Chủ Nhật, 23 tháng 11, 2014

Sông Côn ký sự

(BBĐ) - Sông Côn là dòng sông lớn nhất của tỉnh Bình Định, bắt nguồn từ miền núi phía Tây huyện An Lão, có độ cao từ 600-700m. Chiều dài của sông là 171km, diện tích lưu vực khoảng 2.594 km², độ dốc lưu vực bình quân khoảng 0,2.

Đoạn thượng nguồn sông có tên là Dak Kron Bung, chảy theo hướng Bắc - Nam. Đoạn từ Định Quang xuống Thượng Giang, sông được gọi là Hà Giao. Khi chảy qua huyện Tây Sơn, sông gặp các nhánh nhỏ Đồng Trem Hầm Hô đổ ra, tạo thành dòng lớn hơn và chính thức mang tên sông Côn. Sông tiếp tục chảy qua huyện An Nhơn theo hướng Tây - Đông, gặp một nhánh nhỏ khác từ hồ Núi Một chảy xuống. Đoạn hạ lưu chia thành hai nhánh: Bắc Phái và Nam Phái với nhiều tên gọi khác nhau: sông Đập Đá, sông Đại An, sông Cái và đổ ra Đầm Thị Nại (Quy Nhơn).

Ở Bình Định, sông Kôn không chỉ là một dòng chảy tự nhiên, mà còn là một dòng sông văn hoá, đi vào tâm thức người dân nơi đây. Ở đó, nơi đầu nguồn sông, xứ sở của thành Tà Kơn, của núi Nguyễn Huệ huyền thoại, của những bản hơamon dài như một mùa rẫy, sông trải mình dọc suốt chiều dài lịch sử của vùng đất này. Sông trải mình qua những làng quê yên bình, nơi có những làng võ danh trấn, soi bóng những ngọn tháp ngàn năm, với những địa danh đã đi vào lịch sử và trở thành một phần ký ức thẳm sâu của người Bình Định: làng Cây Dừa, bến Trường Trầu, thành Hoàng Đế…

Sông ấp ôm và chở che cho bao phận người bên sông. Sông dâng tặng bao hương vị, những món ăn, thảo dã mà thấm đẫm hương vị quê nhà; kết vào men nồng của “đệ nhất danh tửu” Bầu Đá… Đi dọc sông Côn, chắt lọc hồn mình những dư vị đẫm đầy, nồng ấm đất và người Bình Định…

Kỳ I: Đi tìm ngọn nguồn sông

Theo chân ông Đinh Nghèo (phải), chúng tôi bắt đầu vào rừng.

Đâu là nơi phát xuất của sông Côn? Theo “Đại Nam nhất thống chí”, sông Côn có ba nguồn: một từ núi Phong Sơn, một từ núi Kiền Kiền. Hai nguồn này hợp nhau tại thôn Trinh Tường (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn). Sau đó, chia làm hai nhánh. Nhánh phía Nam chảy đến thôn Quang Châu (nay thuộc xã Nhơn Hoà, huyện An Nhơn) thì gặp nguồn nước từ khe núi An Tượng chảy vào. Như vậy, thượng nguồn của sông Côn, theo sách xưa, thuộc về vùng Tây Sơn thượng đạo.

Lên với đầu nguồn

Ngược sông, chúng tôi đến Vĩnh Sơn (Vĩnh Thạnh), và lần tìm theo những con suối thượng nguồn. Vào đến khu sản xuất của làng K3, nằm sát bên một mép sông, một người già trong làng bảo: “Đây cũng là vùng đầu nguồn, nhưng muốn lên thượng nguồn, phải qua bên An Toàn (An Lão) kia”. Mà quả thật, nhìn kỹ trên bản đồ, mới thấy con sông Côn hợp nguồn từ một nhánh sông Côn và các con suối ở vùng An Toàn, rồi mới đổ về Vĩnh Thạnh. Vậy là chúng tôi lại quày quả ngược trở lại, lên An Lão và tìm đường đến với An Toàn.

Nghe nói đến An Toàn, đồng nghiệp và bè bạn ở An Lão đều tỏ vẻ ngần ngại. Rằng lên An Toàn mùa khô đã vất, huống chi mùa mưa. Mà quả thật, bước vào cuộc hành trình bằng xe máy ngược dốc mới thấy, không chỉ lầy lội, con đường lại đang được san để làm bê tông, vừa bề bộn, vừa trơn trượt. Không hiếm những đoạn phải ba bốn người đẩy, xe mới ì ạch vượt dốc. Lại có khúc, đường tràn nước như một dòng suối đầy đá cuội… Vậy rồi, sau chừng 5 tiếng cho chỉ khoảng… 45 km, người bê bết bùn đất, chúng tôi mới đến thôn 2, trung tâm của xã An Toàn, và từ đây, bỏ xe, lội bộ đi ngược triền sông, lên với đầu nguồn.

Nhịp sống bên sông.

Không tìm ra người dẫn đường, vậy là, chúng tôi đành tự đi, với “kim chỉ nam” là lời dặn của một người dân trong làng. Rằng cứ đi theo con sông, con suối, ngược dòng nước là lên nguồn, xuôi dòng là về dưới. May mắn thay, vào đến khu sản xuất của làng, gặp bác Đinh Nghèo và con trai đi thăm bẫy, vậy là chúng tôi bám theo. Nhưng chỉ được một đoạn, khi băng qua một khúc sông, trong khi chúng tôi còn mê mải bắt… vắt lổn ngổn bò lên người, thì họ đã… biến mất sau những tán rừng.

Vậy là chúng tôi cứ tha thẩn dọc sông, vừa đi vừa làm dấu bằng những nhát rựa phát trên những thân cây rừng. Khúc sông và cánh rừng già yên tĩnh đến phát sợ. Tự dưng lại nhớ đến câu chuyện mà tối hôm trước, trong căn nhà sàn tối om dưới thôn 2, một người làng đã kể cho nghe, rằng mới năm trước đây thôi, một người đi câu cá trong rừng nghe có tiếng lọc cọc phía trên, mới lấy hòn sỏi ném đùa. Nhưng khi nhìn lên, anh ta đã thót tim, vì hoá ra đó là một “ông ba mươi”. Họ còn bảo, thi thoảng, vẫn có tiếng “ông” về trong đêm…

May quá, chỉ lát sau, trước mặt chúng tôi, thoáng có bóng hai chàng trai Bana xách cần câu đang ngược nguồn câu cá. Vậy là chúng tôi bám theo. Lần này thì đã có “kinh nghiệm”. Mặc vắt, mặc cho người cứ ngã đùi đụi xuống sông vì đá quá trơn trượt, chúng tôi kiên trì bám theo. Hỏi Đinh Bèo và Đinh Nít, tên hai chàng trai nọ, rằng bao giờ họ quay lại. “Tụi mình còn đi câu đến tận tối”- Đinh Bèo nói. Vậy là chúng tôi đành nhắc nhau để mắt xung quanh, không quên đánh dấu đường đi để còn biết đường mà trở về.

Để ngược nguồn, phải len theo con đường mòn, với không ít trở lực.

Rừng An Lão mùa này khá ẩm. Và cũng do vậy, những tán cây mọc rậm rì và xanh um. Thi thoảng, xen trong tiếng nước sông chảy qua những gộc đá ầm ì, chỉ có tiếng kêu những cánh đại bàng cất lên đâu đó. Khúc sông Côn vừa ra từ nguồn, thiêm thiếp nước, trong vắt và mát lạnh. Những đoạn sông đầy đá gộc và sỏi, thi thoảng điểm xuyết bằng những trảng cát miên man. Nắng trải đều trên triền sông đầy đá và cát, nắng lấp loá trên mặt nước, hay phản chiếu những tảng cây rừng. Khung cảnh đẹp như một bức hoạ ấn tượng.

“Nom nó thanh bình vậy đó, nhưng chỉ một cơn mưa, nước sẽ dâng lên, từ nguồn đổ ập xuống”- Đinh Bèo nói. Nhưng rồi như để trấn tĩnh cho chúng tôi, Đinh Nít bảo. “Không sao đâu, nước chỉ dâng lên một lúc rồi xuống ngay. Lũ nguồn mà. Vả lại, hôm qua mưa nhưng nay trời đang trong lắm”. Mà quả thật, không hiểu chúng tôi có duyên gì với dòng sông hay không, mà những ngày lên nguồn, cũng là những ngày trời rất trong và đầy nắng. Dẫu chỉ mới hôm trước đó thôi, cứ tầm 1, 2 giờ chiều, An Toàn lại mưa như trút nước. Dulichgo

Con đường xuyên rừng nương theo những suối khe thiên nhiên. Người đi là đá mòn. Và những dấu chân người vẫn tiếp nối. Như tôi và những người bạn đồng hành của tôi hôm nay. Tất cả cùng hoà chung trong một bản hùng ca vĩ đại mang tên cuộc sống. Trên con đường xuyên rừng, tôi cứ lan man nghĩ vậy.

Nơi sông khởi nguồn

Từ đây, dòng nước này chính thức mang tên sông Côn.

Phải qua hơn hai tiếng đồng hồ đi bộ như chạy theo những bước chân thoăn thoắt của hai chàng trai Bana, chúng tôi mới đến Đá Trải. Địa danh này, quả thật, chỉ sau này, chúng tôi mới biết tên, vì hai chàng trai thổ địa nọ cũng chẳng biết. Họ cứ bảo: Phải hỏi người già ấy! Gọi là Đá Trải, có lẽ bởi giữa dòng sông, là một phiến đá khổng lồ trải mình. Con sông phải lách qua một bên khe, rồi mới tiếp tục xuôi nguồn. Quan sát kỹ tảng đá nọ, ở giữa, một vết lõm sâu và dài, trải theo chiều dọc đá, trông như chiếc bè của ai đó mới vừa dời đi, để dấu tích lại trên nền đá. Sau này, qua ông Đinh Nghèo, chúng tôi mới được biết, người Bana vẫn kể: Ngày xưa, người trời xuống đây, làm những chiếc bè xuôi theo sông, nay còn để lại dấu tích.

Phía trên Đá Trải một chút, có thác nước nhỏ, nước róc rách xuyên qua những tầng đá thấp, rồi uốn lượn như dải lụa, đẹp đến mê hồn. Nước sông trong vắt, trong như chưa bao giờ trong đến vậy. Những đàn cá nằm im dưới các hốc đá, chỉ đến khi chúng tôi để rơi những vụn bánh xuống, mới rủ nhau ào ra, rồi lại nháo nhào chui ngay vào hốc. Chỉ cần mảnh lưới nhỏ là có một bữa cá chiều - ấy là chúng tôi lan man nghĩ vậy. Còn hai chàng trai Bana cứ hết thả mồi, là những con cua nhỏ, nơi này lại sang nơi khác, rồi cứ tiếp tục men suối đến tận chiều. Họ bảo, rằng họ chỉ bắt những con cá chình, cá nhau to cỡ cổ chân. “Hồi xưa, sông nhiều cá lắm. Bây giờ ít hơn vì nhiều người lên đây rà điện hết”- họ nói. Ngược lên phía trên, chúng tôi gặp những con suối nhỏ cũng đang trong bản tình ca bất tận, miên man chảy giữa đại ngàn.

Ngồi lại với dòng sông, lắng nghe tiếng thao thức của sông với rừng già, với suối nguồn, trước khi tiếp tục băng rừng và len qua những dãy núi điệp trùng, để về với biển. Thật lạ, trong mường tượng của tôi, và hẳn bao người nữa, khi nghĩ về ngọn nguồn sông Côn, hẳn là những dòng thác trắng xoá và tuôn trào bọt nước, những ghềnh đá dữ dội ầm ầm thác đổ. Vậy mà không, dòng sông dưới chân tôi lại êm đềm như khúc nhạc trữ tình, như bản hơamon bất tận kể bên bếp lửa nhà sàn đêm đêm. Sẽ không thể hiểu bản chất của dòng sông nếu không lên tận nguồn của nó. Một nhà văn đã viết chí lý vậy.

Dấu lõm in hình chiếc bè ở Đá Trải.

Và khác với sông Hương, dữ dội nơi đầu nguồn và càng về xuôi càng êm đềm, êm đềm đến độ “Con sông dùng dằng, con sông không chảy” thì sông Côn dường như chỉ mãnh liệt khi cất bước sang bên kia núi, rồi trở hướng xuôi về hạ nguồn, uốn mình qua những thôn làng trù phú ở Tây Sơn, An Nhơn, Tuy Phước. Có lẽ, cái hướng chảy Bắc Nam của đoạn sông nơi rừng núi An Lão này đã tạo nên cho dòng sông như vậy. Và cái khí chất phóng khoáng của núi rừng, vẫn ủ lại với trầm tích sông, chỉ rạo rực lên khi mùa lũ về. Sông như vẫn còn quyến luyến lắm với cây rừng, với đất và người thượng nguồn An Lão, nên cứ miên man vậy. Miên man cho đến khi gặp nước Mia, nước Miên (đều thuộc An Toàn) rồi đổ vào thuỷ điện Vĩnh Sơn, rồi lại tiếp tục xuôi chảy thì gặp thêm nước Trinh cũng từ An Toàn đổ ra, và một nhánh nhỏ khác từ Hoài Ân chảy vào, sông mới thật mạnh mẽ và cường tráng…

Đêm đã buông xuống trên triền sông. Những nếp nhà sàn ủ trong màn đêm tịch mịch và khí trời se lạnh vùng cao. Thoáng trong tiếng đêm, ánh lửa bập bùng từ những góc nhà sàn. Lại nghe trong hơi gió, có tiếng sông rầm rì vọng lại, hoà cùng tiếng gió đại ngàn vi vút thổi. Phải tiếng sông, hay tiếng của những vị thần Bana tối cổ vừa trở về, nhắc nhở trong chúng ta, rằng đừng bao giờ lãng quên nguồn cội, như trăm dòng sông dù có lãng du ra biển, vẫn mong ngày trở lại với suối nguồn, để tiếp tục làm cuộc hành trình bồi đắp nên những dư vị phù sa cho cuộc sống…


Thượng nguồn sông Côn, ấy là nơi cư trú của những bản làng Bana. Vít cong cần rượu cần nồng đượm, thả trí tưởng trong những bản hơamon lẫn trong khúc nhạc đệm vĩnh hằng của dòng sông, để thấu hiểu nhịp sống đại ngàn của những người “ở lại với dòng sông”… 

Kỳ 2: Người ở đầu nguồn sông

Nhìn từ xa, những ngôi làng ở vùng cao An Toàn trông như những tổ chim nhỏ đậu trên một triền đồi cao. Những nếp nhà sàn quần tụ, những chiếc chòi lương thực xinh xắn, trông như những nốt nhạc trầm bổng khác nhau trên một dòng nhạc mang tên đại ngàn.
Ông Đinh Văn Lý, Bí thư Đảng uỷ xã An Toàn, nói: “An Toàn là xã có biên giới với hai tỉnh Gia Lai và Quảng Ngãi, lại là đầu nguồn sông Côn và sông An Lão. Vậy nhưng, người dân ở đây chưa được hưởng lợi gì nhiều từ sông”.

Ông Lý nói vậy bởi cư dân của vùng đất này hiện vẫn chưa thể làm giàu từ sông. Nguồn lợi chủ yếu từ sông chỉ là bắt cá. Mà ở lĩnh vực này, xem ra cư dân bản địa khai thác theo kiểu truyền thống đang bị “cạnh tranh” dữ dội bởi những người rà điện. Ba thôn của An Toàn tiếng là nằm trên nguồn của Nhà máy Thuỷ điện Vĩnh Sơn, nhưng đến giờ, vẫn chưa có điện lưới Quốc gia. Còn dự án Vĩnh Sơn 2 thì đến nay cũng mới xong phần khảo sát… Nhưng nói vậy thôi, chứ với cư dân đầu nguồn sông này, họ vẫn gắn bó với sông nhiều lắm.

Hai chàng trai Bana đi bắt cá mà chúng tôi gặp là một ví dụ. Bắt cá sông Côn với họ gần như đã thành một thứ nghề. Hết đánh lưới rồi câu, cả ngày họ trầm mình bên sông và lắng nghe nhịp lên xuống của những mùa nước. Họ cho biết: Mỗi ngày, họ bắt được 4-5 kg cá chình, cá nhau, cá phá… chủ yếu để cải thiện bữa ăn, vì cũng chẳng biết bán cho ai. Còn theo ông Lý, nguồn cá sông Côn vậy là đã giảm đến khoảng 80%, nguyên nhân chủ yếu cũng do nạn rà điện. “Họ từ vùng khác đến, rà vào ban đêm, nên khó mà phát hiện được”- ông Lý nói.

Câu cá ở thượng nguồn sông Côn.

Nguồn lợi chủ yếu của những cư dân thượng nguồn là từ rừng. Tháng tư, tháng năm, tháng sáu, “mùa con ong đi lấy mật” cũng là mùa đi lấy mật ong rừng. Men dọc sông Côn, họ đi riêng hay thành từng tốp mươi người trở lại, và tuỳ vào thời gian bám rừng mà gói cơm hay gùi gạo. Họ chặt dây rừng bó lại thành cục, bên trong lèn lá khô, thêm lá tươi bên ngoài, gặp tổ ong thì đốt để hun khói. Đêm, họ căng võng, đốt lửa, ngủ lại với rừng. Mỗi ngày vào mùa như thế, mỗi người có thể kiếm được cả vài lít mật ong. Với thời giá hơn trăm ngàn đồng/lít, mùa săn ong trở thành mùa thu nhập quan trọng với cư dân đầu nguồn. Gần Tết, họ lại vào mùa khai thác mây theo hợp đồng khai thác với một chủ thu mua.

Sản vật từ rừng còn là những chiếc bẫy thú trong rừng. Anh Đinh Xảo, một trai làng vừa thăm bẫy trở về, cho biết: “Người làng mình không dùng súng, mà chỉ đặt bẫy thôi. Mới tuần rồi còn bắt được con heo rừng nặng tới 40kg. Nai, mang… vẫn thường hay gặp lắm. Nhưng cũng chỉ để ăn thôi. Nếu muốn bán thì có những người mua từ Ba Tơ sang”. Dulichgo

Bên cạnh việc khai thác nguồn lợi tự nhiên, những năm qua, bằng các nguồn vốn đầu tư như 134 135, ODA... An Toàn đã được đầu tư xây dựng một số công trình như gia cố đập Cha Pít, Gia Múc, đập Xang, A Len; xây mới các công trình nước sinh hoạt ở ba thôn, sửa chữa cầu treo, làm 300m đường bê tông… Toàn xã cũng đã có 190 hộ đăng ký trồng rừng với diện tích 109 ha gồm các loại cây như keo, sầu đông, mây... và nhận bảo vệ 3.031ha rừng.

Nguồn lợi từ sông, từ rừng; rồi sự quan tâm đầu tư như vậy không ít, nhưng An Toàn vẫn còn là xã khó khăn. Tỷ lệ hộ nghèo của xã vẫn còn 80,15% (105 trong tổng số 131 hộ). Ngoài hai nguyên nhân khách quan là cách trở giao thông và không có điện lưới Quốc gia, thì nguyên nhân chủ quan vẫn là tập quán canh tác của bà con vẫn còn lạc hậu, nên ảnh hưởng đến năng suất (xã có 45ha trồng lúa nước, năng suất 45 tạ/ha). Trong khi đó, trình độ cán bộ còn hạn chế nên việc hướng dẫn cho bà con ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, chăn nuôi còn rất hạn chế.

Giá Xuân, nghệ nhân hát Hơamon ở xã Vĩnh Sơn.

Có lẽ, cũng bởi vậy nên hiện nay, thu nhập chính của một bộ phận cư dân nơi đây vẫn chủ yếu là “ăn rừng”. Nhưng đâu phải nguồn lợi nào cũng dồi dào mãi. Bên bếp lửa nhà sàn, ông Lý trầm ngâm: “Theo Nghị quyết của HĐND huyện thì đến năm 2010, tuyến đường bê tông từ trung tâm huyện lên An Toàn sẽ hoàn thành. Đường đã thông, An Toàn sẽ phát triển thuận lợi hơn”. Còn chúng tôi, qua khe liếp, đã thấy những chiếc cột điện vừa được dựng lên sừng sững dọc triền đồi; trên một đỉnh núi, cánh thợ đang tất bật xây dựng một trạm phát sóng của Viettel. An Toàn sắp hoà điện lưới Quốc gia và có sóng điện thoại di động. Liệu có tin nào vui hơn với những cư dân đầu nguồn?

Xuôi theo sông, bên kia sườn núi, là xã Vĩnh Sơn (huyện Vĩnh Thạnh). Cư dân Vĩnh Sơn nói riêng và Vĩnh Thạnh nói chung có lẽ được hưởng lợi nhiều hơn từ dòng sông Côn. Nguồn nước dồi dào của sông đã tạo điều kiện cho nhân dân cấy gặt quanh năm. Và tuy là xã vùng cao, nhưng Vĩnh Sơn lại là một trong hai xã có diện tích lúa lớn nhất ở Vĩnh Thạnh (135 ha). Trên những mảnh đất đỏ bazan màu mỡ ở Vĩnh Sơn, nay đã và đang mọc lên, những vườn cà phê, bời lời, quế… Kỹ thuật trồng trọt, canh tác ở đây đã có nhiều tiến bộ. Trong xã cũng đã xuất hiện những nông dân sản xuất giỏi như Đinh Jol.

Cũng từng gặp trắc trở giao thông như An Toàn, nhưng ở Vĩnh Sơn hiện nay, đường bê tông nay đã lên đến trung tâm xã, trải về tận các làng K2, K8. Là một xã vùng cao, có 600 hộ dân với 2.706 nhân khẩu, trong đó người Bana chiếm đến 85%, nhưng đời sống của cư dân nơi đây những năm gần đây đã thuận lợi hơn. Xã đã có sóng điện thoại, bưu điện văn hoá và những tiểu thương lên buôn bán hàng ngày. Tỉ lệ hộ nghèo của Vĩnh Sơn hiện chỉ còn 62%.
Chiều nhập nhoạng, ngồi giữa căn nhà ruộng nhìn ra cánh đồng lúa nước, Đinh Xoa, từng là Chủ tịch UBND xã Vĩnh Sơn, giờ là Bí thư Đảng uỷ xã, say sưa kể về Vĩnh Sơn ngày ấy, bây giờ. Trong đôi mắt rạng rỡ của người con gắn bó cả đời với Vĩnh Sơn, chúng tôi như đọc thấy triển vọng tương lai của mảnh đất trù phú đầu nguồn này…

Khu sản xuất làng K3, xã Vĩnh Sơn, nằm bên sông Côn.

“Phù sa” của dòng sông

Sông Côn mang đầy đủ những đặc trưng của sông miền Trung: lòng dốc, trắc diện trẻ, xâm thực lớn. Phù sa của sông thô, tụ lại nhiều nơi sườn núi tiếp giáp đồng bằng. Bên cạnh phù sa của đất, sông Côn lại lắng đọng những phù sa của hồn người. Ở đó, bên dòng sông, xứ sở của những bản hơamon; của những truyện cổ gắn với những tên núi, tên nguồn; của thổ cẩm mang hương sắc ủa sông, của núi; của những câu chuyện nửa là truyền thuyết, nửa chân thật như chính dòng sông, về những người anh hùng áo vải… Ở đó, bên dòng sông, địa bàn cư trú của những cư dân xưa, vốn đã có mối giao lưu với cư dân các khu vực khác thông qua con đường sông. Bởi vậy, nếu sông Hồng có thể được xem là nỗi nhớ phù sa của đời người, sông Cửu Long là khát vọng đi tới biển, thì sông Côn sẽ là dòng sông của những cảm thức lịch sử.

Cư dân Bana bên sông Dak Krong Bung vẫn được người Bana vùng An Khê (gồm cả Kbang và Kông Chơro) gọi là Bana Kriêm. Dak Kriêm vốn là tên dòng suối nhỏ vẫn được gọi là suối Sem, từ đông An Khê đổ vào sông Côn. Vậy đó, sự chia cắt tưởng chừng chỉ là tự nhiên của sông, hoá ra lại góp phần hình thành nên nét khác trong văn hoá của người Bana Kriêm so với đồng bào vùng núi phía trên, thể hiện khá cụ thể qua những bản hơamon và những sắc màu thổ cẩm...

Một ngày lên làng K3 (xã Vĩnh Sơn), tôi được nghe giá Xuân kể hơamon. Tôi nhớ đã nghe ai đó nói rằng, giá Xuân học hơamon từ người cha, vốn là người An Toàn “bắt vợ” ở xã Vĩnh Sơn. Cứ đinh ninh là khi gặp giá Xuân phải hỏi cho được. Vậy rồi, khi câu hơamon cất lên, tôi lại để hết trí nhớ của mình ngoài bậu cửa. Phải rồi, tôi đang lạc vào không gian tiền sử, nơi tôi có thể đi từ miền không gian này sang miền không gian khác, nơi tôi đang trò chuyện với hai chị em Dyoong, nơi tôi đang dõi theo cuộc quyết chiến của chàng Dyoong Knoa với lão già Bok Jraoong…

Cầu treo vượt sông Côn ở xã An Toàn.

Giá Xuân sinh năm 1938, nay đã gần 70 tuổi, vậy mà khi tôi nài hát một đoạn trong bài hơamon, giọng giá cất lên vẫn thật ấm và trong. Nghe giá hát, trong tiếng đại ngàn xào xạc, tưởng như đang nghe những thanh âm thủ thỉ của núi rừng, chuyện ngày xưa. Này là chuyện tình yêu của đôi trai gái, phải qua bao cách trở; này là cuộc sống sản xuất, săn bắn và những khát khao của người làng; hay sự tích về nước ksí… Những bài hơamon của giá, “muốn mấy có mấy, bữa nào nghe cũng lạ tai”- ấy là sau này, một người làng nói lại với tôi vậy. Ngay như hiện tại, tuy tuổi đã cao, sức khoẻ đã không còn cho phép giá trải mình theo câu hát hàng đêm nữa, nhưng bên bếp lửa ngôi nhà sàn tại khu sản xuất, những đêm quây quần bên ché rượu cần, được yêu cầu, giá lại hát. “Hát chơi ít ít vậy thôi”- giá Xuân giải thích vậy.

Về làng M9, xã Vĩnh Hoà, một làng tái định cư ven sông Côn nằm dưới Định Quang, tôi lại được nghe bok Đoan kể hơamon. Nếu giá Xuân chuyên kể tình ca, thì “kho” hơamon của bok Đoan lại chủ yếu là những anh hùng ca. Những bản hơamon dài “từ lúc tra hột bắp xuống đất đến lúc bắp đã ăn tràng mới hết”. Bok Đoan cứ tâm đắc mãi ngày kháng chiến, bok đi họp dưới huyện: “Hồi đó ở huyện không ai hát hay và thuộc nhiều hơamon bằng tôi. Do đó, ban ngày họp xong, cứ tối đến, tôi mắc võng ngủ ở đâu, thì mọi người lại đến mắc võng xung quanh, và yêu cầu mình hát. Nhiều đêm, tôi hát hơamon từ 7 giờ tối đến tận 2, 3 giờ sáng. Cứ khi nào có người còn thức là mình còn hát”.

Ký ức vẫn chỉ là ký ức. Còn hiện tại, trong cuộc sống hiện đại, chẳng tìm đâu không gian thích hợp để diễn xướng sử thi. Vậy là ngày ngày, bok Đoan lại nằm ngay trên chiếc võng đầu nhà mà hát đôi câu hơamon cho đỡ nhớ. Những câu hát lạc trong không gian của nhà xây mái ngói, như tiếng sông lạc giữa lòng phố thị, đâm buồn…

Điều lạ lùng là trong những bản hơamon này, không ít lần ta bắt gặp hình ảnh biển cả. Phải chăng, đây là dấu hiệu xác nhận giả thuyết, rằng người Bana là cư dân cổ xưa, được người Chăm ghi trong bi ký là Mađa, cư ngụ ở vùng ven biển Quảng Ngãi, Bình Định. Các cụ già Bana ở Gia Lai còn kể, cách đây dăm, ba đời, người Bana còn ở Phú Phong, Phú Mỹ, Đập Đá, Bình Khê. Cho tới những năm kháng chiến chống Pháp, hàng năm một số gia đình Bana ở vùng thấp như Hà Nhe, Vĩnh Hoà, Vĩnh An vẫn về Thuận Ninh, Phú Mỹ, Trinh Tường, Tả Giang… để thăm quê cũ.

Vườn cà phê xanh tốt trên triền núi Vĩnh Sơn.

“Kho” sử thi của Bana sống bên dòng Krong Bung xem ra còn dày và tiềm ẩn nhiều tư liệu quý. Chẳng thế mà trước đó, gặp nhà sưu tầm văn học dân gian Hà Giao, ông cứ ước mãi, rằng giá đôi chân còn khoẻ, để được dạo khắp miền Dak Krong Bung sưu tầm hơamon. Này nhé, ngoài những cái “kho” của giá Xuân, bok Đoan, ít ra cũng đã được sưu tầm ít nhiều; thì vẫn còn những “kho” hơamon khác ở Vân Canh, An Lão. Chẳng như, tại An Toàn, vẫn có ông Đinh Văn Ôi và già Đinh Rúi biết hát hơamon. Hay như theo bok Đoan, ở Vĩnh Thạnh vẫn còn trên chục người biết hát hơamon. Làm sao cho câu hơamon không vùi chôn dưới lòng đất. Làm sao cho người già nằm xuống, vẫn còn kịp trao truyền câu hát hơamon cho người trẻ. Những câu hỏi ấy cứ vương vất mãi trong tôi, vương vất và hoài nhớ về một phần ký ức thẳm sâu của đại ngàn.

Một nét độc đáo khác của văn hoá cư dân đầu nguồn là những sắc màu thổ cẩm Bana Kriêm. Nếu hoa văn của thổ cẩm Bana vùng trên phức tạp với mẫu hoa cây dót, người, cùng những đường lượn theo hình lá dong; thì người Bana Kriêm bằng lòng với mẫu hoa văn phức tạp nhất chỉ là ngôi sao tám cánh và đường vành cong đơn giản. Người Bana vùng dưới không quá nhấn mạnh đến bố cục thoáng, mà chồng nhiều giải li ti lên nhau, tạo thành cả giải phức hợp với độ dày lớn. Giữa hai tầng giải nhỏ, họ chèn vào một giải lớn trang trí hoa văn tám cánh trên nền trắng…


Không chỉ là y phục, nét hoa văn ấy cũng là một phần hình thành nên cái mà chúng ta vẫn gọi là văn hoá. Nhưng điều đáng buồn là những tấm thổ cẩm ấy hiện chỉ còn nằm trong gùi, trong rương, ít nhiều trong ký ức và chỉ bừng lên những dịp lễ hội. Những sắc màu tự nhiên, của cây rừng, của lá cây ven sông, ven suối, nay cũng được thay bằng chỉ màu nhân tạo bán sẵn. Còn dự án xây dựng làng thổ cẩm phục vụ du lịch thì hiện vẫn nằm sau hai cánh cửa im ỉm đóng của ngôi nhà trưng bày thổ cẩm…

Dak Krong Bung vẫn miệt mài chảy ngoài cửa, miệt mài với cuộc đối thoại ngàn năm, về những dâu bể, mất còn; về lẽ sống và niềm tin. Trong ngôi nhà sàn, bên bếp lửa, câu hát hơamon vẫn ngân dài, như dao vọng và đánh thức người nghe phần ký ức tập thể, vẫn ẩn sâu dưới tầng trí nhớ vốn bội bạc của con người…

Toàn cảnh núi Nguyễn Huệ.

Rời An Lão, sông Côn bắt đầu len qua những cánh rừng đại ngàn mênh mông, để bắt đầu đổ qua Vĩnh Sơn (Vĩnh Thạnh). Ở đây, sông tiếp tục hội nguồn, soi bóng những ngọn núi hùng vĩ. Trong những ngọn núi ấy, có núi Nguyễn Huệ (người Bana thường gọi là Kon Srut) huyền thoại. Theo chân người dẫn đường, chúng tôi đã làm một cuộc thám hiểm lên ngọn núi huyền thoại.

Kỳ 3: Thám hiểm núi Nguyễn Huệ

Chiều hôm trước, theo hướng dẫn của cán bộ UBND xã Vĩnh Sơn, chúng tôi đến làng K2 để tìm người dẫn đường. Thật may khi người thợ rừng đầu tiên tôi gặp đã nhận lời giúp. Đó là Đinh Phin, thường gọi là Bá Uôn.

Đúng hẹn, 7 giờ sáng hôm sau, chúng tôi bắt đầu khởi hành từ ngôi nhà sàn của Bá Uôn. Bá Uôn mang theo một cái rựa đi rừng, còn chúng tôi cắp theo chai nước. Bỏ xe tại một căn nhà ruộng, chúng tôi bắt đầu chuyến bộ hành gian truân. Đầu tiên là băng qua những đồng cỏ với những thân cỏ dại cao tận đầu người. Bá Uôn vừa đi vừa vung rựa phát liên tục để mở đường. Chúng tôi cố gắng để không bị ông bỏ quá xa, nhất là trên một hành trình mà mọi thứ đều lạ lẫm…

Tới bìa rừng, không khí đã thoáng mùi ẩm của lá mục. Bá Uôn dặn tôi phải đi theo bước chân của ông. Ông dùng rựa chặt những cành cây vươn ra trước mắt, thi thoảng lại chém lên những cây cổ thụ để làm dấu. Càng đi sâu lên núi, tiếng ve rừng kêu càng gay gắt. Những tiếng kêu “két két” như phát ra từ những bộ loa khổng lồ.

Tảng đá thần trên đỉnh núi Nguyễn Huệ.

Leo dốc chừng 20 phút, con đường mòn của những người thợ rừng bắt đầu hiện ra. Cùng với con đường là hàng loạt bẫy thú. Cứ khoảng 5m lại có một cái bẫy. Những cành cây rắn chắc được vót nhọn giương lên, chỉ một chút sơ sẩy, vướng chân vào là… bỏ mạng. Trên đường đi, chúng tôi còn gặp những bánh xe tải được cắt làm đôi, chứa đầy nước. Bá Uôn nói đó là thợ săn làm để nhử chim, thú; bên cạnh mỗi bánh xe, họ sẽ làm một cái lùm lá để ẩn mình, khi có chim, thú đến uống nước, họ sẽ bắn.

Sau gần một giờ leo dốc, chúng tôi đặt bước chân đầu tiên lên đỉnh núi. Khi thấy đằng sau những cây cổ thụ, thấp thoáng bóng trụ đá thần trong truyền thuyết, những mệt nhọc như tan biến.

Bước ra từ huyền thoại

Trước mặt chúng tôi là trụ đá huyền thoại, nơi mà theo chuyện kể của người Bana, trong một thời gian dài những ngày đầu khởi nghĩa, binh lính của Nguyễn Huệ đã trú chân trong những hang đá quanh núi, còn vị chủ tướng vẫn đi đi về về, thoắt ẩn thoắt hiện, khi thì thấy ông xuất hiện ở những hang núi trên Tây Sơn thượng đạo, khi lại thấy ông ngồi sừng sững trên hòn đá thần. Bá Uôn nói, người Bana gọi đó là “Tmo Pôr”. Đá vẫn đứng đấy, sừng sững, dáng thẳng, phần nổi hình lăng trụ, bề mặt rất bằng phẳng. Tuy nhiên, nơi lạch nước dưới chân tảng đá mà theo chuyện kể, vẫn có một con cá sấu thần bơi lội, giữ cho nước luôn sạch sẽ, đã không còn. Đối diện với trụ đá, trên một gốc cổ thụ, ai đó khắc lên những vết khắc, nay chỉ còn đọc được số “1947”. Dulichgo

Bá Uôn nói, đỉnh núi này rất hoang vắng, những người thợ rừng rất ít khi lai vãng lên đây. Thú rừng giờ cũng vơi, chỉ còn mấy loài thú nhỏ như cheo, mang, chồn… Tuy nhiên, cây rừng thì vẫn còn nguyên. Có những cây cổ thụ lâu năm ba bốn vòng tay người ôm không xuể. Những hang động ngày xưa binh lính Nguyễn Huệ ẩn náu, số thì bị vùi lấp, số thì lâu không có dấu chân người đặt đến nay cây cối mọc đầy.


Dừng chân ở đỉnh núi chưa đầy nửa giờ, chúng tôi bắt đầu tìm đường vào sân bay cũ của Mỹ. Năm 1972, lính Mỹ đã khai phá một mảnh đất rộng khoảng 200m2 ở phía nam của núi, đốn cây, san bằng mặt đất để trực thăng đáp xuống đổ quân. Chúng lưu lại ở đó khoảng ba tháng. Bá Uôn kể, sau ngày giải phóng, ông và một số người dân quanh vùng đã có lần lên đây, nhặt một số vật dụng còn lại. Nhưng đã từ lâu lắm, không ai tìm vào chốn này. Trước mắt chúng tôi, sân bay giờ chỉ là một rừng lách dày đặc, thân cao hơn 2m, không thể chen vào được. Xung quanh rừng lách mọc đầy những bụi chuối rừng. Chẳng có một lối mòn, nên khi quay lại, chúng tôi mất phương hướng. Cũng may, sau một hồi loay hoay tìm kiếm theo những dấu cây, chúng tôi cũng tìm lại được đường xuống núi.

Ra khỏi rừng cây ken dày, bước xuống chân núi, đi bộ chừng nửa giờ nửa, Bá Uôn đưa tôi đến Vườn cam Nguyễn Huệ. Vườn cam nay chỉ là dấu tích và khu vực vườn cam rộng chừng vài cây số vuông. Mí Bình (Đinh Thị Sá), một người sống ngay gần khu vườn cam, nói. “Vườn cam xưa nghe nói rộng hàng chục ha, có cây đường kính 30-40cm, quả vỏ mỏng, rất ngọt, nhưng vào những năm chiến tranh, đã bị chết gần hết do chất độc hoá học”. Dẫu vậy, theo mí Bình, trong tâm khảm người dân Vĩnh Sơn, Vườn cam Nguyễn Huệ vẫn rất thực. Nó thành niềm tự hào của người địa phương khi nói, kể về quê hương mình, thành sự nhắc nhở, trong những câu chuyện người già bên bếp lửa đại ngàn.

Một cây cam con mới trồng lại trong Vườn cam Nguyễn Huệ.

Vườn cam giờ chỉ còn mấy cây cam do đồng bào Bana trồng sau này. Dưới một cây cam to nhất còn sót lại, chúng tôi nhặt lên một quả chín rụng. Vỏ dày như bưởi, nước nhiều nhưng vị thì chua gắt. Quanh cây cam cao khoảng 3m ấy là những gốc cam nhỏ, mỗi cây được trồng cách nhau khoảng 5m. Bá Uôn nói, đó là những cây cam được thanh niên xã Vĩnh Sơn trồng từ hồi Tết vừa rồi theo dự án khôi phục Vườn cam Nguyễn Huệ của huyện Vĩnh Thạnh.

Chuyện kể bên đống lửa

Theo lời giới thiệu của ông Đinh Xoa, Bí thư Đảng uỷ xã Vĩnh Sơn, tôi tìm đến nhà Đinh Nương, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã. Ba lần bảy lượt quay đi trở lại tôi mới được gặp ông. Đã hơn năm mươi, nhưng Đinh Nương vẫn còn có thân hình rắn chắc như thanh niên đôi mươi. Vừa đi rẫy về, ông cất cái rựa, khoác bộ quân phục, rồi ra tiếp khách. Trong ngôi nhà sàn khá khang trang, bên đống lửa bập bùng, ông kể cho tôi nghe những câu chuyện lưu truyền từ thời xa lơ xa lắc.

Từ thời xa xưa, Kon Srut vốn là một dãy núi vĩ đại, trên núi có cả đường dẫn lên Trời, người nào trèo lên đến tận đỉnh núi sẽ gặp được Trời. Truyền thuyết Bana kể rằng: có ba mục đồng chăn bò trên núi Kon Srut, vào một buổi chiều tà nhóm lửa nướng “sem soi” (một loại chim rừng, nhỏ như chim sẻ). Khói thơm bốc lên Trời, Trời tưởng là ba mục đồng nướng thịt nai, nên ngỏ ý xin óc nai. Ba mục đồng không cho, Trời tức giận, bèn đánh ba phát, xẻ Kon Srut thành ba phần: Kon Pokpang, Kon Tdon (hai ngọn núi nằm phía đông của Vĩnh Sơn), phần còn lại là Kon Srut (núi Nguyễn Huệ bây giờ).

Ông Đinh Nương, người kể chuyện bên đống lửa.

Sau khi Nguyễn Huệ và đoàn quân của ông rút đi, Kon Srut càng trở nên huyền bí hơn. Người Bana lên núi săn thú còn thấy những khẩu súng thô sơ, họ gọi đó là “Tlu”. Trong một đêm nọ, có một vị thần đến báo mộng cho dân làng xung quanh rằng để giữ cuộc sống thanh bình, sung túc, hằng năm dân làng phải dâng lễ vật cho hòn đá thần. Kể từ đó, năm nào dân làng cũng góp của cải để sắm lễ vật gồm một con lợn, một con dê và một con gà trắng. Tục lệ này còn duy trì đến tận trước kháng chiến chống Pháp…

Qua câu chuyện của ông Đinh Nương, chúng tôi lại nghĩ đến tín ngưỡng thờ đá của cư dân Đông Nam Á xưa. Đông Nam Á là một trong số ít những khu vực trên thế giới còn bảo lưu được một số phong tục, tín ngưỡng gắn với thờ đá. Và hẳn, hồn đá thiêng trên núi Nguyễn Huệ cũng không nằm ngoài nét văn hoá này. Đáng lưu ý hơn, hòn đá thần này còn được gắn với hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ. Thờ đá trong tâm thức người Bana hẳn cũng sẽ là một đề tài thú vị đối với những nhà nghiên cứu văn hoá.

Đọc tiếp :Kỳ 4 - Kỳ 5 - Kỳ 6 - Kỳ 7 - Kỳ 8 - Kỳ 9

Theo Viết Thọ-Hoài Thu-Văn Trang (Báo Bình Định)
Du lịch, GO!

Không có nhận xét nào: