Hồ Gươm nằm giữa Thủ đô, nó như con mắt biếc nhìn suốt trời cao, như lá phổi giữ sinh khí cho vùng đất thánh, như sợi dây giao hòa âm dương nối kết bền vững giữa con người và trời, đất. Hồ Gươm đẹp và thiêng, trên hồ có đảo Ngọc Sơn là nơi Vua Lý dời đô ra Thăng Long đặt tên là núi Ngọc Tượng, đến đời Trần đổi tên thành Ngọc Sơn.
Hà Nội
Diện tích: 3.324,92km²
Dân số: 6.448.837 người (1/4/2009)
Các quận/huyện:
- 10 Quận: Hoàn Kiếm, Ba Ðình, Ðống Ða, Hai Bà Trưng, Tây Hồ, Thanh Xuân, Cầu Giấy, Long Biên, Hoàng Mai, Hà Đông.
- 1 thị xã: Sơn Tây.
- 18 huyện: Ðông Anh, Sóc Sơn, Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm (Hà Nội cũ); Ba Vì, Chương Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Phúc Thọ, Quốc Oai, Thạch Thất, Thanh Oai, Thường Tín, Ứng Hòa (Hà Tây cũ) và Mê Linh (từ Vĩnh Phúc).
Dân tộc: Việt (Kinh), Hoa, Mường, Tày, Dao...
Hà Nội là Thủ đô của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
1. Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý: Hà Nội nằm ở đồng bằng Bắc bộ, tiếp giáp với các tỉnh: Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở phía bắc; phía nam giáp Hà Nam và Hoà Bình; phía đông giáp các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên; phía tây giáp tỉnh Hoà Bình và Phú Thọ.
Hà Nội nằm ở phía hữu ngạn sông Đà và hai bên sông Hồng, vị trí và địa thế thuận lợi cho một trung tâm chính trị, kinh tế, vǎn hoá, khoa học và đầu mối giao thông quan trọng của Việt Nam.
Khí hậu: Khí hậu Hà Nội khá tiêu biểu cho kiểu khí hậu Bắc bộ với đặc điểm của khí hậu nhiệt đới gió mùa ấm, mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lạnh, mưa ít. Nằm trong vùng nhiệt đới, Hà Nội quanh nǎm tiếp nhận được lượng bức xạ mặt trời rất dồi dào và có nhiệt độ cao. Lượng bức xạ tổng cộng trung bình hàng nǎm ở Hà Nội là 122,8 kcal/cm2 và nhiệt độ không khí trung bình hàng nǎm là 23,6ºC. Do chịu ảnh hưởng của biển, Hà Nội có độ ẩm và lượng mưa khá lớn.
Địa hình: Hà Nội có hai dạng địa hình chính là đồng bằng và đồi núi. Địa hình đồng bằng chủ yếu thuộc địa phận Hà Nội cũ và một số huyện phía đông của Hà Tây (cũ), chiếm khoảng 3/4 diện tích tự nhiên, nằm bên hữu ngạn sông Đà, hai bên sông Hồng và chi lưu các sông. Phần lớn địa hình đồi núi thuộc địa phận các huyện Sóc Sơn, Ba Vì, Quốc Oai, Mỹ Đức. Một số đỉnh núi cao như: Ba Vì 1.281m; Gia Dê 707m; Chân Chim 462m; Thanh Lanh 427m; Thiên Trù 378m; Bà Tượng 334m; Sóc Sơn 308m; Núi Bộc 245m; Dục Linh 294m…
Sông ngòi: Hà Nội nằm cạnh hai con sông lớn ở miền Bắc: sông Đà và sông Hồng. Sông Hồng dài 1.183km từ Vân Nam (Trung Quốc) xuống. Ðoạn sông Hồng qua Hà Nội dài 163km (chiếm khoảng 1/3 chiều dài trên đất Việt Nam, khoảng 550km. Ngoài hai con sông lớn, trên địa phận Hà Nội còn có các sông: Đuống, Cầu, Cà Lồ, Đáy, Nhuệ, Tích, Tô Lịch, Kim Ngưu, Bùi.
Hồ đầm ở địa bàn Hà Nội có nhiều. Những hồ nổi tiếng ở nội thành Hà Nội như hồ Tây, Trúc Bạch, Hoàn Kiếm, Thiền Quang, Bảy Mẫu. Hàng chục hồ đầm thuộc địa phận Hà Nội cũ: hồ Kim Liên, hồ Liên Đàm, đầm Vân Trì... và nhiều hồ lớn thuộc địa phận Hà Tây (cũ): Ngải Sơn - Đồng Mô, Suối Hai, Mèo Gù, Xuân Khanh, Tuy Lai, Quan Sơn...
2. Giao thông
Từ thủ đô Hà Nội, có thể đi khắp mọi miền đất nước bằng các loại phương tiện giao thông đều thuận tiện.
Đường không: sân bay quốc tế Nội Bài (nằm ở địa phận huyện Sóc Sơn, cách trung tâm Hà Nội chừng 35km). Sân bay Gia Lâm, vốn là sân bay chính của Hà Nội từ trước những năm 70 thế kỷ 20. Bây giờ là sân bay trực thăng phục vụ bay dịch vụ, trong đó có dịch vụ du lịch.
Đường bộ: Xe ô tô khách liên tỉnh xuất phát từ các bến xe Phía Nam, Gia Lâm, Lương Yên, Nước Ngầm, Mỹ Đình toả đi khắp mọi miền trên toàn quốc theo các quốc lộ 1A xuyên Bắc - Nam; quốc lộ 2 đi Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Tuyên Quang, Hà Giang; quốc lộ 3 đi Thái Nguyên, Cao Bằng; quốc lộ 5 đi Hải Phòng, Quảng Ninh; quốc lộ 6 đi Hoà Bình, Sơn La, Lai Châu…
Đường sắt: Hà Nội là đầu mối giao thông của 5 tuyến đường sắt trong nước. Có đường sắt liên vận sang Bắc Kinh (Trung Quốc), đi nhiều nước châu Âu.
Đường thuỷ: Hà Nội là đầu mối giao thông quan trọng với bến Phà Đen đi Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình, Việt Trì; bến Hàm Tử Quan đi Phả Lại.
3. Văn hóa - Du lịch
Hồ Tây
Hà Nội hiện có trên 4.000 di tích và danh thắng, trong đó được xếp hạng quốc gia trên 900 di tích và danh thắng (hàng trăm di tích, danh thắng mới được sáp nhập từ Hà Tây và Mê Linh) với hàng trăm đền, nhà thờ chùa, công trình kiến trúc, danh thắng nổi tiếng.
Hà Nội là một trung tâm du lịch lớn ở Việt Nam. Du khách có dịp khám phá nhiều công trình kiến trúc văn hóa - nghệ thuật xây dựng qua nhiều thế hệ, trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Những danh thắng, cây cảnh tự nhiên đẹp và quyến rũ; những làng nghề thủ công tồn tại hàng trăm năm; những lễ hội truyền thống - sản phẩm văn hóa kết tinh nhiều giá trị tinh thần... sẽ là những sản phẩm du lịch hấp dẫn.
Không phải Hà Nội vào cuối thế kỷ 20 mới có được bấy nhiêu điều kiện thuận lợi mà từ lâu, từ ngày vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Ðại La để lập kinh đô Thăng Long vào tháng bảy năm Canh Tuất (1010), trong "Chiếu dời đô", vị vua khai sáng triều Lý (1010-1225) đồng thời khai sáng cho Thăng Long - Hà Nội đã chỉ ra.
4. Địa Linh nhân kiệt
Núi tổ Ba Vì
Hà Nội là thành phố nằm gần như ngay tại trung tâm của đồng bằng Bắc bộ, trên dải đất giữa con sông Hồng ở phía Ðông và sông Tô Lịch ở phía Tây. Ðối với Phong thủy, dải đất nầy chính là chân long, là nơi kết tụ được nhiều nguyên khí của địa hình sông, núi ở chung quanh.
Nhờ vậy, Hà Nội sẽ luôn luôn nắm được những vai trò quan trọng về chính trị và kinh tế đối với đất nước, chẳng những thế, trong các thời kỳ hưng vượng còn sản sinh ra những lãnh tụ tài ba, những anh hùng kiệt xuất.
Nếu nhìn lên bản đồ miền Bắc, ta sẽ thấy những con sông lớn như sông Cầu, sông Gầm, sông Lô ở phía Bắc; sông Ðà, ở phía Tây, sau khi chảy qua nhiều nơi cuối cùng đều nhập vào sông Hồng chảy về Hà Nội.
Xa xa, dọc theo biên giới Việt-Hoa, những dãy núi trùng trùng, điệp điệp xuất phát từ miền Nam Trung Hoa đâm thẳng xuống dọc theo các phía Tây Bắc, Bắc và Ðông Bắc, tất cả cũng đều như muốn hướng về.
Ðây chính là thế "núi sông chầu phục" của Hà Nội, một địa thế Phong thủy tuyệt đẹp đến nỗi không một thủ đô nào của các nước trong vùng Ðông Nam Á Châu, (kể cả thành Bắc Kinh của Trung Hoa) có thể so sánh được. Không những thế, ngoài xa nơi phía Ðông và Ðông Nam, Hà Nội còn được đại thủy của vịnh Bắc Việt và Thái Bình Dương chiếu tới nên thần lực rất lớn, xứng đáng là thủ đô muôn đời của một quốc gia văn hiến hùng mạnh.
5. Những di sản nổi tiếng
Hồ Gươm, Chùa Một Cột, Văn Miếu-Quốc Tử Giám, Thăng Long Tứ Trấn và Cột Cờ Hà Nội là chứng nhân lịch sử trải dài hàng ngàn năm của đất nước. Những di sản ấy cũng là hồn nước, khí nước, là dòng chảy diệu kỳ nuôi dưỡng sức sống của một dân tộc. Nó là máu, là thịt, là "kỳ quan" sâu thẳm trong tâm hồn mỗi người Việt.
Hồ Gươm gắn với vị Vua sáng lập triều đại mình bằng chính những chiến công hiển hách, dựng cờ dẹp giặc, giành lại đất nước từ tay ngoại xâm, đó chính là Lê Lợi. Theo truyền thuyết, sau khi đất nước sạch bóng quân thù, nhà Vua đã trả kiếm thần ngay tại nơi này.
Hồ Gươm nằm giữa Thủ đô, nó như con mắt biếc nhìn suốt trời cao, như lá phổi giữ sinh khí cho vùng đất thánh, như sợi dây giao hòa âm dương nối kết bền vững giữa con người và trời, đất. Hồ Gươm đẹp và thiêng, trên hồ có đảo Ngọc Sơn là nơi Vua Lý dời đô ra Thăng Long đặt tên là núi Ngọc Tượng, đến đời Trần đổi tên thành Ngọc Sơn.
Từ Thăng Long đến Đông Đô, Hà Nội, dẫu đất nước trải qua bao biến cải song tòa sen chùa Một Cột vẫn mãi là biểu tượng của đất nước Việt Nam.
Chùa được xây dựng vào đời Lý Thái Tông, mà theo như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư: "Mùa đông tháng mười (1049) dựng chùa Diên Hựu... Một lần Vua Lý Thái Tông chiêm bao thấy Phật Quan Âm ngồi trên tòa sen dắt nhà Vua lên tòa... Nhà sư Thiền Tuệ khuyên Vua làm chùa, dựng cột đá giữa ao, làm tòa sen của Phật Quan Âm ở trên cột giống như trong mộng và cho các nhà sư múa chạy đàn tụng kinh cầu cho vua sống lâu, nên mới gọi là chùa Diên Hựu (kéo dài cõi phúc). Đến năm 1954, khi giặc Pháp rút khỏi Hà Nội đã đặt mìn phá hủy chùa, chỉ còn sót lại chiếc cột đá và mấy chiếc xà gỗ.
Sau khi tiếp quản Thủ đô cũng vào năm ấy, Chính phủ đã cho làm lại ngôi chùa như trước. Chùa hình vuông mỗi chiều 3m, mái cong dựng trên cột đá hình trụ đường kính 1,2m, cao 4m gồm hai trụ đá chồng lên nhau, tầng trên đỡ một hệ thống những thanh gỗ tạo thành bộ khung kiên cố đỡ cho cả ngôi chùa và có một chiếc thang xây dẫn lên. Trên cửa chùa có biển đề Liên Hoa Đài (đài hoa sen). Cạnh chùa có một cây bồ đề lịch sử do Tổng thống Ấn Độ tặng chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1958 và được trồng tại đây.
Văn Miếu đã bước sang tuổi 1.000, chỉ kém Chùa Diên Hựu (Chùa Một Cột) 21 năm tuổi. Nơi đây thờ bậc thánh sư của Nho giáo là Khổng Tử, dựng năm 1070 thời Vua Lý Thánh Tông.
Sáu năm sau, Vua Lý Nhân Tông lập thêm Quốc Tử Giám bên cạnh Văn Miếu. Ban đầu nơi này là chỗ học tập của các hoàng tử và con em quý tộc, về sau mới mở rộng nhận cả học trò con nhà bình dân. Như vậy, Văn Miếu-Quốc Tử Giám trở thành trung tâm giáo dục - trường đại học đầu tiên của Kinh đô. Sang đời Lê, Vua Lê Thánh Tông cho khắc tên các tiến sĩ trên bia đá và dựng ở hai bên điện Đại Thành trong Văn Miếu.
Văn Miếu-Quốc Tử Giám được tu sửa nhiều lần vào những năm 1484, 1511, 1536, 1762, 1785, 1805,1888... Nhà tả vu và hữu vu được xây dựng lại thời Pháp thuộc. Kỷ niệm 990 năm Thăng Long-Hà Nội, Nhà nước đã cho xây dựng lại khu Thái Học và chỉnh trang toàn bộ cảnh quan trong và ngoài khu Văn Miếu.
Cột Cờ Hà Nội - Hào khí Việt Nam
Cột Cờ được xây dựng năm Gia Long 11(1812) nằm phía ngoài Đoan Môn, cao 60m xây bằng gạch gốm, tam cấp phía dưới mỗi chiều dài 42m, phía trên dài 15m, tầng giữa có bốn cửa nhìn ra ngoài. Đó là cửa Nghênh Hác (đón gió buổi sáng) ở đằng Đông; cửa Hồi Quang (trả ánh sáng) ở đằng Tây; cửa Hướng Minh (hướng về ánh sáng) ở đằng Nam.
Thân cột cờ có tám mặt, mỗi mặt đều trổ cửu sổ hình hoa thị, trong cột cờ có hai tầng thang xoáy trôn ốc, trên đỉnh cột đắp hai chữ Kỳ Đài. Cạnh cột cờ dựng một phương đình trong đó có bia ghi công các tướng sĩ.
Ảnh và tư liệu: Internet
Nguồn: THÔNG TIN ĐỂ TƯ DUY
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét