Ảnh minh họa: mẹ cho con bú |
I. DẪN NHẬP
Câu hỏi “Con người sinh ra từ đâu?” [1]…
Thật sự thì cũng định trả lời kiểu “cộc lốc” ngay lúc con nhắn thư hỏi rồi, nhưng thiết nghĩ, nên trích dẫn bài kinh liên quan đến vấn đề này cho nó khoa học hoá vấn đề chút. Dù sao thì con người thời nay vẫn thích “trích chương tầm cú” và “mê tín khoa học” hơn! Mà lạ lùng thay, chính đức Phật lại là người đầu tiên trả lời thực tế và giản dị một cách lạ thường mà thời nay có thể cho rằng nói kiểu đó là thô tục, không lịch sự.
Nhưng có lẽ nhờ dùng từ miêu tả không bóng bẩy như vậy mà trúng tim đen người nghe. Thầy tạm dịch theo lối văn cộc lốc để lấy nghĩa cho con thấy: “Này Vāseṭṭha, rõ ràng rằng, những bà mẹ của họ đến tháng có kinh nguyệt, mang bầu, sinh đẻ, rồi cho con bú mớm. Họ toàn sinh ra từ bộ phận sinh dục của những bà mẹ ấy cả. Vậy mà họ mở miệng ra là ca tụng giai cấp Bà-la-môn là cao thượng, thanh tịnh, da trắng, là con cái, là thái tử sinh ra từ miệng của Thượng đế (Phạm thiên), Thượng đế tạo ra, là nối dõi của Thượng đế, còn giai cấp khác là hạ liệt…” [2]
Nhưng có lẽ nhờ dùng từ miêu tả không bóng bẩy như vậy mà trúng tim đen người nghe. Thầy tạm dịch theo lối văn cộc lốc để lấy nghĩa cho con thấy: “Này Vāseṭṭha, rõ ràng rằng, những bà mẹ của họ đến tháng có kinh nguyệt, mang bầu, sinh đẻ, rồi cho con bú mớm. Họ toàn sinh ra từ bộ phận sinh dục của những bà mẹ ấy cả. Vậy mà họ mở miệng ra là ca tụng giai cấp Bà-la-môn là cao thượng, thanh tịnh, da trắng, là con cái, là thái tử sinh ra từ miệng của Thượng đế (Phạm thiên), Thượng đế tạo ra, là nối dõi của Thượng đế, còn giai cấp khác là hạ liệt…” [2]
Qua nhiều bài kinh trong Tam tạng kinh điển thì mới thấy cái tài kể chuyện lịch sử, cổ tích của đức Phật thật là thú vị. Không phải chỉ tìm thấy phương pháp kể chuyện này trong các câu chuyện Bổn sanh (Jātaka) đâu, mà ngay trong những bài kinh dài đặt tên là Trường Bộ Kinh (Dīghanikāya) cũng có, nhất là bài kinh Khởi thế nhân bổn – Aggaññasutta[3].
Trong bài Kinh này thì đức Phật phân tích nguồn gốc của các giai cấp trong xã hội thời xưa là chính, theo đó, ngài diễn giải nguồn gốc sự hình thành trái đất, những con người đầu tiên, những hoạt động, quan hệ con người, tiến đến sự sắp xếp hệ thống quản lý xã hội, hình thành nhà nước… Thông qua đó mình thấy được “sự tiến hoá của con người”. Mà không biết là nên dùng từ “tiến hoá” hay “thoái hoá” nữa đây! Vì chiếu theo bài Kinh thì quả đất trong giai đoạn hình thành và tiến hoá vật chất thật; còn mặt tinh thần là con người và xã hội lại đi ngược chiều, những thói hư tật xấu xuất hiện, khả năng đặc biệt của con người mất dần một cách rõ rệt.
II. QUAN NIỆM CỦA CÁC TÔN GIÁO
Trở về tuổi thơ một chút. Từ hồi học cấp hai, Thầy nghe từ cô giáo dạy Văn học rằng con người sinh ra từ truyền thuyết Adam và Eva. Nội dung câu chuyện này hầu như ai cũng từng nghe. Tóm lược là Chúa trời tạo ra người nam là Adam, xong tạo thêm người nữ là Eva ở cùng với Adam cho đỡ buồn, rồi một con rắn dụ dỗ hai người ăn trái Cấm (trái từ cây tên ‘cây Nhận thức tốt xấu’). Cả hai sau khi ăn vào thì nhìn thấy sự trần truồng của mình, rồi sinh ái dục và trốn ra khỏi vườn Địa Đàng sống với nhau, sinh 3 đứa con [4] (thật ra hồi đó cô giáo kể là ăn vào mắc cổ nên người nam mới có trái cấm trượt lên xuống trong cổ mình). Vâng, đó là nguồn gốc của con người được truyền tai nhau từ nhỏ. Các phiên bản trong kinh sách của Hồi giáo, Kitô giáo, hay truyền thống Do Thái cũng tương tự…
Figure 2: Adam, Eva, và con rắn cái ở cổng vào Nhà thờ Đức Bà Paris tại Paris
Rồi sau này mò mẫm đọc thêm thuyết vũ trụ của Thiên Chúa giáo qua Sách Sáng Thế hay Sáng Thế Ký hay Khởi Nguyên trong Kinh Cựu Ước (Old Testament). Có lẽ với người theo đạo, sùng tín cao độ thì họ vẫn tin như vậy, một số giới trẻ và trí thức sau này chắc họ phải chấp nhận rằng “thuyết vũ trụ trong Cựu Ước” thật ấu trĩ! Không phải nói quá, chứ với khoa học biện chứng hiện đại thì không thể chấp nhận rằng thế giới vũ trụ và muôn loài hình thành trong 6 ngày, bởi bàn tay của một người được! Cứ như trò chơi “bán hàng, nặn đất” của trẻ con hồi nhỏ ấy. Lượt trích trong Kinh Thánh:
“Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùmvực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước.
Ngày thứ nhất: Thiên Chúa tạo ra ánh sáng, phân rẽ ánh sáng và bóng tối, gọi ánh sáng là "ngày", bóng tối là "đêm".
Ngày thứ hai: Thiên Chúa tạo ra bầu trời, tạo ra mặt đất, tạo ra nước biển.
Ngày thứ ba: Thiên Chúa tạo ra cây cối thảo mộc.
Ngày thứ tư: Thiên Chúa tạo ra ngôi sao, tạo ra ngày và đêm.
Ngày thứ năm: Thiên Chúa tạo ra sinh vật dưới nước, trên cạn, gia súc, dã thú.
Ngày thứ sáu: Thiên Chúa tạo ra con người theo hình ảnh Thiên Chúa, giống như chúng ta, có nam có nữ. Và ban phúc lành cho họ: Hãy thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và muôn loài vạn vật…
Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp! [5]
Hay nhỉ. Có lẽ con cũng nghĩ vậy! Vì đại đa số các tôn giáo tín ngưỡng trên thế giới – thể loại hữu thần – đều có sự gải thích giống giống nhau như trên. Tức là có một vị thần, một đấng siêu nhiên,toàn năng sáng tạo ra con người và vũ trụ. Ví dụ như Bà-la-môn giáo cho rằng Đấng Phạm Thiên (thượng đế) là người sáng tạo ra. Đạo Ba Tư (Zoroaster) thì nói, có hai đấng sáng tạo là Ohrmazd (thiện thần) và Ahriman (ác thần) tạo ra thế giới vạn vật. Hồi giáo thì cũng tương tự Thiên Chúa giáo, thượng đế hay đấng Allah sáng tạo ra vạn vật...
Thật ra, hồi học Cử nhân Phật học, học thêm các môn Triết học Đông - Tây mới nghiệm ra rằng, nguyên nhân khiến các triết gia gán việc tạo tạo ra thế giới vũ trụ này là do đấng siêu nhiên làm, đơn giản là vì: họ không lý giải được!. Bởi họ bị ảnh hưởng tư tưởng Thiên Chúa giáo rất lâu đời. Chuyện gì không giải thích được thì cứ thảy cho Chúa! Nếu con để ý sẽ thấy rằng, rất nhiều các triết gia phương Tây thời thịnh của đế chế La Mã đều mang danh xưng trước tên của mình là “Saint hay St.” – tức là Cha dòng, triết gia…như St. Augustine, St. Thomas, St. Paul,…
Figure 3: Minh hoạ, Charles Darwin và Thuyết Tiến Hoá
Chưa hết. Sau khi quyền lực Thiên Chúa giáo suy giảm, các triết gia phương Tây bắt đầu có lối thoát hơn trong suy nghĩ. Nhưng cũng không ít người phải hy sinh vì sự cố chấp cuồng tín của Thiên Chúa giáo. Điển hình là Galileo[6], đứng trước toà xét xử của Giáo Hoàng và phải chết vì chứng minh thuyết Nhật tâm của ông khi nói rằng Mặt Trời là trung tâm, Trái Đất quay quanh mặt trời chứ không phải như Kinh Thánh nói là “Mặt Trời quay quanh Trái Đất”! Rồi chuyện Trái đất hình vuông, dẹt chứ không phải tròn… Để rồi sao? Để rồi thời nay, Vatican phải chấp nhận sai và sửa đổi lời dạy của Chúa trong Kinh Thánh. Giới khoa học vượt ra khỏi lời dạy Kinh Thánh, tiến xa hơn và càng tiến bộ thì các thành quả chứng minh của họ lại phản bác lời dạy của Kinh Thánh. Rõ nhất là “Thuyết tiến hoá” của Charles Darwin [7], một lý thuyết làm chấn động nền tảng khoa học của thế kỉ 19: “loài người có họ hàng với loài vượn”! [8].
Thầy dẫn ví dụ các luồng tư tưởng từ hai nền văn minh lớn của nhân loại: đại diện phương Đông là Ấn Độ, tư tưởng Bà-la-môn; đại diện phương Tây là Châu Âu, Thiên Chúa giáo, các triết gia cổ đại, và triết gia gần đây nhất như trên để con thấy nhân loại cố gắng tìm về cội nguồn của mình bằng những lời giải thích mang đủ màu sắc tôn giáo, mê tín, thiên văn, khoa học, triết học, sinh học… Ai biết được, có thể sau này một ai đó mạnh dạn đứng lên chứng minh con người sinh ra từ một nguồn gốc khác!
III. VŨ TRỤ QUAN PHẬT GIÁO TRONG KINH KHỞI THẾ NHÂN BỔN
Trở lại với Phật giáo. Nếu không học Phật, chắc đến giờ này niềm tin về nguồn gốc loài người của Thầy có lẽ cũng là “Chúa tạo ra”, thuỷ tổ cố sơ của mình là người mang tên nước ngoài “Adam và Eva” cũng nên; hoặc không thì cũng lạc vào “mê tín khoa học” của phương Tây rồi. Con hãy ví mình như một nhà khoa học, nhà xã hội học để xem nội dung bài Kinh Khởi Thế Nhân Bổn, không cần phải đọc với tư cách người Phật tử đâu. Vì tìm hiểu để so sánh với những gì mà con người đang hô vang học thuyết của mình.
Figure 4: Minh hoạ Quan Âm Thiên
Đầu tiên, đức Phật nói lướt qua chu kỳ hình thành và tan rã của vũ trụ, đúng theo luật “Sinh - trụ - hoại - diệt”. Ngài nhấn mạnh vào đoạn “hoại – diệt” của trái đất rằng: vào thời này, trái đất hoại diệt, tan rã, những chúng sanh còn lại tái sanh lên cõi trời Quan Âm Thiên (Ābhassarā – trong cõi trời Sắc giới). Con khoan hỏi tiếp “cõi Quan Âm Thiên” có liên quan gì đến “Bồ Tát Quan Thế Âm” không nhé! Vì chủ đề này hơi bị dài! Cái đáng nói ở đây là cõi này là cõi thứ 6 trong 16 cõi trời Sắc giới, nghĩa là cõi dành cho những người đắc “đệ Nhị thiền” trở lên sinh sống. Như vậy, thời hoại diệt, nơi sắp “tận thế” này đang có chúng sanh thiện lành sinh sống. Còn chúng sanh ác độc không biết đang ở chốn nào! Ngài chỉ tóm lược sơ khai như vậy. Sau khi hoại diệt, trải qua một thời gian dài đằng đẵng, Trái Đất bắt đầu hình thành từ những hạt bụi và nước kết tụ lại. Thời ban sơ, Trái Đất tối om, đen như mực, chìm trong nước.
Figure 5: Minh hoạ hệ mặt trời, mặt trăng và trái đất
Rồi qua một thời gian dài nữa, có chúng sanh từ cõi Quan Âm Thiên thác sanh lại xuống quả đất. Lúc đó, họ vẫn sống bằng hỷ lạc, tự chiếu hào quang, đi lại trên hư không như lúc họ sống trên cõi trời. Trái đất vẫn hình thành dần dần, mùi vị của đất bắt đầu nổi lên trên mặt nước, tụ thành váng, màu trắng như bọt cháo, nước cơm, vị ngọt như mật ong tinh khiết. Thấy lạ, một số chúng sanh (từ Quang Âm Thiên) muốn thử mùi vị. Họ lấy ngón tay chấm và thưởng thức, mùi vị làm họ khởi lòng tham ái, ánh hào quang của họ mờ dần và mất đi. Khi ánh sáng của họ biến mất, mặt trăng mặt trời hiện ra. Khi mặt trăng, mặt trời hiện ra, thì sao và chòm sao hiện ra. Khi sao và chòm sao hiện ra, ngày và đêm hiện ra, khi ngày và đêm hiện ra, thì nửa tháng và tháng hiện ra. Khi nửa tháng và tháng hiện ra, thời tiết và năm hiện ra. Sau một thời gian dài họ dùng váng đất làm thức ăn, thân thể của họ ngày càng trở nên thô xấu, sắc thân càng trở nên sai biệt, trong số họ có kẻ xấu, người đẹp. Thấy vậy, họ sinh tâm ngã mạn, ghanh ghét, chê kẻ khác xấu, khen mình đẹp. Do ngã mạn, váng thức ăn dùng lâu nay biến mất, rồi họ buồn bã và than vãn. Một loại thức ăn khác xuất hiện là nấm đất trắng. Thức ăn thay thế tiếp theo là chùm đất trắng như bè rau muống, tiếp đến là lúa không có vỏ và cám; tiếp nữa là lúa có vỏ, có cám, mọc thành khóm… Mỗi khi chúng sanh khởi tâm bất thiện, tham lam, ngã mạn về thức ăn và sắc thân đang có thì thức ăn cũ mất đi và thay vào loại thức ăn mới chất lượng kém hơn.
Song song với việc miêu tả sự hình thành quả đất, Ngài chỉ cho thấy tiến trình tâm thức và đạo đức chúng sanh dần dần thay đổi theo: Đầu tiên là tâm ngã mạn, khen mình chê người về sắc đẹp, màu da. Ăn lúa mì một thời gian thì giới tính xuất hiện, trai gái nhìn ngắm nhau lâu thì phát sinh ái dục, khi có quan hệ tình dục với nhau thì bị chúng sanh khác khinh miệt chê bai, phải trốn đi nơi khác, phải xây dựng nhà cửa để che đậy việc quan hệ, cuộc sống gia đình xuất hiện. Một số chúng sinh biếng nhác, thu gom lúa mì cất trữ cho nhiều ngày để khỏi đi kiếm mỗi bữa nên họ phân vùng chia ruộng thu hoạch riêng. Rồi bắt đầu có người biếng nhác lấy cắp lúa của người khác. Rồi họ cử ra người xử lý kẻ trộm, xử lý tranh cãi, xử lý nói dối, dùng hình phạt, cảnh cáo, đánh đuổi… và trả thù lao bằng cách chia lúa mì cho người được đề cử đó; thế là giai cấp Vua quan xuất hiện (Khattiya). Xã hội tiếp tục định hình hệ thống, giai cấp, chủng loại và danh tính: Một số ghê sợ trước những thói hư tật xấu trên nên họ lánh vào rừng tu thiền; một số không tu thiền được thì viết lách kinh sách; những người này gọi là giai cấp Ẩn sĩ Bà-la-môn (Brahmaṇa). Phần đông thích thực hiện hành vi tình dục thì sống riêng trong từng nhà và làm ăn buôn bán, số này gọi là Lao động, thương buôn (Vessā). Còn lại số có tâm xấu ác, làm những việc thấp hèn, độc hại gọi là Nô lệ (Suddā).
Sau cùng, đức Phật chỉ rõ về chuẩn mực đạo đức, nhân quyền, sự bình đẳng, không phân biệt chủng tộc, màu da… xác định thước đo qua việc thực hành chánh pháp, thanh lọc thân tâm chứ không phải dựa trên giai cấp hay màu da. Ngài dạy rõ rằng, dù là vua, tu sĩ, người dân hay nô lệ nếu làm ác thì xấu như nhau; nếu làm thiện thì kết quả sẽ được an lạc bằng nhau. Nhưng vì không biết, tham lam, ngã mạn… mà chúng sanh sinh tâm phân biệt, sai khác, làm hại và lấn áp lẫn nhau, nên chuẩn mực đạo đức con người và xã hội suy thoái dần.
IV. PHẦN KẾT
Figure 5: Thuyết Big-bang hình thành vũ trụ
Xuyên qua nội dung vắn tắt của bài kinh Khởi Thế Nhân Bổn ở trên, chúng ta thấy rằng, việc mô tả sự huỷ diệt và hình thành Trái Đất hay Vũ trụ trong Phật giáo chẳng phải do một vị thần linh thượng đế nào sáng chế ra cả, mà đó là cả một quá trình hình thành lâu dài qua thời gian. Nếu so sánh với thuyết hình thành vũ trụ kiểu Big-bang của khoa học hiện đại thì quả là rất giống, có sự tan rã thành khói bụi, có nước, có sự tích tụ, có bóng tối, có ánh sáng xuất hiện, có sự nhô lên lõm xuống của bề mặt địa cầu, sự hình thành những tế bào thức ăn từ nước… Về mặt hệ thống cuộc sống xã hội, chính trị… đều thể hiện rõ ràng qua diễn biến đạo đức lối sống. Nếu so sánh với Thuyết tiến hoá của Charles Darwin – tức sự sống là tiến trình chọn lọc – thì nguồn gốc con người trong bài kinh này cũng rất phù hợp: họ thích hợp dần với các loại thức ăn để sinh tồn và biến đổi. “Con người có họ hàng với loài vượn” của Darwin không có nghĩa là con người bắt nguồn từ vượn và ngược lại. Chúng sinh trưởng và phát triển theo chọn lọc tự nhiên của nó.
Còn nếu so sánh thế giới quan Phật giáo về nguồn gốc loài người với các tôn giáo khác trên thế giới thì quả là khác biệt, vì khác nhau một trời một vực như đã thấy từ các ví dụ ở trên. Một số lời dạy của các giáo chủ tôn giáo phải sửa lại theo khoa học, riêng lời dạy của Phật giáo thì khoa học vẫn phải mò mẫm theo để nghiên cứu tìm tòi và chứng minh. Càng tìm tòi nghiên cứu lại càng chứng minh tính chính xác về lời dạy của đức Phật hơn hai ngàn năm trước. Đúng như lời khẳng định của nhà Bác học lỗi lạc Albert Einstein rằng: “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được cácđiều kiện đó.” [9] Ấy mới thấy lời dạy của Phật thật giản dị mà chân lý lại rất siêu việt!
Phật giáo là tôn giáo thể loại “vô thần”, nếu so sánh số lượng với thể loại tôn giáo “hữu thần” thì Phật giáo thuộc loại “sinh vật quý hiếm, cần bảo vệ” nếu không nói là “thiểu số”. Nói vậy để con thấy rằng hiếm có tôn giáo nào đề cao năng lực tự thân, vượt ra khỏi quyền năng thượng đế. Hiếm có giáo chủ nào thấy biết thâm sâu, chân thực đến mức thiên văn, khoa học hiện đại vẫn chưa với tới. Hiếm có một nhà giáo dục, nhà xã hội học nào chỉ ra một cách rõ ràng về hệ thống đạo đức xã hội con người từ khởi thuỷ đến hiện tại một cách hợp lý như Ngài.
Ngài có thể trả lời một cách thực tế, giản dị như đầu bài viết rằng con người sinh ra từ bộ phận sinh dục của người mẹ. Và Ngài cũng có thể chứng minh nguồn gốc con người theo kiểu vừa siêu nhiên vừa vô thần; kiểu vừa kinh nghiệm vượt ngoài khả năng suy nghĩ vừa ví dụ thực tế đời sống mà không cần một ống kính thiên văn hay một dụng cụ khảo cổ nào! Nhưng vì Ngài là bậc thầy của các học thuyết nên tất cả mọi vấn đề Ngài đều thâu tóm về một mối để người nghe chứng nghiệm cái chân lý thực tại, buông bỏ những suy nghĩ viển vong, ngã mạn, tham ái như cái “nhất thể” của Einstein là nhìn vũ trụ để hiểu mình, đầy đủ ý nghĩa. Khi ấy, con người có nguồn gốc từ đâu, trong hay ngoài hành tinh không quan trọng nữa, quan trọng là giây phút hiện tại, tâm tư suy nghĩ và hành động của chúng ta tác động đến thế giới bên ngoài như thế nào, chúng ta sẽ đối diện, cảm nhận phản ứng trở lại từ tự nhiên như thế ấy.
Tạm thời hiểu vấn đề như vậy đã nhé con.[10]
Chúc con an vui.
Thầy, Minh Kiến – Dhammaghosa
[1] Đây là thể loại bài viết thuộc thư từ trong tuyển tập “Để gió cuốn đi” của tác giả.
[2] Aggaññasutta, Pāṭikavagga, Dīghanikāya.
“Dissanti kho pana vāseṭṭhā, brāhmaṇānaṃ brāhmaṇiyo utuniyopi gabbhiniyopi vijāyamānapi jāyamānāpi. Te ca brāhmaṇā yonijāva samānā evamāhaṃsu: brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo hīnā aññe vaṇṇā brāhmaṇova sukko vaṇṇo, kaṇhā aññe vaṇṇā. Brāhmaṇāva sujjhanti no abrāhmaṇā brāhmaṇāva brahmuno puttā orasā mukhato jātā brahmajā brahmanimmitā brahmadāyādāti…”
[3] Kinh Khởi Thế Nhân Bổn, Phẩm Pāṭikavagga, Trường Bộ Kinh.
[4] Sách Sáng Thế (một trong Ngũ thư của Moses), chương II-III-IV-V.
[5] Trích Chúa tạo ra Trái Đất và con người, Sách Sáng Thế, chương I.
[6] Galileo Galilei (1564-1642), Nhà Bác học, Nhà Thiên văn người Ý.
[7] Charles Robert Darwin (1809-1882),Nhà Khoa học lãnh vực tự nhiên người Anh.
[8] Trong cuốn sách "Nguồn gốc muôn loài" (The Origin of Species), Darwin đã đưa ra một quan điểm có tính chất cách mạng, nói rằng tất cả các loài sinh vật, từ con kiến cho đến con voi, đều nằm trong vòng chọn lọc của tự nhiên. Những con vật thích nghi với tự nhiên sẽ tồn tại; những con không thích nghi sẽ bị diệt vong. Nhà thờ và công chúng đã bị sốc nặng qua cuốn sách trên.
[9] Albert Einstein (1879-1955) nhà Bác học, Vật lý học người Đức, mất ở Mỹ. Ông nổi tiếng với nhiều chủ thuyết về Vật lý như Thuyết bảo toàn năng lượng, Thuyết tương đối, Hằng số vũ trụ…và thành tích giải Nobel vật lý của ông năm 1921.
Trích dịch lời của ông từ tiếng Anh: The religion of the future will be a cosmic religion. It would transcend a person God and avoid dogmas and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sence, arising from the experience of all things, natural and spiritual, as a meaningful unity. Buddhism answers this description.
[10] Bài viết xin phép sử dụng một số tư liệu ảnh trên mạng internet.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét