trác Mộc Cường Ba bỗng sực nhớ ra điều gì đó, ngây ngẩn hỏi : “Thượng sư, ba ngày nay ngài không ngủ chút nào sao ?”
Lạt ma Á La đáp : “Ở đây làm sao mà ngủ được, chỉ cần cậu nhắm mắt lại là lập tức thành món ăn trong bụng sinh vật khác ngay rồi.”
Hai mắt Trác Mộc Cường Ba lại càng trợn to hơn nữa, ở trong khu rừng này chỉ ba tiếng đồng hồ gã đã nghĩ là cực hạn của khảo nghiệm rồi, nếu ở đây ba ngày mà vẫn chưa chết, thì chắc cũng phát điên lên rồi, lại còn không ngủ không ăn gì nữa. Gã bắt đầu hoài nghi, vị lạt ma Á La, ông ta có phải là con người hay không ? lạt ma Á La lại tiếp lời :  “Tôi biết cậu đang nghĩ gì, đừng kinh ngạc, trong thiền tông chúng tôi có rất nhiều phương pháp rèn luyện ý chí, cũng có rất nhiều cao tăng từng tiến hành khổ tu như tôi vậy, chắc cậu cũng biết đấy, người ta gọi phương pháp đó là Mật tu.”
Trác Mộc Cường Ba biết, Mật tu của Tạng truyền Phật giáo là thứ pháp môn khiêu chiến với cực hạn chịu đựng của cơ thể người, nghe nói trong kinh sách có ghi chép rất nhiều phương pháp tu hành thách thức sức chịu đựng của cơ thể như nhịn ăn, nín thở, nằm trên chông nhọn.  Các nhà sư từng tiến hành Mật tu đều có ý chí và khả năng chịu đựng hơn người thường bội phần, chẳng hạn chui vào quan tài chôn xuống lòng đất, chỉ dùng một cái ống mềm để thông khí với bên ngoài, cả mấy tháng trời không uống một giọt nước mà họ vẫn sống trở ra, còn người bình thường chỉ cần thiếu nước ba ngày là đã cầm chắc cái chết rồi. Còn có người để mình trần ngồi trên đỉnh núi tuyết, mỗi lần đều ngồi cả mấy ngày, kháng cự lại cả cơn đói khác khi tuyệt thực lẫn gió lạnh cắt da cắt thịt.
Lạt ma Á La nói : “Nếu không phải có đợt hành động này, tôi vốn đã chuẩn bị xong để cùng các bậc tiền bối tuyệt ngũ cốc, tu Thiên Nhật Hành rồi. Chà, cả chuyện này mà cậu cũng biết, thật không hổ danh là đời sau của trí giả !” lạt ma Á La nhìn vẻ mặt kinh hoảng của Trác Mộc Cường Ba, tán thưởng một câu. Thiên Nhật Hành, từ hồi còn rất nhỏ Trác Mộc Cường Ba đã nghe cha gã nói tới pháp môn tu luyện này rồi, hồi đó gã còn cho rằng đem chuyện này thêm mắm dặm muối thành chuyện ma quỷ địa ngục đi doạ trẻ con cũng hay ra phết, chỉ là không ngờ thực sự có người thực hiện được. Tuyệt ngũ cốc, chính là đoạn tuyệt ngũ cốc hoa màu, không ăn một chút gì, sau đó người tu luyện sẽ chìm vào trạng thái ngủ đông, trừ phi có tiếng động cực lớn, bằng không họ sẽ không tỉnh lại. Cứ như vậy ngày lại qua ngày, năm lại qua năm, họ chỉ tiêu hao cơ thể để duy trì sinh mạng, cuối cùng tứ chi và thậm chí cả lồng ngực đều biến thành cốt khô, nhưng người thì vẫn sống. Các nhà sư coi đây là niết bàn, cảnh giới cao nhất chính là tu thành nhục thân Phật đà, cuối cùng người vẫn phải chết, nhưng xương cốt ại giữ được mãi không thối rữa, hoá thân thành Bồ Tát, được hậu thế thờ cúng kính ngưỡng.
Lạt ma Á La đã thấy tương đối no, liền đứng dậy nói :  “Được rồi, không nói những chuyện này nữa, người để ký hiệu lại chỗ trận đồ bằng đá không phải tôi, có thể là Ngải Lực Khắc hoặc giáo sư Phương Tân cũng nên, chúng ta tiếp tục đi về phía Đông Nam. Khu rừng này vốn gọi là rừng Mãng Xà, đường kính chừng bốn năm chục cây số, bên trong có hai loài, bảy giống, mười hai loại á hình, tổng cộng một ngàn tới một ngàn năm trăm con trăn, cá thể đã hoàn toàn trưởng thành khoảng hơn ba trăm, ngoài ra còn có rất nhiều cá sấu, vì vậy mỗi bước đi đều phải hết sức cẩn thận đấy.”
Trác Mộc Cường Ba đã hơi quen với những phát ngôn chấn động của lạt ma Á La, nhưng vẫn không kìm được mà lên tiếng hỏi : “Thượng sư, sao ngài biết rõ vậy ?”
Lạt ma Á La bước tới trước một ngôi mộ mới lập, chắp tay bái lễ : “Là người này nói.”
Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên thốt : “Đó là….”
Lạt ma Á La đáp :  “Thậm chí tôi còn không biết tên anh ta nữa, mấy tiếng trước khi tôi phát hiện ra anh ta trong rừng thì người này đã thoi thóp sắp chết rồi. Chuyện chôn dao trên đường đi của trăn cũng là anh ta chỉ cho tôi làm đấy, vừa nãy tôi không ở chỗ đó, chính là vì đang ở đây tưởng niệm người bạn mới quen này. Anh ta có nói cho tối biết một số chuyện liên quan tới rừng Mãng Xà và bí mật ẩn chứa bên trong nó.” Lạt ma Á La nói tới đây, liền cố ý đưa mắt liếc nhìn Trác Mộc Cường Ba một cái. Trác Mộc Cường Ba chỉ lặng lẽ lắng nghe, trong mắt không có chút hiếu kỳ hay mừng rỡ, gã lúc này chỉ muốn làm sao nhanh nhanh ra khỏi khu rừng này mà thôi.
Lạt ma Á La lại nói :  “Người đó cho tôi biết, anh ta vốn là một kẻ trộm mộ, họ có một nhóm, chuyên đi khắp thế giới đào trộm mộ cổ. Mấy năm trước, nhóm trưởng triệu tập họ lại, nói rằng trong khu rừng nguyên sinh giữa biên giới ba nước này, ẩn chứa một bí mật khổng lồ, ở đây có một toà thành, các bộ lạc ăn thịt người sống chung quanh gọi toà thành đó là Thành Phố Trắng.”
“Thành Phố Trắng”  Trác Mộc Cường Ba thoáng động tâm, bài ca lịch sử bộ lạc Kukuer bỗng vand lên trong đầu, cơ hồ không phải gã nhớ lại, mà là hồi ức tự dưng dâng lên trong óc gã : “A, thành phố thần thánh màu trắng, ánh sáng trí tuệ bao phủ người, tất cả sinh mạng đều quay về đây. Mỗi vuông đất, đều thấm đẫm máu và nước mắt của tổ tiên, họ mang linh hồn và tính mạng của mình, đổi lấy hạnh phúc và hoà bình….”
Lạt ma Á La tiếp tục :  “Là nền văn minh đã biến mất từ ngàn năm trước, các bộ lạc ăn thịt người hình như là người bảo vệ của thành đó, trong thời gian quá lâu, họ đã quên mất đó là thành phố của ai, tại sao lại xây dựng, còn bọn họ tại sao lại phải xanh giữ nó. Đám trộm mộ ấy cũng tiến vào rừng, giống như cậu với tôi, hay tất cả những người khác, trải qua vố số gian khổ, bất cứ lúc nào cũng cận kề bên cái chết. Theo chỉ thị của đội trưởng, họ phải tìm một số thứ ở các bộ lạc sống trong rừng, nghe đâu là chìa khoá để mở cửa, mà không chỉ có một chiếc. Theo như anh ta được biết, ở khu rừng gần Thành Phố Trắng này nhất có ba bộ lạc ăn thịt người, nhưng năm đó thì bọn họ không hề biết điều này. Khi anh ta trộm chìa khoá ở chỗ người Kaji, bất cẩn rơi vào cạm bẫy. Đó là một vũng lầy thoạt nhìn không khác gì đất bùn bình thường người Kaji lại nguỵ trang rất tốt trên đó, đồng thời đặt gian nhà chứa chìa khoá lên trên vũng lầy. Anh ta và hai người khác trong bọn cùng rơi vào đó, làm kinh động cả bộ lạc, vậy là đồng bọn đành bỏ bọn họ lại. Khi người đó ngỡ mình sắp chết tới nơi, người Kaji lại cứu anh ta lên, từ đó anh ta liền ở lại làng của họ làm nô lệ, họ bắt anh ta đeo xích sắt, nhưng không ăn thịt. Người này phải sống kiếp nô lệ mất mấy năm, anh ta từ bên ngoài đi vào đây, thế nên cũng biết rõ, với năng lực của mình, anh ta không còn cách nào thoát khỏi đây được, chỉ còn cách an tâm mà tiếp tục làm nô lệ thôi.”
Trác Mộc Cường Ba hỏi : “Tại sao bộ lạc ăn thịt người đó không làm thịt anh ta ?”
Lạt ma Á La đáp : “Theo như anh ta nói, bộ tộc Kaji đó thực ra không phải là bộ lạc ăn thịt người trọn vẹn, bọn họ chỉ ăn những người bạn thân nhất từ những bộ tộc khác, ai bị họ ăn thịt cũng nên cảm thấy vinh hạnh, bởi họ đã coi người đó là bạn. Đối với tù binh, họ có cách trừng phạt tàn nhẫn hơn nhiều chứ không đơn giản là ăn thịt thôi đâu. Lúc trước người này đã dùng gỗ vụn làm mấy món đồ chơi có hơi hướng hiện đại, được người Kaji cho là bảo vật. Vì vậy, mới gần đây, anh ta bị người Mocahi dùng vũ lực cướp đi, ngay tối hôm qua thôi, người Mocahi còn đang chuẩn bị làm thịt anh ta nữa đó. Người Kaji muốn cướp anh ta về, nhưng thất bại. Trong lúc chiến đấu, anh ta đã bị thương, lại biết chắc người Mocahi sẽ không tha cho mình, liền liều chết chạy vào rừng Mãng Xà này. Anh ta bảo, bị trăn ăn thịt còn hơn bị bọn người Mocahi đó xơi tái, vì trước khi ăn thịt người nào, bọn họ luôn khiến kẻ bất hạnh ấy chịu đủ kiểu hành hạ, và cho rằng người nào chết trong đau đớn đã mang hết oán hận và đau đớn tiết ra ngoài cả rồi, ăn vào mới an toàn. Sau đó thì anh ta gặp tôi.”
Trác Mộc Cường Ba nhớ lại tình cảnh tối hôm trước, không biết người này là ai trong số năm kẻ xấu số kia. Lạt ma Á La tiếp lời : “Rừng Mãng Xà này vì có rất nhiều trăn khổng lồ Nam Mỹ, nên được các bộ lạc ăn thịt người coi là khi cấm, xưa nay đều tránh xa. Người này đã ở đây mấy năm, anh ta kể rằng mình phát hiện ra nghi thức ăn thịt người của các bộ lạc này vô cùng cổ quái, hoàn toàn khác hẳn với lý giải của người thường. Phương thức ăn thịt người của ba bộ lạc sống trong vùng rừng này đều không giống nhau. Người Mocahi và người Lapimi đều coi việc ăn thịt người như một nghi thức thần thánh, bất kể là khiến người ta chết trong đau kho6gn hay im lìm không hay biết, họ đều bắt đầu hết sức long trọng, cả bộ tộc đều phải tham gia nghi thức này, chứ không phải kiểu coi con người như một loài súc sinh để ăn thịt như xưa nay người đời vẫn tưởng tượng. Anh ta cho rằng, nghi thức này có ý nghĩa đặc biệt riêng, nhưng rất đáng tiếc, chính anh ta cũng không đưa ra được kết luận gì. »
Trác Mộc Cường Ba nghe lạt ma Á La cứ gọi người đàn ông kia là anh ta, anh ta mãi, mới hỏi : “Thượng sư, anh ta không cho ngài biết tên à ?”
Lạt ma Á La lắc đầu, đoạn nói : “Dù anh ta kín miệng như bưng về thân thế mình, nhưng từ cung cách nói năng, tôi có thể cảm nhận được, bọn họ không phải lũ trộm mộ bình thường, mỗi một con người trong nhóm đó, trong xã hội đều có địa vị rất cao. Còn việc phải trộm mộ xong có của cải mới có địa vị cao như thế hay từ đầu đã có địa vị cao rồi nhưng vẫn thích trộm mộ thì tôi không biết. Ngoài ra, người kia dường như đánh giá đội trưởng của mình rất cao, qua lời nói cũng toát lên vẻ sùng bái ngưỡng mộ.”
Trác Mộc Cường Ba thở dài một tiếng, thầm nhủ :  “Nếu đã có địa vị rất cao trong xã hội rồi, tại sao còn đi làm một việc ti tiện như là trộm mộ chứ ? Điên rồi chắc ? Đến cuối cùng chẳng phải là chết giữa rừng hoang không người biết đến hay sao.” Đột nhiên, một ý nghĩ loé lên, ý nghĩ đáng sợ ấy tràn ngập khắp bên trong đại não : “Vậy còn mình thì sao ? Mình vậy mà lại giống đám trộm mộ kia ư ? Không ! Mình cố gắng phấn đấu vì lý tưởng, tất cả những thứ mình bỏ ra, đều là cần thiết, đều có giá trị cả ! Nhưng mà…”  Để có được giúp đỡ và chi viện, bọn gã đã để mục tiêu đơn giản là tìm chó ngao thành tiện đường tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, hoặc có thể nói, trong nhóm của gã giờ đây, mục đích chủ yếu của các thành viên đã biến thành tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu rồi, vậy thì có khác gì bọn đào mộ trộm không chứ. Trác Mộc Cường Ba không thể thanh thản, lầm lũi cúi gằm mặt xuống. “Vậy bây giờ chúng ta nên làm gì? Đến Thành Phố Trắng ư?” Vừa nãy khi lạt ma Á La nhắc đến nơi này, Trác Mộc Cường Ba nhận ra trong ánh mắt ông có gì đó mà gã không sao lý giải nổi, chiếu lý mà nói thì một cao tăng mật tu cách biệt với thế gian như ông, đáng lẽ ra phải hoàn toàn không có quan hệ gì với một thành phố cổ hoang phế trong rừng rậm nguyên sinh Nam Mỹ mới đúng, rốt cuộc lạt ma Á La có gì bất ổn đây? Thậm chí Trác Mộc Cường Ba còn nghĩ: “Lẽ nào lạt ma Á La cũng từng là thành viên của tổ chức trộm mộ ấy?”
“Điều chúng ta cần làm trước mắt, chính là rời khỏi rừng Mãng Xà, đồng thời tránh xa các bộ lạc ăn thịt người. Còn Thành Phố Trắng hả, nếu găp được, cũng có thể tới tham quan một phen, Phật đã dạy, vạn sự tùy duyên mà.” Lạt ma Á La nói vậy, trong lòng lại vui mừng không xiết: Cường Ba thiếu gia, cuối cùng cậu cũng bắt đầu quan tâm đến thành phố hoang phế đó rồi sao? Yên tâm đi, tôi nhất định sẽ dẫn cậu tới đó, cậu là hy vọng Hoạt Phật đã chỉ ra cho chúng tôi, tin rằng cậu sẽ không làm chúng tôi thất vọng.”
Hai người đi về phía trước một đoạn, vừa đi vừa thảo luận hướng đi của giáo sư Phương Tân và Trương L ập, nhưng cũng chỉ là đoán mò, vì cả hai đều biết tỷ lệ gặp lại nhau trong khu rừng này là rất nhỏ. Chừng một tiếng đồng hồ sau, ánh trăng trên cao đã dần trở nên ảm đạm, xem ra trời cũng sắp sáng đến nơi, khoảng thời gian tối tăm nhất trước bình minh kia cũng sắp tới. Bỗng nhiên phía trước có tiếng gió nổi lên, trong bóng tối một vật trông như cái cột đèn đang vặn vẹo lăn lộn, hai người tự hiểu, lại gặp phải trăn khổng lồ nữa rồi, nhìn bóng đen kia phán đoán, có lẽ con trăn này còn to hơn những con họ gặp trước đó nữa. Lúc này nó đang ra sức vặn vẹo, quật rầm rầm vào thân cây, rõ ràng là đang vô cùng đau đớn. Trác Mộc Cường Ba thấy tình huống này hơi giống với con trăn vừa nãy, liền hỏi lạt ma Á La: “Có phải bị dao rạch bụng không vậy?”
Lạt ma Á La quan sát một lúc, đoạn nói: “Không giống, đây là một con trăn đã lớn tuổi, chắc là sắp chết đến nơi. Trên mình nó không có vết thương nào, có thể là đã ăn phải thứ gì đó không sạch sẽ rồi.” Trác Mộc Cường Ba lại một lần nữa trợn mắt kinh ngạc nhìn lạt ma Á La, đôi mắt ông dường như sáng rực lên trong đêm tối, thị lực thật kinh người.
Trác Mộc Cường Ba lại hỏi: “Có cần đi vòng qua không?” lạt ma Á La lắc đấu: “Không, di chuyển bậy bạ sẽ khiến nó nổi điên lên, có khi sắp chết còn kéo cả chúng ta theo nữa cũng nên.”
Có thứ gì đó bị con trăn vẩy lên mặt Trác Mộc Cường Ba, gã đưa tay sờ thử, thấy dinh dính trơn trơn, liền thấp giọng nói: “Nó hộc máu rồi.” Trên người lạt ma Á La cũng bị bắn không ít thứ đó, ông quệt một chút đưa lên mũi ngửi, đoạn nói: ”Không, không giống, dính dính trơn trơn như vậy, chắc là dầu mỡ rồi.”
Trác Mộc Cường Ba lặp lại: “Dầu?” lạt ma Á La điềm đạm đáp: “Có lẽ tại chất lượng cuộc sống được nâng cao, thành ra bị béo” Trác Mộc Cường Ba nghe vậy cũng không khỏi mỉm cười.
Lúc này, con trăn kia đã dùng hết chút sức lực cuối cùng nghển cao đầu lên, húc mạnh vào thân cây lớn hơn thân thể nó gấp mất chục lần kia, sau đó mềm nhũn nằm gục xuống đất như cọng mì rơi khỏi nồi. lạt ma Á La cẩn thận quan sát kỹ lưỡng cả chục phút, rồi mới bảo: “Kết thúc rồi, chúng ta đi thôi.”
Vừa đi vòng qua chỗ con trăn ngã xuống, phía trước liền thấp thoáng có ánh sáng, Trác Mộc Cường Ba cả kinh thốt lên: “Có người!” Đối với gã, trong khu rừng này, trừ phi có người, bằng không sẽ không có ánh sáng. Lạt ma Á La cũng ngẩn ra, rồi ông nói: “Nhưng không có tiếng động gì, chúng ta qua xem sao, phải cẩn thận.”
Vòng qua tán cây, cả hai người đều không ngờ tới, phía trước lại có cả một khoảng trống, dưới chân là một vũng bùn lớn, trông như đầm lầy. Giữa vũng bùn lại có mấy ngọn lửa đang cháy hừng hực, hàng cây cao trăm mét vây quoanh tạo thành một miệng giếng khổng lồ, tất cả đều toát lên vẻ thần bí lạ lùng. Đi bộ lâu như vậy, đây là lần đầu tiên họ nhìn được rõ bầu trời đêm, chỉ thấy vầng trăng như chiết đĩa bạc treo lơ lửng nơi chân trời phía Tây, quả nhiên là sắp sáng rồi.
Lạt ma Á La vốc một ít bùn lên, đưa cho Trác Mộc Cường Ba ngửi, gã vừa hít vào đã kinh ngạc kêu lên: “Là dầu, đúng là dầu!” Nắm bùn lạt ma Á La cầm trong tay kia có pha lẫn cả mùi dầu mỏ, dầu thô đen kịt đang chầm chậm đùn lên bên dưới lớp bùn, mấy ngọn lửa kia chắc là do sét đánh xuống đốt lên, cũng không biết đã cháy như vậy bao nhiêu thế kỷ rồi. Trác Mộc Cường Ba hiểu rất rõ, nếu tin tức ở đây có dầu thô bị tiết lộ ra ngoài, chưa tới nửa năm, khu rừng nguyên sinh sâu đến đáng sợ này sẽ không còn tồn tại nữa. Xe san đất cỡ lớn, cưa điện dùng khí áp, có thể dễ dàng san phẳng những cây cổ thụ ngàn năm này, xe tăng và xe thiết giáo, có thể làm bất cứ loài động vật nào biến mất, còn về các bộ lạc ăn thịt người lại càng dễ dàng hơn, huỷ diệt một nền văn minh cũng đơn giản như giẫm nát một cánh hoa dại ven đường vậy. Tới đây, gã không dám nghĩ tiếp nữa.

Thành Phố Trắng

Lạt ma Á La thấy Trác Mộc Cường Ba ngơ ngẩn bần thần, có vẻ không dằn lòng được, như những gì người kia nói, theo truyển thuyết của đám thổ dân ăn thịt người, Thành Phố Trắng ở phía sau thiên hoả, cũng có nghĩa là mục tiêu ở ngay phía trước. Ông nói với Trác Mộc Cường Ba: “Đi thôi, ở đây không có gì đáng xem đâu.”
“Không thượng sư, ngài không hiểu rồi, dầu mỏ ở chỗ này đã nhiều đến mức tràn cả lên mặt đất, nếu tin này mà lan ra ngoài, ngài biết sẽ đưa tới hậu quả thế nào không?” Trác Mộc Cường Ba giải thích với lạt ma Á La. Lạt ma Á La điềm đạm nói: “Những chuyện này, chính quyền địa phương sẽ nghĩ cách giải quyết, không phải vấn đề tôi và cậu nên nghĩ ngợi, cậu thấy có phải không? Chúng ta tiếp tục lên đường thôi, nói không chừng phía trước còn có thứ gì khiến người ta bất ngờ đó.” Nói đoạn, ông đã phăm phăm đi lên phía trước. Trác Mộc Cường Ba thở dài một tiếng, cảm khái khôn cùng.
Bọn họ mất nửa tiếng để vòng qua vũng bùn, cảnh sắc xung quanh dần dần thay đổi. Những cây đại thụ dần dà ít hẳn đi, đã có thể nhìn thấy bầu trời đêm qua kẽ lá; dòng sông nhỏ chảy róc rách, lá cây đung đưa trong làn gió nhè nhẹ, tiếng kêu đêm của lũ côn trùng chim thú hoà lẫn vào nhau, văng vẳng từ phía đằng xa truyền lại, phảng phất như họ vừa bước ra khỏi một bức tranh, vạn vật xung quanh trong nháy mắt đã tràn đầy sức sống, cả không khí cũng trở nên ấm áp mà thân thiết. Trác Mộc Cường Ba mừng rỡ reo lên: “Chúng ta ra khỏi rừng rồi, thượng sư, chúng ta ra khỏi rừng Mãng Xà rồi!”
“Ừm,” lạt ma Á La gật đầu, ánh mắt cũng lộ vẻ mừng vui. Chợt bên tai vang lên tiếng thác chảy, hai người tâm tình phơi phới, vội rảo bước chạy về phía âm thanh đó truyền lại, chạy xuyên qua tầng dây leo chằng chịt, trèo lên một đồi đất nhỏ. Thứ đầu riên đập vào mắt họ, là một kiến trúc cung điện trông rất giống đền Pantheon, cung điện huy hoàng trắng toát tắm trong ánh trăng bàng bạc, càng lại gần càng cảm thấy thật cao lớn. Hai người không tự chủ được mà thả bước chậm lại, chỉ sợ tiếng động phát ra dưới chân sẽ làm kinh động đến người khổng lồ đã say ngủ ngàn năm. Càng lên cao, các kiến trúc xuất hiện trước mắt càng khiến họ kích động, hai người phát hiện ra, ngôi đền thần kia hóa ra lại được xây dựng trên một kiến trúc lớn hơn nữa, một kiến trúc dạng kim tự tháp bậc thang khổng lồ màu trắng. Nó lặng lẽ đứng sừng sững nơi đó, nguy nga tráng lệt, khí thế hùng vĩ, chẳng khác nào một ngọn núi nhỏ. Dưới chân tháp có một hàng bậc thang dựng đứng thông thẳng tới đền thờ trên đỉnh tháp, trên bậc đá giờ đã mọc đầy các bụi cây khóm cả, có mấy mơi thậm chí còn sụt lún nữa. Bốn phía kim tự tháp có những bức điêu khắc hình rắn khổng lồ, sống động như thật. Dưới ánh trăng tinh khiết, bóng rắn phảng phất như đang cuồn cuộn xoay chuyển xung quanh kim tự tháp. Đi lên trên nữa, họ lại càng thấy nhiều hơn, hai bên trái phải của ngôi kim tự tháp khổng lồ đó có hai kim tự tháp khác tương đối nhỏ hơn, một cái hình mũi dùi, cái kia trên đỉnh lại có kết cấu hình tròn, thoạt nhìn trông khá giống với một đài quan sán thiên văn hiện đại. Cuối cùng, khi họ lên tới đỉnh đồi,đứng bên sườn dốc, toàn bộ Thành Phố Trắng khí thế hùng vĩ hiển hiện lên trước mắt hai người. Khoảnh khắc ấy, thời gian dường như đông cứng lại, cả nhịp thở cũng ngừng, không khí xung quanh không còn lưu động nữa, tất cả chỉ có thể dùng hai chữ “kỳ tích” để hình dung.
Lạt ma Á La trước tiên nghĩ tới tất cả những lời tán thán của người Tây Ban Nha dành cho kiến trúc Maya cổ khi họ lần đầu riên đặt chân lên Châu Mỹ: “Khắp nơi đều là hình ảnh điêu khắc tuyệt đẹp…lại có những cổng chào vô cùng trang nhã!” “Tuyệt đẹp, cả một quần thể kiến trúc xa hoa, quả đúng là tuyệt phẩm nghệ thuật, quá sức lộng lẫy!” “Trang trọng mà mỹ lệ…chỉ hơn chứ không kém!” “Là các vị thần đã tạo nên những hình điêu khắc này…” “Không, tất cả những lời đó đều không đủ để nói lên vẻ đẹp của những kiến trúc này, những kẻ không tận mắt trông thấy chúng lặng lẽ tắm trong ánh trăng vàng làm sao cảm nhận được tâm trạng kích động đó. Đứng bên bờ vách núi, mấy trăm toà kiến trúc màu trắng thu cả trong tầm mắt, vô số đền thờ, cung điện, quảng trường thi đấu, trụ đá kỷ niệm, mỗi công trình kiến trúc đều đẹp tinh tế vô ngần, tất cả đều là tác phẩm nghệ thuật. Có thể nói, đây là quần thể kiến trúc quy mô lớn nhất, bảo tồn hoàn chỉnh nhất kể từ khi con người phát hiện ra các di chỉ Maya cổ đại tới nay. Chúng nằm tản mát trong bóng cây, nhưng bóng cây hoàn toàn không che mờ được ánh sáng của chúng, bụi các phủ trên di chỉ, không sao che giấu nổi lịch sử uy hoàng; cỏ hoang chốn hư phế, đang để lại câu chuyện về một nền văn minh sáng chói.
Ý nghĩ đầu tiên hiện lên trong đầu Trác Mộc Cường Ba lại là: “Nếu trên đời này thật sự có vườn địa đàng, vậy thì trước mắt mình đây chính là nó rồi.” Phía trước gã, cả một vùng đất xung quanh bỗng nhiên thụt xuống, hình thành một vùng bình nguyên màu mỡ, dưới ánh trăng, thác nước lửng lơ treo trên vách núi trông như dòng thuỷ ngân, lại tự dải lụa trắng khẽ phất phơ, bầu trời phía trên tựa như được khảm thêm những viên ngọc sao lấp lánh, tiếng nhạc mê hồn trong đêm nghe như tiếng hót của lũ sếu trắng. Những cột đá trắng tản mát giữa rừng cây, các bức điêu khắc khổng lồ sống động thần tình, cung điện rực rỡ vàng son khiến người ta mơ tưởng xa xăm, đền thờ trang nghiêm thần thánh làm con người kính cẩn nghiêng mình, chỉ nhìn từ xa thôi hai người đã cảm thấy một cảm giác chấn động từ tận sâu thẳm cõi lòng lan toả cùng khắp. Nền văn minh cổ đại đã thất lạc, một dân tộc trí tuệ cao vời, tất cả những gì họ để lại. Xây dựng nên Thành Phố Trắng này là những con người đã trải qua bao giai đoạn dân tộc hưng vong trong lịch sử, cũng là những người tạo ra thời đại hoàng kim sau đó hoàn toàn biết mất. Mắt xích nối liền dân tộc này với người hiện đại đã bị cắt đứt, hoàn toàn biết mất rồi. Còn rơi rớt lại trên mặt đất có chăng cũng chỉ là vết chân họ mà thôi.
Bên tai lạt ma Á La lại văng vẳng vang lên lời Stephens, nhà thám hiểm sống ở thế kỷ mười chín đã có cống hiến to lớn trong việc phát hiện ra nền văn mình Maya, ông ta đã dùng một câu tràn đầy ý vị để hình dung những gì mình thấy: “Nó nằm đó tựa một con thuyền gãy lìa giữa đại dương, cột buồm chính đã không biết đi đâu, tên thuyền đã mờ nhạt, các thuỷ thủ cũng không còn tăm tích; không ai có thể cho chúng ta biết nó từ đâu tới, chủ nhân của nó là ai, thuyền đã đi được bao xa, tại sao thuyền lại đắm.” Lạt ma Á La  im lìm đứng đó, hoàn toàn ngây ngất, trong mắt ông, cơ hồ cả khu rừng đều đã biến mất, tưởng như phía trước là một quảng trường rộng mênh mông, các tín đồ xếp hàng lũ lượt bước lên bậc thang đá tiến vào miếu thần, bên tai vang lên tiếng thánh nhạc, tiếng cầu khấn trong điện thần. Nền văn minh Maya cổ đại, rốt cuộc tại sao các người biến mất? Mỗi người khi nhìn thấy di tích thành bang của người Maya đều không khỏi thầm phát ra một câu cảm thán từ tận đáy lòng.
Hai người nhìn tất cả trải ra phía trước, họ nhìn một cách si mê, say sưa đắm đuối, hoàn toàn quên hết mọi sự xung quanh. Không biết bao nhiêu lâu sau, cho tới khi khoảnh khắc tối tăm nhất trước buổi bình minh lan tràn khắp thế giới, ánh trăng đã chìm xuống dưới đường chân trời phía Tây, họ mới như bừng tỉnh khỏi giấc mộng. “Chúng ta nên xuống đó.” Lạt ma Á La đề nghị, Trác Mộc Cường Ba cũng tức khắc phụ hoạ: “Đúng, cần phải lập tức xuống đó.”
Song vực sâu cả trăm mét, phải đi lối nào mới xuống được đây? Lạt ma Á La đưa mắt nhìn cây đại thụ ở mép phía Tây đang sừng sững trong đếm tối, nó là cây duy nhất trong khu vực này cao hơn trăm mét, nửa thân cây chìa ra ngoài vách đá, tựa hồ như vẫy tay gọi mời cố nhân trở lại bên mình. Lạt ma Á La lại gần chỗ rễ cây, hân hoan thốt lên: “Xuống ở chỗ này.” Đoạn ông bám lấy một sợi, nhanh chóng trèo xuống vách đá. Trác Mộc Cường Ba  cũng không chút do dự đu rễ cây trượt xuống, bọn họ thậm chí còn không nghĩ xem rễ cây có thể xuống tới mặt đất hay không. Cây cao trên trăm mét, rễ cây không ngờ lại dài hơn cả mét, Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La bám vào rễ cây cuống được nửa đường, bên dưới toàn là vách núi phủ đất, may mà vẫn còn độ nghiêng nhất định chứ không thẳng đứng, họ liền vừa trượt vừa lăn xuống cái dốc nghiêm tám mươi độ ấy luôn. Toàn thân đầy bùn đất, sườn dốc gồ ghề lồi lõm, song họ chẳng hề để tâm, tự như đứa trẻ lưu lãng bao năm trời nay trở về với lòng mẹ vệ, hân hoan không sao tả xiết.
Xuống bên dưới vách núi, càng đến gần Thành Phố Trắng, viền ngoài của những kiến trúc ấy càng hiện lên rõ nét hơn, Trác Mộc Cường Ba không sao nén nổi nỗi kích động trong lòng, gã cơ hồ đã quên mất lần cuối cùng mình kích động như vậy là vào khi nào. Phải rồi, chỉ có khi gã nhìn thấy tấm anh Tử Kỳ Lân kia, bao nhiêu cảm xúc mãnh liệt mới dâng trào cuồn cuộn lên như thế. Gã từng nghe người khác nhắc tới Thành Phố Trắng không chỉ một lần, song gã chưa từng để tâm chú ý, bởi gã chưa từng thấy nền văn minh Maya bao giờ, đồng thời cũng không tin vào sự tồn tại của một thành phố như vậy, cho tới giờ phút này, khi tận mắt trông thấy kỳ tích huy hoàng mà nền văn mình này sáng tạo ra, bị quần thể kiến trúc tuyệt mỹ tuyệt trần kia hấp dẫn một cách sâu sắc, gã mới nhận ra, mình không thể nào đè nén được tâm trạng kích động kia. Đó là niềm kính sợ đối với vị thần từ ngàn xưa vạn cổ của nhân loại đã tồn tại trong lòng mình, phảng phất như trong khoảnh khắc ấy, bao nhiêu gian nan vất vả bọn gã đã trải qua, cái giá mà gã phải trả, đều trở nên xứng đáng, trở thành một chuyện vô cùng ý nghĩa, chứ không còn là cuộc chạy trốn vô mục đích trong rừng sâu nữa. Bởi vì gã đã phát hiện ra Thành Phố Trắng, một thành phố chỉ lưu truyền trong truyền thuyết của các bộ lạc Anh điêng, một toà cung điện xa hoa lộng lẫy ẩn chưa vô số bí mật bị cây rừng che phủ. Gã đã phát hiện ra một kỳ tích, một kỳ tích đã bị dòng lịch sử cuốn phăng lên môt bãi hoang vắng không dấu chân người.
Hai người lao như bay về phía trước, đột nhiên Trác Mộc Cường Ba trượt chân một cái, cả người chìm luôn xuống dưới, may mà lạt ma Á La nhanh tay nhanh mắt, vội kéo gã giật lùi về phía sau mấy bước, mới đứng vững được.Nhìn mặt đất bùn lầy phía trước không ngừng nổi lên những bong bóng trắng, Trác Mộc Cường Ba vẫn chưa hết rùng mình: “Vũng lầy!” Một vũng lầy gần như là không có gì phân biệt lắm với mặt đất xung quanh chắn ngang trước mặt hai người, chặn mất đường tiến.
Lạt ma Á La cũng vô cùng kinh hoảng, vừa rồi lúc Trác Mộc Cường Ba trược chân, suýt chút nữa đã kéo luôn cả ông xuống theo, chỉ cần hai người trượt tới mép vũng lầy, cơ hội có thể bò ra được thật mong manh nhỏ bé. Ông đưa mắt nhìn tình thế xung quanh, chỉ thấy dòng thác bạc như sông ngân kia buông xuống góc Tây Bắc của vùng đất trũng này, bọt nước bên dưới bắn lên tung toé, chắc hẳn là có một dòng sông hoặc ít nhất là kênh dẫn nước ở bên dưới, dòng nước uốn éo chảy qua, môt số di tích bị ngập chìm trong nước, đồng thời cũng ngăn dòng nước lại. Phía bên này của di tích toàn bộ đều là đất bùn, đất bùn ngậm no nước liền biến thành vũng lầy, trong vũng lầy đó, có mấy chục ụ đá, chỉ lộ ra bên trên một phần nhô cao chưa đầy ba mươi centimet. Lạt ma Á La nhanh chóng xác định, đây hẳn là các cột ghi năm, hình điêu khắc của phần lộ ra bên trên vũng lầy có thủ pháp tương đồng với những cột ghi năm bọn họ đã trông thấy lúc ở trên sườn núi. Lạt ma Á La kéo tay Trác Mộc Cường Ba nói: “Có đường rồi, đi theo tôi.” Nói đoạn, ông liền nhảy lên ụ đá gần họ nhất, đứng bên trên, tựa như đứng trên một cái bục tròn đường kính chừng một mét vậy.
Trác Mộc Cường Ba nhảy theo, lạt ma Á La lại nhắm một ụ đá bên trái, nhẹ nhàng nhảy sang đó, chợt thấy dưới chân mềm nhũn, cả người liền mất thăng bằng, ông lập tức đảo người trên không, cuối cùng cũng hạ xuống một ụ đá khác. Trác Mộc Cường Ba nhìn mà hãi hồi, nếu đổi lại là gã, tuyệt đối không thể xoay người nhảy lên trong tình huống đó. Lạt ma Á La cũng tái mặt, vội cuống quýt dặn dò: “Cẩn thận đó, những cột đá ghi năm này không biết đã ngâm trong vũng lầy bao lâu, phần đế đều sụp cả rồi. Theo cổ thư ghi chép, độ cao bình quân của chúng có lẽ từ ba tới năm mét, chúng ta rơi xuống chắc chắn không thể lên nổi đâu. Đi theo sau tôi, đợi tôi đứng vững rồi cậu hãy nhảy qua.” Trác Mộc Cường Ba chỉ gật đầu không nói.
Hai người cẩn thận nhảy nhót trên vũng lầy, mỗi một khoảng cách ngắn ngủn mà Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La phải tốn mất mười mấy phút đồng hồ mới bình an sang được bờ bên kia. Giờ họ đang đứng trên một hành lang bằng đá, nói là hành lang, nhưng thực ra chúng là những nóc nhà nối tiếp, phần bên dưới của chúng đã hoàn toàn bị nước nhấn chìm cả rồi. Nếu lấy tổ hợp kiến trúc này làm đường ranh giới, phía Bắc là một hồ nước khổng lồ, phía Nam là bãi lầy chôn vùi đống cột ghi năm kia. Hành lang này quanh co uốn lượn, xem ra được xây nối tiếp hết sức kín kẽ, chắc là một khu dân cư cổ đại, hai người đứng bên trên, bốn bề đều bị nước và vũng lầy bao vây. Lúc này, những kiến trúc của Thành Phố Trắng lộ ra trên mặt nước lại càng gần họ hơn, trời từ từ sáng bạch, chỉ thấy bầu trời phương Đông hồng rực lên, nhuộm đỏ cả những cây xanh cao vút,nhuộm đỏ cả vách núi màu nâu đất. Ánh sáng chiếu trên cao xuống, từ từ vượt quá đường chân trời, từ Đông sang Tây, xuất hiện rõ ràng một đường phân giới chia vách núi làm hai nửa đỏ đen. Kế đó, toà kiến trúc lớn nhất Thành Phố Trắng, ngôi kim tự tháp hình thang to như một trái núi nhỏ, đền thờ trên đỉnh kiam tự tháp trở thành kiến trúc đầu tiên của thành phố Trắng này được tắm trong ánh dương. Vóc dáng trắng như tuyết tựa người con gái mới trồi lên khỏi mặt nước, sương mù vấn vít, dây leo xanh ngắt dịu dàng bao bọc xung quanh, ánh sáng dần dần dịch xuống, dường như có chút ngượng ngùng, nhu mì khoác lên tấm áo mỏng xanh mơn mởn. Khi được ánh sáng hoàn toàn phủ chiếu, kim tự tháp cao ngất hiện ra dưới chân, ngôi đền liền tựa như một vũ nữ đứng trên đỉnh núi đón tia sáng đầu tiên của buổi sớm mai, nhẹ nhàng múa lên động tác đầu tiên.
Trác Mộc Cường Ba hoàn toàn bị vẻ đẹp này cuốn hút, lại một lần nữa, gã cảm nhận được sức ma mị khó có thể kháng cự này; còn lạt ma Á La thì bắt đầu ra khỏi trạng thái si mê ngây dại, ông bắt đầu suy nghĩ một cách có lý trí: “Bị cách tuyệt khỏi ánh dương, đời đời kiếp kiếp chôn vùi dưới lòng đất, vậy chắc chắn là có lối vào, một lối vào thông xuống lòng đấy. Người đó nói họ đi tìm chìa khoá gì đó, lẽ nào phải có chìa khoá mới mở được cách cửa ấy ra? Nhưng chúng ta kiếm đâu ra chìa khoá bây giờ?”
Khi thân tâm Trác Mộc Cường Ba đều bị vẻ huy hoàng tráng lệ của ngôi đền kia xâm chiếm, phía Nam Thành Phố Trắng, ở cách ngay chỗ họ không xa lắm,cùng lúc phát ra vô số tiếng rú kinh ngạc. Âm thanh đó tựa như tiếng gào của bầy sói đói tìm thấy mồi ngon. Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La đều giật bắn mình, kế đó hai người nghe thấy vô số tiếng bước chân, rồi tiếng nói cười râm ran náo động, âm thanh của những kẻ hưng phấn đến gần như phát điên, thâm chí có người còn thoả sức giơ súng lên trời bắn loạn xạ, để phát tiết cảm giác hoan hỉ điên cuồng. Quân du lích! Cùng lúc bọn Trác Mộc Cường Ba đến Thành Phố Trắng này, còn có một nhóm du kích chừng hơn hai chục tên. Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La đều giật mình kinh hãi.
Nhưng lúc này họ lại không có chỗ nào để ẩn nấp, chỉ thấy đám du kích kia như đám sói hoang lợn rừng tràn ra khỏi khu rừng phía Nam, mặc dù không biết bọn chúng đang gào thét những gì, nhưng chắc quá nửa là những câu kiểu như “Thành Phố Vàng”, “Phát tài rồi” chứ chẳng sai. Trác Mộc Cường Ba định nhảy xuống nước lặn sang phía bên kia, nhưng lạt ma Á La đã kịp thời giữ gã lại, đồng thời chỉ tay xuống dưới. Mặc dù ánh dương vẫn chưa di động tới phần chân thành phố này, nhưng nhờ ánh sáng phải quang, Trác Mộc Cường Ba vẫn nhìn thấy rất rõ ràng, trong hồ nước có một đàn cá nhỏ rất đông đang bơi đi lượn lại. Cá ăn thịt người! Đây có lẽ là loại động vật nổi tiếng nhất đại lục Nam Mỹ này rồi. Trác Mộc Cường Ba ngây người ra, gã không thể ngờ mình lại rơi vào bước đường cùng thế này. Quân du kích đã cách họ gần lắm rồi, ba tên đi đầu phát hiện ra Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La, liền gào thét xông tới, đồng thời nổ súng bắn xung quanh hai người để thị uy, cảnh cáo bọn họ chớ nên liều mạng vọng động.
Đối với quân du kích đạn đã lên nòng, lạt ma Á La cũng chẳng có cách gì, hai người đành đứng yên bất động, ngoan ngoãn giơ tay qua đầu. Hành lang hình thành bởi các nóc nhà liền nhau này, vừa khéo lại nối liền ra hướng đám du kích đi tới, ba tên dẫn đầu cầm súng, từng bước từng bước một tiến lại gần họ, Trác Mộc Cường Ba còn trông thấy cả nụ cười gian xảo tham lam hiện lên trên mặt từng tên một. Những tên đi sau cũng đang lục tục kéo tới, lúc đó biến cố  lại đột nhiên phát sinh, “rắc rắc” một tiếng, ba tên cầm súng kia bỗng chìm ngụp xuống. Thì ra những nóc nhà bằng đá này đã ngâm ở đây chẳng biết tự thuở nào, có nhiều chỗ đã bị ăn mòn mục cả ra, ba tên kia vô tình giẩm phải chỗ mục đó, lập tức rơi cuống hồ nước. Tệ hơn nữa là, tường đá đã cào rách da bọn chúng, máu tươi liền rỉ ra.
Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La tận mắt chứng kiến, lũ cá đang tung tăng bơi lội kia kết thành một chỉnh thể, tựa như một con thú khổng lồ hung ác lao vọt về phía ba tên du kích rơi xuống nước kia như tên bắn. Chỉ có hai cánh tay cầm súng giơ cao khỏi mặt nước bắn chỉ thiên mấy phát, ba tên du kích xấu số kia dường như đã không còn cơ hội nào ra khỏi hồ nước này nữa rồi. lạt ma Á La quát lớn: “Chính là lúc này đây!” Trác Mộc Cường Ba cũng lấy hết dũng khí, gầm lên một tiếng, cùng với lạt ma Á La, nhảy ùm xuống nước, dùng hết sức bình sinh bơi sang bên kia với tốc độ nhanh nhất có thể. Một thoáng trước khi chạm mặt nước, gã cơ hồ nghe thấy có người hét gọi “Cường Ba à,” nhưng không kịp tìm hiểu, chỉ coi đó là ảo giác mà thôi.
Khi Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La thở hổn hển leo lên bờ hồ phía đối diện, hai người vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ nhận ra, không có con cá ăn thị người nào đuổi theo họ cả, toàn bộ bọn chúng đều bị vị máu tanh thu hút cả sang phía bên kia rồi. Còn đám du kích đuổi phía sau kia thì không may mắn như vậy, cả đám bọn chúng kinh ngạc phát hiện ra, chỗ ba tên đồng bọn của mình sẩy chân rơi xuống nước trào lên một đống bọt đỏ hồng, nước hồ như sôi lên sùng sục, có lúc còn dập dềnh nổi lên một hai khúc xương trắn hếu, ngoài ra không còn thứ gì khác nữa. Chưa đầy một phút sau, lũ cá trông vừa gầy vừa nhỏ ấy lại bắt đầu đung đưa bơi lội trong làn nước, tựa hồ như chưa từng xảy ra bất cứ chuyện gì. Đám du kích nhìn kẻ địch ở bờ hồ bên kia chạy mỗi lúc một xa dần, đành nổ súng từ bên này bắn sang, nhưng hoàn toàn chẳng có chút hiệu quả gì, muốn đuổi theo, nhưng những bóng ma đang lững lờ bơi dưới làn nước trong kia lại khiến chúng trơ mắt ra mà dừng bước.
Trác Mộc Cường Ba cũng hơi lo lắng, rốt cuộc bọn gã cũng không phải người làm công tác khảo cổ hay nhà tìm kiếm văn vật, lần này đến rừng nguyên sinh châu Mỹ chẳng qua chỉ là một bài khảo nghiệm mà thôi. Giờ khảo nghiệm đã kết thúc, chứng minh rằng đích thực bọn gã chưa đạt tới yêu cầu có thể độc lập thám hiểm, cảm giác hưng phấn khi phát hiện Thành Phố Trắng vừa trôi qua, gã liền nghĩ tới vấn đề an toàn của bản thân. “Thượng sư, quân du kích cũng đến đây rồi, chúng ta mau chóng rời khỏi đây thôi. Mặc kệ Thành Phố Vàng hay Thành Phố Trắng, cứ để bọn chúng tìm kiếm bảo bối là được rồi, đây đâu phải là mục đích của chúng ta chứ.” Trác Mộc Cường Ba đưa ra kiến nghị.
“Ừm, được rồi,” lạt ma Á La nhận lời, nhưng ánh mắt ông vẫn không ngừng tìm kiếm khắp xung quanh, hoàn toàn chẳng có vẻ gì là muốn rời khỏi chốn này cả. Lúc này họ đã ở bên trong Thành Phố Trắng, bước trên con đường đá màu trắng, đi giữa quần thể kiến trúc cổ xưa tuyền một màu trắng; mỗi căn nhà bị bóng cây che khuất đều ở gần ngay trước mắt, đưa tay ra là chạm tới; mỗi bức điêu khắc trên tường đều hết sức rõ ràng bên trong những căn nhà không có cửa kia, cả đồ vật cũng vẫn xếp gọn gàng ngăn nắm, ngoài những chỗ bị động thực vật phá hoại ra, dường như tất cả mọi thứ nơi đây đều vẫn nguyên như một ngàn năm về trước. Hai người thong thả bước trên phố, tưởng chừng như đã vượt qua thời không, trở về thành Rome của La Mã cổ đại, nơi này hoàn toàn không hề thua kém Rome, hoàn toàn xứng đáng được xa tụng là cung điện xa hoa của nghệ thuậ tao nhã thuộc một nền văn minh phát triển ở trình độ cao. Những toà kiến trúc này càng hùng vĩ, nhưng hình điêu khắc càng tinh xảo, thì lại càng khiến người ta hoài nghi một điều. Rốt cuộc là thứ gì đã khiến cho người sống trong thành phố này đột nhiên bỏ đi, không bao giờ trở lại nữa? Lạt ma Á La lắc đầu thở dài: “Nền văn minh Maya biến mất là nghi vấn lớn nhất trong lịch sử loài người.”
Ngay từ đầu Trác Mộc Cường Ba đã có cảm giác lạt ma Á La đang tìm kiếm gì đó, nhưng nghĩ thế nào gã cũng không sao hiểu nổi, lạt ma Á La có thể tìm kiếm thứ gì trong toà thành cổ hoang phế này cơ chứ? Lúc này lạt ma Á La lại một lần nữa nhắc đến nền văn mình Maya, mặc dù bản thân cũng biết có thể đây chính là di chỉ của người Maya để lại, nhưng Trác Mộc Cường Ba vẫn cứ thử dò hỏi một câu: “Thượng sư, sao ngài đoán được đây chắc chắn là thành phố của người Maya xây dựng vậy?”
Lạt ma Á La tỏ ra kinh ngạc, hỏi ngược lại: “Chẳng lẽ lúc học, các cậu không nghiên cứu chút gì về văn minh Maya à?”
Trác Mộc Cường Ba lại càng thấy quái lại, hỏi lại: “Trong các tư liệu về Nam Mỹ, hoàn toàn không hề nhắc tới văn minh Maya mà.”
Lạt ma Á La trách móc: “Mặc dù đích đến của chúng ta là Nam Mỹ, nhưng Nam Mỹ và Bắc Mỹ vối từng là một đại lục lớn nối với nhau, sao các cậu lại chỉ nghiên cứu mối Nam Mỹ không thôi nhỉ. Nhóm của chúng tôi đã nghiên cứu rất sâu về cà Nam Mỹ lẫn Bắc Mỹ đó. Những hình ảnh này, phong cách kiến trúc này, chỉ cần là người đã nhìn qua các di chỉ của nền văn mình Maya là có thể lập tức nhận ra ngay. Đây chính là thành phố của người Maya, bởi nên văn minh của họ hết sức đặc thù, hoàn toàn không giống với bất cứ nền văn minh nào khác trên thế giới, nói như vậy cậu đã hiểu chưa?”
“Đoàng!” Trác Mộc Cường Ba chau mày nói: “Chúng cũng sang đây rồi. làm sao mà chúng qua hồ được nhỉ?”

Giếng Thánh

Năm giờ sáng, cách thánh địa Ah Puch chừng sáu mươi cây số về phía Tây.
Ba chiếc trực thăng bay thành hình chữ phẩm (品) bay vù qua. Trên chiếc trực thăng cuối cùng, một đôi bàn tay múp míp vừa rửa mặt xong, những ngón tay như móng lợn đang cầm một chiếc chân giò lợn nhai nhồm nhoàn, miệng nhớp nháp đầy dầu mỡ. Gonzales vừa nhai thịt, vừa hỏi người bên cạnh: “Sao hả, vẫn chưa có tín hiệu gì à?”
Basaka miễn cưỡng chống lên hai mí mắt đã sụp xuống vì buồn ngủ, lắc lắc đầu, trời vẫn chưa sáng, quả thực là hắn chỉ muốn lăn ra đánh một giấc. Bàn tay béo ú của Gonzales vung lên, nhắc nhở: “Tỉnh táo lại đi, bay còn bà nó cả ngày rồi, chẳng lẽ bọn tàn binh ấy không đứa nào sống sót sao hả!”
Bakasa vội gật gật đầu: “Vâng, vâng.” Dứt lời, hắn lại ngáp một cái rõ dài, xun xoe nói: “Sếp đúng là tính toán như thần, thật không ngờ lại mưa lớn như vậy, sau đó còn có hồng thuỷ nữa, chỉ là không biết có kẻ nào thoát khỏi hay không nữa?”
Gonzales đắc ý nói: “Tính cái con mẹ mày, tao xem dự báo thời tiết đấy. Chắc không đến nỗi chết ráo cả đâu, đảm bảo là vẫn còn đứa sống sót, mặc dù chúng không có oá, nhưng dù sao cũng đều lăn lộn trong rừng sâu này nhiều năm thế rồi cơ mà.”
“Có ánh sáng! Có ánh sáng!” Tiếng của tên điều khiển thiết bị thông tin vang lên, cơn buồn ngủ của Bakasa tức khắc bị đè xuống. , hắn đẩy cửa số, gió lập tức ùa vào trong trực thăng. Gonzales lại vung tay tát bốp một cái nữa, quát: “Con bà mày không thể không mở cái cửa số ấy àh!”

Trực thăng nhanh chóng bay tới chỗ có ánh lửa, bên trên buông xuống một sợi dây thừng buộc máy quay và bộ đàm, bật thiết bị giám sát hồng ngoại lên, bắt đầu tìm kiếm trong rừng. Chỉ lát sau, bọn họ đã phát hiện ra nguồn sáng, thì ra có mấy tên du kích nhếch nhác đang cầm đuốc chạy thục mạng, bọn chúng trông thấy máy bay trực thăng, liền bất chấp tất cả xông về phía này.

Gonzales nhìn chằm chằm vào màn ảnh bên trong máy bay, cười ha hả nói: “Hừm, là Keron của đội số mười ba phải không, sao lại thành ra nông nỗi này?”

Tên du kích kia chụp lấy ống kính máy quay, gí gương mặt hoảng hốt của mình sát vào đó, giọng gần như là van xin khóc lóc: “Gonzales! Sao giờ anh mới đến! Nhanh kéo chúng tôi lên đi, bọn tôi gặp phải lũ kiến lửa, chúng sắp đuổi tới đây rồi!”

Gonzales vẫn ung dung xơi đùi lợn, chỉnh lại tai phone, điều chỉnh vị trí của micro, uể oải nói: “Sao chỉ có mấy người các anh thôi? Những người khác đâu?”

Tên du kích kia nước mắt nước mũi đầm đìa: “Không biết, chúng tôi bị vây khốn ở đây, đã thoả thuận chia thành hai tổ đi tìm đường ra, một tổ đi phía Tây, một tổ đi phía Đông. Chúng tôi, chúng tôi gặp phải bọn kiến, sắp chết đến nơi rồi! Không nói chuyện này nữa, anh mau kéo chúng tôi lên đi! Gonzales, Gonzales…, nể mặt chúng ta đã cộng tác nhiều năm… anh đừng bỏ chúng tôi lại đây!”

Gonzales nhai nốt miếng đùi lợn, liếm liếm môi, chép miệng nói: “Ừm, thì ra còn một tổ khác đi phía Tây hả, xem ra là các anh không có phát hiện gì rồi. Chà, không phải tôi không muốn cứu các anh, chỉ là trực thăng của tôi đã đầy người, hơi quá tải rồi, chỉ sợ không chứa nổi các anh nữa. Đi thôi, tiếp tục bay về phía Tây!” Câu cuối cùng giọng điệu trở nên lãnh khốc vô tình, hướng về phía viên phi công phát lệnh.

Trực thăng lại nâng độ cao, Gonzales cười lạnh lùng: “Hừ, giao tình hả, sớm đã vứt con mẹ nó đi rồi! Lúc tao bảo không tham hành động lần này, chẳng phải chúng mày thằng nào cũng giơ cả hai tay lên tán đồng hay sao? Lúc này muốn nói chuyện giao tình với tao hả! Hừ hừ!”
Tên du kích kia tuyệt vọng nhìn nắm đuốc, miệng không ngừng gào khóc: “Các anh không thể làm thế, các anh không thể làm thế…” Binh đoàn kiến lửa đỏ rực thoáng chốc đã lấp kín thân thể hắn, ngọn đuốc kia trong đêm đen trong như hạt đâu nhỏ, hoàn toàn không đáng chú ý. Gonzales xỉa xỉa răng, ngoảnh đầu nhìn lại, nhưng chỉ còn thấy một khúc xương khô giơ cao ngọn đuốc, trong đám xương trắng, vô số điểm nhỏ đang bò ra bò vào giữa các hốc. “Ừm…” Gonzales làm bộ kinh tởm, nói: “Buồn nông quá, làm mất cả hứng ăn sáng của tao.” Basaka vội cung kính dâng lên một cốc nước : “Sếp, uống chút nước đi.”


Trác Mộc Cường Ba không biết đám du kích kia dùng cách gì mà vượt qua được hồ nước đầy cá ăn thịt người đó, nhưng dù thế nào thì cũng đến rồi. Gã và lạt ma Á La nhanh chóng nấp vào một toà nhà dân bằng đá, nhìn qua cửa sổ quan sát tình thế bên ngoài. Đám du kích đó hình như lại bớt đi mấy tên, hoàn toàn không hề để tâm tới sự tồn tại của lạt ma Á La và Trác Mộc Cường Ba , vào đến bên trong chỉ chuyên tâm nhất ý đi tìm vàng. Chúng ta vào lùng sục mấy gian nhà đá, nhưng cũng không có phát hiện gì đặc biệc. Đám du kích ai nấy đều tràn trề thất vọng, ánh mắt nhìn chằm chằm về phía toà kiến trúc cao nhất nằm phía trên ngọn kim tự tháp hình thang khổng lồ như trái núi kia, không hiểu ai gầm lên môt tiếng, dẫn đầu xông về phía đó, những tên khác lập tức tràn theo như bầy ong vỡ tổ. Những kim tự tháp quá cao, bậc thang lại dốc, cả đám leo hơn nửa tiếng đồng hồ cũng mới được một nửa, tên nào tên nấy đều đã thở không ra hơi rồi.
Trác Mộc Cường Ba kéo kéo vạt áo lạt ma Á La, ý muốn nói giờ là thời cơ tốt nhất để bỏ đi, nhưng ông cứ ngây ngẩn nhìn chằm chằm vào toà kim tự tháp, cơ hồ đang nghĩ ngợi gì đó. Bỗng nhiên, trên lưng chừng kim tự tháp chợt vang lên tiếng súng, tiếng kêu thảm không ngừng truyền lại. Trác Mộc Cường Ba nheo mắt hết cỡ, cũng chỉ thấy bóng đám quân du kích nào loạn, nổ súng bắn bừa bãi, không hiểu đã gặp phải chuyện gì. Gã vội kéo tay lạt ma Á La nói: “Đi thôi, thượng sư, không đi bây giờ thì không kịp mất.”
Lạt ma Á La định thần lại nói: “À, đi? Được, đi thôi.”  Hai người vừa ra tới cửa, bỗng nhiên trên nóc nhà có một người nhảy xồ xuống, trên mặt vẽ vằn vện đen trông hết sức điên cuồng, tựa hồ như đao một tấm mặt nạ đồng xanh vậy, trong tay y cầm một cây mâu dài đen ngòm, trên người cắm đầy các loại cây lá nguỵ trang. “Bọn ăn thị người !”  Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La không nói hai lời, cùng lúc tung chân đá ra một cước. Gã chiến binh kia cũng là thợ săn ưu tú trong bộ lạc , gặp phải hai đại cao thủ cận chiến, một chiêu cũng không đỡ nổi, chân còn chưa chạm đất đã bay ngược về phía sau, đập vào bức tường trắng, não tương toe toét, xem ra chết là cái chắc.
Tiếng tù và chiến đấu đặc hữu của bộ lạc ăn thịt người vang lên khắp các ngóc ngách trong Thành Phố Trắng, âm thanh đó nghe như tiếng tù và ốc biển, lại nghe như tiếng sáo trúc, kiêm cả hai âm điệu thấp trầm và cao vút. Hai người bọn Trác Mộc Cường Ba giờ mới luống cuống chân tay, kẻ địch không biết nấp ở đâu ném lao, bắn tên, thổi phi tiêu xuống, làm gã và lạt ma Á La ôm đầu chạy như chuột giữa các khu phố trong thành. Có điều vậy vẫn còn may, mục tiêu chủ yếu của bộ lạc ăn thịt người kia lại là đám quân du kích, nhưng đồng thời cũng không ngừng tiến lại gần chỗ hai người.
Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La khó khăn lắm mới nấp vào được bên trong một bức tường, nơi đây vối là một căn sảnh lớn, nhưng trần nhà đã sập, chỉ còn lại bốn bức tường có cửa sổ hình oval. Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La nấp vào sau một cánh cửa, thình lình phía Tây lại vang lên tiếng súng, thành phố hoang phế không một bóng người giờ đã loạn lên như cào cào. Hai người cẩn thận lắng nghe tiếng động, trong thành dường như có bốn thế lực đang giao chiến : quân du kích đã chốt giữ đoạn lưng chừng kim tự tháp, đám chiến binh bộ lạc ăn thịt người đang giằng co quyết liệt với chúng ; phía Tây hình như có tàn binh của quân du kích đang chiến đấu với một nhóm vũ trang khác. Bọn họ tự định nghĩa mình là nhóm thứ tư, quân du kích và bộ lạc ăn thịt người là nhóm thứ nhất và thứ hai, vậy đám người vũ trang chưa rõ là ai kia coi như là nhóm thứ ba. Giờ nhóm thứ nhất và thứ hai đang chiến đấu rất kịch liệt, nhóm thứ ba dường như bất hoà với cả nhóm thứ nhất và thứ hai, còn bọn họ thì giữ khoảng cách với cả ba nhóm thứ nhất, thứ hai và thứ ba, cả hai người đều không có vũ khí, thế nên lúc này họ là nhóm yếu hơn cả. Còn về nhóm thứ ba, Trác Mộc Cường Ba hy vọng đó là bọn Trương L ập, nhưng gã cũng nghe được tiếng súng này không phải của khẩu súng tối qua Trương L ập và Nhạc Dương cầm. Nếu không phải là Trương L ập, vậy liệu có khả năng nào đó là Ba Tang, hay là nhóm của giáo sư Phương Tân hay không ? Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La phân tích các khả năng có thể xảy ra, cuối cùng quyết định, xông qua khu vực giữa thành phố đang bị bộ lạc ăn thịt người khống chế, tiến lại gần nhóm người thứ ba.
Bọn họ đi qua một con phố hai bên đều là tường đá cao, chui vào một kiến trúc đá không giống như lầu chuông, nhảy qua cửa sổ lầu hai sang một kiến trúc khác cách đó hai mét, nằm rạp xuống tiếp tục tiến lên, rồi lại nhảy lên kiến trúc thứ ba, tiếp tục bò lên cao, cuối cùng cũng bò lên một toà nhà cao khoảng hai mươi mét. Trên nóc kiến trúc này có một trục ngang chìa sang hai bên, toàn bộ đều là đá trắng tinh xảo ghép chặt với nhau, ước tính phải dài tới năm chục mét, giữa trục ngang hôm nào thành một đường rãnh. Đáng lẽ là kéo thẳng sang phía Tây, nhưng ở giữa đã gãy đôi, các loại dây leo treo lơ lửng xung quanh. Lạt ma Á La nói : “Đây đáng lẽ là một đường dẫn nước hoàn chỉnh, kết tinh trí tuệ của người Maya cổ đại đó. Giờ chúng ta nhảy từ bên này sáng đầu bên kia được không”
Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu, lạt ma Á La chạy mấy bước lấy đà, nhẹ nhàng nhún người nhảy lê, thuật lợi đáp sáng đầu bên kia. Trác Mộc Cường Ba cũng nhảy theo, chẳng ngờ thể trọng gã quá lớn, vừa hạ mình xuống, đã nghe  “cách” một tiếng, đá vụn rơi xuống lả tả. Thân hình Trác Mộc Cường Ba trầm xuống bị dây leo treo lơ lửng giữa không trung, gã vội bám chặt vào đám dây đó, lăng người về phía cái bệ bên dưới đường dẫn nước như đu dây.
“Bình !” Dù gã kịp thời dơ hai chân giảm bớt xung lực, nhưng cả người vẫn đập mạnh vào tường, rồi trượt theo mặt tường xuống dưới, mũi bị đụng tím xanh cả lên, lồng ngực như muốn vỡ tung. Lạt ma Á La bám vách đá trượt xuống, hỏi Trác Mộc Cường Ba : “Có sao không ?” Gã lắc đầu đáp : “Vẫn còn chịu được.”
Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu lên nhìn quanh bốn phía, đây là một quảng trường, thoạt nhìn khá giống với đấu trường La Mã cổ đại, khán đài ở xung quanh, ở giữa là một khoảng đất trống lát đá trắng phẳng lì, lúc này bọn họ đang ở hàng đầu tiên của khán đài, có lẽ là khu  “A”. Quảng trường này mặc dù đã bị một số cây bụi thấp chiếm cứ, nhưng cây cối rậm rạp hoàn toàn không thể che khuất được khí thế nơi đây từng có. Một đầu quảng trường cao hơn hẳn so với xung quanh, một sân khấu vuông rộng chừng hai trăm mét vuông, hai bên sân khấu có hai bức tường vây cao chừng mười mét, giữa mỗi bức tường có hai chiếc vòng đá, phía sau sân khấu chính là toà kim tự tháp khổng lồ kia.
Giờ đây, từ góc độ này, họ mới thực sự hiểu được cảm giác đứng dưới chân người khổng lồ. Kim tự tháp vĩ đại màu trắng, đế tháp hình khối, tính sơ sơ cũng phải bằng bốn sân đá bóng, tổng cộng hai mươi bảy tầng, tầng tầng lớp lớp nhỏ dần xếp chồng lên nhau, giống như một chiếc bánh kia sinh nhật lung linh tuyệt mỹ lại vĩ đại dị thường. Mỗi tầng đều có chín mươi mốt bậc thang, độ dốc phải lên tới gần tám mươi độ, kéo thẳng đến đỉnh tháp, cao hơn ba trăm mét, còn cao hơn gấp đôi kim tự tháp cao nhấ thể giới hiện nay. Hai bên trái phải mỗi bên có một kim tự tháo nhỏ hơn, một cái cao hai mươi tư tầng, một cái cao mười tám tầng. Giữa quảng trường và kim tự tháp là một nhóm kiến trúc hẹp dài, ở giữa có mười mấy bia đá cao hơn mười mét, kiến trúc hai bên cũng rất giống điện thờ. Đặc biệt là ngôi đền đầu tiên bên trái, trước cửa dựng một bức tượng nửa người nửa hổ, chỉ riêng phần đầu đã cao hơn hai mét, nó đang ngoác cái miệng ra to tướng, răng nanh chìa ra ngoài, đôi ta xoè rộng như hai cái vòng tròn.
Lạt ma Á La đỡ Trác Mộc Cường Ba bước thêm mấy bước, họ xuống khỏi lễ đài, đi tới bục sân khấu phía trước quảng trường kia, chỉ thấy ngay phía trước sân khấu còn một bức tượng, là tượng một người nằm ngang trên bệ đá, phần bụng bị khoét vào một lỗ to như cái bát. Không hiểu tại sao nhìn thấy bức tượng này Trác Mộc Cường Ba lại nghĩ đến chiếc đỉnh trước mặt đại tế sư dùng để đựng tim người trong buổi tế lễ sát sinh của đám thổ dân ăn thịt người hôm trước. Lạt ma Á La nhìn hai cái vòng đá, điềm đạm nói : “Đây là một sân bóng, khu vực tương đối lớn phía sau chắc là đấu trường. Cậu nhìn xung quanh kìa, bốn bức tường xung quanh đều khắc hình báo châu Mỹ, đều sống động như thật cả.”
Trác Mộc Cường Ba phóng mắt nhìn ra, trên tường đá quả nhiên khắc một số hình tượng báo châu Mỹ đang chồm 2 chi trước, hoặc đang nhảy bổ lên, ở giữa còn xen cách những bức phù điêu hình người. Gã hỏi :  “Sân bóng ? Người Maya cổ đại cũng chơi đá bóng à ?”
Lạt ma Á La tiếp tục tiến về phía trước, nói : “Ừm, không sai, nhưng không phải loại bóng đá mà ngày nay chúng ta vẫn thấy. Đó là một loại bóng làm bằng cao su sống, lúc thi đấu hai đội mỗi bên có bảy người, chỉ có thể dùng mông, đầu gối, vai và khuỷu tay chạm bóng, bên nào đưa bóng vào vòng đá của đối phương trước thì thắng.”
Trác Mộc Cường Ba đi sát phía sau ông, nhìn những chiếc vòng đá cao hơn mưới mét kia, nói : “Vậy chẳng phải rất khó hay sao ?”
Lạt ma Á La gật đầu : “Đúng thế, vì vậy nhiều khi hết trận đấu rồi mà song phương vẫn chưa thể đưa bóng vào vòng, lúc đó sẽ dựa theo số lần phạm quy của hai bên để quyết định thắng thua. Thi đấu bóng cũng là một loại tế lễ, bên thắng sẽ được dâng bóng lên cho thiên thần, cậu xem kìa bên trái có hình hoạ miêu tả đó.”
Quả nhiên, trên bức tường đá phía trái có khắc hình một người đàn ông uy nghi, ăn mặc hoa lệ đầu đội mũ miện, tay cầm một cây quyền trượng rắn hai đầu, cử hành nghi thức tế lễ. Trước mặt y, một đại biểu của đội chiến thắng quỳ một chân dâng quả bóng lên, thành viên của đội vòn lại cung kính đứng thành một hàng, đầu lêu của một thành viên trong đội đã bị chém rơi xuống đất, nhưng người khắc hình không hề khắc cảnh máu tươi phọt ra, mà là bảy con rắn đang ngọ nguậy chen ra khỏi chỗ đầu lâu bị chặt kia. Nét mặt của mỗi người trên hình khắc đều sinh động vô cùng, khiến người ra nhìn một lần là không thể nào quên.
Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm  nói : “Kiểu thi đấu đáng sợ thật.”  Bọn họ lại đi tiếp, tiếng súng thưa hơn rất nhiều, hơn nữa, Trác Mộc Cường Ba nhận ra, nhóm thứ ba từ đầu đến giờ chỉ có tiếng của một loại súng duy nhất. Lẽ nào nhóm ba chỉ có một người ? Người đó là ai được nhỉ ?
Họ đi qua ma trận vuông tổ hợp từ các bia đá, bên trên các bia khắc hình quốc vương, chiến sĩ, các tượng thần và động vật tượng trưng cho sự dũng mãnh. Điều làm người ta khó tin nhất là, trên một trong những tấm bia, rõ ràng là khắc hình rùa biển, chỗ này ở sâu trong lục địa cả ngàn cây số, sao lại có rùa biển xuất hiện được ?Chỉ có thể cho  là những người lưu lãng này đến từ một nơi gần biển, tổ tiên của họ nhớ đến sinh vật ở quê hương mà thôi. Càng đến gần nhóm ba, tâm trạng Trác Mộc Cường Ba lại càng căng thẳng, nếu nhóm ba không phải là người quen của bọn họ, vậy thì tính sao đây ?
Đi tới bên cạnh bức phù điêu hình báo châu Mỹ khổng lồ, lạt ma Á La và Trác Mộc Cường Ba dừng bước đứng lại. lạt ma Á La cất tiếng : “Phát tín hiệu đi.” Trong quá trình huấn luyện, họ đã học được một bộ phương pháp truyền tin bằng tín hiệu đặc biệt, tương tự như tiếng gào của dã thú, thoạt nghe hoàn toàn chẳng có quy luật gì, song thực ra lại ham chức nhiều loại tín hiệu trao đổi với nhau. Trác Mộc Cường Ba chum miệng lại, âm thanh thấp trầm phát ra từ cổ họng, tự như một con tinh tinh đang  “khẹc, khẹc…khẹc khẹc…”  Rất nhanh sau đó, phía sau một toà kiến trúc trác lập tức phát ra tiếng khịt mũi, Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La đều mừng rỡ thốt lên : “Là giáo sư ! Giáo sư Phương Tân !”
Hai người liền rảo chân chạy ào tới, chỉ thấy giáo sư Phương Tân cũng đang mừng rỡ khôn xiết, tay cầm một khẩu súng lục tự động, bảo vệ hai cái bao lớn, bên cạnh ông, là một cái hố sâu không thấy đáy. Giáo sư Phương Tân khích động thốt lên :  “May quá, cuối cùng cũng gặp lại các bạn rồi !”
Trác Mộc Cường Ba cũng vô cùng khích động, không ngừng hỏi han : “Sao thầy lại ở đây ? Các thành viên khác trong nhóm thầy đâu ? Mẫn Mẫn không ở cùng với mọi người à ? Mẫn Mẫn đâu ?”



Nụ cười tắt trên môi giáo sư Phương Tân, nghoảnh mặt nhìn xuống cái hố lớn bên cạnh, áy náy đáp :  “Mẫn Mẫn cô ấy…rơi xuống đó rồi !”
“ Hả !” Quả tim Trác Mộc Cường Ba tức khắc từ chân mây rơi tõm xuống địa ngục. Cái hố này sâu thẳm đen ngòm, chỉ thấy mộ mặt phẳng nghiêng xuống dưới, căn bản không thấy đáy đâu, rơi xuống đó, rơi xuống đó làm sao mà lên được ?  “Sao lại như vậy ? Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì ?” Gã lớn tiếng chất vấn.

Giáo sư Phương Tân đáp :  “Đêm qua chúng tôi tới đây, nghỉ ngơi một đêm, sáng sớm nay lúc chuẩn bị rời khỏi thì Mẫn Mẫn đột nhiên nghe thấy tiếng cậu, cô ấy còn gào thét gọi tên cậu nữa, sau đó chạy về phía này. Lúc đó trời còn chưa sáng hẳn, không ngờ dưới đất lại có cái hố sâu thế này, tôi vốn đã chộp được cô ấy rồi, ài, kết quả là chỉ chộp được cái ba lô.” 

Trác Mộc Cường Ba như bị sét đánh, đầu óc ong ong, cứ hỏi đi hỏi lại : “Sao thế ? Sao lại thế… “ Cái hố đó nhìn rõ rành rành như vậy, sao lại bất cẩn mà rơi xuống đó được chứ, nếu người nói chuyện này không phải là giáo sư Phương Tân mà gã tôn kính nhất, chắc là gã đã cho rằng Đường Mẫn đã bị đẩy xuống đó rồi.

Lạt ma Á La thấy cái hố này nghiêng về phía Đông Bắc, tạo thành một đường chéo so với kim tự tháp, cách kim tự tháp chừng hai trăm bước chân, ông liếc mắt nhìn giao sư Phương Tân, nét măt toát lên vẻ bi ai : “Đây là…giếng Thánh ?”
Giáo sư Phương Tân ai oán gật đầu. Nhìn nét mặt hai người Trác Mộc Cường Ba có thể đoán ra, người nào rơi xuống cái hố gọi là giếng Thánh này, cơ hội sống sót là vô cùng nhỏ bé. Trác Mộc Cường Ba nhắm lấy hai vai lạt ma Á La, hỏi : “Giếng Thánh ? Giếng Thánh? Là cái gì ? Đây là cái gì hả ?”

Lạt ma Á La đau xót nói : “Giếng Thánh là giếng người Maya cổ đại dùng để tế lễ, mỗi khi xảy ra thiên tai địch họa, người dân sẽ xếp hàng dài trước giếng, dâng lên đủ loại tế phẩm phong phú, trong đó có thiếu nữ còn đang sống và các tù binh chiến tranh. Giếng này rất sâu, tương truyền bên dưới còn có rắn và thuỷ quái, tóm lại là ai rơi xuống dưới…thì rất khó…cũng có thể nói là…không có hy vọng nữa !”  lạt ma Á La chỉ tay về phía Đông, “Thông thường thì hai bên kim tự tháp có hai miệng giếng Thánh đối xứng nhau, khoảng cách giữa chúng và kim tự tháp dường như được tính toán dựa trên tri thức thiên văn thì phải.”

Trác Mộc Cường Ba nào còn nghe lọt tai những chuyện này, gã gào lên như người điên : “Không thể nào !Tuyệt đối không thế !”  Gã đã nhớ ra, lúc Đường Mẫn gào gọi tên gã có lẽ chính là lúc gã nhảy xuống nước, từ đó tới giờ cũng đã gần nửa tiếng đồng hồ rồi, Mẫn Mẫn một mình dưới đó chắc sẽ khóc thương tâm lắm lắm ! Gã gí mặt vào miệng hố lắng nghe, rồi đột nhiên xách một cái túi ném vào trong, chỉ nghe tiếng trượt  “soạt soạt soạt”  rồi  “bịch”  một tiếng, tựa như rơi xuống bậc cấp, tiếp đó lại là tiếng trượt “soạt soạt soạt”, rồi lại “bịch”, tiếp theo lại là tiếng trượt. Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu lên nói với giáo sư Phương Tân : “Cái dốc này hình chữ chi, người rơi xuống đó không chết đâu !”

Giáo sư Phương Tân vừa nghe thấy câu này, đã đoán ra Trác Mộc Cường Ba định làm gì, ông vội vàng lên tiếng cản ngăn : “Không được, Cường Ba à…” Trác Mộc Cường Ba đã nhảy vù xuống dưới, sau đó giáo sư Phương Tân ở phía sau mới nói hết câu, “Bên dưới có không khí hay không còn chưa rõ…”
Nguổn: TTđTD

Không có nhận xét nào: