Bài viết này sẽ tóm lược con đường Giải thoát thật sự của Phật Gotama và những con đường tu tắt của chư vị Tổ-sư các phái Tân tiến: Tiểu thừa, Trung thừa và Đại thừa. Bài này do cư sĩ Trùng Quang bỏ thời gian rất nhiều, viết ra nhằm giúp các bạn theo Đạo Phật có sự lựa chọn con đường tu hành đúng đắn trước hàng vạn Kinh Sách viết về Đạo Phật nhưng không phải Kinh Sách nào cũng có ích lợi, nhất là Kinh Sách Đại Thừa là rất nguy hiểm, không nên lạc vào mê cung hoang tưởng của các nhà Đại Thừa.
LỜI NÓI ĐẦU
Giáo lý của Phật Gotama đã được kết tập nhiều lần và ghi chép trong Ba tạng Pháp bảo Pàli, tuy có số nhất định, không thay đổi thêm bớt (Kinh: Năm bộ, Luật: Năm bộ, Vi Diệu Pháp: Bảy bộ), nhưng trọn đời người, ít ai học được đầy đủ.
Mặc dầu như thế, ở Miến Điện, còn nhiều vị Tỳ khưu thuộc nằm lòng trọn bộ Tam tạng, có thể đọc suốt một mạch từ đầu chí cuối và cũng có nhiều cư sĩ thuộc lòng riêng từ bộ một.
Trước ngày Kết tập Tam tạng lần thứ sáu, đương khai diễn tại Rangoon, những cư sĩ nào muốn vào giúp việc thi công cho Hội nghị Kết tập phải đăng tên chịu khảo thí. Ai thông hiểu Tam tạng, giỏi chữ mẹ đẻ và chữ Pàli mới được chấm đậu.
Tam tạng Sanskrit (Ấn Độ), Tàu và Nhật gồm cả thảy lối 2.184 cuốn. Không tài nào tìm cho đủ số và khảo cứu cho chu đáo.
Trong các xứ Phật giáo thuộc khối Nguyên thủy, như Cao Miên, Ai Lao, Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan mỗi chùa phải có ít nhất một bộ Tam tạng. Tại Cổ Viện tàng Bangkok, ai muốn khảo cứu Tam tạng nào cũng sẵn có: Pàli, Sanskrit, Anh, Tàu, Nhật.
Mỗi nhà sư Miên, Lào, Thái, Miến, Tích phải biết rành chữ mẹ, chữ Pàli hoặc Sanskrit, nhờ vậy mà trong các Hội nghị quốc tế, người ta tham gia đắc lực.
Toàn xứ Việt Nam không có quá 5 bộ Tam tạng chữ Tàu. Có lẽ đốt đuốc kiếm không ra một nhà Sư nào đã có đọc sơ qua một trong Ba tạng. Đủ biết trình độ của người tu Phật xứ ta đến bực nào. Chúng ta chưa đủ khả năng bàn về Phật giáo.
Sở dĩ hai quyển Chọn đường tu Phật ra đời, chỉ tóm lược một cách dốt nát, một vài yếu điểm, mà người học Phật cần phải biết trước, để dọn đường tìm chơn lý, cho khỏi mất thì giờ.
Quyển thứ nhất đã nói về đại cương của sử tích Phật Gotama. Lịch sử Phật giáo và giáo lý hai Thừa.
Quyển này sẽ tóm lược cái Án đồ Đại lộ Gải thoát của Phật Gotama và những con đường tu tắt của chư vị Tổ-sư các phái Tân tiến: Tiểu thừa, Trung thừa và Đại thừa.
Lẽ tất nhiên, với sức học thô sơ, tác giả phải có khuyết điểm, sai lầm, mong chư huynh đệ khoan hồng tha thứ.
Ngày kỷ niệm Phật Gotama nhập Niết bàn thứ 2499
TRÙNG – QUANG Cư sĩ
A.- Đạo Giải Thoát Của Phật Tổ Gotama
Muốn đi theo con đường hành trình của Phật Tổ Gotama, phải tu Giới, tu Định, tu Tuệ. Bỏ Giới, hành thiền không thể đắc Định được. Bỏ Định không còn phương pháp nào tu Tuệ được. Giới nâng đỡ Định, Định làm cho phát sanh Tuệ. Đường này là đường duy nhứt đi đến đạo quả Niết bàn. Tiệm cũng nó mà Đốn cũng nó, tùy căn cơ và hùng lực giải thoát của hành giả.
Đúng ra trong thế gian không có ông Giáo chủ nào dạy cái đạo Đốn giáo. Bồ tát Siddhatta còn phải tu trọn 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn kiếp mới thành bực Chánh Đẳng Chánh Giác. Sở dĩ có người đắc đạo quả Niết bàn, sau khi nghe lời giảng giải của Phật Gotama, là vì trong vô lượng tiền kiếp người ấy đã có tu Giới Định Tuệ rồi, cũng như gà ấp đúng kỳ được khảy mỏ chui ra. Duyên chưa đầy, quả chưa đủ, không ai tài nào liễu đạo siêu sanh, trong khi xem kinh nghe pháp. Nếu thật có Đốn giáo thì các phái Tân tiến không bị suy vong như hiện giờ ở Trung Hoa và Nhật Bổn.
Người muốn tu Giới Định Tuệ theo Phật Tổ Gotama, trước nhứt phải tẩy trừ, gội rửa những thành kiến và tập quán, phải hoàn toàn là người có tinh thần tinh hảo trắng trong, không còn vướng một ảnh hưởng nào của đạo giáo hoặc tôn phái khác, tại gia cũng như xuất gia. Một người không thể đi một lượt trên hai ba con đường, cũng như không thể thực hành một lượt hai ba giáo pháp khác nhau và cũng không thể nhồi cục đôi ba tôn chỉ, làm ra một đạo giáo chung. Điều kiện này rất cần thiết cho hành giả theo dõi một con đường duy nhứt, khỏi bị xu hướng cũ trói buộc, che án làm cho tâm hoài nghi, do dự, mất chí cương quyết, thì mọi việc phải hư hỏng.
Bởi thế nên thọ Tam quy, ngoài sự cầu xin phó thác tánh mạng cho Phật, Pháp, Tăng – có nghĩa là từ đây tới giờ phút cuối cùng, nguyện không xu hướng theo một tín ngưỡng nào khác. Đức Phật có định người thuộc đạo giáo khác tập sự bốn tháng, trước khi được thâu nhận cho xuất gia, để người ấy có thì giờ khảo cứu, dò xét và cân phân chu đáo, hầu so sánh Phật giáo với đạo giáo của mình, rồi tự do định đoạt, không ai ép buộc.
Nếu nhận định rằng đạo giáo của mình không thể sánh kịp giáo pháp của Phật Gotama, mà còn thương tiếc đường lối cũ, hoặc muốn lợi dụng cái mới chế biến cái cũ, người như thế ấy – đã gặp cái hay mà không can đảm rứt bỏ được cái dở,– không phải là bực trí tuệ; dầu có vào làm cận sự nam hay nữ hoặc xuất gia đầu Phật, cũng không nên trò: người không chơn chánh, khó gặp đạo chánh.
***
TU GIỚI (Sila). – Người tại gia phải nghiêm trì Ngũ giới hoặc Bát quan trai. Nếu hành đạo có kết quả hoặc muốn dọn đường xuất gia, có thể tự ý nguyện thọ Thập giới.
Bực xuất gia như Sa-di phải thọ Thập giới; Tỳ khưu phải thọ Cụ Túc giới (227 điều luật).
Giới nào cũng có năng lực đem lại kết quả tốt đẹp cho Định. Nếu giới thọ trì được tinh nghiêm, tại gia cũng như xuất gia, có thể đắc đạo quả Tứ Thánh, từ Tu-đà-hườn đến A-la-hán, như nhau. Nhưng về thực tế, cư sĩ khó bì với bực xuất gia, bởi các ngài hết bận việc đời. Mà nếu các ngài dễ duôi, không tinh tấn công phu hành đạo, lâu ngày giới cũng lem luốc và có khi cũng bán đồ nhi phế. Giới sanh Định, mà Định cũng nâng đỡ Giới. Giới không Định thì Giới cũng khó giữ được trong sạch. Các nhà sư ở chùa không thể sánh kịp những vị Thiền sư ở rừng núi thanh vắng, vì ở chùa náo nhiệt ồn ào, lại thường ngày bị gió trần lung lạc.
Người cư sĩ, còn bận rộn với gia đình thế sự, khó mà gìn giữ Giới cho hoàn toàn chu đáo. Ai chuyên trì được trong sạch, kinh nghiệm đã cho thấy rằng cuộc đời dần dần được thanh thoát yên vui. Nếu có chí giải thoát nên sắp đặt gia đình yên nơi yên chỗ, ký thác việc nhà cho người chăm nom, tìm nơi thanh vắng hành thiền tu tuệ, hoặc xuất gia ẩn dật chuyên lo tu niệm, thì con đường giải thoát ở trước mắt.
Giới có năng lực diệt trừ tham lam ít kỷ, cho nên người thọ Giới phải luôn luôn bố thí để giảm lần bỏn xẻn. Bố thí có nghĩa rộng lớn bao la: Tùy khả năng, tùy hoàn cảnh, tùy phương tiện, dùng của, dùng công, dùng lời đạo đức, để đền ơn, đáp nghĩa, làm lành, xử phải, chẩn cô, tế bần, tóm lại là làm mọi phận sự đối với cha mẹ, thầy tổ, vợ con, thân bằng, quyến thuộc, đồng bào, chủng tộc, muôn loài vạn vật.
TU ĐỊNH (Samâthi).– Định có năng lực diệt trừ sân hận, oán thù. Về pháp môn này xin xem kinh Chánh Định (Samâthi), Thanh Tịnh (Visuddhi), Bát Chánh Đạo (Ariya-magga), v.v... Đây chỉ là nói sơ lược.
Tu Định có 40 phương pháp, ví như 40 vị thuốc để tùy theo căn bịnh, giải độc cho hành giả.
Bốn chục pháp Thiền-Định chia ra 7 phần:
I – 10 pháp Kasina (dùng đất, nước, lửa, gió, hư không, ánh sáng, màu xanh, vàng, đỏ, trắng làm đề mục).
2 – 10 pháp Âsubha là mười thứ tử thi.
3 – 10 pháp Anusati là niệm Phật, Pháp, Tăng, Giới, Bố thí, chư Thiên, sự chết, Thân thể, Hơi thở, Niết bàn.
4 – 4 pháp Brahmavihâra là rải tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả, đến tất cả chúng sanh.
5 – 4 pháp Arupa (Đề vô-sắc: Hư không, Thức, Vô hữu sở, Phi phi tưởng).
6 – 1 pháp Vavatthâna (Tứ-đại trong thân thể).
7 – 1 pháp Sanna (Tưởng vật thực là ô trược).
Trong 40 pháp thiền định nói trên, hành giả phải biết lựa pháp nào hạp với tánh nết của mình, mà hành theo mới có kết quả. Mỗi người có sáu tánh nết, nặng nhẹ, tự mình biết lấy: Có nhiều người ái dục, nhiều sân hận, nhiều si mê, nhiều tính tin, nhiều tính giác, nhiều tính tâm.
Nếu ái dục nhiều, phải lựa pháp đối chọi là: 10 pháp Asubha (10 tử thi) và pháp niệm Thân thể (32 thể trược).
Nếu sân hận nhiều, phải lựa pháp đối chọi là: 4 pháp Brahmavihâra (rải lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả) và 4 đề mục: Vàng, Xanh, Đỏ, Trắng trong pháp Kasina.
Nếu si mê nhiều thì niệm Hơi thở, trong pháp Anusati.
Nếu tính tin nhiều, thì niệm 6 đề mục: Phật, Pháp, Tăng, Giới, Bố thí, chư Thiên trong pháp Anusati.
Nếu tính giác nhiều thì niệm: Sự chết, Niết bàn trong pháp Anusati, và đề mục Tứ đại trong thân thể (Vavatthâna).
Nếu tính tâm nhiều, thì niệm Hơi thở (Anusati).
Còn lại 10 pháp: 6 pháp về Đất, Nước, Lửa, Gió, Hư không, Ánh sáng, trong Kasma và 4 pháp Aruga, đều hạp đủ cả tính nết.
Thiền định là phương pháp cột trói Tâm cho an trụ trong một đề mục, không cho vọng chuyển, phóng túng theo trần cảnh, quyến luyến trong tam giới; Cũng như thuốc để chữa các chứng bệnh trầm kha của Tâm, nhất là năm tùy phiền não, hằng làm cho tâm tối mê, lầm lạc, vui thích trong luân hồi, không nhàm chán trong sanh già đau chết, không thấy rõ Tứ đế, Đạo quả và Niết bàn.
Năm tùy phiền não ấy, gọi là Năm Pháp Cái, cũng gọi là vật thực mê thích của Tâm là:
1 – Kâmacchanda: Tham dục, bao hàm cả tình dục, xan tham, nguyện cầu, ganh tỵ, không hoan hỷ, không tri túc. Các phiền não này, khi phát sanh lên, làm cho Tâm tối mê, không thấy rõ tội phước, không phân biệt phải quấy; Ví như nước bị pha nhiều màu sắc, không thể soi thấy bóng được.
2 – Byapada: Thù oán, Phiền não này làm cho Tâm không vừa lòng, nóng nảy, bực tức, xốn xang, hết biết tội lỗi; Ví như nước sôi, không thể soi thấy bóng được.
3 – Thinamiddha: Giãi đãi, Phiền não này làm cho Tâm dã dượi, biếng nhác, tiều tụy; Ví như nước bị rong rêu che áng, không thể soi thấy bóng được.
4 – Uddhaccakukkucca: Phóng dật, Phiền não này làm cho Tâm vọng móng theo trần cảnh, buông lung theo việc ác, trồi sụt, tới lui, không yên lặng; Ví như nước bị gió thổi thành sóng lưỡi búa, không thể soi thấy bóng được.
5 – Viccikiccha: Hoài nghi, Phiền não này làm cho ngờ vực, không quyết định; Ví như nước nước đục, có nhiều cặn cáo, không thể soi thấy bóng được.
Năm tùy phiền não nói trên cũng gọi là Năm pháp “Che lấp” con đường giải thoát. Chỉ có Thiền định mới thiêu hủy được Năm chướng ngại ấy, bởi nhờ Thiền định mà hành giả rèn luyện được năm phép lành để vượt khỏi những chướng ngại ấy. Năm phép lành ấy gọi là Năm chi thiền:
1 – Vitakka Tầm (Giác chi), là trạng thái Tâm bắt lấy đề mục thiền định, làm cảnh giới. Tâm có năng lực diệt trừ Hoài nghi.
2 – Vicara: Sát (Quán chi), là sự quan sát, suy nghĩ của tâm trong đề-mục. Sát diệt Hôntrầm hay Giãi đãi.
3 – Piti: Phỉ lạc (Phỉ chi), là trạng thái thân tâm no đủ, vui sướng, nhẹ nhàng, mát mẻ trong đề mục. Phỉ diệt Sân hận hay Thù oán.
4 – Sukkha: An tịnh (Tịnh chi), là thân tâm an vui, thơ thới do Phỉ phát sanh. Tịnh diệt Phóng dật hay Phóng tâm.
5 – Ekaggata: Định (Nhứt tâm chi) là Tâm yên lặng trong một cảnh giới của đề-mục. Định diệt Tham dục.
Khi Tâm có đều đủ cả năm chi ấy, gọi là đắc Sơ thiền (Pathamajhâna). Khi Tâm được yên lặng, vững vàng thêm lên nữa, dứt bỏ Tâm và Sát, chỉ còn Phỉ, Tịnh, Định, gọi là đắc Nhị thiền (Dutiyajhana). Khi Tâm càng thêm an tịnh, cực lành, dứt bỏ thêm Phỉ, chỉ còn Tịnh, Định, gọi là đắc Tam thiền (Tatiyajhana). Khi Tâm càng thêm an tịnh sâu xa thêm nữa, vô ký trong cảnh giới, dứt An tịnh biến thành Xả và Định, gọi là đắc Tứ thiền (Cattuthajhana).
Tóm lược vài dòng cả 4 pháp Thiền định, tạm miêu tả, một cách vụng về, con đường hành trình của chư Thinh văn, Duyên giác và Chánh đẳng Chánh giác, mà đức Phật Gotama đã chỉ dạy rành rẽ trong Tam tạng Pháp bảo cho người Phật tử có chí nguyện giải thoát noi theo để tiến lần đến nơi Vô sanh bất diệt.
Trong giới Phật tử, từ bực xuất gia đến hàng cư sĩ, khi học qua môn Thiền định và trong lúc cố gắng tìm hiểu để thực hành, năm chướng ngại trong Tâm thường phát khởi lên che lấp, khiến cho họ ngờ vực, giãi đãi, ngã lòng; bởi Thiền định là pháp trói cột Tâm không cho thao túng, lặn hụp trong ngũ dục, lẽ tất nhiên Tâm phải viện đủ lẽ để thoái thác.
Nguyện vọng của tác giả là khêu gợi để giục lòng những tâm hồn mộ đạo, dứt bỏ tập quán và các sự ỷ lại nơi thần linh, tìm đường theo dõi Phật Gotama, tận cửa chơn lý, mà Ngài đã rộng mở cho chúng ta từ hơn 2.000 năm qua.
TU TUỆ (Panna) - Tuệ có năng lực diệt trừ Si mê. Tu Thiền định được kết quả, tâm vắng lặng, an trụ, cực lành, đè nén được năm tùy phiền não nói trên, như nước lóng cặn bùn dưới đáy lu, có thể soi thấy bóng được. Nhờ lìa khỏi năm pháp che lấp, Tâm trở nên linh hoạt, sáng suốt. Vừa khi xả thiền, hành giả bắt qua tu pháp Vipassana (Minh sát tuệ) cho trí tuệ tăng trưởng thêm lên, nghĩa là dùng Tâm sáng suốt ấy, như cái gương soi đã được lau chùi trắng trong, không còn dính chút bợn nhơ nào, để soi cho thấy lý vô thường, khổ não, vô ngã của danh sắc, lục nhập, lục căn, tứ đại.
Mỗi ngày mỗi rèn luyện như thế ấy, tùy theo năng lực của mỗi bực thiền định, tuệ giác lần lần khai thông, hành giả thấu rõ thật tướng của danh sắc, lục nhập, tứ đại, đoạn tuyệt: thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tình dục, sân hận, sắc dục, vô sắc dục, ngã mạn, phóng dật, vô minh, là 10 loại Sử trói buộc Tâm chúng sanh trong luân hồi. Diệt được 5 loại Sử đầu tiên thì chứng đạo quả, từ Tu-đà-hườn đến A-na-hàm, đoạn tuyệt luôn cả 5 Sử sau chót, thì chứng đạo quả A-la-hán, tức là Niết bàn.
Đó là con đường giải thoát của Phật Gotama đã tự mình tìm kiếm, với bao nhiêu nhẫn nại hy sinh, và nhờ Ngài chỉ dạy phân minh, nên được vô số người đã thành đạo chứng quả. Chư Thinh văn La hán đã kết tập để lại cho hàng Tăng bảo nối tiếp nhau truyền thụ cho hậu thế.
Trên đây cũng chỉ tạm lược phần tu Huệ, để cho các bạn có chí nguyện giải thoát, biết chút quan niệm thô sơ về những chi tiết tế nhị để thực nghiệm Bát chánh đạo, là con đường duy nhất đưa người từ bến mê tân đến bờ giác ngộ.
Sau khi nghiên cứu những giáo lý của đức Thế Tôn trong kinh điển Pàli, các bạn mới có thể so sánh Tiệm giáo Bảo thủ với Đốn giáo Tân tiến.
Tóm lại Giới, Định, Tuệ nào có xa lạ với chúng ta, và chúng ta quá hãnh diện với giả thuyết của các vị Tổ sư Ấn Độ, Tàu, Nhật rồi khinh thường Bát chánh đạo của Phật Tổ Gotama.
Vì thích Đốn giáo, chúng ta bỏ giới, chấp định, là hai nấc thang đầu tiên, cứ lo biện luận triết lý huyền học, để cầu cho mau liễu đạo siêu sanh. Nhiều khi chúng ta đã chạm trán vô bức tường “Bất khả tư nghì” sững vững, choáng váng, nửa say nửa tỉnh, như người nhảy dù, từ mây xanh sa xuống đất. Bi kịch đã diễn ra từ mấy thế hệ, mà chưa thấy ai tỉnh ngộ, vẫn lo đốn hoài. Đốn từ Ấn Độ, Cao Ly,Trung Hoa, Nhật Bổn, cho đến ngày nay rừng thiền trở thành một cánh đồng không mông quạnh, hoang vu, với bao nhiêu tàn tích sụp đổ, vùi lấp dưới đám cỏ gai, mà cũng chưa thấy ngộ những gì hơn là tà kiến dị đoan.
Ấn Độ, Cao Ly, Trung Hoa, Nhật Bổn, cũng như Việt Nam, đương sống những ngày tàn tạ của Phật giáo Tân tiến, mà khi nghe nói đến giáo lý của Phật Tổ Gotama, ai ai cũng trề môi khinh bỉ cho là Tiểu thừa. Còn nói đến Giới, Định, Tuệ thì họ vùng mình rởn ốc, như sợ thú dữ; Là vì đã có người mạo hiểm luyện theo Dù-già, Huyền-diệu-cảnh, Ấn chú, mà không rành cách thức, bị lửa Hỏa dầu thiêu đốt tim phổi, hoặc ma quỷ nhập vào; Thay vì luyện ra thuốc trường sanh bất lão, trở lại mang bịnh ho lao, thổ huyết, loạn óc, khùng điên, vô phương cứu chữa. Trước những kinh nghiệm tai hại như thế, ai lại không ghê sợ.
Xin chư độc giả an lòng, và nên biết rằng nơi đâu có người hành đúng theo đường lối của Phật Gotama chỉ dạy, thì nơi đó vẫn có người ngộ đạo, chứng quả, như lúc Phật còn tại thế. Hiện giờ ai muốn gặp bậc đã vào vòng Thánh vức, cũng có thể gặp được.
Tu đúng theo Bát chánh đạo chắc chắn không bị sai lạc qua Bàng môn tà đạo, không ngây cuồng, không loạn óc, mà càng ngày càng minh mẫn, sáng suốt, càng thấu rõ chơn-lý.
Phật Gotama còn chỉ dạy tỉ mỉ cách phân biệt chánh định với tà thiền. Nhờ đó mà hành giả tránh khỏi nguy hại của tà đạo. Có năm cách phân biệt chánh tà, gọi là ấn chứng của chánh định: Ánh sáng như trời chớp, thân tâm mát mẻ, da nổi ốc, như sóng tạt vào mình, thân tâm nhẹ như được bay bổng lên hư không. Trong lúc công phu, nếu hành giả gặp triệu chứng nào khác hơn năm ấn chứng nói trên, nên biết đó là Ma vương, nên rứt bỏ, hoặc xả thiền, nghỉ ngơi rồi tiếp tục.
Nói cho đúng ra chỉ có người, đã theo đường lối của đức Phật mà còn nuôi nhiều tà vọng, mới gặp Ma vương cám dỗ: bằng nhứt tâm theo Phật thì chẳng bao giờ lạc ra khởi chánh định.
B.– ĐỐN GIÁO CỦA CÁC VỊ TỔ SƯ TÂN TIẾN
Chúng ta bị cảm nhiễm lâu đời theo Phật giáo Tân tiến, nên cứ giữ mực: ăn chay, niệm Phật, (Lục tự Di-Đà), tụng kinh, để chờ đến giờ lâm chung, có Phật đến rước. Như thế cũng vừa sức công phu hành đạo mỗi ngày cho đến trọn đời và có đức tin vững chắc sẽ thành Phật.
Kinh đã chép rằng Phật dạy như thế, và thầy tổ xưa nay cũng vẫn đi theo con đường duy nhứt ấy, thì còn tìm đâu nữa.
Con đường giải thoát này, nếu không phải đốn ngộ chớ cũng hơn tiệm tu, bởi nó đầy hứa hẹn, đối với đức tin, mặc dầu không có bằng cớ xác thực.
Đây là con đường thông dụng, ngoài ra còn có nhiều lối đốn ngộ của các vị Tổ sư Tiểu thừa, Trung thừa và Đại thừa Tân tiến.
Bởi là giáo pháp Đốn ngộ, nên không có phương châm rõ rệt, như đường lối chỉ dẫn của Phật Tổ Gotama. Giáo pháp Đốn ngộ toàn là những luận cứ triết lý, hành giả cứ đọc sách giáo khoa của Tổ sư mình, dùng trí tuệ khám phá những ý tứ ẩn vi trong đó; Ai tìm được những lý nhiệm mầu sâu kín của đạo, người ấy phải là người đã phát tuệ, mới ngộ được mối huyền vi của đạo. Trò nào thông đạt được cơ mầu, thầy mới truyền Tâm ấn cho, để nối nghiệp qua đời sau.
Đạo bí ẩn, nên chỉ dùng thông cảm tương giao, không thể giải thích cho rõ rệt; Có viết ra cũng dùng lối bí ẩn, cho nên khi các ông giáo tổ qua đời, mà không người kế nghiệp, kinh sách để lại, đoàn hậu tấn tùy theo trình độ, nhận định khác nhau, trúng thì nhờ, sai thì chịu. Thật ra không ai hiểu được rốt ráo; Nếu hiểu được thì đã chứng đạo rồi, và nếu có người ngộ đạo, thì sự nghiệp Tổ tổ tương truyền vẫn còn nối tiếp đến ngày nay.
Tuy không ai hiểu được, nhưng người vẫn ưa thích học Đốn giáo, hy vọng có ngày thành Tổ nên Phật. Đốn giáo đòi hỏi một trí tuệ rất cao siêu, mà người trong thời buổi này lại kém phần học lực về Hán văn, nên tuy cố gắng xem kinh học pháp, mà dường như không thông hiểu nghĩa lý xâu xa, nên chưa gặp ai ngộ đạo liễu pháp. Mặc dù ở trong vòng luẩn quẩn, nhưng nhiều người có thiện chí sưu tầm học hỏi. Khi gặp nhau thì cật vấn luận biện, vui thú với đạo mầu. Kẻ thấp thừa dịp học thêm, người cao đắc chí nói nhiều, tối ngày không biết mệt mỏi.
Triết lý có năng lực hấp dẫn, tâm hồn cao hứng trong mộng huyền vi, nhưng rốt cuộc chưa ai nếm được hương vị của đạo quả nào. Cho biết rằng ngoài Giới và Định không có Tuệ, cũng như ngoài Tuệ không có Niết bàn. Bỏ Giới chấp Định, ai nói mình đã đắc Tuệ, người đó phải là người cao siêu hơn Phật. Chúng ta có nên tin rằng các vị Tổ sư Đốn giáo đã hoàn toàn sáng suốt hơn Phật chăng?
Xem qua những giả thuyết triết học sau đây của các vị Tổ sư ba thừa, chư độc giả sẽ có dịp suy xét để chọn lựa đường chánh nẻo tà.
TIỂU THỪA TÂN TIẾN
I – VAIBHASHIKA: Câu Xá tông - Tông này lấy Tạng luận làm nền tảng.
Xin nhắc lại, trong khi kết tập Pháp bảo lần đầu tiên, do Đại đức Kassapa (Ca Diếp) làm chủ tọa, chỉ có Tạng kinh và Tạng luật. Qua đời Hoàng đế Asoka (A Dục), thế kỷ thứ III, trước Giato, phái Bảo thủ Sthaviravada (hay là Theravada) chia Tạng kinh ra hai phần: Kinh (Suttas) và Vi Diệu Pháp (Abhidhamma). Phần Vi Diệu Pháp gồm cả những pháp vi tế cao siêu của đức Phật giảng giải cho Phật Mẫu và chư Thiên nghe, trong hạ thứ 7, về Tâm, Ý, Danh, Sắc và Niết bàn.
Cách hơn 400 năm về sau, thế kỷ thứ II kỷ nguyên này, phải Tiểu thừa Tân tiến Sarvastivada (Tát Bà Đa Sa) dựa theo Tạng Vi Diệu Pháp nói trên, làm ra một Tạng luận riêng biệt bằng chữ Sanskrit.
Qua thế kỷ thứ IV, kỷ nguyên này, ông Vasubandhu (Thế Thân), một nhà triết lý học sanh trưởng tại Peshawer, xứ Gandhara, thuộc miền Tây Bắc Ấn Độ, lập ra phái Vaibhas-hika (Câu-Xá-tông), nối truyền cho phái sarvastivada, viết ra một bộ giáo khoa, làm nền tảng cho đạo của ông, gọi là bộ Abhidharma Koca Castra, tức là bộ A-tì-đạt-ma Câu -xá -luận, có nghĩa là kho chứa huyền học.
Qua thế kỷ thứ VI (563), ông Para nartina (Chơn Đế) truyền bá Câu-Xá-tông qua Trung Hoa và chính ông dịch bộ A-tì-đạt-ma Câu-xá-luận ra chữ Hán. Có lẽ ông dịch không mấy đúng nghĩa lý, nên đến năm 654 thầy Huyền Trang phải dịch lại một lần nữa.
Từ đây Phật giáo không còn là một chủ nghĩa thực nghiệm của hai vấn đề: Khổ và diệt khổ, lại trở thành một trường luận biện rất thạnh hành, nghĩa là không còn đề cập đến: Bố thí, Trì giới, tham thiền, Nhập định nữa.
Câu-Xá-tông chủ trương về Thực thể, tức là thiên qua Duy vật.
Đại cương thuyết giáo này là: không có cái Ta, mà có những thể chất làm ra cái Ta. cái Ta chỉ là sự phối hợp của Năm uẩn. Chính Năm uẩn mới đáng gọi là Thực thể, vì Năm uẩn cấu thành bởi nhiều nguyên tử. Những nguyên tử ấy có thật, trừ ra những vật cấu hợp mới coi là bào ảnh. Linh hồn cũng như xác thân, đều do những nguyên tử phối hợp, một ngày kia sẽ sụp đổ, để nhường chỗ cho vật cấu tạo mới khác. Triết lý này chủ trương phân tích phần phức tạp trong thân, là cái Ta, rồi phân loại những nguyên tố làm ra cái Ta, như sắc, thọ tưởng, hành, thức. Năm nguyên tố này còn bị phân tích ra 18 nguyên tố và 75 đặc thể vi tế nữa; Trong đó có 72 loại của Ngũ uẩn và 3 loại ngoài Ngũ uẩn, như hư không và hai trạng thái Niết bàn.
Đức Phật dạy rằng tâm thức, cũng như vạn vật, đều tiến triển không ngừng nghỉ, Câu-Xá-tông cũng nhìn nhận rằng không có linh hồn bất di bất dịch, nhưng lại tin có nguyên tố, tức là họ mở đường thiên về Duy vật. Họ còn cho rằng đức Phật là một bậc siêu nhơn đã chết mất trong Hư vô, cho nên Niết bàn đối với họ là Hư vô.
Theo Bắc Phạn (Sanskrit) chữ Vaibhashika có nghĩa là Minh thuyết, đủ cho chúng ta biết tâm trạng của họ ra thế nào.
Từ chỗ Có của Nguyên tử, đến chỗ Không của Niết bàn. Ông Vasubandhu (Thế Thân) muốn để cho môn đệ ông tự lực khám phá cho ra Chơn lý. Vì không ai tu chứng, nên sự nghiệp của ông không người kế thừa. Ông buộc lòng phải bỏ giả thuyết của ông, để hiệp tác với anh ông là ông Asanga (Vô Trước) lập ra một giáo phái khác, mà chúng ta sẽ có dịp xem qua.
2– SAUTRANTIKA: Thành Thật tông. -Tông này lập ra trong thế kỷ thứ I, kỷ nguyên này, do ông Kumaralahdha (Cưu-ma-la-đa). Danh từ Sautrântika nghĩa là Sự thật, sự thật phát minh sau khi khảo cứu bộ Abhidhamma (Vi diệu pháp) của Phật giáo Bảo thủ. Có lẽ ông dùng cách khẩu khẩu tương truyền, nên không có kinh sách để lại. Qua thế kỷ thứ IV, học trò của ông tên Harivarman (Ha lỹ bạt ma) viết ra cuốn Satyasiddhi –Castra: Thành Thật Luận, có nghĩa là quyển sách luận về Chơn lý rốt ráo.
Qua thế kỷ thứ V (411) có ông Kumarajiva (Cưu-ma-la-thập) truyền bá Thành Thật tông qua Tàu và dịch quyển Thành Thật Luận ra Hán văn.
Qua thế kỷ thứ VII (625), một nhà sư Nhật Bổn tên Eikwan (Kiết Tạn) qua Trung Quốc khảo cứu quyển ấy đem về xứ được ông Hoàng Shôtoku Taishi truyền bá cùng khắp nhơn gian, dưới cái đạo hiệu là Jô Jitsou.
Thành Thật tông cho rằng đức Phật là bậc Siêu phàm, thường thị hiện giữa tín đồ. Họ không nhìn nhận có linh hồn và có ngũ uẩn: Cái ve không, không đựng chi hết, cũng như trong thân ngũ uẩn chẳng có cái chi gọi là cái Ta. Thể chất của cái ve chẳng có thật, cũng như các pháp là ngũ uẩn, chỉ có tên rỗng không thôi.
Theo Phật Gotama, cái Ta là những trạng thái của Tâm thay đổi như chớp nhoáng. Thành Thật tông dạy chẳng những không nên nói như đức Phật rằng sự vật biến đổi vô thường, mà phải hiểu rằng sự vật chỉ có trong sát na thôi. Quá khứ, hiện tại, vị lai không có; Trạng thái hiện hữu của sự vật mới có thể gọi là có, bởi sự vật vừa là có, vừa là không; Vừa sanh, lại diệt đi. Mỗi hành động làm cho thay đổi cả thân tâm. Nhưng thân là một, tâm là một; Ví như khúc dây luột bị đốt một đầu, đầu kia có người cầm và quây tròn. Mắt dòm thấy một vòng lửa. Vòng ấy là một đơn vị (một chúng sanh), sanh ra bởi nhiều đốm lửa liên tiếp. Vòng lửa liên tiếp ấy chẳng khác nào những hột chuỗi xỏ bằng chỉ. Các hột chuỗi đều riêng biệt nhau, nhưng bị kết chùm lại một xâu. Cũng ví như con sông, thật ra không có chi gọi là sông, đó chỉ là những giọt nước chảy kế tiếp nhau thôi. Mắt thấy có người, thật ra đó là một đứa bé biến đổi liên tiếp ra một thanh niên, một ông già, là ba trạng thái khác hẳn nhau. Thế thì có chi bền vững mà gọi là Ta. Nhưng, mặc dầu cái Ta ấy là những trạng thái thay đổi liên tiếp, nó vẫn biết lấy nó, như ngọn đèn tự rọi sáng lấy nó vậy.
Không nhìn nhận có cảnh giới bên ngoài, Thành Thật tông cho rằng sự vật là có, là do hình ảnh phát hiện trong Tâm.
Ông Hariwarman (Ha-lỹ-bạt-ma) có nhấn mạnh rằng: Cái tiếng Ta của đức Phật thường dùng, chỉ là một danh từ thường thôi, vũ trụ chỉ là ảo mộng, nhận thức của con người là cơn mộng trong khi thức thôi. Nhất thiết là rỗng không, chẳng có một chúng sanh nào, chẳng có chi gọi là Ta. Vũ trụ là bào ảnh trong những sát na, một diễn tuồng thay đổi của các pháp hiệp tan liên tiếp, tùy theo sự hóa hợp của các nguyên tố tinh thần và vật chất, do nghiệp lực kết tụ và tung tán, cho đến chừng nào sự vật hườn lại nguyên bổn, là chỗ không không.
Tiếp theo thuyết không không, ông Ha-lỹ-bạt-ma biện rằng: Nếu nói như Phật rằng con người từ kiếp này còn phải trôi dạt qua kiếp khác, thì không thể được; Bởi Phật còn nói rằng khi chết, tâm thức cũng tan rã như xác thân. Nếu không có cái chi tồn tại, thì không thưởng phạt, không nghiệp báo, không luân hồi và cũng không Niết bàn. Phải chăng giáo lý của Phật Gotama là một xảo thuyết à? Nếu trong con người chẳng có chi tồn tại, thì cần chi phải xem kinh, cần chi phải tham thiền, cần chi phải khổ hạnh.
Rồi ông Ha-lỹ-bạt-ma kết luận: Thuyết của Phật và thuyết của ta đối chọi nhau, vậy thuyết nào phải, thuyết nào quấy? Thế thì cũng chưa giải quyết được, vậy ta nên nghe lời Phật dạy: chẳng nên biện luận về triết lý.
Sau khi luận xuôi rồi luận ngược, nhà triết lý học Ha-lỹ-bạt-ma nhìn nhận rằng biện thuyết của ông vẫn không đem đến một tia sáng nào và khuyên: Hãy tin nơi lời Phật dạy và chẳng nên vượt khỏi giáo lý Phật Đà.
Luận thuyết này có vẻ thành thật, nhưng cũng không bổ ích cho sự giải thoát. Biện luận về Phật pháp để nhận thức một phần nào, tùy theo giới hạn của lý trí phàm nhơn, rồi cần phải tu Giới, Định, Tuệ mới thấy rõ chơn lý.
Tới đây ông Ha-lỹ-bạt-ma vừng chơn cũng vừa; và cũng lẽ ông cũng chưa khám phá được tuệ giác của Phật, nên lập giáo của ông tới đây cũng chấm dứt.
3– VINAYA: Luật tông. – Trước giờ nhập diệt tại Kusinara, Phật Gotama đã di chúc cho các vị Tỳ khưu: “Sau khi Như Lai diệt độ rồi, các con hãy lấy Giới luật làm Thầy, cố gắng tu hành chớ nên dễ duôi”.
Đối với những Phật tử chưa chứng đạo quả Tứ Thánh, hai chữ “dễ duôi” có nghĩa rất quan trọng về phương diện giải thoát. Giới luật là nấc thang đầu tiên để tiến đến mức cứu cánh Giới luật là nền tảng, là tuổi thọ của Phật giáo. Không có giới luật để thôi thúc cho lục căn thanh tịnh, người Phật tử đã không nhờ đâu mà tu định, tu tuệ hầu chứng đạo quả Niết bàn được, và luôn đó cũng không duy trì Chánh pháp được trường tồn hưng thịnh.
Tâm của chúng sanh bao giờ cũng ưa thích tự do phóng túng theo ngũ trần lục dục, chẳng hề chịu trói buộc trong khuôn khổ giới luật. Vì đó mà nhóm Vajjiputta mới tách ra lập phái Tân tiến (1), để canh cải cho bớt phần nghiêm khắc và tiện bề quay trở theo dục vọng. Khởi đầu họ sửa đổi 10 điều răn cấm, để thâu nạp tiền bạc và tự do ăn uống. Sau lại, khi tách ra khỏi hệ thống Nguyên thủy, họ lập nhiều điều luật riêng bằng chữ Sanskrit. Lẽ tự nhiên, luật này không giống với luật của Phật ngự chế, chỉ mường tượng chút ít thôi.
Luật căn bản gồm có 250 khoản (Luật Tây Tạng có 253), nhiều hơn của Phật 23 điều luật. Các bộ luật Tân Tiến lập ra trong khoảng từ 844 tới 1.088 sau khi Phật nhập Niết bàn.
(1) Xem quyển I
Qua thế kỷ thứ III, kỷ nguyên này, có ông Dharmakala (Đàm Ma Ca La) tục gọi là Pháp Thời, đem Luật tông qua Tàu truyền bá. Đến thế kỷ thứ V, ông Bhuddhayacas (Phật Đà Da Xà hay là Giác Minh) phiên dịch ra Hán văn. Qua thế kỷ thứ VIII (754), Luật tông được truyền sang Nhật Bổn, dưới hiệu Ritsu, bởi nhà sư tên Ganjin (Đạo Tuyên).
Tông này không được phổ thông vì người Tàu cũng như người Nhật, ít chịu giam mình trong giới luật. Người nào tinh tấn lắm, chỉ giữ một vài điều luật, lâu ngày mòn mỏi, không ai còn biết những điều răn cấm của Phật ra sao. Các nhà sư giấu mất Tạng Luật, và dối với tín đồ rằng Phật cấm không cho cư sĩ để ý đến phận sự của thầy Tỳ khưu. Sợ tín đồ biết Luật xuất gia, dòm ngó hành vi của họ; Họ còn hăm dọa: Nếu các người lỡ phạm lỗi với Phật, có Tăng cứu rỗi cho; Bằng phạm với Tăng, thì không còn ai che chở, ắt phải sa địa ngục. Tín đồ lại càng sợ thêm, nên chẳng ai dám tọc mạch, để cho các thầy tha hồ phá giới.
Sau này nhờ có Hội Phật giáo Hoàn cầu cổ động chỉnh đốn chế độ Tăng già cho thích hợp với quy tắc của Phật di truyền, nên hiện giờ có vài trường Phật học đem giới luật ra giảng giải cho Tăng Ni nghe. Nghe để cho biết, chớ cũng chưa dám thực hành. Dường như người ta còn e lệ, hoặc không đủ can đảm để áp dụng, bởi xưa nay họ thường cao rao rằng Đại thừa không cố chấp giới luật như Tiểu thừa, nếu trở lại thực hành giới luật, sợ hổ ngươi với Tiểu thừa. Hơn nữa, đã quen tự do phóng túng, có ai đủ nghị lực cột trói thân khẩu trong vòng kỷ luật gắt gao.
Hạng người, một khi biết rằng mình làm quấy, mà không mạnh dạn trở về theo cái phải, không thể gọi là người tu chơn chánh.
Vì tự ái, tín đồ cũng đồng ý cho thầy mình giữ vững tinh thần Đốn giáo, nên các thầy cũng vui lòng nghe theo. Đã đứng vào hàng mô phạm mà còn phải chịu ở dưới quyền chi phối của thế tục, nên có tiếng mỉa mai: Các thầy thích tu theo tín đồ, hơn là theo Phật. Xét ra hành vi của họ không phải vô ý nghĩa, bởi họ còn phải nhờ tín đồ sống cho qua ngày.
Nay cũng như xưa, vì sống ngoài vòng giới luật nên các thầy Tân tiến không muốn cho tín đồ trong sạch với giới luật cư sĩ. Nên trong luật tại gia của các thầy lập ra có dạy rằng: Mỗi khi tín đồ đến xin thọ Ưu bà tắc giới, trước thầy Tỳ khưu sau mỗi câu hỏi và câu trả lời cương quyết của giới tử, thầy Tỳ khưu cho biết rằng: “Giới Ưu bà tắc thật rất khó. Một khi phá hủy năm giới thì trong vô biên đời kiếp phải đọa ba đường ác, chịu khổ vô cùng” (1). Những lời ấy chẳng khác nào hăm dọa cho giới tử ghê sợ, chán nản, không dám đèo bồng. Phật chẳng hề dạy các thầy Tỳ khưu nhát tín đồ như thế ấy, trái lại phải ca tụng và phải giải thích quả báo cao thượng của sự trì giới, cho tín đồ phấn khởi, trong sạch, yêu mến giới luật của họ.
Đành rằng: Ngũ giới bất trì nhơn thiên lộ triệt. Nhưng câu này chỉ dùng để thức tỉnh, răn đe những tín đồ nào, đã thọ quy giới rồi mà còn trụy lạc, hư hỏng cho họ hồi đầu hướng thiện, chẳng phải để ngăn rào đón ngõ, cho tín đồ mất sự cương quyết của họ.
Mỗi lần mỗi bị hăm dọa, làm cho tín đồ phải ghê sợ giới luật như sợ rắn độc. Rung nhát họ được rồi, không lẽ công khai khuyên họ bỏ giới, các thầy khôn khéo hạn chế: Các người nên thận trọng liệu sức thọ không nổi năm giới, thì nên giữ một vài giới cũng được vậy. Nhờ cái biệt tài cám dỗ, lần lần không còn ai biết ngũ giới cấm là gì, cũng như trong Tăng già không còn một ông thầy nào biết Cụ túc giới ra sao.
(1) Phá giới tại gia còn tội ác như vậy, phá giới xuất gia tội đến đâu.
Cả thầy lẫn trò đồng chung một xuồng, còn ai dòm ngó ai, thế là các thầy Tân tiến đã thắng trận.
Tín đồ như con chiên, thầy nói sao hay vậy, không ai chịu gia công tham khảo Phật pháp, nên thời buổi nào họ cũng bị bọn dối thế gạt đời lợi dụng.
Gặp đời vua nào sùng mộ Phật pháp, bọn ấy phải tiêu diệt. Như vua A Dục (Ấn Độ) và vua Lương Võ Đế (Tàu) hai phen trục xuất cả mấy vạn ký sanh trùng, Phật pháp được tẩy uế một thời gian, rồi thứ sâu mọt ấy cũng nảy sanh lại.
Thương hại cho những người mộ đạo, có đức tin gieo giống lành trong Phật pháp, mà phước đâu không thấy, chỉ thấy cái tội duy trì ung thư cho xã hội.
Trong Hạnh Phúc kinh, Phật có dạy: Sự thông suốt giới luật xuất gia và tại gia, là một điều hạnh phúc cao thượng. Xứ nào có được nhiều bực thông hiểu phận sự của người tại gia và xuất gia, xứ ấy Phật pháp mới được thạnh hành. Tăng tục đều biết luật tu theo đường chơn chánh, hai bên nâng đỡ thức tỉnh lẫn nhau. Nhà sư không dám dễ duôi vì có tín đồ dòm ngó, nên cố lo tròn phận sự, tín đồ tinh tấn giữ đạo, nhờ có các nhà sư ở kế cận nhắc nhở luôn khi.
Cư sĩ có phận sự bảo tồn ngôi Tam bảo, mà không biết phận sự, cứ phó thác cho mấy ông thầy vẽ rắn vẽ rồng, bảo chi làm nấy, lui cui ra tiền cho mấy ổng chôn sâu Phật pháp dưới đáy bùn lầy.
Ai muốn xuất gia cứ tự tiện cạo đầu đấp y, ai muốn làm Hòa thượng, cứ mua áo mão mang vô. Có kẻ lại bắt chước Tiểu thừa, cầm tích trượng mang bát đứng lim dim nơi đầu đường góc chợ, khêu gợi tấm lòng từ thiện của Phật tử.
Theo luật Phật di truyền, trong Tăng già không có những chức tước Hòa thượng, Yết ma, Giáo thọ, cũng không có Khất sĩ cầm tích trượng (1) đi trong châu thành, hoặc đứng giữa chợ xin ăn (2).
Không thông hiểu giới luật mà muốn thực hành giới luật là một điều nguy hiểm rất lớn. Riêng mình đã tỏ ra không có giá trị lại còn khêu gợi cho kẻ khác khinh khi Phật pháp.
Phật dạy: Thầy Tỳ khưu nào tu hành không chí nguyện giải thoát mà ăn của thập phương bá tánh, thà là lấy sắt nấu ra cho đỏ nuốt vào bụng còn hơn.
Nếu có chí nguyện giải thoát, phải thông hiểu kinh luật, phải biết phương pháp tu hành. Chưa thông hiểu kinh luật, xin ai kia chớ dễ duôi lợi dụng Phật pháp làm nghề nuôi mạng. Đối với thế gian, mình là kẻ lừa gạt tín đồ mê muội; Đối với đạo giáo, mình là kẻ cướp di sản (sự nuôi mạng) của đức Phật để lại cho hàng Tăng bảo chơn chánh vị lai.
Tóm lại, hiện giờ phái Tân tiến không còn duy trì được một giới luật nào. Trọn 250 điều luật đều gồm thâu trong sự ăn chay ăn lạt.
Ăn chay để tránh sự sát sanh, thật là đúng với chủ nghĩa từ bi bác ái. Ăn chay lại còn hạp vệ sinh, cần ích cho sức khỏe để tu hành. Nhưng nếu ăn chay mà tín đồ không kiêng cử Năm điều răn cấm và nhà sư không thọ Cụ túc giới, thì không thể gọi lài tu Phật.
Giới luật là nền tảng của Phật giáo để trau dồi thân khẩu thanh tịnh, ăn chay là phương pháp tinh khiết để nuôi dạ dày. Nếu trọng chay khinh giới, thì căn bản của sự tu hành chỉ gồm trong một vấn đề “ăn” hay sao?
(1) Tích trượng là một cây gậy thường để cầm tay lúc đi trong rừng, đặng đỡ gạt thú dữ và rắn rít.
(2) Thầy Tỳ khưu thuộc dòng cao thượng đâu có đứng góc chợ xin cơm chay ăn mày.
Kinh sách thường dạy: Đại thừa không chấp giới như Tiểu thừa, và vì không chấp giới nên, dầu không thọ giới, chớ cũng không phạm giới. Bậc siêu phàm liễu đạo thốt những lời ấy, ai lại không tin. Mà người Đại thừa dùng lời ấy, cũng có lý, bởi họ có thọ giới nào đâu mà gọi là phạm.
Tu để phá chấp, mà dường như toàn thể Phật tử Đại thừa đều đặc biệt chú trọng về sự ăn chay, như thế có phải là chấp chay bỏ giới chăng?
***
Tân tiến trọng chay khinh giới, Bảo thủ trọng giới khinh chay. Phật tử trong hai phái nên tạm gác các thành kiến một bên, dùng óc sáng suốt, lặng lẽ phải quấy trong hai phương hướng đối chọi, để cải thiện thể thức tu hành cho hợp lý.
VỀ PHẦN ĂN CHAY.
– Sự ăn chay phát xuất từ Ấn Độ, do hai nguồn gốc:
1 – Tập quán dùng lê hoát của người Ấn Độ, thuộc dòng Bà la môn, chiếm độc quyền làm trung gian giữa thần Bà la môn và ba giai cấp dưới (Võ sĩ, Thương gia, Nô lệ) trong việc cầu đảo cúng tế.
2 – Lời thỉnh cầu của Devadatta (Đề –bà –đạt –ta) để lên xin Phật Gotama bắt buộc các thầy Tỳ khưu trong Phật giáo ăn toàn đồ lê hoát trọn đời (1). Phật Gotama không phê chuẩn, nhưng chịu để cho tín đồ tùy thích bố thí (2).
Sự ăn chay của dòng Bà la môn là một quy luật lưu truyền từ thượng cổ, nên họ coi như là một thói thường,
(1) Đề-bà-đạt-đa xin Phật bắt buộc các thầy Tỳ khưu trọn đời: Phải ở nơi rừng, khất thực nuôi mạng, ăn chay trường, mặc y phục làm bằng vải vơ lượm nơi tha ma mộ địa, ở dưới cột cây. Vì thấy thói đời hay quý trọng những khổ hạnh, Đề-bà-đạt-đa muốn lợi dụng tâm lý ấy, để tranh giành ngôi Giáo chủ với Phật.
(2) Vì đây là cách thức nuôi mạng, chẳng phải phương pháp trau dồi thân khẩu.
Không có tính cách quan trọng. Đề nghị của Đề-bà-đạt-đa dựa theo tục lệ trên để chứng tỏ rằng người tu trong Phật giáo cũng thuộc dòng cao thượng như dòng Bà la môn (1).
Một số dòng đệ tử của Phật là người thuộc dòng Bà la môn. Ngoại trừ những bậc đắc đạo quả và những người xin nhập môn với chí nguyện giải thoát, có nhiều hạng giả dạng tu hành để tìm cách tái lập uy tín của đạo Bà la môn, hoặc để nuôi mạng, trong khi đạo giáo của họ bị dân chúng phế bỏ. Các hạng Tỳ khưu không mục đích chơn chánh ấy, tạm thời buộc lòng ở dưới hệ thống Tăng già, nhưng lòng họ vẫn không khâm phục Phật Gotama, hằng chờ cơ hội gieo mầm móng của đạo họ trong tư tưởng tứ chúng, hầu ngày kia lật đổ Phật giáo, như đã có giải nơi chương Lịch sử (quyển 1). Chính các thầy Bà la môn trá hình nói trên đã làm hậu thuẫn cho Đề-bà-đạt-đa khuấy nhiễu Phật nhiều khi, và cũng chính họ đem thuyết ăn chay thay thế cho giới luật Tân tiến sau khi Phật Gotama tịch diệt.
Một thói quen muôn phần dễ dàng hơn giới luật nghiêm khắc, ai lại không hoan nghinh. Với cái khẩu hiệu “Ăn chay để cử sát sanh và nuôi lòng từ bi đối với muôn loài vạn vật” ai lại không mê thích. Như có mấy ai biết rằng, mỗi khi tế thần, các thầy Bà la môn giết bao nhiêu sanh vật, như cừu, dê, trâu, bò và đồng nam đồng nữ, mà không gớm tay. Thầy Huyền Trang, khi qua Ấn Độ thỉnh kinh, cũng sút bị họ làm thịt cúng thần Durga, tại Prayaga (hiện giờ là Allahabad), trên sông Găng.
Người Bà la môn từ già đến trẻ, cả vợ lẫn chồng, đều ăn chay, mà lòng họ mấy chay? Ta nên biết rằng lòng từ bi, cũng như tinh thần siêu việt, không phải ở trong chỗ “ăn”. Nói cho rõ hơn, cái ăn chẳng phải phương pháp rửa Tâm.
(1) Phật thường nói người cao quý, do nơi lòng cao quý, chẳng phải vì dòng cao quý.
Tâm tối mê ví như nước đục, dùng lê hoát lóng cho nước trong, nước không bao giờ trong được. Tâm là vật vô hình, thân khẩu là chỗ của Tâm biểu hiện. Không dùng giới luật để câu thúc thân khẩu, biết Tâm đâu mà chế ngự? Vì đó mà Phật Gotama đặt ra những điều răn cấm, để cho chúng ta kiềm chế thân khẩu, hầu gián tiếp sửa trị Tâm, không cho tự do hành động, nhất là duyên theo điều ác.
Như ta đã từng thấy, trong phương diện nào các thầy Tân tiến cũng muốn tỏ ra rằng họ giỏi hơn Phật. Thử hỏi người tu Phật chơn chánh, muốn tìm đường giải thoát, nghĩ thế nào? Đại thừa Phật giáo mà chúng ta hấp thụ từ Ấn Độ, Trung Hoa, Cao Ly, Nhật Bổn, hiện giờ ở trong tình trạng nào? Chúng ta có nên đeo đuổi theo tập quán “bỏ giới chấp chay” không?
Theo tục lệ xưa nay, cư sĩ chúng ta có 4 cách ăn chay: 2 ngày, 6 ngày, 10 ngày và trường chay.
Bậc xuất gia, lẽ thì trường chay, nhưng có nhiều thầy cũng giữ 2 ngày, 6 ngày, 10 ngày như cư sĩ.
Không có thói quen như người Bà la môn, nên chúng ta xem sự ăn chay như một việc quan trọng đặc biệt. Gặp nhau, muốn biết ai tu cao, tu thấp, người ta thường gợi chuyện ông hay bà ăn chay mấy ngày trong tháng? Đây là cái hãnh diện mà người Phật tử Việt Nam hay bộc lộ trong câu chuyện hàn huyên, làm cho mất vẻ lịch sự và thương tổn đức tánh khiêm tốn của con nhà Phật.
Ngoại trừ những người có khấn vái để cầu xin một ân huệ chi, hoặc những người bị bệnh phải kiêng cử đồ mặn, hàng Phật tử lấy sự ăn chay làm thước đo lường trình độ tiến hóa trong việc tu hành. Ngày ăn chay là một ngày lành, bởi trong ngày ấy ai ai cũng cố gắng kiêng cử điều ác. Kiêng cử là tạm ngưng, chớ không phải dứt bỏ, để ngày mai tiếp tục lại đường lối cũ.
Trong một tháng 30 ngày, trừ ra 2, 6, 10 ngày kiêng cử, còn lại 28, 21, 20 ngày tự do. Tự do chài lưới, săn bắn, tự do cắt cổ gà, vịt, cũng tự do gian xảo, dối trá, lường gạt, cấu xé. Thậm chí cho đến người trường chay cũng ganh tị, thù hiềm, láo xược, tham lam, tranh quyền, cướp lợi, khẩu Phật tâm xà. Dẫu sao cư sĩ chúng ta cũng còn phàm, có thể châm chế cho nhau. Vì sự nuôi sống, chúng ta còn phải lăn lóc với đời, sao khỏi ô nhiễm. Tiếc một điều là trên sân khấu chính trị, chúng ta rất đau lòng gặp các ông Hòa thượng, Pháp sư, Thượng tọa, khoác áo cà sa đứng ra làm trò cười cho muôn miệng. Muốn giải thoát ra ngoài khuôn khổ giới luật, Phật pháp suy đồi đến mức diệt vong, mà môn đệ của các vị đại đức ấy vẫn thản nhiên, lấy đó làm vinh dự.
Phần đông cư sĩ chúng ta lại là người thường hay cung cấp súc vật cho đồ tể. Nhà nào lại không nuôi gà, nuôi vịt, nuôi heo, để ăn trong mấy ngày mặn và bán kiếm chút huê lợi. Có chùa trong thôn quê cũng nuôi gà, vịt để lấy trứng, và có khi cũng để ăn, nếu ông trụ trì chưa trường chay được.
Trong ngày chay, nếu gặp tôm, cá, gà, vịt, chúng ta vẫn có thể mua rộng, nhốt để dành qua ngày khác.
Những người mê tín lỡ khấn vái ăn chay, không dám bỏ qua, sợ thần linh quở phạt, ngày chay là một ngày khổ sở của họ. Ăn chay không vô, trời vừa sụp tối, họ đã ngả mặn rồi.
Người có tâm đạo, nhất là các cụ ông cụ bà, hết sức kỹ lưỡng trong món ăn. Bếp núc, nồi niêu, chén bát đều để riêng biệt, không ai được phép trộn lộn với đồ dùng ăn mặn. Cách kiêng cử tinh nghiệm như thế ấy thật là hoàn toàn. Nhưng đôi khi, vì quá tin lời truyền dạy của thầy tổ, các cụ phải chứng minh cho người nhà cắt cổ gà cổ vịt hoặc thọc huyết heo trong ngày đơm quảy. Để chi? Để tụng bảy biến vãng sanh cầu siêu cho những con vật bị giết. Thầy tổ đã có nói rằng hạ trâu ngã bò để báo hiếu, hoặc cúng tế thần linh, không có tội lỗi chi cả. Chính đây là phong tục của Bà la môn giáo. Tin rằng giết thú để cúng thần, đã không tội lại còn có phước, các thầy Tân tiến đã sửa luật nhân quả của Phật dạy, theo tín ngưỡng của Bà la môn.
Chơn lý ở chỗ nào? Từ cái mâu thuẫn này, chúng ta bị dẫn dắt đến cái mâu thuẫn khác, mà chúng ta vẫn thản nhiên, không quan tâm suy xét.
VỀ PHẦN GIỚI LUẬT – Bây giờ xin hỏi người giữ Ngũ giới có nên ăn chay hay không?
- Ăn thì quý lắm, nhưng chớ nên cố chấp đó là đồ chay, mà không ăn cũng không sao.
- Vậy là chỗ nào gọi là cử sát sanh?
- Tự mình không giết, không xúi biểu kẻ khác giết, không nghe không thấy người ta giết cho mình ăn.
- Chớ người ta giết cho mình ăn, mặc dầu không xui biểu, cũng không mang tội đồng lõa, bởi có mình ăn mới có người giết?
- Tâm không gây nhân, quả không chỗ sanh. Nghiệp không tạo, tội không do đâu mà báo ứng.
- Tâm ưa thích thịt cá, thân đi mua về ăn, sao gọi không gây nhân?
- Tâm vẫn bình đẳng, không chấp chay, cũng không thiên mặn, đây chỉ là thói quen của vật chất đòi hỏi.
- Có tâm dung túng chấp thân, nên sự đòi hỏi của vật chất mới được thỏa mãn chớ!
- Đúng như vậy, nhưng tâm đâu có chủ trương giết, hoặc xúi quẩy kẻ khác giết; Tai không nghe, mắt cũng chẳng thấy. Cả thân lẫn tâm không vi phạm một điều kiện khinh trọng nào trong giới sát sanh kia mà.
- Không phạm, nhưng đã thấy biết thịt cá, mà còn nhẫn tâm ăn vào, thì lòng từ bi của người Phật tử ở chỗ nào?
- Tín đồ đã bị đầu độc nhiều rồi, giờ này mà còn đem cái từ bi giả dối ấy ra làm quảng cáo không ai tin đâu. Từ bi đối với chúng sanh đương bay đương chạy, không nỡ giết bỏ để nuôi mạng. Đó là từ bi thật sự. Còn từ bi đối với miếng thịt, khứa cá, là từ bi dối trá, từ bi ngoài lỗ miệng của người bị nhồi sọ. Tu hành, trong giới sát sanh, chưa biết Phật dạy những gì, mà muốn tỏ ra mình hơn Phật.
- Phi lý: Phật dạy kiêng cử thịt, cá, người ăn thịt cá là người cãi lời Phật. Cãi lời Phật, tức là muốn hơn Phật đó vậy.
- Ăn chay không phải giữ giới hay sao?
- Đã nói rằng “ăn” không phải giới. Không thấy đem “giới” ra nói chuyện, cứ đem cái “ăn” ra bàn hoài không rồi.
- Vậy chớ sao, nó là vấn đề căn bản mà.
- Phải, nó là vấn đề sanh tử của dạ dày, nào phải vấn đề cần thiết của giải thoát. Chỉ có cái nghệ thuật “ăn” mà quanh năm quẩn tháng giải quyết không xong.
- Đề mục “thịt cá” tham khảo chưa dứt khoát, nên muốn bàn cãi cho ra lý do thôi.
- Nên tìm những hành giả đã tu chứng được cái quả “từ bi” mà hỏi thì ra ánh sáng.
- Nghe nói họ lấy thịt và cá làm đề mục để trước mắt, rồi quán tưởng cho thấy con thú bị cột trói khiêng đến lò thịt, bị hành huyết kêu la thảm khổ rồi bị phân thay xẻ thịt đem đi bán, hoặc thấy con cá đương tự do bơi lội dưới nước, kế bị mắc câu, kéo lên bờ, ngột thở giãy giụa rồi chết. Thấy cảnh tượng đau khổ như vậy, lòng từ bi vô lượng phát sanh lên, từ đó đến sau họ không nỡ ăn thịt cá nữa. Mình cũng muốn kinh nghiệm như họ, ngồi trước mâm cơm cũng ráng sức quán tưởng, không thấy từ bi ứng hiệu chút nào, trái lại mùi vị thịt cá xông lên thơm mũi, bắt trớn nịch đầy bụng rồi lại thấy thỏa mãn là khác.
- Tại mình tu thấp, chưa biết nghệ thuật ăn chay.
- Ăn chay mà cũng có nghệ thuật nữa sao?
- Bữa nào chịu khó lẽn vô hậu liêu, chỗ mà hành giả quán tưởng mỗi ngày cho biết, hay là đột nhập vào bếp của mấy ông pháp sư tại gia thì sẽ thấy mánh lới nhà nghề của họ.
- Cơ mưu đã bại lộ, hèn chi các sư cụ giảm phần thuyết minh về sự ăn chay, giao phó trách nhiệm lại cho cư sĩ trổ tài thuyết phục tín đồ. Càng đi xâu vào đạo, càng gặp mâu thuẫn trong lời nói và hành vi của các ông đại cư sĩ pháp sư. Nếu chay miệng không đem lại chay lòng chay đức, có lẽ trai giới có lợi ích hơn, nhưng cũng có lẽ khó thực hành?
- Nói đến Giới đã thấy lo sợ khó rồi đó thấy chưa? Người ăn chay trường có thể tránh được tội sát sanh thôi. Người giữ giới tránh cả các thứ tội. Đường vào địa ngục còn rộng mở cho người trường chay, nẻo đến thiên đàng là giới luật của hàng Phật tử.
- Trường chay còn xa địa ngục, mà người giữ giới còn ăn thịt cá cũng đi thiên đàng được sao?
- Người trước không thể sánh với người sau, bởi họ sợ giới mà không sợ bốn đường ác đạo. Người sau hơn người trước, bởi họ nhờ giới để ngăn ngừa tội lỗi. Người trước chay trong lý thuyết, người sau chay theo thực tế.
- Thực tế trong chỗ ăn mặn phải không?
- Thực tế trong chỗ không quanh quẩn, không miệt mài trong cái ăn, không tự đắc với cái ăn, mà trầm tĩnh trong chỗ trau dồi thân khẩu.
Tu không lo cứ lo tranh chấp hoài về cái ăn, môi đã khô nước miếng mà câu chuyện ăn cũng vẫn không rồi. Bao giờ chúng ta phá được cái chấp, thì vấn đề “ăn” mới có thể chấm dứt được.
- Vì chúng ta còn ăn mặn, ít nhất cũng 20 ngày trong tháng, nên vẫn còn thắc mắc, hoài nghi đó thôi. Giải thích cho xuôi vấn đề ăn mặn thì cái chấp kia mới không tồn tại.
- Tu cốt để phá chấp, mà cả thầy lẫn trò chúng ta, mặc dầu đại đa số cũng không dứt bỏ nổi cái mặn, cứ bám chặt vào lý thuyết chay, nghĩ thật buồn cười. Đức Phật đã phá chấp cho Đề-bà-đạt-đa, mà ông này vẫn ngoan cố, chúng ta tài nào thức tỉnh môn đệ của ông.
Để chấm dứt câu chuyện ăn mặn, xin trình bày một vài ngu kiến:
Nên nhớ rằng nghiệp dữ nghiệp lành đều do Tâm tạo ra. Các đồ tể và các bạn hàng tôm, cá, vì quyền lợi cá nhân mà họ phải giết hại thú vật để bán kiếm lời. Họ giết nhiều, giết ít tùy theo nhơn số của hai hạng người tiêu thụ: một hạng chẳng bao giờ lập tâm tính trước phải ăn món chi trong ngày, chờ ra chợ gặp gì mua nấy. Người vô tình, tức là vô can, vô tội. Hạng khác thường lập sẵn một đơn vị trong ngày, bằng chẳng vậy, nếu thích món chi, họ cố tìm kiếm cho ra món ấy, với giá nào cũng mua được, và nếu kiếm không ra, họ đòi hỏi bạn hàng: nay không được thì mai cũng có cho họ dùng. Cố ý như hạng này, tức là đồng lõa, cố sát.
Một đàng gặp chi ăn nấy, dầu thịt, cá, lê hoát, không cố chấp đây mặn, kia chay và xem các món thức ăn ấy như vật chất bên ngoài để bồi thường vật chất bên trong, đủ sống ngoài vòng tội lỗi, sống theo Trung đạo của giới luật. Đằng khác lại phân biệt gắt gao chay với mặn. Khi ăn chay họ ăn toàn đồ lê hoát, lúc ăn mặn họ mạnh dạn đòi hỏi hoặc giết heo, bò, gà, vịt. Lắm khi bề ngoài họ thiên về chay, bề trong họ ngã qua mặn, cho nên đồ chay cũng có tên, nào là cá hấp, mấm ruột, sườn xào, tôm kho v.v…Tóm lại họ sống trong lợi dưỡng, sống ngoài khuôn khổ giới luật, nên họ thành người cực đoan. Vì đó mà chay họ cũng chấp, mặn họ cũng chấp. Hai cái chấp đã ăn sâu vô xương tủy trí óc, hết còn xét đoán được phải quấy, chánh tà. Cho nên đức Phật có nói rằng: Số người đi về nhàn cảnh sánh như sừng bò (có 2); Số người sa ác đạo sánh như lông bò (vô số kể).
Tới đây đã cạn lời xin chấm dứt vấn đề “ăn”.
***
Bây giờ xin bàn qua câu chuyện “Tu”.
Pháp Bửu Đàn kinh chép rằng tại Thần Tú phá rối nên y bát chơn truyền đã thất lạc mất hết rồi. Theo luật Phật, lúc xuất gia, Giới tử phải sắm y bát để dùng, khi y rách phải đổi cái khác. Không lẽ mỗi vị Tổ sư chỉ sắm có một bộ y và một cái bát để dành chờ đến tuổi già giao phó lại cho vị Tổ khác, rồi trọn đời Tổ ấy mặc cái chi? Có phải tại Lục Tổ không truyền y bát, nên các nhà sư Thiền tông bây giờ không dùng y bát nữa chăng? Còn nếu nói thất chơn truyền có nghĩa là không còn ai truyền tâm pháp, thì sao lại còn người tu theo Thiền tông?
Trong các tông khác, như: Câu xá, Thành thật, Duy thức, Hoa Nghiêm, Thiên thai, Tịnh độ…có anh Thần Tú nào sang đoạt, hà tất cũng mất y? Mất y bát tức là mất Tăng tướng. Mất Tăng tướng nên không còn Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, Sa di, Sa di ni. Mất người có phận sự bảo tồn và duy trì Chánh pháp có nghĩa là mất cả một sự nghiệp “Giải thoát” của Phật Gotama di truyền.
Còn một điều khó hiểu nữa là: Trong giới tu sĩ còn một đôi chỗ cũng làm lễ xuất gia Tỳ khưu và Tỳ khưu ni theo hệ thống Nguyên thủy. Giới tử sắm y bát đến xin thọ Cụ túc giới. Các vị Hòa thượng, Yết ma, Giáo thọ nhóm lại tổ chức một buổi lễ long trọng. Các thầy tế độ, chứng minh, không có tam y, không còn Tăng tướng, mà còn mạnh dạn đứng ra tuyên ngôn truyền y bát cho giới tử. Xong cuộc lễ xuất gia linh đình ấy, các thầy thâu y bát lại giấu mất, không cho môn đệ họ sử dụng và nói rằng: tại nhà ngươi muốn, chúng ta làm cho có lệ, chớ thời buổi này ai còn xài thứ đó nữa, nhà ngươi không thấy sao?
Ai có đọc Luật Xuất gia rồi, xem diễn tuồng ấy mới thấy hay dỡ. Trên Bửu điện, các vị Cổ Phật nghiêm nghị làm thinh, dưới một màu sắc phục như các thầy; Dòm qua tượng ông Giáo chủ Thích Ca, dưới bộ cà sa vàng, thấy Ngài thản nhiên nhít miệng cười. Một nụ cười rất sâu kín, để cho người Phật tử, tùy trình độ, xét đoán ý nghĩa của buổi lễ xuất gia kia.
Hèn chi đức Phật có nói: Đến lúc Phật pháp suy vong, các thầy tu chỉ còn có một chéo vải vàng vắt trên mép tai, để phân biệt là người xuất gia. Hiện giờ ở Nhật Bổn, có nhiều ông Đại đức mặc âu phục, có choàng một sợi dây băng cho mọi người biết đó là ông thầy tu; Thầy tu có vợ có con như người thế. Có lẽ ngày kia sư của chúng ta cũng đến đó.
Khi mất tăng tướng rồi, các nhóm tu sĩ có được gọi là Tăng già không? Ông Thái Hư Pháp sư, một vị Hòa thượng Trung Hoa danh tiếng nhất và đã có giúp một phần công tác đắc lực cho Chánh phủ quốc dân trong trận giặc vừa qua, nói được. Vượt khỏi mức Tân tiến, không còn phân biệt xuất gia tại gia, ngài cho rằng mỗi nhóm, từ 4 trở lên, đồng tâm hiệp lực, phục vụ cho Phật pháp, (hoặc cho một chủ nghĩa xã hội nào) là Tăng già. Thành ra trong giới tu Phật của ta, tục cũng như Tăng, mà Tăng cũng như tục.
Theo Phạn ngữ Pàli, chư Sangha (tăng-già) là một danh từ riêng biệt có nghĩa là một nhóm thầy Tỳ khưu từ 4 vị trở lên, ăn theo Phật, mặc theo Phật, ở theo Phật, đủ tư cách thay thế cho Như Lai, để bảo tồn giáo pháp của Phật di truyền. Sangha là ngôi thứ ba trong Phật giáo, rất tôn nghiêm tối trọng, đã bị ông Thái Hư Pháp sư bắc thang cho tín đồ lên chiếm mất. Vì tham vọng muốn lôi kéo tín đồ làm hậu thuẫn cho một chủ nghĩa chánh trị, ông tôn họ lên ngang hàng với Tăng bảo, cho nên Phật pháp ở Trung Hoa bị tiêu diệt, mà ông cũng cùng chung một số phận. Vô tình ông lây ảnh hưởng cách mạng tôn giáo đến Việt Nam, cho nên có nhóm cư sĩ cũng tự xưng là Tăng già. Hành vi của giới này, xét lại cũng hạp thời, bởi trình độ học thức và hạnh kiểm của cư sĩ hiện giờ, chẳng những không thua kém các nhà sư, mà lại có phần trội hơn là khác. Có lẽ ông Thái Hư, khi lìa bỏ thiền môn thanh tịnh, tâm ông đã bị gió trần lung lạc ông cũng tự biết rằng, trong mọi phương diện, ông khác với người thế tục chỉ có cái sắc phục của một nhà tu sĩ thôi.
Nhơn loại tiến thì Phật giáo cũng tiến theo, chẳng vậy người ta cho là lạc hậu. Vì đó mà mạnh ai nấy tiến, tiến đến chỗ không còn Phật Pháp Tăng nữa là cùng. Phải chăng đây cũng là một nghệ thuật phá chấp?
TRUNG THỪA TÂN TIẾN
1.-MADHYAMIKA: Tam Luận tông Madhyamaki có nghĩa là Trung đạo, nhưng thường kêu là Tam Luận tông, bởi tông này căn cứ nơi ba cuốn luận của ông giáo tổ viết ra làm giáo khoa cho đạo của ông.
Tam Luận tông lập ra cuối thế kỷ thứ I (70) kỷ nguyên này, bởi ông Nagarjuna, thuộc dòng Bà la môn, sanh trước tại Bera (Trung Ấn Độ), lớn lên ông xuống miền Nam lập giáo, tại Nagarjunikonda, gần thành Amaravati, và sau lại ông đi truyền bá tận miền Bắc. Tên ông đặt ra do một tích nói rằng ông ra đời dưới cột cây kêu là Arjuna và khi lớn lên được thần Naga, là là Long vương rước ông xuống tận thủy cung dạy ông những pháp huyền bí, Người Tàu dịch Nagajuna là Long Thọ.
Tích trên có thêm rằng: Giáo pháp sâu xa của Phật Thích Ca bị Long vương thâu đoạt, gìn giữ tới tận đáy biển, nay nhờ ông Long Thọ đem trở lên phổ cập trên mặt đất. Đây là lý thuyết để khởi đầu vượt khỏi tôn chỉ Phật Thích Ca đang khuyết trương đạo giáo siêu hình dưới danh từ Phật giáo.
Ba tác phẩm của ông Long Thọ là:
1 – Cuốn Madhyamika castra: Trung luận.
2 – Cuốn Dvadaca Nikaya castra: Thập nhị môn luận.
3 – Cuốn Prajna Paramita Sutra castra: Bát-nhã-ba-la-mật-đa luận.
Ông Long Thọ còn viết rất nhiều quyển khác, nhất là quyển: Pancakrama, dạy về phù chú.
Mahacintya castra, luận về chơn lý huyền diệu ngoài phạm vi lý trí con người, gọi là Bất khả tư nghì luận.
Avatamsaka sutra, Hoa Nghiêm kinh, của Long vương truyền lại, về thuyết chơn không (Cunya),v.v...
Tam Luận tông được truyền bá cùng khắp Ấn Độ, Trung Á và Cực Đông, nhờ các đồ đệ trứ danh của ông Long Thọ, như thầy Arya Deva, Candrakirti, Canti Deva. Qua thế kỷ thứ IV thầy Suryasama đến Thổ-nhĩ-kỳ tự thân thâu được thầy Kumarajiva (Cưu-ma-la-thập), con của một người Ấn Độ và một vị công nương tại Koutcha. Chính ông Cưu-ma-la-thập này là Sứ đồ của Tam Luận tông tại Trung Hoa. Ông dịch ba quyển giáo khoa ra Hán văn, được người Tàu nhiệt liệt hoan nghênh.
Qua thế kỷ thứ VII (625) có nhà sư Nhật Bổn tên Eikwan (Kiết-tạn) qua tàu thỉnh trọn bộ Tam Luận về xứ mở đạo lấy tên là Sanron.
***
Tam Luận tông cũng như Phật giáo Bảo thủ, không nhìn nhận có linh hồn và sự thực tại của vạn hữu. Nhưng trong khi Bảo thủ nói rằng nội tâm và ngoại cảnh đều là hiện tượng, thì Tam Luận tông lại nói không có hiện tượng, không có Ta, không có ngũ uẩn, chỉ Niết bàn là thật có thôi.
Ông Long Thọ dùng biện chứng lật đổ tất cả những quan niệm, những nền móng triết học trong thời đại của ông, luôn cả giáo lý của Phật Tổ Gotama.
Về linh hồn, ông Long Thọ biện rằng: kẻ nào nhìn nhận có linh hồn là quấy. Nếu hẳn thật có linh hồn, thì hoặc nó ở trong thân, hoặc nó bao bọc cái thân. Có linh hồn ở trong thân hoặc ở ngoài thân, thì xác thân không bao giờ tiêu hoại, bởi theo sự tin tưởng của con người, linh hồn là một vật tồn tại. Dầu ở trong thân hoặc ngoài thân, khi một cánh tay hoặc một bàn chân bị chặt, linh hồn ấy cũng phải bị đứt đoạn một phần. Bằng nói rằng trong khi tay hoặc chân bị chặt, linh hồn rút vào ẩn trú trong thân. Vậy khi cái đầu bị chặt, linh hồn ẩn chỗ nào, để cho xác thân phải hư thúi? Hơn nữa, linh hồn của kẻ điên ở đâu?
Về vật chất, ông Long Thọ nói không có (Sắc thị không). Nếu đem ngũ uẩn ra phân tích đến phần vi tế gọi là nguyên tử, rồi kết luận rằng ngũ uẩn là có cũng chưa nhầm, bởi trong khi nguyên tử này ở kế cận với các nguyên tử khác, thì mỗi nguyên tử phải có nhiều mặt đối diện nhau, tất cả còn có thể phân tích ra được nữa. Càng phân tích tế biệt chừng nào, càng thấy không có cái nguyên tử đầu tiên. Tất nhiên là ngũ uẩn giai không. Hơn nữa, những hiện tượng sanh ra bởi sự biến đổi của các nguyên tử đều là không thực thể, tức là không có. Cái chi thật có chẳng bao giờ biến đổi. Nếu nói như Phật Gotama, vạn hữu là vô thường, thì vô thường là thật tướng của vạn hữu, tức là thú nhận rằng chẳng có chi hết. Từ đây ông Long Thọ đổi Phật giáo làm cái đạo Cunyavada (Đạo Hư vô hay Chơn không).
Hiện tượng theo Phật Nguyên thủy, là sự liên kết của nhân và quả trong thời gian. Ông Long Thọ cho rằng thời gian không có, quá khứ, hiện tại và vị lại cũng không có. Nếu có thì hiện tại phải có trong quá khứ và vị lai cũng phải có trong hiện tại. Vật bị chứa đựng trong vật khác, không thể ra khỏi vật khác ấy được. Vật thì quá khứ, hiện tại, vị lai chỉ có một. Tức là không có trước, không có nay, không có sau, không có thời gian.
Ông Long Thọ cũng không nhìn nhận có quả có nhân. Nếu có quả thì quả ấy có trong nhân hoặc ở ngoài nhân. Quả có trong nhân thì quả với nhân là một, quả không thể phát sanh ngoài nhân được. Quả ở ngoài nhân, thì nhân đâu có quả. Nhân không thể có trước, hoặc có một lượt, hoặc có sau quả, thì mối quan hệ giữa nhân và quả là vô lý. Kết luận không quả, cũng không nhân.
Ông Long Thọ còn một lý luận nữa để thủ tiêu luật nhân quả: Đã nói là vạn vật là vô thường biến đổi, thì làm sao trong chỗ vô thường ấy lại có một cái định luật lâu dài, như luật nhân quả được? Làm sao từ trong cái chớp nhoáng này qua cái chớp nhoáng khác, lại có thể nảy sinh ra những kết quả vô cùng được? Hơn nữa, cái chớp nhoáng trước không thể sanh ra cái chớp nhoáng sau được. Cho nên không có nhân, không có quả, cũng không có gì sanh, không có gì diệt, không có gì trường cửu, không có gì không trường cửu.
Sau khi triệt các nền móng của tư tưởng, ông Long Thọ chỉ còn bứng gốc cái tư tưởng là xong cuộc khai thác rừng triết lý để trống chỗ cho ông lập điền địa mới của ông: Cái biết (Thức) không thể nhờ ngoại trần và nội tri mà thực hiện được. Trí cũng không thể biết được sự vật bên ngoài, vì ngũ quan, trí não và sự vật chẳng bao giờ kề sát nhau, tức là không thể phù hợp tương đồng với nhau, thì sự quy nhứt của cả ba phần ấy không thành tựu được. Như thế, nếu nói có cái biết, xin hỏi cái gì biết? Cái trí không biết lấy nó được, cũng như cái đầu ngón tay không thể tự rờ đụng lấy nó được: lưỡi dao không thể tự cắt lấy nó được.
Có người hỏi ông Long Thọ vậy chớ những biện luận của ông ở đâu ra? Ông trả lời: Nếu tôi nói rằng biện luận ấy phát sinh do cái biết thì tôi là kẻ nói bậy.
Bấy nhiêu đủ biết rằng ông Tổ sư Tam Luận tông ỷ tài ỷ tận nói cho hoác xước, đến nước bí phải tự thú rằng ông là người nói bậy. Nếu ông không phải là người điên chữ, thì ông cũng là một phần tử phá hoại Phật giáo chơn truyền.
Ông Long Thọ không biết có trời đất vạn vật, không nhìn nhận có nhân có quả, có thời gian không gian, không tin có tư tưởng và sự hiểu biết, để lập ra một đạo giáo gọi là Chơn không. Nhưng cái Chơn không của ông là cái vừa có mà cũng vừa không, hoặc không có mà cũng không không. Riêng cái có hoặc riêng cái không chẳng phải chơn lý. Chơn lý là trạng thái của người đã vượt khỏi hai cái quan niệm Có và Không, nghĩa là chỗ không thể lo nghĩ được, gọi là “Bất khả tư nghì”, là Niết bàn.
Lý luận của ông Long Thọ có thể gọi là kỳ quái. Một mặt ông bài xích tất cả những bằng cứ về vũ trụ, về nhơn sanh, về tư tưởng; Mặt khác ông lại nói rằng: Nếu đời là một cơn ác mộng, sự làm lành hẳn thật là một giấc chiêm bao tốt nhứt, còn vạn vật là bào ảnh, thì tham thiền nhập định khác nào ở cảnh giới thần tiên.
Từ thuyết Hư vô, ông trở lại chỗ thực tại. Bề ngoài là ảo mộng, sau cái ảo mộng đó chính là Niết bàn tuyệt đối. Đời là rỗng không, mà rỗng không là Niết bàn. Niết bàn là Phật, ta cũng là Phật, bởi ta cũng là rỗng không. Chính đây là then chốt thần bí của Tam Luận tông. Luận như ông Long Thọ cũng đủ chứng Niết bàn rồi, cần gì phải tu.
Biện chứng phá hoại của ông Long Thọ là một lối đàm thoại dễ mà chơi. Chính ông nói như thế.
Thấy Phật Gotama đóng chặt gầm trời Phật giáo trong Giới Định tuệ, giết chết linh hồn và cầm cố con người trong thế giới hiện tượng, muốn được tự do, ông Long Thọ phải tìm phương pháp giải thoát khỏi phạm vi tồi túng của Phật giáo, ông nhứt định đạp đổ cái thế giới hiện tượng, để thực hiện ý muốn của ông và mở đường tẩu thoát qua cảnh giới siêu hình. Ông cũng không ngờ rằng ông là người dọn đường khai thác cho những thuyết Duy Tâm tự do phát triển, trong giới Tân tiến.
Đức Phật đã nói rằng có biện chứng nào đem con người đến đạo quả Niết bàn. Tài trí của ông Long Thọ đã không đem lại lợi ích cho ông, mà còn lây mầm tà kiến, ngã mạn cho những người chạy theo biện chứng của ông.
2 – VIJNANAVADA: Duy Thức hay Pháp Tưởng tông, cũng gọi là YOGACRA: Dù Dà tông: Tông này lập ra bởi hai anh em ông Asanga (Vô Trước) và Vasubandhu (Thiên Thế Thân). Hai ông này sanh trưởng tại Peshawer, xứ Gandhara, là nơi Phật giáo Tân tiến phát triển mạnh bạo theo phong tập người Hy Lạp, trong thế kỷ thứ IV, kỷ nguyên này, vì thời ấy Ấn Độ bị người Hy Lạp xâm chiếm. Ông Thiên Thân sống dưới sự bảo hộ của hoàng tử Gupta Samudragupta Ier. Khi ông hoàng này lên ngôi năm 326, ông Thiên Thân được bổ sung làm chức Thái phó. Dưới chế độ đô hộ có lẽ ông gặp uất trắc, nên ông và anh ông bỏ nơi chôn nhau cắt rún, đến Behar là chỗ Phật Địa, xuất gia theo Tiểu thừa Tân tiến.
Ông Thiên Thân lập ra Câu Xá tông, tưởng cùng anh mình xây dựng mối đạo cho lâu dài, chẳng dè ông Vô Trước bỏ ra đi nơi khác, tạo lập một sự nghiệp riêng, là Duy Thức tông vậy. Thấy sự nghiệp này có mòi thạnh đạt, ông Vô Trước trở lại cảm hóa em, để cùng nhau đi chung một đường. Ông Thiên Thân bỏ Câu Xá tông qua phụ giúp cho ông Vô Trước rất đắc lực. Hai anh em viết ra nhiều quyển sách giáo khoa cho phái Duy Thức. Tác phẩm của ông Vô Trước là: quyển Yogacara Bhumi Castra Dù Dà Sư Địa Luận, (của Bồ tát Di Lạc hiện xuống (1) đọc cho ông chép ra), dạy về phương pháp tu tâm.
Quyển Yoga castra: Dù Dà Luận.
Quyển Mahayana sutralamkara catra: Đại Thừa Trang Nghiêm Luận, nói về giáo lý tổng quát Đại thừa Duy thức.
Quyển Mahayyana Abhidharma Sangiti Castra: Đại thừa A-Tì-Đạt-Ma kết tập, dạy về các phép siêu hình Đại thừa.
Quyển Mahayana Samparigraha castra: Nhiếp Đại Thừa Luận, dạy về ý nghĩa bao quát Đại thừa. Quyển này được ông Paramartha (Chơn Đế) dịch ra hán văn trong năm 563 và truyền bá qua Nhật Bổn làm sách giáo khoa cho phái Shoron và phái Kegon.
Ông Thiên Thân cũng viết nhiều bộ sách về Duy Thức như quyển: Saddharmapundarikopadesa Diệu Pháp Liên Hoa kinh Ưu Bà Đề Xá.
Dasadhumika sutra castra: Thập Địa Kinh Luận.
(1) Triệu chứng thiên về Huyền bí.
Sukhavativyunopadcsa: Vô Lượng Thọ kinh Ưu-bà-đề-xá nguyệt sanh kệ:
Nirvana castra: Niết Bàn Luận.
Gayasirsasutratika: Văn-Thù Sư -Lợi Bồ tát vấn Bồ đề kinh luậnv.v...
Ông có rất nhiều đệ tử đại tài, như các ông: Dinnaga. Sthiramati, Dharmapala (Đàm-ma Ba-la), ciladhara (Giới Hiền), Jayascna, Candragomin (thế kỷ thứ V tới thứ VII).
Lúc ông Huyền Trang qua Ấn Độ (630) gặp ông Cilabhadra, đương làm Hiệu trưởng Đại học đường Nalanda, tại Berar, là một trường triết học danh tiếng nhứt, đã sản xuất rất nhiều bực kỳ tài về văn chương và triết học. Sau khi khảo cứu Duy Thức Luận tại Đại học ĐườngNalanda thầy Huyền Trang rất vui mừng gặp được môn sở thích, liền xin thọ giáo với ông Cilabdadra (Giới Hiền), lúc ấy ông này được 106 tuổi (633) (1).
Duy Thức tông được thầy Huyền Trang đem về truyền bá ở Tàu từ năm 645. Một nhà sư Nhật tên là Dosho Thỉnh bộ Duy Thức về mở đạo tại nước nhà, lập ra phái Hosso. Qua năm 712, phái Hosso được thạnh hành nhờ một danh sư trổ tài giảng giải, là ông Genho.
Tuy rằng Duy Thức tông nhìn nhận cái thuyết “Chơn không” (Cunya) của ông Long Thọ, nhưng họ không chịu cái biện chứng nghịch ngợm và trái ngược với lý trí của ông Long Thọ. Họ giải thích thuyết Chơn không một cách khác. Cũng như ông Tổ sư Tam luận, họ công nhận vạn hữu là ảo giác, nhưng nếu nói ảo giác, hay ảo tưởng, tức là phải có cái gì khác, cái gì tưởng. Cũng như khi nói Hư vô hay Chơn không tất phải hiểu rằng có một vật chứa đựng mà trong ấy.
(1) Thầy Huyền Trang đến đây học đạo trong thời kỳ cách xa ngày Phật Gotama nhập Niết bàn 1.257 năm, là thời kỳ chánh pháp không còn tồn tại ở Ấn Độ.
Không có đồ bị chứa. Vật chứa đựng chính là cái tư tưởng rỗng không: Không có khách quan, chủ quan và sự biết. Chơn không là cái tuyệt đối không phát biểu. Từ trong cái tuyệt đối không phát biểu ấy, mới nảy sanh cái tuyệt đối phát biểu, là cái Alaya Vijinama (A-lại-da thức)(1).
Thế giới bên ngoài không có, chẳng những không có về phần siêu hình, lại cũng không có về phần phương diện sắc tướng và kinh nghiệm. Cái thật có là cái tư tưởng, chẳng những nó tự biết lấy nó, mà nó còn biết luôn cả biểu tượng của nó.
Ông Thiên Thân nói: Cái hiện hữu của một quan niệm được xác định, là khi nào ta biết rằng phần khách quan của quan niệm ấy là hư ảo. Ta biết có một vật bên ngoài, hoặc ta tự cho ta có một cái bản ngã, là nhớ những hiện tượng phát sanh trong trí não. Hiện tượng trong trí não ấy có thật, nhưng chẳng gọi rằng có một cách tuyệt đối; Bởi vật được biết và cái biết đều là hình thức của tư tưởng; Phần khách quan, chủ quan và cái biết, cả ba đều là ba cái tưởng của một tư tưởng thôi. Nhưng ba tưởng ấy không thật có. Cái được gọi là thật có là cái tư tưởng rỗng không (2). Tư tưởng rỗng không ấy chính là cái A-lai-da thức, là nơi chứa đựng tất cả những hình ảnh, nơi phát sanh vũ trụ và tâm thức. Toàn thể các pháp, hiện tượng, dục giới, sắc giới, vô sắc giới mà có ra cũng do nơi tâm thức.
(1) Đây là cách tu chính, sửa chữa biện chứng của Tam Luận tông để ứng dụng qua Duy thức. Duy Thức tông cũng có thể coi như một nhóm đứng ra hòa giải hai thuyết Hư vô của ông Long Thọ và Như Lai tự tánh của ông Mã Minh mà chúng ta sẽ có dịp bàn đến.
(2) Ông Long Thọ đã thủ tiêu cái tư tưởng và cái thức, bây giờ tới phiên ông Thiên Thân tái lập. Cậm cụi đọc qua tác phẩm của các triết gia này thật mệt trí lao công, nhưng cũng ráng đọc để chỉ cho các bạn tu hành thấy rõ nó là món thuốc độc của tin thần.
Ông Thiên Thân nói rằng thế giới chỉ là quan niệm, là tư tưởng, là ý, là thức. Ông Vô Trước cho biết rằng học thuyết của ông không ngoài cái thức. Vũ trụ của Duy Thức Luận bao hàm tất cả hiện tượng, tất cả động tác của tư tưởng, thì cái A-lại-da thức hay cái tiềm thức của vũ trụ chính là cái bản tính siêu việt, là chủ quan tuyệt đối duy nhứt, là mẹ sanh của nuôn loài vạn vật, là nơi chứa đựng các quả báo để giờ chuyển hóa ra nhân.
Cái Ta hư hoặc đã bị phá hủy và được thay thế bằng cái Tâm phổ biến không phân chia bỉ thử, gồm cả chúng sanh đồng nhứt như nhau. Cũng như biển cả vừa trường tồn vừa biến đổi, A-lại-da thức là một thực thể vừa vô hình, vừa sanh ra vạn trạng. Nó là cái tinh hoa của cái biết, mà chính nó không biết chi cả. Không thể xem nó như cái Thức, nhưng nó là chủ tể của tinh thần và vật chất, của tư tưởng và không gian.
Cái tinh hoa của sự vật là tư tưởng: Sự phân biệt và chủ quan, khách quan và tâm thức của mỗi cá nhân là Vô minh. Tư tưởng rỗng không là trạng thái cao cả hơn cái ngã và cái Vô ngã, một trạng thái siêu việt, tuyệt đối, không thể dùng biện chứng mà ngộ được, chỉ có trực giác mới đưa hành giả đến chỗ tiêu giao khoái lạc.
Tóm lại cái A-lại-da thức này là một danh từ đồng nghĩa với cái Chơn không của Tam Luận tông và cái Brahina (Thần Bà-La-Ma) của Bà-la-môn giáo.
Hai anh em ông Vô Trước và Thiên Thân dựa theo triết lý của các bậc tiền bối, mong đi sâu thêm một đôi dặm đường vào cõi siêu hình, chẳng dè cũng bị chặn đứng dưới chơn tường bí mật làm ranh giới giữa cảnh tương đối và tuyệt đối. Màn Vô minh chưa vén hé được, hai ông vẫn còn ở trong vòng luẩn quẩn của lý trí. Câu chuyện sau đây là một bằng chứng mà nhiều Phật tử không muốn hiểu sự thật:
Chúng ta còn nhớ hai anh em ông Vô Trước và Thiên Thân đã bỏ xứ Gandhara đến Behar lập sự nghiệp. Ông Thiên Thân khởi dựng ra Câu-Xá tông. Ông Vô Trước thấy phận làm anh không lẽ nương nhờ nơi em, nên tách ra đi lập thân. Đến xứ Oude, ông dựng lên Duy Thức tông được nhiều người sùng mộ. Đôi phen ông rủ em ông đến hiệp tác với ông để khuyết trương mối đạo. Ông Thiên Thân tiếc cơ đồ không chịu theo anh.
Ngày nọ, ông Vô Trước sắp đặt mưu chước cám dỗ rồi mời em đến chơi tại chùa Ayodhia, xứ Oude. Khi ông Thiên Thân đến nơi, ông Vô Trước tiếp rước em một cách niềm nỡ trọng hậu, và trong khi chuyện vãn với em, ông chẳng hề đàm luận về đạo lý. Sau khi cơm nước xong xuôi, ông đưa em ông lên an nghỉ trên một tòa lầu, dựa mé sông Hằng (Gange). Đêm ấy nhằm trăng thu rạng tỏ, trời thanh trong trắng. Giữa khoảng trống của nhành cây bồ đề và thốt nốt, bóng trăng chiếu rọi mặt nước ao hồ, đầy hoa sen đua nở. Ông Thiên Thân mới ngồi dựa cửa sổ trầm ngâm niệm tưởng. Thình lình có một chú tiểu đến đứng ngay dưới cửa sổ cất tiếng tụng một bài kinh huyền bí. Ông Thiên Thân lấy làm lạ, lóng tai nghe. Ban đầu ông ngạc nhiên, sau lại càng nghe càng thấm, càng mê, càng thích, cho đến nỗi nước mắt tuôn rơi hai hàng. Chừng chú tiểu dứt đọc rồi, ông mới nghĩ và so sánh thì ông nhận thấy triết lý Tiểu thừa của ông rất khô khan cạn cợt, không thể sánh với bài kinh của ông vừa nghe, và than rằng: Trước kia ta trót lầm tưởng rằng con người không thể trọng vây nương nhờ nơi oai lực thần thông của Phật, và kết quả của sự tu hành là đến chỗ không không. Chẳng dè đức Phật từ bi vô lượng, bằng thị hiện luôn luôn giữa tín đồ và phận sự của người Phật tử là phải tìm con đường huyền bí, để quy hồi thao Phật (1). Rồi ông nghĩ cho ông là người đã mang tội phỉ báng Phật Pháp, nên ông chụp bẻ lá sậy dựa hiên nhà, quyết cắt bỏ cái lưỡi của ông để đền bù tội lỗi.
(1)Một bằng thứ nhứt chỉ rằng ông Thiên Thân chưa thông hiểu giáo pháp của Phật Gotama.
Ông Vô Trước chực sẵn sau lưng, bước tới chụp tay em và nhỏ nhẹ thốt rằng: Em, chẳng nên làm vậy, từ đây cái lưỡi của em sẽ được dùng để thuyết minh chơn lý.
Từ đó trở về sau, ông Thiên Thân bỏ Câu Xá tông theo anh đi mở đạo, hoằng hóa Pháp Tướng tông cúng khắp xứ Cachemir, Nepal, Behar, cho đến ngày lìa bỏ thế gian tại chùa Ayodhia, năm 350.
Trước kia ông Vô Trước, Thiên Thân và đệ tử ruột của hai ông là thầy Buddhasimha, cùng nhau thệ nguyện và giao kết rằng trong ba thầy trò nếu ai chết trước, phải trở về cho biết những huyền vi bí ẩn của bên kia lằn mức thế gian, để chỉ dạy cho nhau (1).
Ít ngày sau khi ông Thiên Thân qua đời, một đêm nọ ông Vô Trước đương ngồi mật niệm với các đồ đệ của ông, bỗng thấy hào quang chiếu sáng cả tịnh thất, hồn ông Thiên Thân hiện về cất tiếng dạy rằng: Ta nay đã gặp được đức Phật Maitreya (Di Lạc) rồi (2). Gương mặt ông quang minh tươi sáng, người người dòm xem không mỏi mắt. Lại có đủ thánh thần đông đầy hầu hạ, dâng hoa cúng trầm và ca tụng vang rân.
Người mê tín cho đó là linh thiêng, bực chánh tín xem như tiểu thuyết.
Mục đích của các triết học gia này là viết sách nuôi mạng.
(1) Bằng chứng thứ hai chỉ rằng thầy trò ông Vô Trước, ông Thiên Thân còn ở trong vòng luẩn quẩn của triết lý.
(2) Phật Di Lạc chưa ra đời mà ông Thiên Thân lại gặp. Ông không thể gặp được Phật Tổ Gotama, trong giới huyền bí, là giới đại kỵ của người đã tìm được chơn lý. Đây để chứng tỏ rằng hai ông Tổ sư Duy Thức tông đã lập đạo ở bên ngoài giáo pháp của Phật Thích Ca.
Người ta còn nhớ trong quyển Dù Dà Luận (Yoga castra), ông Vô Trước có dạy rằng: Vì mục đích cao thượng và bác ái, các thầy tu phải rứt bỏ cái nghèo của mấy ông Tỳ khưu phái xưa, để thâu thập tài sản, sự nghiệp, vàng bạc, châu báu, hầu giúp ích cho kẻ khác. Và trước kia ông Thiên Thân có viết trong cuốn A-Tì-Đạt-Ma Câu-Xá Luận (Abhidharma kosa Castra) rằng giáo pháp của đức Phật đã tới ngày cùng, giờ đây là thời kỳ của tật xấu, ai muốn giải thoát phải tu cho gấp. Ý ông muốn biểu người ta với ông. Lúc ấy đốt đuốc kiếm Phật pháp chánh truyền cũng không ra, bởi Bà la môn đã bứng tận gốc rễ, thánh kinh còn lại đã bị đốt hết, cổ pháp chùa thờ Phật Gotama đều bị phá hủy tan nát.
ĐẠI – THỪA TÂN – TIẾN
I – AVATAMSAKA: Hoa Nghiêm tông kinh Avatamsaka (Hoa Nghiêm) là tác phẩm của ông Long Thọ luận về Cunya (Chơn không), hồi thế kỷ thứ I, kỷ nguyên này. Nhưng đây lại nói về thuyết Bhuta Tathata (Phật tánh) của ông Acvaghosa (Mã Minh), trong thế kỷ thứ II. Bởi hai thuyết Chơn không và Phật tánh hay Như Lai tự tánh mường tượng nhau, nên có nhiều soạn giả lầm dịch là Hoa Nghiêm tông, nên để Phật Tánh tông hay Như Lai Tự Tánh tông mới đúng cho.
Tổ Sư tông này, ông Acvaghosa: Mã Minh, là một người Bà la môn, sanh trưởng tại Caketa, trong tỉnh Oude, giữa thế kỷ thứ II, kỷ nguyên này. Ông là vị quân sư của vua Kaniahka, trị vì xứ Behar. Nhờ một đồ đệ của ông Long Thọ khuyến dụ ông gia nhập môn theo Đại thừa Tân tiến.
Ông Mã Minh là tác giả của: quyển Buddha Carita (Phật sở hành tán), là một tập thi ca khen ngợi đời sống của đức Phật.
Quyển Mahayana Craddhotpada (Đại thừa khởi tín luận, là một tập luận đầu tiên của Đại thừa Tân tiến, nói về thuyết Bhuta Tathata (Phật tánh). Thuyết này mường tượng với thuyết chơn không của ông Long Thọ và cũng tương tự với thuyết A-lại-da thức của ông Vô Trước. Thuyết A-lại-da thức chính của ông Mã Minh bày ra, sau lại ông Vô Trước lấy đó mà lập luận thêm.
Ông Mã Minh phân tư tưởng ra hai cảnh tượng: cảnh tượng thay đổi, tức là Luân hồi và cảnh tượng vĩnh viễn tức là Phật tánh. Phật tánh tự hiển xuất, bất biến và bao quát cả vạn vật. Nó là cái định lý của sanh mạng. Là bản thể siêu hình, không thể dùng trí óc (1) mà hiểu được, chỉ có trực giác mới chứng ngộ được thôi. Tùy theo mỗi biểu hiện của nó, người ta đặt cho nó nhiều tên khác nhau. Nếu nói về cái tinh hoa của chư Phật, gọi nó là Phật tánh (Bhuta Tathata), về sự tồn tại của thực vật, gọi nó là Pháp (Dharma), về nguyên lý của trí tuệ, gọi nó là Bồ đề (bodhi), về trạng thái của Tâm đã đoạn tuyệt ái dục, gọi nó là Niết bàn (Niryana), về chủ trì sáng suốt theo triều lưu vạn vật, gọi là Bát nhã (Prajha). Về sự không chấp Có và chấp Không, gọi nó là Chơn như (Cunyata), về phôi chủng của càn khôn vạn vật, gọi nó là Như Lai tạng (Tuthagatagarba).
Hình thức hữu lậu của Phật tánh là thế giới hiện tượng, có tâm thức làm chủ quan, và ngoại trần làm khách quan, tức là cái Chơn không hay cái Luân hồi. Hình thức vô lậu của Phật tánh là trạng thái bất khả tư nghì, tức là Niết bàn. Ngoài Phật tánh không có vật chất và tinh thần, Phật tánh vừa là trạng thái tuyệt đối và tương đối, vừa là bản thể mà cũng vừa là hình thức biến chuyển của sự vật. Nó là vật.
(1)Tổ sư cũng nói như các ngài đã có trực giác và chỉ một luận điệu in nhau.
Vật chất và tinh thần, là sống và chết, là Luân hồi và Niết bàn, là Tương đối và Tuyệt đối.
Đây là một biện chứng mù mờ, không ranh giới, không phân minh, muốn dễ hiểu người ta thường so sánh Phật tánh như nước yên lặng, và hình thức thay đổi của nó sóng chao trên mặt nước.
Theo ông Mã Minh thì trạng thái khách quan của Phật tánh là cái Như Lai tạng, tức là mẹ sanh của thế giới bên ngoài, còn hình trạng chủ quan của nó là cái A lại da thức, tức là mẹ sanh của nguồn tư tưởng. Đại thế giới là con người, hai bên mà vẫn một thể tánh.
Tóm lại lý thuyết Phật tánh của ông Mã Minh, là đường lối khai thác cho Đại thừa Tân tiến trở về với giáo lý phiến thần cũ kỹ của đạo Bà la môn. Chính trong kinh Upanishads (Ưu-ba-ni-tat) đã có ghi chép những câu: Tương đối và tuyệt đối vốn chẳng phải hai, nước biển và sóng biển vẫn đồng nhứt thể.
Ông Mã Minh, cũng như các tổ khác, thuộc dòng Bà la môn nên chỉ ông dùng tài biện luận, gạt tín đồ Phật giáo theo về với Bà la môn. Trong quyển Buddha carita (Phật sở hành tân) ông đã khởi xướng truất phế Phật Thích Ca để thay thế vào ngôi vị giáo chủ một ông Phật khác. Từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ XX, trong giới thiện tri thức Cao Ly, Trung Hoa, Nhật Bổn không ai để ý đến mưu mô xảo quyệt của bọn Bà la môn và đứng ra kêu gào tín đồ trở về nguyện bổn.
II - THIÊN THAI TÔNG. – Cuối thế kỷ thứ VI, một nhà sư Tàu tên Trí Khải sáng tạo một ngôi chùa nguy nga trên núi Thiên Thai, tại tỉnh Chiết Giang. Ông lập ra một tông mới cũng lấy tên là Thiên Thai tông (570). Ông chiết trong giáo lý của Tam Luận tông, Hoa Nghiêm tông và Thiền Na tông, để lập ra một đạo tổng hợp. Chế độ tu hành của Thiên Thai tông được nhiều người hoan nghinh ưa thích. Đến năm 805 có vị Tăng Nhật Bổn tên Dengyo Daishi qua Tàu khảo cứu Thiên Thai tông đem về xứ mở đạo. Ông cũng theo gương ngài Trí Khải, chọn hòn núi Hieizan, lập một cảnh chùa đồ sộ có danh tiếng nhứt, tên Enryakuji, được nhiều người thọ giáo nhập đạo.
Thấy rằng Phật giáo Tân tiến chia ra hai phe đối chọi, một phe nhìn nhận có sự vật bên ngoài, mặc dầu là tương đối; Phe khác lại cho rằng không có chi hết, Đại đức Trí Khải căn cứ vào thuyết Như Lai Tự Tánh để dung hòa cả hai bên. Với thuyết Như Lai Tự Tánh, muốn luận xuôi cũng được mà muốn giải ngược cũng xong. Dùng thuyết ấy làm nền tảng lập pháp, ngài Trí Khải thừa nhận những lý lẽ bài bác đối chọi của chánh đề và phản đề, rồi áp dụng biện pháp hòa giải các đạo giáo tương phản. Thành ra Thiên Thai tông là một đạo rất hoan hỷ, dễ dãi, khỏi phải mệt lòng lo nghĩ bao la, khỏi phải bận trí tìm hiểu xa vời, con người được thảnh thơi an nhàn, thì bề tu tâm dưỡng tánh mới được mau chứng ngộ Phật tánh. Tìm được Phật tánh, cũng tìm được nguồn cội của cái Có và cái Không và trong ấy Có và Không là đồng nhứt.
Trong khi tọa thiền, hành giả phải tự thấy và chắc rằng mình sẽ thành Phật, miễn là Tâm trụ được trong danh hiệu Phật, dầu là một lần cũng đủ thành Phật, vì Phật và Ta là đồng nhứt.
Theo học thuyết người Nhật thì súc vật, cây cỏ, đất đá thì cũng có thể thành Phật cả.
Có không, phải quấy, hư thiệt, một khi vào lò Thiên Thai rồi thì hết còn tương phản, xung khắc, hết còn giá trị cao thấp, lại được đồng hóa ra một màu, một giống in nhau; Chính đây là phương pháp tối thượng, để chứng ngộ cái Như Lai tự tánh vậy.
Phá tan được sự tranh chấp giữa tông này phái nọ, Tổ sư Trí Khải chứng tỏ rằng tinh thần của ngài cao cả hơn các Tổ khác, cho nên Thiên Thai tông đáng gọi là tối thượng vậy.
Muốn học đạo tối thượng, phải biết phân biệt phải quấy chánh tà. Khi gặp quấy, không bất bình với cái quấy, lúc gần tà, không cảm nhiễm theo tà; Thấy phải, học đòi theo cái phải, gặp chánh, rước lấy cái chánh. Không dùng trí tuệ suy xét phán đoán, đạo nào cũng theo, tôn chỉ nào cũng cho là của Phật; Vì đó mà Phật giáo đồ không đồng nhứt, không đồng tâm, cũng không đồng một Như như tự tánh.
Mặc tình thế gian bài bác biện luận, Tổ sư Trí Khải không thiên không chấp, giữ tâm thanh tịnh theo về với Phật. Làm sái tôn chỉ của ngài là bội sư phản Phật vậy.
***
III CHƠN NGÔN TÔNG HAY MẬT TÔNG HAY PHÙ CHÚ GIÁO
Một cái thuyết về Phật tánh chưa đủ cho sự tiến triển của Thần Bí giáo, bởi một khi nó được khai thác rồi, thì càng ngày nó càng phải tiến bộ thêm lên. Giai đoạn mới trong sự biến chuyển của Đại thừa Tân tiến, chính là sự thành lập Chơn Ngôn tông vậy.
Tổ sư của tông này không ai khác hơn là ông Long Thọ. Những đồ đệ kế thừa chuyên môn của ông về tông này là: Ô.Ô.Nagabodhi (Long Trí), Vajrabodhi (Kim Cang Trí), Amoghavajra (Bất Không Kim Cang).
Năm 719 ông Kim Cang Trí qua Tàu truyền bá giáo pháp Mật tông. Qua năm 733, đệ tử của ông là ông Bất Không Kim Cang nối gót theo thầy qua Tàu. Hai thầy trò chung lo hoằng dương Mật tông, thâu được rất nhiều tín đồ.
Qua năm 805, một nhà sư Nhật tên Kôbô Daishi sang Tàu học đạo đem về xứ lập ra phái Shingon, và cất một cảnh chùa đồ sộ đặt tên là chùa Kôyasan. Chùa này thờ Adibouddha (Bố Di Sơ Phật) và chuyên dạy toàn là phù chú.
Mật tông dạy rằng Phật tánh, cái thật tướng tuyệt đối hay cái tinh hoa của sự vật chính là đức Maha Vairocana (Đại Nhựt Phật). Ngài là cái bản thể siêu hình, cái tâm linh của vũ trụ. Mối liên quan giữa Ngài và nhơn loại, kết cấu do ba điều bí mật về thân, về khẩu, về ý (1). Phát giác được ba điều bí mật này, thì đắc Niết bàn, nghĩa là vào cảnh giới siêu hình (2) của Đại Nhựt Phật.
Đại Nhựt Phật là ngôi Toàn Tri, Hóa Công của càn khôn vạn vật. Tất cả chúng sinh: Trời, người, thú đều là biểu hiện của toàn năng và ý muốn của ngài (3), cho đến trong hột cát, trong nhỏ nước cũng có bản thể và sinh lực của ngài. Thân khẩu ý của ngài bao hàm cả vũ trụ và cả mỗi phần vi tế trong vũ trụ.
Đại Nhựt Phật là thực thể, khi thực thể ấy biểu hiện, thì vạn vật sanh hóa. Người hành đạo phải tự biết mình là Phật và phải tự tôn mình như Phật. Muốn thực nghiệm phải tùy theo phương pháp ma thuật, phải có dùng linh phù, chơn ngôn thần chú và pháp ấn, thì hành giả mới siêu thoát sanh tử luân hồi gọi là con đường tu tắt về Niết bàn.
(1) Bí mật về ý của linh phù, về khẩu là chơn ngôn thần chú, về thân là pháp ấn.
(2) Phương pháp hợp hóa siêu hình này là thiền định theo Dù Dà.
(3) Đây là hình thức phổ biến của thầy Bà la môn.
Mật tông còn kêu là Kim Cang tông. Hai chữ Kim Cang có nhiều nghĩa: Hột xoàng, Sét (búa) của Trời Đế Thích hoặc của các vị thần, quyền trượng ngọc ấn của các thầy cầm tay trong khi hành lễ, phù hiệu của Chơn không tuyệt đối. Kim Cang là một tông cao cả hơn các tông khác, bởi hành giả tiến đến mức cứu cánh mau lẹ. Tu theo hạnh Bồ tát còn phải trải qua nhiều đời kiếp để thực hành lục độ, tu theo Kim Cang thành Phật trong nháy mắt. Không bắt buộc trau dồi hạnh kiểm, được phép uống rượu, được phép có vợ, miễn là, trong khi hành đạo, biết cố gắng mở mang trực giác chứng được Chơn không thì đắc quả Phật chẳng sai. Dầu tin hay không tin có sự linh nghiệm huyền bí, trong lúc niệm phù bắt ấn phải làm cho đúng và phải tưởng rằng linh, thì có kết quả.
Một vị Đại sư Nhật, tên Tomika Kojun có viết trong quyển Kim Cang (Himitsu Hyakuwa) như vầy: Mật tông không buộc diệt bỏ những lầm lạc và tình dục, trái lại phải gìn giữ nó nguyên vẹn và luyện lọc cho nó tinh vi. Khi nước ngập đến chót nước bên này, tự nhiên nó tuôn chảy qua bên kia; tình dục cũng như thế ấy, khi nó phát triển đến cực điểm, nó hết còn là chướng ngại vật nữa. Nếu muốn tiến tới, phải biết chịu đựng với khổ và phải trải qua bao nhiêu lầm lạc, khổ và lầm lạc là mẹ của sự thành công.
Ông Aryadeva (Đề Bà), đệ tử của ông Long Thọ cũng có nói rằng thau có thể trở thành vàng y, nếu biết sơn nó bằng một lớp sơn huyền bí, bực trí tuệ nên biết rằng tình dục là vật hỗ trợ của hạnh phúc. Tình dục làm say đắm người đời, nhưng chỉ có tình dục mới giải thoát cái đời. Vì đó mà điện trong chùa có thờ nhiều vị thần tình dục và có chưng những tranh ảnh về tình dục.
Kinh Pháp Hoa dạy rằng người phụ nữ không thể thành Phật được, trước phải tu và nguyện thành người nam rồi mới có thể thực hành chí nguyện. Nơi Tây phương Cực lạc cũng chẳng có phụ nữ, chính đó là lời nguyện của Phật Di Đà. Phật Thích Ca cũng cấm một cách nghiêm ngặt không cho các thầy Tỳ khưu mơ tưởng gần gũi phụ nữ.
Bậc xuất gia trong Phật giáo nhất định phải giữ tròn trinh tiết. Cư sĩ mỗi tháng cũng có tám ngày xuất gia tạm, mà Mật tông lại xem sự giao cấu như một phương pháp huyền diệu để tiến vào cõi siêu hình. Người tu của tông này, khi rèn đúc tinh thần được cứng rắn, không để cho thú tánh làm chủ, có thể ăn ở với phụ nữ mà không phạm giới luật. Cho nên khi Phật giáo bị bứng gốc rồi, tại Népal các thầy tu ở chung với vợ trong chùa, tu sĩ ở Tây Tạng và Nhật Bổn cũng đồng noi gương tốt đẹp ấy tới giờ.
Ông thầy dạy Mật tông được coi như Phật sống, tượng trưng của Tam bảo. Thờ Phật gỗ Phật đá đến ngàn năm muôn kiếp, cũng không giải thoát được, chỉ nhờ thầy mà thành Phật, nên phải kính trọng và cúng dưỡng ông. Có vật chi quý báu phải dâng cúng cho thầy: vàng ngọc, tượng voi, tôi tớ cho đến vợ đẹp, con xinh. Thầy thọ hưởng là chư Phật thọ hưởng, phước báu vô lượng. Thầy không dạy bùa chú, ấn pháp và huyền bí của đạo, không ai khám phá được bí mật siêu hình. Kinh sách toàn dạy những lời u uẩn, bùa chú kỳ quái, không thể đoán được.
Kinh Samyutta Nikaya dạy rằng: hành động của mỗi người bằng thân khẩu ý, là tài sản sự nghiệp của họ. Nó dính theo họ như bóng theo hình. Mật tông lợi dụng chỗ này, lập ra ba pháp huyền bí để hủy diệt cái nghiệp do thân khẩu ý tạo ra: a) Miệng đọc chơn ngôn để cầu đồng hóa với Phật. Muốn hành Đại Nhựt Phật thì đọc: A-VA-RA-HA-KHA. A là đất; VA là nước; RA là lửa; HA là gió; KHA là hư không. Lục tự đại minh chơn ngôn trong kinh Phổ Môn (Pháp Hoa) cũng là một câu chú của Mật tông. Chúng ta thường đọc: Án ma ni bát mi hồng, không trúng giọng, nên đọc Ôm ma ni pad me hum. Câu này có nghĩa là cầu xin thông hóa với vị Nữ thần Manipadma (Ngọc trong Hoa Sen), chúng ta ám hiểu là Phật Bà Quan Âm. Chữ Om (A.U.M) theo Tây Tạng có nghĩa là Phật Pháp Tăng. Chữ “Hum” có quyền lực đánh đuổi tà ma.
a) Linh phù đặt trong một vòng tròn, có hoa sen, để làm đề mục gom thần định trí (về phần ý).
b) Tay thì bắt ấn cho thân chuyển động (về phần thân).
Còn rất nhiều ấn chú để trừ ma, ếm quỷ, trục thần, khiển tướng, Đại bi chú, Lư hương tán, Tịnh khẩu nghiệp, Tịnh tam nghiệp, Án thổ địa chơn ngôn trong kinh Kim Cang, đều là thần chú của Mật tông, do tác giả lượm lặt để vào. Những sự huyền diệu phi thường trong Pháp Hoa cũng do ảnh hưởng của Mật tông mà đặt ra.
Về phương pháp tu luyện theo Mật tông, nếu không có thần chỉ dạy, coi theo kinh sách làm càng ắt nguy hại tánh mạng, không điên khùng cũng thổ huyết ho lao. Tuy vậy trong nhóm tu Phật của chúng ta cũng có một ít người còn mê theo Mật tông, và cũng có người chết rất oan uổng. Hiện giờ cũng thấy một vài tu sĩ trẻ tuổi chuyên tu theo Mật tông. Mấy ngài đã chặt hết đôi ba ngón tay cúng dường cho Phật, mà dường như cũng chưa liễu phù siêu chú, không khéo có ngày các ngài chặt luôn cả cánh tay như thầy Huệ Khả. Các ngài in bùa chú phát cùng chùa, bảo cho người ta coi, hoặc dán trên vách mỗi ngày ra vô dòm xem được phước vô lượng vô biên. Ai có tiền cho mấy ổng làm việc lỗi thời, đã không có phước, lại còn un đúc mấy ổng tự làm cho có tật nguyền, thêm nặng gánh cho xã hội phải nuôi báo cô trọn đời.
**
IV – THIỀN TÔNG
– Đầu thế kỷ thứ VI, kỷ nguyên này, ông Bodhidharma (Bồ Đề Đạt Ma) sanh trưởng tại Dékan, học trò của ông Prajnatara, một vị trưởng lão Đại thừa Tân tiến, lập ra tại Trung Hoa một đạo mới gọi là Thiền tông. Trước kia ông ở Ấn Độ đến năm 520, vì có gây ra một việc bất hòa giữa Tăng chúng, có chỗ nói ông xích mích với nhà vua và sợ tai hại xảy đến, nên ông trốn sang qua Tàu, nhầm trào vua Lương Võ Đế. Không được vua này nạp dung, ông sang lên miền Bắc mở đạo. Ông tịch tại Hồ Nam trong năm 529, mật truyền giáo pháp lại cho một đồ đệ Trung Hoa là thầy Huệ Khả. Từ đó, Thiền tông được lưu truyền xuống cho các Tăng Xán, Đạo Tín, Hoàng Nhẫn, Huệ Năng. Khi Lục tổ Huệ Năng qua đời (703) phái Thiền tông chia ra nhiều phe, lần lần suy đồi.
Giáo lý của Thiền tông căn cứ vào một nguyên tắc với Chơn Ngôn tông: Tâm tức Phật, Phật tức tâm, ngoài tâm không Phật. Tưởng Phật trong tâm là có Phật, tìm Phật ngoài tâm là ảo mộng, phải phản chiếu hồi quang, mới gặp Phật. Đại cương giáo lý Thiền tông chỉ có bấy nhiêu, chính là lời của ông Đạt Ma giảng cho vua Lương Võ Đế nghe.
Tư cách của ông Bồ Đề Đạt Ma đối với Phật Tổ Gotama rất lạ kỳ. Nhà sư này xóa bỏ giáo lý cổ truyền, muốn riêng một mình ông tự tìm giáo lý ấy thôi, nên ông có nói rằng: Đạo quả của Phật Gotama là đạo quả cá nhơn, ai đạo lại không được. Vả lại tiếng Buddha (Phật) chỉ là một danh từ Ấn Độ chẳng phải tên của một người, nó có nghĩa là Toàn giác, mà ai ai cũng có thể chứng được. Ta đây đương thực hành thiền định để chứng đạo quả ấy. Thế thì cần chi phải theo đạo pháp cổ truyền, thánh giáo chẳng lợi ích chi, bởi đó là tượng trưng của một cái Toàn giác đã chết mất rồi, là di tích của một pháp thiền định đã cứng sẵn như đá rồi: Ta cần phải thay thế bằng một pháp thiền định kim thời, một cái Toàn giác cá nhơn mới khác.
Phật Gotama xưa kia, nhờ đêm thanh vắng, ngồi trầm tư mặc tưởng dưới cội Bồ đề mà thành đạo quả, bây giờ ai muốn chứng đạo quả Toàn giác, cứ lặng xét tự tìm lấy trong tâm. Lặng xét thế nào, cũng không thấy Thiền tông chỉ dạy một phương pháp nhứt định, gọi là đạo pháp mới, cứ để mạnh ai nấy tự tìm theo sáng kiến riêng của mình vậy thôi. Ông Đạt Ma nói: Không có cách nào dạy làm Phật, bởi chẳng ai cho ai cái bản thể thần bí được, mỗi người mỗi tự tìm lấy thôi. Người nào ngộ được thì đối với họ không Thiên đàng, không địa ngục, không bỉ thử, không có chi ở ngoài tâm cả. Nhưng muốn thâu đoạt được cái huyền vi ấy, phải có đức tin, một đức tin trọn vẹn, không còn một bợn hoài nghi. Bởi thế nên tụng kinh, khổ hạnh và học hành chẳng bổ ích chi cả. Cảm hứng trong cảnh thần bí là đủ rồi, và cũng trong lúc cảm hứng mà ông Bồ Đề Đạt Ma thuyết pháp cho vua Lương Võ Đế nghe: Tâm ơi! Khi lớn ngươi bao gồm cả vũ trụ, lúc nhỏ mũi kim không qua lọt ngươi. Tâm ơi! Phật ơi! Bởi ngươi mà Ta đến đây (Tàu) lập giáo truyền đạo.
Tôn chỉ của Thiền tông rất giản dị, phải có một đức tin trọn vẹn, không còn một mảy hoài nghi, chẳng cần thờ cúng, bố thí, trì giới, xem kinh, nghe pháp. Nói cho ngay ra thì không cần trau dồi hạnh kiểm đạo đức. Về Thiền định thì tùy nơi hành giả tự tìm Phật trong tâm. Trước mặt vua Lương Võ Đế, Tổ sư Đạt Ma đã tỏ ra là một người không định tĩnh tinh thần:
- Từ khi tức vị đến nay, trẫm đã lập ra rất nhiều cảnh chùa và ấn tống vô số kinh sách, chẳng hay công đức ấy sẽ đem kết quả chi trong kiếp vị lai?
- Tâu bệ hạ, chẳng có kết quả chi hết. Đời người như bóng tối, công đức của bệ hạ chẳng khác nào như cái bóng tối của một bóng tối.
- Vậy thì trẫm phải làm điều chi đáng gọi là cao quý?
- Chẳng có chi là cao quý. Điều chi cũng rỗng không cả thảy.
- Vậy chớ Thiền sư sống cách nào?
- Bần Tăng sống trong giấc mộng, và ráng sức cho đừng nằm mộng nữa và muốn cho chung quanh bần Tăng được yên lặng như Niết bàn.
- Vậy Thiền sư là người gì?
- Bần Tăng cũng chẳng biết bần Tăng là người gì.
Đây là câu chuyện gặp gỡ đầu tiên giữa ông Đạt Ma và vua Lương Võ Đế. Từ Ấn Độ mới bước chơn lên kinh thành Nam Kinh, với mục đích khai đạo lập giáo, trên lãnh thổ Trung Hoa, được một vị đế vương tiếp rước trọng hậu, mà vua ấy lại là một tín đồ rất nhiệt thành với Phật pháp, ông Đạt Ma không biết thừa cơ hội duy nhất, để cảm hóa vị chúa tể Trung Quốc, lại chọc cho ông này nổi trận lôi đình, cho quân hầu đánh gãy răng, đuổi ra khỏi xứ. Người ta nói ông Đạt Ma là Phật sống, có đủ thần thông phép lạ, biết quá khứ, vị lai, nhưng ông lại không biết tâm lý của vua Lương Võ Đế, nên ông thử lòng vua để học một bài học đích đáng. Ông chưa có tha tâm thông, nên lên miền Bắc, ông cũng phải thử lòng người để tìm kẻ có duyên với ông hầu truyền tâm pháp. Đi đến đâu cũng bị bạc đãi đánh đập. Ông từ bi nhẫn nại, cố tìm cho ra người kế nghiệp. Từ khi truyền đạo được cho thầy Huệ Khả rồi, ông xoay mặt vô vách, cố tìm đạo quả Niết bàn, không biết ông tìm ra chưa, rồi kế ông qua đời.
Thầy Huệ Khả, trong lúc hành thiền, cảm hứng thế nào mà sanh ra cuồng tâm, tự lấy dao chặt đứt hết một cánh tay. Để tránh tiếng, người ta nói Tổ sư Đạt Ma thử lòng thầy, thầy muốn tỏ lại cho Tổ biết dạ nhiệt thành của thầy, nên thầy phải hy sinh một cánh tay cúng dường cho Phật. Hy sinh này, đi tới đâu cũng nghe người người ca tụng, cho nên mới có mấy vị tu sĩ thanh niên, noi gương chặt một vài ngón tay, để cầu đạo.
Thiền tông ở Ấn Độ và Tàu là một đạo không mấy thích hợp với người tu Phật, bởi người ta sợ bị tán thất tinh thần. Khi truyền bá qua Nhật Bổn nó trở thành một học phái hoạt bát phi thường.
Năm 729, thầy Dôsen (Đạo Tuyên) khai đạo Thiền tông ở Nhật, nhưng không được thạnh đạt. Qua năm 1168, thầy Eisai (Huệ Khai?) sang Tàu khảo cứu đem về sáng lập đạo Zen. Đến năm 1225, đoàn thể Zen, được thầy Dôgen (Đạo Lẫm) chỉnh đốn và sửa đạo hiệu lại là Sôtô. Không còn là một thần bí giáo, học phái Sôtô chuyên lo đào tạo phẩm hạnh con người, bằng cách trau dồi đức tánh tối cao và tự chủ.
Lý tưởng của đoàn thể Sôtô vượt khỏi các điều lành dữ, tội phước, để khắc chế những vận mạng tốt xấu. Bạo hành, can đảm và thản nhiên trước mọi hoàn cảnh. Tâm hồn nào được đào luyện cứng rắn và giác ngộ rồi thì nó sẽ đồng nhất với càn khôn vạn vật. Nó chẳng còn bối rối trước sự thắng bại, sống chết, dõng mãnh trước những tai ách, họa hoạn, cứng cõi trước các hy vọng và cám dỗ. Người trong đạo Sôtô sánh đời họ như một núi đá giữa biển, không lay chuyển trước các phong ba bảo tố. Họ chẳng chịu ngồi im một chỗ, thích quay cuồng trong chốn hồng trần, để đương đầu với cảnh huống khó khăn với một tinh thần bình tĩnh, nhứt quyết, dũng cảm, khí khái. Các bực anh hùng võ sĩ đều dùng giáo pháp Sôtô để làm quyển kinh nhật tụng của họ. Khí phách của người Nhật được hùng dũng là nhờ nơi đạo Sôtô vậy.
Ngoài học phái Sôtô còn một đoàn thể khác gọi là Hokke do ông Nichiren (Nhựt Liên) lập ra trong thời kỳ 1222-1282, người Nhật coi ông này như ông thánh. Hai phen ông đứng ra chỉ trích Giáo hội tu sĩ do chánh phủ nhìn nhận; Hai phen ông bị tù đày và đến năm 1271, cũng vì nhục mạ Giáo hội nói trên, ông bị án tử hình. Khi đem ông ra pháp trường, giám sát vừa sắp khai đao, trời bỗng nhiên u ám, sấm sét nổ vang, làm cho giám sát kinh sợ buông đao. Nhờ vậy ông được ân xá, trở về hăng hái tiếp tục thực hành nhiệm vụ sứ đồ của ông. Ông có viết một tập vận thư, đầy biện chứng châm chích thành kiến, tập tục trong thời kỳ ấy và giục lòng thiên hạ theo về với tôn chỉ của ông. Nhờ dĩ vãng của ông mà nhiều người phục tùng và cảm mộ.
Giáo lý của ông thuộc loại phiếm thần, thiên về Thiên Thai và Mật tông. Theo Tổ sư Nhựt Kiên, Phật là bản thể của vũ trụ, là tâm hồn của vạn vật. Phật quá khứ, hiện tại, vị lai vẫn có một. Toàn thể vũ trụ là thân của Phật; Hồn của con người là hồn của Phật; tâm của con người là tâm của Phật, bởi thế nên ai ai cũng có thể thành Phật. Người nào được Phật khai ngộ, thì sống một cách tương thân tương ái với đồng loại vì đức tánh của Phật là đức tánh cố hữu của trời người, súc sanh ngạ quỷ.
Chủ nghĩa của ngài Nhựt Liên là chủ nghĩa bình dân, đạo đức. Chính ngài cũng không tĩnh tọa tham thiền như các nhà sư, suốt đời ngài vẫn tranh luận với các nhà quyền thế, để binh vực quyền lợi dân chúng, nên được nhiều người kính mến.
Tóm tắt đạo của Tổ sư Nhựt Liên không còn tánh cách thoát ly thế tục như giáo pháp của Phật Gotama, mà nó là một chủ nghĩa Hoạt động của người hoạt động, cũng như đạo Zen, đạo Sôtô, là một giáo khoa riêng biệt cho người Nhật Bổn tu bồi khí phách anh dũng vậy thôi.
Ông biết lợi dụng triết học Tân tiến để huấn luyện tinh thần chủng tộc. Ông đã làm lợi ích cho quê hương xứ sở về phương diện thế gian. Thà làm như ông, hơn là lợi dụng áo cà sa hoặc danh từ Phật giáo để xã hội nuôi dưỡng cho phì da ấm cật, cùng xây dựng thế lực cá nhơn, trên hậu thuẫn là kẻ cuồng tín.
V – TỊNH ĐỘ TÔNG HAY LÀ CHƠN TÔNG HAY LÀ TỊNH THỔ CHƠN TÔNG
Tịnh Độ tông là một đạo hoàn toàn mới lạ, không giống với Đại thừa Tân tiến, cũng như Đại thừa Tân tiến không giống với Phật giáo Nguyên thủy. Đại thừa Tân tiến không giống với Phật giáo Nguyên thủy thế nào, chúng ta đã biết rồi. Bây giờ thử hỏi Tịnh Độ tông khác hẳn và đối chọi với Đại thừa Tân tiến chỗ nào? Bởi một đàn thờ Phật A Di Đà như một vị thần độ mạng, đàn khác lấy Phật tánh làm ngôi tuyệt đối vô ngã.
Tông nào cũng có ông Tổ sư sáng lập, riêng về Tịnh Độ tông không thấy kinh sách nào ghi chép ai là người đề xướng tôn thờ Phật A Di Đà.
Các tác giả quyển Pháp Bửu Nghĩa Lâm đã tìm trong 200 bộ bí giáo Tịnh Độ, và trong 180 quyển kinh, 20 quyển luận của Phật giáo Đại thừa, từ quyển Hoa Nghiêm, Niết bàn, Pháp Hoa v.v... chẳng thấy ai là ông giáo tổ.
Trong Tam tạng Pàli của Phật giáo Nguyên thủy cũng chẳng thấy chỗ nào đề cập đến Phật A Di Đà, nên giới Bảo thủ không quan tâm đến vị Phật ấy.
Các nhà sư Tàu và Nhật viết rất nhiều sử tích của Phật A Di Đà, mà chẳng có tích nào giống nhau, và chẳng biết họ căn cứ vào đâu. Có thật ra đây cũng không thấy bổ ích, vì không có bằng chứng để làm tin, lại còn gieo thêm cái hoang mang vào trí óc người nhẹ tánh.
Xưa nay ai có từng xem tích nào, cứ gìn giữ tích ấy cho vững lòng, và nhất là ghi nhớ 48 lời thề nguyện của Phật A Di Đà, làm kim chỉ nam để tiến đến Cực Lạc Quốc độ. Tuy không đề cập đến sự sanh trưởng của Phật A Di Đà, đã khuất lấp trong đêm tối của thời gian tối cổ, thiết tưởng cũng nên cho biết quan niệm của một vài tác giả về Phật A Di Đà theo phương diện siêu hình. Có người nói rằng Phật A Di Đà là Thiền Na của Phật Thích Ca, nghĩa là người dắt dẫn ông Thích Ca xuống trần làm người Phật. Một tác giả Nhật cho rằng Phật A Di Đà mượn thân ông Thích Ca để giáng phàm độ thế. Chỗ khác nói rằng chính Phật Thích Ca đã mách bảo cho tín đồ biết Phật A Di Đà tại Tây Phương và khuyên họ nên tu theo pháp môn Tịnh Độ cho dễ thành Phật, hơn là theo giáo pháp khô khan cạn cợt của Ngài.
Ai muốn biết từ đâu Tịnh Độ tông xuất phát, Pháp Bửu Nghĩa Lâm khuyên đừng tìm trong xứ Ấn Độ, mà nên theo dõi sự phát triển của Phật giáo Tân tiến nơi các xứ ngoài.
Vị sứ đồ đầu tiên đem kinh Di Đà truyền bá tại Trung Quốc, trong năm 147, kỷ nguyên này, là một ông hoàng Ý Lăn (Iran), tên Ngan-Che-Kao, sanh trưởng tại Kushan.
Qua thế kỷ thứ V, ông Cưu Ma La Thập, nhân dịp đi truyền bá Tam Luận tông tại Trung Hoa có giảng kinh Di Đà và cho biết rằng Phật A Di Đà là một đấng hộ mạng tối cao của mọi người. Ông Cưu Ma La Thập, như đã có nói rồi, là con của một vị công chúa tại Koutcha, thuộc xứ Ý Lăn. Do hai nguồn gốc này, mà Tịnh Độ tông được nảy nở trước nhứt tại Trung Hoa, nên các nhà khảo cứu Phật giáo, không còn nghi ngại gì mà không cho rằng đạo A Di Đà phát sanh tại Ý Lăn. Người xứ này nửa Ấn Độ, nửa Ý Lăn, nửa tu theo Phật giáo, nửa tu theo đạo Mazdeisme (Thiện Ác nhị nguyên). Chúng ta sẽ có dịp nói đến đạo này.
Bắt đầu từ năm 252, kỷ nguyên này, kinh Di Đà được ông Sanghavarman (Khương Tăng Khải?) phiên dịch ra chữ Hán.
Ông Cưu Ma La Thập, khi qua Tàu, cũng có dịch cuốn A Di Đà kinh ra chữ Hán. Đến năm 424, tới phiên ông Kalayassas (Cương Lương Da Xá) dịch cuốn Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh ra chữ Hán. Đến thế kỷ thứ VI, có ông sứ đồ khác tên Bodhisri sang Hồ Nam truyền bá đạo A Di Đà, thâu được một người đồ đệ tên Tan Loan, là một tu sĩ danh tiếng tu theo đạo Lão. Ông này truyền giáo lại cho nhiều đệ tử, tới ông Chan-tao được vua Đường Cao Tông ủng hộ. Từ đó đạo Di Đà được thành lập chánh thức tại Trung Hoa (thế kỷ thứ VII), với hai quyển kinh chánh là Vô Lượng Thọ kinh và Đại A Di Đà kinh.
Qua thế kỷ thứ IX và X, đạo A Di Đà truyền bá qua Nhật được thạnh vượng mau chóng nhờ hai ông Ganshin và Ryônin. Đến thế kỷ thứ XII, một nhà sư danh tiếng tên Hônen (Pháp Nhiên) truyền bá Tịnh Độ tông được đông người tìm xin quy y thọ giáo, và tôn ông là một vị thánh. Đạo hiệu của ông là Jôđô (Tịnh Thổ) hay là Shin (Chơn tông).
Thánh Pháp Nhiên truyền rằng các pháp hành không còn áp dụng được, vì thời kỳ đã xa Phật, đời mạt pháp không còn ai hiểu thấu đạo Phật, chỉ tỏ lòng tin Phật là đủ rồi.
Đệ tử kế thừa của ông Pháp Nhiên là ông Fujiwara Shinran (Chơn Loan 1173-1262). Ông này sửa đạo hiệu lại là Jôdô Shinshu (Tịnh Thổ Chơn tông). Tuy ông là thầy tu, nhưng ông vẫn có vợ con như người thế; Ông dạy cứ tin tưởng nơi Phật A Di Đà là đủ, khỏi phải cắt ái ly gia cũng không cần kiêng cử trong sự ăn uống. Theo ông Chơn Loan, đạo đức và hạnh kiểm không bằng đức tin. Đức tin không do nơi sự tinh tấn mà ra, chỉ nhờ sự gia hộ của Phật A Di Đà mới có.
Việc lành điều phải phát sanh từ trong tinh hoa của con người, là cái bản chất phát biểu ra ngoài; Còn điều ác là sắc tướng bề ngoài, chẳng khác nào cái bọc tạm, mà mình có thể bỏ bằng cách không nhân nhạn trong thâm tâm rằng: “Chẳng phải ta là người đã làm các điều ác ấy”. Không có điều ác nào làm cho nhơ đục cái bản thể, vì bản thể là trọn lành, là tinh vi và không thể làm điều tội lỗi. Cái tinh hoa của chúng sanh là tinh hoa của vũ trụ, của chư Phật, chư Bồ tát, của Phật A Di Đà và Phật Quan Âm. hai vị Phật này vẫn là một (1) thường xem chúng sanh như bản thể của ngài, và đem lòng từ bi thương xót khi thấy họ bị vô minh che ám mà làm những điều tội lỗi. Một khi biết tự hối thì tội lỗi, là cái học bên ngoài, đã tiêu ma.
Hai yếu luận: Lành và Dữ nói trên chỉ rằng đạo Di Đà phát sanh từ trong chủ nghĩa của đạo Mazdéisme, gọi là Thiện Ác nhị nguyên giáo. Đạo này nhìn nhận hai nguyên lý: Lành (Ormazd) và Dữ (Ahriman). Nguyên lý Lành tạo tác và cai quản càn khôn võ trụ; Có sáu vị thần cao cấp (Amshaspands) và sáu vị thần hạ cấp (Yazatas) chuyên lo về việc lành trong thế gian. Nguyên lý dữ cũng có sáu hung thần cao cấp và sáu hung thần hạ cấp phụ giúp để phá hoại nguyên lý lành. Rốt cuộc cái lành thắng cái dữ.
Đối chiếu hai giáo thuyết lành dữ nói trên của đạo Di Đà và đạo Mazdéisma người ta tự hỏi hai đạo này có liên quan nhau như Tân tiến và Bà la môn giáo không?
Theo lời của Tổ sư Pháp Nhiên, đạo giáo của Phật Gotama khó thực hành, và khó hiểu. Có lẽ vì đó mà người ta dùng phương tiện thỉnh một vị Phật, từ bên kia mười muôn triệu sa bà thế giới (2) về ngự tại Tây Phương, chờ tiếp dẫn tín đồ ra ngoài vòng thống trị cả Ma vương, hưởng mọi hạnh phúc khoái lạc, chờ ngày trực chỉ về Niết bàn.
(1) Nhiều cổ tượng Quan Âm có hình Di Đà trên trán.
(2) Ngoài phạm vi của Phật Thích Ca, rộng lớn không thể nghĩ ngợi được.
Thật chẳng có vị Phật nào gần gũi với tín đồ hơn Phật A Di Đà. Chẳng có chi làm cho con người hoan hỷ, khoan khoái, bằng sự phó thác tâm hồn cho Phật A Di Đà, là đấng từ bi vô lượng. Niệm danh hiệu của Ngài, chỉ niệm một lần cũng đủ cho Ngài cứu độ. Vừa tỏ lòng ăn năn cải hóa và thành thật sám hối thì bao nhiêu tội lỗi cũng tiêu. Nhứt là tin tưởng và nguyện cầu siêu thăng về Cực Lạc Quốc độ, thì chắc chắn, trong giờ lâm chung có Phật A Di Đà đến rước về Tây Phương Tịnh Thổ, y theo lời thệ nguyện của Ngài.
Phương tiện dụ dỗ này thật là thiện xảo, nhưng nó vẫn là một phương tiện. Khi tín đồ mê thích, vui thú với đạo rồi, ít ra cũng cho họ biết đây là giả cảnh (1) và dạy họ xoay về Niết bàn tuyệt đối của Phật Gotama mới phải cho.
Có lẽ người đề xướng cái phương tiện này cũng tính như thế, nhưng giữa chừng người ấy đã chết mất, thành ra phương tiện kia trở thành một đạo thần giáo thiệt thọ, rất lạc quan, với một đấng Cứu thế, một cảnh giới cực kỳ vui thú, chứa đầy những người có đức tin trọn vẹn nơi Phật A Di Đà. Thế thì muốn cho được lòng người, cho vừa yêu sách của kẻ phàm tục, chỉ có cách xóa bỏ luật nhân quả và hiểu rằng gặt hái không còn là trồng tỉa nữa, mà chỉ là tin tưởng, cầu khẩn và van lạy thôi.
Đức tin trong sự ăn chay, đức tin trong sự tụng kinh, đức tin trong sự niệm Phật thật là quý báu vô cùng. Nhưng thiếu Chánh kiến, Chánh tư duy, nên nhiều người lấy cái ăn làm thuốc rửa lòng, lấy sự tụng kinh làm phép chuộc tội, lấy sự niệm Phật làm đường về Tây Phương.
(1) Có người hỏi tại sao Tây Phương là cảnh Phật mà còn có nhà cửa, có ăn mặc? Có câu trả lời rằng đó là giả cảnh. Phật tại tâm là rất phải tìm Phật tại Tây Phương.
Lê hoát là vật chất, không thể sửa trị tinh thần được, như đã có nói rồi. Kinh là lời của Phật dạy, không chịu xem cho hiểu nghĩa lý để thực hành theo, cứ tụng suốt đời cho Phật nghe, nghĩa có tội nghiệp cho cái dốt của mình không? Đêm nào cũng niệm Phật lần chuỗi, mà không thấy minh tâm kiến tánh, cũng không ai chịu tìm một lối niệm khác để đăng cảnh Phật.
Đức tin có hai thứ: Chánh tín và Mê tín. Trong Bát chánh đạo, Phật để Chánh kiến, Chánh tư duy trước nhứt, chỉ là đạo của Ngài là đạo trí tuệ. Muốn học làm Phật phải dùng trí tuệ suy xét mới phân biệt chánh tà, mới thấu lý cao siêu. Tu mà không gia công tầm đạo học pháp, cũng không trì chí thực nghiệm pháp hành, mà ai ai cũng muốn thành đạo chứng quả, trách sao cho khỏi nhóm tà sư thừa cơ lợi dụng tâm lý mình ngồi không thọ của cúng dường và bày những trò mê hoặc. Cho đến các bậc tu hành chơn chánh cũng vẫn vui chịu cho thần linh chi phối, không thấy các ngài vượt khỏi tập tục để tìm đạo pháp tận cửa chơn lý.
Trong kinh Anguttara Nikâya có một đoạn Phật ngôn như vầy: “Này các thầy Kalâmas, các thầy chớ nên lầm lạc nghe theo những điều thu thập, những lời truyền thống, những tiếng phong văn. Các thầy chẳng nên lầm lạc theo những sưu tập lưu truyền, hoặc những lý sự suy đoán, hoặc sau khi quan sát lý do, hoặc sau khi suy gẫm một kiến giải ngôn luận nào và thừa nhận nó hạp với trào lưu, hoặc bởi kiến giải ấy do thầy tổ các ngươi đưa ra. Khi nào các ngươi tự biết rằng các điều ấy không tốt, hoặc sai lầm, hoặc không được bậc trí tuệ ngợi khen, và chắc chắn rằng khi các điều ấy được đem ra thực hành, truyền bá, nó sẽ đem lại thất bại và khổ não, các thầy nên xua rảy nó ra”.
Những lời kim ngôn cao thượng của đấng Chí tôn thốt ra với tấm lòng từ bi, mong cho môn đệ hậu lai của Ngài tạc dạ ghi nhớ, để tránh những lầm lạc theo cổ tục tập quán, theo kinh điển lưu truyền, theo lời thầy tổ. Bởi Ngài biết trong thời đại nào cũng có mê tín dị đoan, và ngoài bậc Chánh đẳng Chánh giác không có ông giáo tổ nào (1) đưa người đến cửa chơn lý. Trong muôn việc đức Thế Tôn khuyên chẳng nên bỏ vội, cũng chẳng nên tin vội, và nên dùng trí tuệ suy xét cho chu đáo; Nếu đúng với lẽ phải thì nên theo, bằng trái với lý trí thì bỏ ra, dầu là việc ấy được phần đông công nhận, hoặc thích hợp với trào lưu xã hội.
Ai lại không tìm sự thật, ai lại không dùng trí tuệ để tìm sự thật. Nhưng bao giờ trí tuệ bị chút tự ái, chút thiên vị cùng quyền lợi che án, thì sự thật không còn là sự thật; Bởi nó có phải mà cũng có quấy: Phải theo cái óc chấp nê, quấy với cái trí bình đẳng.
Bồ tát Sĩ Đạt Ta phải luôn luôn tinh tấn tu hành trên bốn A tăng kỳ kiếp mới thành Phật được, nghĩa là quả vị Phật không phải dễ mua chuộc, nhưng vẫn có người thiện trí thức tin rằng trọn đời tu niệm qua loa, đến phút lâm chung cũng thành Phật được.
Kinh sách đã ghi chép như thế ấy, thầy tổ đã dạy như thế ấy, phần đông tin như thế ấy, lý trí cũng phải thừa nhận như thế ấy. Cho nên chơn lý không còn là lẽ phải nữa, mà nó là đức tin.
(1) Nên biết rằng trong mười muôn triệu sa ba thế giới chỉ có một bậc Chánh Đẳng Chánh Giác ra đời.
KẾT –LUẬN
Con đường về Niết bàn của Phật Gotama và của chư vị Tổ sư Tân tiến khác nhau một trời một vực. Người tu theo Phật Gotama phải tự lực hành trình từ thấp lên cao, theo một con đường nhất định. Ai ai cũng phải mua sắm hành lý, cất gói ra đi. Tùy năng lực, tùy trình độ, cứ chậm rãi tiến đến mức cứu cánh. Dọc theo con đường ngàn trùng diệu vợi, chỗ nào có cam go hiểm trở, có thú dữ rắn độc, chỗ nào có ao sen bóng mát, có trạm nghỉ chơn, Phật Gotama tỉ mỉ mách bảo cho biết trước. Mạnh ai nấy đi, tới đâu hay tới đó, tiến bước nào chắc bước nấy, dầu đuối sức dừng chơn, cũng đã có tiến được một đôi dặm đường, rồi từ đó tiếp tục tiến nữa, không cần lo nghĩ đến thời gian, không gian. Muốn cho mau tới mức, mà sức không đủ, có chạy cũng vô ích.
Người đi trên con đường vạn hải thiên sơn này là người chiến sĩ xung phong chiến đấu với Ma vương phiền não. Y giáp của họ là bác ái, sức mạnh của họ là tinh tấn, hành lý của họ là giới đức, khí cụ của họ là trí tuệ, chiến kỳ của họ là giải thoát, khẩu hiệu xung phong của họ là chơn lý.
Người tu theo các vị Giáo tổ Tân tiến có nhiều đường lối. Thay vì phải xông pha ra mặt trận, họ ngồi tại văn phòng tham mưu, xem binh thơ đồ trận, tìm phát minh cho được phi cơ trực thăng, vượt khỏi quân thù, bay bổng về Niết bàn. Hoặc họ dùng vô tuyến điện thoại cầu cứu tận phương Tây, giặc vừa hãm thành họ lên pháo tiễn bay mất.
Chiến lược Lục quân cũ kỹ của Phật Gotama dỡ thật, đã mệt nhọc khó khăn, lại không hy vọng thắng nổi quân thù; Nên nhiều người tự nguyện tùng chinh theo bộ đội Không quân của các vị Tướng lãnh Tân tiến.
Hiện giờ nghe nói Phật Di Lạc và nhiều thần tiên đương lập căn cứ tại Việt Nam, để tuyển mộ một đội Không quân, chờ khi có tai nạn, rước những người có đức tin cứng rắn về Niết bàn. Có hiếm người trí thức đã tình nguyện đầu quân.
Trình độ tín ngưỡng tới đây là cùng.
***
Đọc qua hai quyển Chọn đường tu Phật này, chắc chắn có nhiều người phẫn nộ và cho rằng đây là bọn Tiểu thừa muốn chỉ trích người Đại thừa. Xin thanh minh rằng chẳng phải vậy. Người Tiểu thừa làm sao biết được Đại thừa mà chỉ trích, bởi giáo lý Tiểu thừa (1) không có đề cập đến thừa nào cả và chẳng bao giờ dạy chỉ trích ai hơn là tự chỉ trích lấy mình. Chỉ trích chê bai đàn em, chính là thông lệ của người Đại thừa, bởi hai danh từ Đại thừa và Tiểu thừa vốn của Đại thừa đặt ra để phân loại người trí kẻ ngu.
Người nào phẫn nộ, người ấy cũng chưa phải là người học Đại thừa, bởi người Đại thừa vốn không cố chấp, lại sẵn có đức tánh từ bi hỷ xả rộng lớn bao la.
Chỉ trích không hạp hạnh kiểm của Tiểu thừa, phẫn nộ chẳng phải trình độ của Đại thừa.
Tác giả bất quá là một đứa con của một gia đình Phật tử, đã chịu ảnh hưởng sâu xa của Đại thừa và Tiểu thừa, từ trẻ đến già, khi thì ở với bác, lúc lại về với chú. Nó đã từng sống chung chạ cả đôi bên và lắm lúc được bác chú dắt đi thăm hội hè. Có ở trong trường hợp đặc biệt ấy nên nó mới biết mà nói ra. Thấy sao nói vậy với tấm lòng bình đẳng ngay thật, chẳng phải nói để vạch lá tìm sâu với một ác ý phá hoại, mà trái lại với thiện tâm xây dựng.
Mục đích duy nhất của nó là tìm lẽ phải giữa Ông Giáo chủ Thích Ca và các vị Tổ sư hậu lai. Lắm người đã có nêu vấn đề này ra nhiều lược rồi, nhưng họ sợ đánh trống động chuông, bứt mây động rừng, rồi sách vở của họ bán không chạy, nên công trình của họ không có kết quả.
(1) Đúng ra là Phật giáo Nguyên thủy.
Sợ con cháu lầm lạc, sợ ngoại quốc không kính nể (1) nên buộc lòng phải trình bày sự thật, và nhấn mạnh những chỗ chúng ta hay chấp nè, mong các bạn đồng thuyền nhận định lại quan niệm của mình đối với Phật giáo. Có lẽ các bạn cũng muốn biết sự thật chớ? Thì đây: Bên chú có ông nội ruột, bên bác có ông nội ghẻ. Hai ông đều tử tế cả hai, nhưng bị ông nội ghẻ có nhiều con riêng hay kích bác ông nội ruột, mà bác mình lại vui sướng với những lời không chánh đáng ấy. Dòm lại coi ông nội ruột của mình là người thế nào, mà bác mình cũng hắt hủi không nhìn nhận là cha. Chừng đó mới thấy ông nội ruột mình là người thật tốt, đã dày công xây dựng một sự nghiệp vô giá, để lại cho toàn thể thế gian thừa hưởng. Nhưng vì ganh tỵ mà ông nội mình bị bên bác truất phế. Méc với chú, chú vẫn làm thinh. Tức tri mới tìm cho biết nguồn cội của sự bất hòa giữa bác và chú. Câu chuyện chỉ có thế thôi.
Từ khi ông nội qua đời, gia đình xào xáo, chú bác phân ly, người Nam kẻ Bắc. Trong cảnh cốt nhục chia phôi, bác bỏ nhà ra đi với hai tay không đến đâu khai thác điền địa đến đó. Nhờ tài khôn lanh xảo quyệt, bác kinh doanh lập nghiệp dễ dàng, mỗi nơi bác mỗi lập gia đình để bảo vệ tài sản. Vợ nhiều con đông, sanh ra kình chống, tranh giành quyền lợi, xung khắc từ lời ăn tiếng nói. Trước kia bác chia rẽ gia đình như thế nào, bây giờ con của bác cũng chia rẽ như thế ấy. Cơ đồ của bác vì đó mà phải làm cảnh hư đổ suy sụp.
Chú thì thật thà chơn chất, cậm cụi khuyết trương di sản của ông nội, lại nhờ con một dòng, trên thuận dưới hòa, trung hiếu lưỡng toàn, không trụy lạc theo văn minh vật chất, cố duy trì phong hóa tổ tiên. Sự nghiệp của chú càng ngày càng sung túc phát đạt.
(1) Ai có đi dự Hội nghị Phật giáo Quốc tế thì biết lấy.
Đã từng nhờ cậy bác, trong lúc hưng thời và có lúc cũng nương theo chú để lập thân, hai bên chú bác thương đồng. Nếu không phô trương lai lịch gia phổ, cho các anh bên nhà bác biết, để trở về với chú, cộng hưởng sự nghiệp của ông nội, cho đỡ phần nào trong cảnh nghèo túng, thì há chẳng phụ bạc bác mình hay sao!
Dầu bác có tự ái buông lời quở phạt chửi mắng, cháu cũng nguyện giữ chữ làm thinh, miễn là đạo nhà được xử cho vuông tròn. Vì vậy mà phải nói. Nói những điều khuất lấp, nghe thấy, với tấm lòng chơn chánh ngay thật và trình bày điều phải lẽ quấy, để hòa giải chú bác đôi bên sum họp, cùng chung hưởng hạnh phúc gia đình. Nói để thức tỉnh anh em chú bác, nói để đoàn tụ con cháu, để hòa hiệp bè bạn, để gây tình huynh đệ, để vạch con đường về cội rễ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét