Giáo Sư Georges Ohzawa tên thật là Sakurazawa Nyoichi (1893-1966) thuở nhỏ rất yếu đuối, bị ung thư bao tử và lao phổi trầm trọng, do lây bệnh từ thân mẫu. Vào thời đó, mẹ ông bị bệnh lao phổi là một bệnh nan y nên bà phải từ trần lúc tuổi đời chỉ mới 30. Ít lâu sau, ông may mắn được một thiền sư đem về chùa chữa trị và truyền dạy về y học.
Khỏi bệnh ông chuyên tâm nghiên cứu về y học cổ truyền. Năm 20 tuổi ông bắt đầu hành y, đã chữa trị thành công cho rất nhiều người. Để mở rộng thêm kiến thức, năm 30 tuổi ông sang Pháp du học về Tây Y và Sinh Vật Học ở Viện Pasteur. Về nước phản đối chính phủ gây chiến tranh xâm lược, ông bị tuyên án tử hình, may sau đó nhờ quân đội Mỹ đổ bộ lên nước Nhật kịp thời, ông đã được phóng thích.
Nhìn thấy những bệnh tật của con người ngày một gia tăng, trong đó có nhiều bệnh nan y mà Tây y tỏ ra bất lực, ông cố công nghiên cứu Vô Song Nguyên lý và Dịch Kinh Đông phương, lấy âm dương làm nền tảng, lấy khang kiện làm cứu cánh. Ông cùng phu nhân quyết định rời xa quê hương, xuất dương du thuyết, phổ biến triết lý âm dương ở các nước Âu châu, truyền bá phương pháp chữa bệnh mới do ông khai sáng mang tên Macrobiotics tức Phương Pháp Trường Sinh Ohsawa, dùng ẩm thực để chữa lành, hầu hết các bệnh, từ thông thường đến nan y một cách dễ dàng và nhân bản.
1- Quân Bình Âm Dương
Âm và Dương là 2 vật hay 2 trạng thái đối nghịch nhau. Âm thì ly tâm là bành trướng, là lạnh, tối, nhẹ, mềm là bất động, ở bên trong mà dương thì hướng tâm là co rút là nóng, sáng, nặng, cứng là chuyển động, ở bên ngoài. Hai vật cùng tính (cùng âm hay cùng dương) thì đẩy nhau. Hai vật khác tính (âm đi với dương) thì hút nhau, lực hút tỷ lệ với hiệu số của hai phân cực âm dương. Không có gì trung hòa, âm hoặc dương, phải có một bên lấn hơn. Với thời gian và không gian, âm sinh ra dương và dương sinh ra âm.
Trong cơ thể, đầu (trên cao) thuộc âm; chân (dưới thấp) thuộc dương. Thần kinh Trực giao cảm ly tâm lực (thuộc âm), có tính làm giãn ra chủ về sự giãn nở, bành trướng các tế bào và các tạng phủ. Thần kinh đối giao cảm hướng tâm (thuộc dương) kiểm soát mọi sự co rút. Về âm dương ẩm thực, vật nào nhiều nước hơn, nhiều Kalium hơn sẽ âm hơn. Vật nào khô hơn hoặc nhiều Natrium hơn sẽ dương hơn. Thực vật âm hơn động vật, tức là rau âm hơn thịt.
Không gì hoàn toàn âm hay hoàn toàn dương. Vật A có thể là dương đối với B nhưng lại là Âm đối với C, tức âm dương là tương đối. Carrot dương đối với khoai lang nhưng âm đối với khoai mài (hoài sơn). Muốn khỏe mạnh phải dùng thực phẩm sao cho có sự quân bình về âm dương, tức là âm dương phải cân bằng nhau. Dùng thường đồ ăn quá âm, hệ trực giao cảm chiếm ưu thế, sẽ sinh bệnh âm; ngược lại đồ ăn dương quá thì hệ đối giao cảm sẽ chiếm ưu thắng sẽ sinh bệnh dương. Thí dụ ăn nhiều đồ ăn âm tính thì bao tử sẽ yếu, tim sẽ đập mạnh, vì đồ ăn âm kích thích tim (dương) kiềm hãm bao (tử âm).
Tiếc thay trên đời này, đồ ăn âm vừa ngon ngọt vừa hấp dẫn thì lại quá nhiều, trong khi đồ ăn dương thì vô cùng ít ỏi, thế nên phần lớn bệnh của loài người là do ăn nhiều đồ ăn âm mà sinh ra. Vậy muốn lập lại thế quân bình âm dương để được khỏe mạnh, ta chỉ việc giảm bớt đồ ăn âm và thế vào đó bằng đồ ăn dương. Trong số hàng ngàn thực phẩm, Ohsawa đã chọn được một thứ thực phẩm, vừa có đủ phần âm lại dư giả về dương, có khả năng dương hóa cơ thể nhanh, lại nhu thuận dịu dàng với lục phủ ngũ tạng, đó chính là gạo lứt. Gạo lứt vừa có chất bột (glucide), vừa có đạm (protide), còn béo (lipide) ông đã đưa mè vào cuộc vì mè cung cấp chất béo, lại chứa nhiều sinh tố và khoáng tố. Mè là âm mà là âm tốt, cho thêm muối là dương, thế là âm dương hòa hợp, đi chung với gạo lứt sẽ thành lực lượng hùng hậu khá dương để tái lập thế quân bình âm
Nguyên lý Trị Bệnh dương cho cơ thể đang bị âm lấn lướt. Bệnh gì cũng không ra ngoài âm dương, không suy thì thịnh, lấy đồ ăn âm tính hay dương tính mà trị, sao cho lập lại được thế quân bình thì bệnh sẽ lui, chẳng cần đến thuốc Tây, hoặc ngồi sắc thuốc Bắc cho mất công vô ích. Thực hành nguyên lý nầy,Ohsawa tiên sinh khuyên chúng ta nên lấy “Gạo Lứt Muối Mè” làm chuẩn để chữa trị hầu hết mọi thứ bệnh.
Tiên sinh khuyên chúng ta nên lưu ý đến một kẻ thù nguy hiểm đó là đường (sugar, sucre) tiềm tàng trong đồ ăn nước uống. Trong bậc thang âm dương, đường ở vị trí âm mà là cực âm. Mỗi năm, đường đưa con người về “miền cực lạc” nhiều hơn số người “ra đi” vì hai quả bom nguyên tử được thả xuống Nhật 1945. Thật vậy, đường là nguy cơ sinh bệnh tiểu đường, mập phì, huyết áp cao, làm suy giảm hệ thống miễn nhiễm, khiến cơ thể khó chống lại vi trùng và bệnh tật. Đường acid hóa dòng máu khiến chất vôi bị hao mòn, gây xốp xương, răng hư, rối loạn thần kinh, làm yếu tim mạch, viêm loét dạ dày và ruột, cuối cùng là dẫn đến ung thư. Việc giới hạn dùng đường là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, người khỏe mạnh, cần nhiều năng lượng để hoạt động có thể dùng đường dưới dạng trái cây. Nếu thích đường thì nên chọn đường thiên nhiên chưa lọc, thường có màu vàng, nâu hay đen, hoặc mật ong thiên nhiên, còn đường hóa học hoặc đường trắng tuyệt đối không nên dùng.
2- Hợp Với Thiên Nhiên
Sống phải hòa hợp với thiên nhiên tức là hợp với sự sống. Con người, loài vật và cây cỏ là do tế bào sinh ra và hợp thành. Tế bào nào cũng có sanh có tử cho nên giữa chúng có điểm tương đồng, mà có tương đồng thì có khả năng tương hợp, tương thuận và tương thành đúng câu: “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” (cùng tiếng thì đáp lại nhau, cùng tính thì tìm đến nhau).Trái lại những gì không do sự sống sinh ra thì là vật chết, cho dù vật đó hữu dụng tạm thời, vẫn là vật chết. Đó là cái máy hay người máy (robot), cho dù vật đó nhỏ bé đến mấy, có tổng hợp tài tình đến mấy, một khi chúng vào cơ thể ta, chúng đóng vai trò như những robot, sẽ không hòa hợp và chẳng bao lâu sẽ gây hại cho cơ thể. Đó chính là hóa chất, được chế thành thuốc gọi là hóa dược được tổng hợp tại các dược hãng. Với bản chất không do sự sống sinh ra nên nó có ít nhiều độc tính, ta nên tránh dùng càng nhiều càng tốt.
Tất cả những thực phẩm có tiềm ẩn hóa chất cũng nên tránh. Đó là những chất bảo quản thực phẩm, những gia phụ. Chúng được cho vào trong đồ ăn làm sẵn (đồ hộp bao gói đồ khô), chất làm tươi lâu, chất tạo mùi thơm, hương thơm, nước hoa, phẩm màu làm cho đẹp mắt, làm giòn, gia vị tổng hợp. Vào trong cơ thể, chúng sẽ bào mòn cơ thể chúng ta, làm ô nhiễm môi trường bên trong cơ thể; đường hóa học (saccharin, cyclamate..) sinh quái thai, ung thư; bột ngọt (mì chính, vị tinh, glutamate de sodium) gây nhức đầu, làm tổn thương não, hư mắt, gây hen suyễn, khiến trẻ con tăng trưởng không bình thường; các loại acid chế nước chấm làm loét dạ dày, rối loạn tiêu hóa; phẩm màu nhân tạo gây ngộ độc toàn thân, ung thư, nhiều hóa chất công nghiệp dùng trong đồ ăn như thuốc tẩy trắng, làm trong, làm tăng đạm chất giả tạo (melamine) vô cùng độc hại (gây ung thư thận, gan) được dùng lén lút trong lãnh vực chế biến thực phẩm.
Ngoài các phụ chất (additifs) trên, ta cũng nên để ý đến nguồn gốc thực phẩm, có kèm hóa chất để thúc đẩy rau trái mọc nhanh to lớn đẹp mắt khác thường hay không, thú vật có được nuôi bằng thực phẩm có pha trộn hóa chất để cơ thể chúng nạc nhiều hơn mỡ, lớn nhanh như thổi hay không? Ngoài gạo lứt là chính, có thể thay thế bằng lúa mì lứt, hạt bo bo,kê, hắc mạch (sarrazine) dùng chung với muối mè và một số rau củ dương tính (carotte, bí đỏ, cresson, choux..)
1- Gạo Lứt là hạt gạo còn nguyên cám và mầm, không bón phân hóa học, không xịt thuốc trừ sâu, được nấu thành cơm, cháo. Dùng nguyên hạt là tốt nhất, nhưng để đỡ chán, gạo lứt có thể xay bột làm bánh tráng, bánh mì hủ tíu, bánh bèo bánh nậm. Tùy mức độ dương hóa cơ thể nhiều hay ít, phương thức “gạo lứt muối mè” chia thành 7 cấp độ.
-Phương số 7 : gạo lứt muối mè 100% dương nhất khắc nghiệt nhất nhưng hữu hiệu nhất.
-Phương số 6 : gạo lứt muối mè 90% + 10% rau củ, kém dương hơn so với phương 7.
-Phương số 5 : gạo lứt muối mè 80% + 20% rau củ, kém dương so với 6
-Phương só 4: gạo lứt muối mè 70% + 30% rau củ, kém dương so với 5
-Phương số 3 : gạo lứt muối mè 60% + 40% rau củ, kém dương so với 4
-Phương số 2: gạo lứt muối mè 50% + 50 % rau củ, kém dương so với 3
-Phương số 1 : gạo lứt muối mè 40% + 60 % rau củ, kém dương so với 2
Ngoài 7 phương trên còn có ngoại phương mang tên A, B, C cũng dùng gạo lứt muối mè, nhưng được phép dùng thêm rau đậu trái cây, thịt trứng cá (C thoải mái nhất) nhưng vẫn phải dùng trong giới hạn. Khi dùng phương có số nhỏ, thí dụ số 4, mà thấy kết quả chậm, thì dùng phương cao hơn như là 5, 6 hay 7, kết quả sẽ nhanh hơn.Khắc khổ và căn bản nhất là phương số 7 được dùng nhiều nhất để chữa bệnh trong mười ngày hoặc lâu hơn tùy bệnh nặng nhẹ, dùng chung vớí muối mè (8 phần mè 1 phần muối); có thể dùng tương, bơ mè, đậu đỏ đen. Khi khát, lấy gạo lứt rang hoặc trà già ba năm, củ sen, củ sắn dây (cát căn) nấu nước uống.
2- Rau Củ đúng mùa tại địa phương đều dùng được, tốt nhất là rau mọc hoang hoặc trồng tự nhiên (kô bón phân hóa học, kô thuốc trừ sâu). Có thể luộc hấp xào hầm, nấu canh, trộn gỏi, chiên bột, nén muối. Hè nóng có thể ăn rau sống. Các thứ âm thịnh như cà, cà chua, măng giá nấm dùng hạn chế, thỉnh thoảng có thể dùng thịt trứng.
3- Đậu Hạt các loại đều giàu chất đạm có thể dùng thay thịt cá, nấu riêng hay chung với cơm với rau củ làm bột làm bánh. Khi dùng đậu làm thức ăn, nên để nguyên vỏ vì vỏ chứa nhiều sinh tố và chất bổ, đậu đỏ dương hơn cả, đậu váng ít dương hơn. Đậu đen, đậu xanh hơi âm; còn đậu nành rất âm, nên những món ăn làm bằng đậu nành như sữa đậu nành đậu phụ chao nên dùng ít, ngược lại đậu nành ủ lên men ngâm muối và để lâu ngày như tương ta (hạt lỏng), tương đặc (miso), tương nước (tamari) là những gia vị bổ dưỡng có thể dùng hàng ngày.
4- Rong Biển như phổ tai, rau câu chân vịt, rau câu chỉ vàng, mứt biển giàu chất đạm, nhiều bột đường, chất béo chất khoáng và sinh tố; đem chiên xào, trộn gỏi, nấu xúp, làm xu xoa (thạch, agar) hoặc rang giã thành bột làm gia vị hoặc ăn với cơm cháo. Rong biển tương đối âm hơn rau củ trên đất liền có thể ăn hàng ngày, nên ăn vừa phải và không nên ăn vào buổi tối.
5-Thịt không cần thiết, vì thịt làm acid hóa dòng máu, tăng độ ammoniac trong ruột, vì phần lớn hiện nay thú vật được nuôi bằng thực phẩm chứa nhiều hóa chất nên không tốt; tuy nhiên nếu thích thì chỉ dùng thịt thú hoang hoặc được nuôi bằng thực phẩm thiên nhiên và dùng càng ít càng tốt (10% toàn bữa ăn, tuần 2 lần).
6- Cá có thể dùng hàng ngày 5% toàn bữa ăn, nên chọn cá nhỏ thịt trắng.
7- Sữa Bò không thích hợp với người, vì dùng dễ sinh cảm cúm, viêm xoang, viêm đại tràng.
8- Trứng chọn trứng có trống dùng cả lòng đỏ và trắng, trứng cực dương khó tiêu nên 1 tuần chỉ nên dùng 2 trái.
Muối được lấy từ nước biển thiên nhiên, xa nơi bị ô nhiễm (tàu bè qua lại) chưa bị lọc để tránh mất khoáng tố vi lượng.
Mè theo Đông Y bổ não, bổ máu ích gan, cường thận, nhuận trường làm đen râu tóc, da mịn, tai mắt sáng, bền gân cốt, ngừa trị phong tà,tăng sức chịu đựng đói khát.
Dầu mè có tính sát trùng, bôi lên vết phỏng chống phồng dộp hoặc xức ghẻ, thoa nơi thương tích rất tốt. Dầu mè đặc biệt bổ mắt có thể trị bệnh về mắt.
Dầu mè tốt làm từ mè rang sơ rồi đem ép nhưng không được lọc, không tẩy màu, mùi.
Không dùng bất cứ thứ gì do kỹ nghệ sản xuất, kể cả cafe. Phải nhai thật kỹ mới nuốt .
Trị Vài Bệnh Thông Thường
Bại Xụi (poliomyélite): Phương 7 với nhiều muối mè, bầu, hạt bí, kê, sarrazine, bột mì lứt, củ sen, carrote, cresson, epinard, bí đỏ, bồ công anh.
Bao Tử Đau: Phương 7 nhai thật kỹ, ăn bột gạo lứt rang với muối mè, tương. Uống trà gạo lứt, trà 3 năm.
Bao Tử Loét: phương 7 với muối mè, hay phương 6,5 với ít bắp xú (choux, có chất chống loét), carotte, hành tây xào chín. Nhai kỹ uống ít nước. Dùng bồ công anh (pissenlit) cam thảo hoặc cây mắc cở sao vàng nấu nước uống thay trà. Khi cơn đau tới, nuốt 1 muỗng cafe muối mè.
Bướu: Nhịn ăn một tuần rồi ăn theo phương số 7 (hoặc số 6) với muối mè, uống ít nước.
Bướu Cổ (goître): Phương 1 hoặc 2, ăn nhạt, nhiều rong biển, uống trà gạo lứt. Đắp nước gừng nóng và dán cao khoai sọ.
Bướu Cổ Lồi Mắt (basedow): Phương 7 hoặc 6 ăn hơi mặn và khô. Uống trà gạo lứt, trà ba năm.
Cảm Cúm Sốt: Ăn crème gạo lứt (rang vàng gạo lứt rồi tán bột, chiên bột với dầu mè, thêm nước sôi) với muối. Sau đó ăn Phương số 7. Ngâm chân nước nóng 20 phút, rồi nước lạnh 1 phút, lau khô.
Câm, Điếc: Phương 7 với muối mè.
Cùi: Phương 7 với nhiều muối mè, ngoài đắp nước gừng nóng dán cao khoai sọ.
Đái Đường: Phương 7, đặc biệt (100g bí đỏ với 50g đậu đỏ hạt nhỏ) nấu lấy nước uống.
Động Mạch Xơ Cứng (Arthériosclérose): Phương 7, ăn hơi lạt, rong biển, rau xanh (cải lá, bắp cải, rau má, cresson, củ cải trắng) nêm tương,luộc, hấp, có thể xào với một chút dầu mè. Uống trà gạo lứt, trà 3 năm. Hàng ngày lấy vải nhúng nước gừng nóng chà sát khắp người.
Động Mạch Tắc Nghẹn (Athérosclérose): Phương 7 hay 6, ăn hơi mặn và khô, ăn rong biển, uống trà gạo, lứt trà ba năm.
Gan Viêm: Nhịn ăn 3 ngày, rồi ăn kem gạo lứt (rang vàng gạo lứt rồi tán bột, chiên bột với dầu mè, thêm nước sôi) hay bột gạo lứt với muối mè, đừng ăn mặn quá, uống trà gạo lứt. Sau đó là phương 7, rau lá xanh (cresson, rau má, cải xanh, củ cải). Đau nhiều thì đắp nước gừng vài phút rồi dán cao khoai sọ. Sốt cao thì đắp đậu hũ. Nôn mửa thì nuốt tí muối mè, nước luộc rong biển hay nước đất sét (argile, cho 1 thìa café đất sét mua ở pharmacie vào nửa ly nước không đun sôi, quấy bằng thìa gỗ).
Giời Ăn (Zona): Ăn cháo gạo lứt với muối mè. Nhai nhỏ đậu xanh sống rịt vào chỗ lở. Sức dầu mè nguyên chất hay dầu cám.
Gầy Ốm: Nhịn ăn trong 3 ngày rồi dùng phương 7 hay 6 với muối mè độ 1tháng, rồi dùng phương 5, 4, 3. Nhai thật kỹ.
Hen Suyễn: Phương 7, có thể thêm củ sen chiên bột, uống trà gạo lứt, trà củ sen.
Huyết Áp Cao hay Thấp: chữa như “động mạch xơ cứng”. Huyết áp cao dùng trà tim sen.
Khớp Xương Sưng Phương 7, muối mè, đắp nước gừng nóng.
Kinh Nguyệt Không Đều: Phương 7, 6 hoặc 5, uống ít nước, ngâm mông nước nóng 15 phút mỗi đêm trước khi đi ngủ.
Liệt Run Cứng (maladie de Parkinson): Có 2 thứ, âm run ít, dùng phương 7 với một ít muối mè, uống ít nước; dương run nhiều đôi khi vùng vẫy,ăn phương 5, 4, ăn nhạt, uống nước vừa phải, dùng trà bồ công anh cho cả 2 bệnh.
Liệt Dương: Phương số 7 trong một tháng, sau đó là phương 6, 5.
Mập Phì: Phương 7 với 60g củ cải radis sống với một ít muối mè trong 1 hoặc 2 tháng.
Mắt Bệnh: Cận Thị Thuộc bệnh âm, dùng phương 7, 6, 5 với muối mè. Trà gạo lứt, trà 3 năm. Khi mỏi mắt, chà 2 bàn tay cho nóng rồi úp vào mắt (7 lần).
Loạn Thị (Astigmatisme): thịnh dương ( kô thấy rõ đường dọc) dùng phương 6, ăn hơi nhạt, loại âm (kô thấy đường ngang) dùng phương 7 nhiều ngày thêm bí đỏ carotte củ sen xào dầu mè nêm tương, hạn chế dùng nước. Áp mắt như cận thị .
Loạn Màu Sắc thịnh dương (kô thấy màu đỏ), thịnh âm (kô thấy màu xanh.): Chữa như loạn thị, áp trà và nhỏ dầu mè như cataracte (mắt cườm, cườm khô).
Mắt Cườm, Mắt kéo mây, Đục thủy tinh thể, Mắt vảy cá (Cataracte), phương 7 hay 6. Đắp nước trà nóng vào hai mắt nhắm kín, ngày 3 lần mỗi lần 15 phút. Mỗi tối trước khi đi ngủ nhỏ vào mỗi mắt 1-2 giọt dầu mè nguyên chất, uống trà lá cúc. Dùng nước dừa xiêm tươi (coconut water) mới hái từ trên cây, không non không già, nhỏ mắt. Không được dùng nước dừa hộp, dừa ngâm nước hóa chất cho tươi lâu.
Mắt Đỏ, Mắt Hột: Nhịn ăn vài bữa, hoặc ăn bột gạo lứt cháo gạo lứt với muối mè và tương hơi mặn, uống trà gạo lứt trà 3 năm, sữa thảo mộc (nếp lứt, kê, ý dĩ, hạt sen, mè tất cả đãi rửa để ráo rang vàng trộn chung xay mịn), áp trà, nhỏ dầu mè như cataracte hoặc nhỏ mắt bằng sữa con so.
Mắt Lé Thịnh âm (hai lòng đen nhìn ra 2 bên ngoài) thịnh dương (cả hai nhìn vào trong): chữa như loạn thị, thịnh âm lẫn thịnh dương (mắt nhìn trong mắt nhìn ngoài) dùng phương 7.
Nhãn Áp Tăng (Glaucoma): như mắt cườm, phương 7, uống ít nước. Uống nước dừa tươi (coconut water).
Viễn Thị Bệnh dương: dùng phương 2, 3, 4, 5 nhai thật kỹ, dùng ít muối, uống nước tùy thich.
Võng Mạc Bị Long (décollement de la rétine): Phương 7, chỉ uống trà gạo lứt vừa đủ thấm miệng trong vài ngày, sau đó dùng phương 6 ăn hơi mặn và khô. Mỗi tối trước khi đi ngủ nhỏ vào mỗi mắt 1-2 giọt dầu mè nguyên chất.
Mũi Ung Thối (Ozène): phương 7, ăn hơi mặn và khô, uống trà gạo lứt, rửa mũi bằng nước trà pha muối (hít vào rồi hỉ ra), áp nước gừng, dán cao khoai sọ.
Phổi Ứ Đàm: Phương 7 hoặc 6, mỗi ngày ngậm 2 quả ô mai hay chanh muối lâu năm, uống trà gạo lứt trà củ sen, áp nước gừng ở ngực (nam) lưng trên (nữ).
Phong thấp (rhumatisme): Chỉ ăn gạo rang hoặc cháo gạo rang với muối mè, uống ít nước. Đắp nước gừng, dán cao khoai sọ.
Phỏng: xức dầu mè nguyên chất. Lòng trắng trứng, đánh tan, bôi lên. Bôi dầu xăng super.
Sán Lãi: Sáng nhịn ăn, chỉ ăn một nắm gạo lứt sống hay hat bí đỏ sống thêm hành tỏi sống, nhớ nhai kỹ, vài ngày sau sán sẽ ra. Dùng phương 7, 6 thức ăn nấu hơi mặn, uống trà ngải cứu, nước rong biển.
Say sóng: Trước khi lên xe, uống ít nước, không dùng rượu, không ăn uống đồ ngọt. Ngậm một ít muối mè. Để 1 quả xí muội muối vào rốn, lấy băng keo dán lại. Gừng đập hơi giập, đắp rốn, dán băng keo, miệng ngậm gừng.
Sạn Mật Bàng Quang Thận: Phương 7, muối mè, 4 ngày đầu 4 muỗng mỗi bữa ăn, các ngày sau,1 muỗng. Đau thì đắp nước gừng nóng dán cao khoai sọ. Tránh đồ ăn âm (trái cây, dấm, các chất chua, đồ ngọt)
Sưng Màng Óc: Phương 7 với ít muối mè trong một tháng, sau dùng phương 6, 5 với bí đỏ và các thứ rau củ xào mặn. Cạo trọc đầu, ngày 5 lần, đắp nước gừng nóng nửa giờ rồi đắp cao khoai sọ 4 giờ.
Tai biến mạch máu não: Cách chữa như “động mạch sơ cứng”. Áp nước gừng nóng và đắp cao khoa sọ trên đầu (nên cạo sạch tóc). Xoa xát dầu mè gừng.
Thần Kinh Tọa Viêm: Phương 7 như Sơ cứng mảng. Áp nước gừng nóng, dán cao khoai sọ, ngâm nước cải bẹ xanh với ít muối.
Thần Kinh Viêm (névrite): phương7, nhai thật kỹ, uống ít nước, dùng cresson, củ sen, pissenlit, ngoại đắp nước gừng nóng.
Thống Phong (goutte): Phương 7 muối mè, tương đậu nành, uống ít nước.
Tim Đập Chậm (bradycardie): Cháo gạo lứt rang nửa tháng với 10g ô mai ướp muối lâu năm; sau đó dùng phương 7 với chút ít muối mè..
Tim Đập Nhanh, (tachycardie) Tim đập không đều: phương 7 hay 6,5 với muối mè.
Tim Nhói : Phương 7 với muối mè, nhai kỹ, uống ít nước, không ăn gì khác. Trước khi đi ngủ, ăn 1 muỗng muối mè. Ngày 4 lần, đắp nước gừng nóng và dán cao khoai sọ.
Tim Yếu: Phương 7 với muối mè, uống ít nước. Bệnh nặng, trong 3 ngày liên tiếp, mỗi ngày dùng 1 quả trứng gà sống mới đẻ có trống, thêm chút muối, nuốt trọng đừng nhai. Mỗi đêm trước khi đi ngủ , ăn một muỗng rưỡi muối mè.
Trí Nhớ kém : Phương 6, ăn rau củ dương (carotte, bí đỏ, resson, bắp cải, rau má, củ sen, rong biên, lá cải xanh), uống trà gạo lứt, trà ba năm.
Tâm Thần:
Cuồng Loạn: (hystérie) Tâm thần và thể xác bị rối loạn, không hòa nhịp. Phương 7 với rau củ dương, trà gạo lứt, trà củ sen, sữa thảo mộc (nếp lứt, kê, ý dĩ, hạt sen, mè tất cả đãi rửa để ráo rang vàng trộn chung xay mịn) để bổ dưỡng .
Hoang Tưởng (paranoia), tưởng tượng như đang có ai theo dõi để hại mình, phương số 7.
Phân Liệt (schizophrénie) tưởng hồn mình đang ở ngoài thể xác. Chữa như hysteria.
Ung Thư, Phương 7, rong biển, tương hành tỏi, uống trà gạo lứt trà ba năm. Ngày 3 lần đắp nước gừng nóng rồi sau đó dán cao khoa sọ lên khối u ở bên trong, Nấu cháo “hắc mạch sarrazine” (1 chén hắc mạch, 1 muỗng dầu mè, 1 muỗng café muối, 2 chén nước nấu thành cháo) ăn với muối mè tương đậu nành, uống ít nước.Lở loét thì xức dầu mè tốt , dầu cám hoạc bột dentie (cuống cà đem nén muối 3 năm, phơi khô đốt thành than, xay bột).Trị ung thư và viêm bàng quang, ung thư lưỡi miệng, dùng rau củ dương, tránh ăn đồ chiên nướng.
Ung Thư Bao Tử: Phương 7 với muối mè, uống ít nước, ngày 2 lần uống nửa muỗng cafe dentie. Đắp nước gừng nóng dán cao khoa sọ.
Ung thư Cuống Họng: Cháo gạo lứt rang (hay kem gạo lứt rang) với muối mè. Nếu nuốt được thì dùng phương 7 với muối mè, nhai kỹ, uống trà già ba năm.
Ung Thư Phổi: Phương 7, rong biển, tương hành tỏi, uống trà gạo lứt trà củ sen, áp nước gừng ở ngực (nam) lưng trên (nữ).
Ung Thư Gan, Tụy Tạng: Phương 7, rong biển, tương hành tỏi, uống trà gạo lứt trà ba năm. Nhịn ăn 3 ngày, rồi ăn kem gạo lứt (rang vàng gạo lứt rồi tán bột, chiên bột với dầu mè, thêm nước sôi) hay bột gạo lứt với muối mè, đừng ăn mặn quá, uống trà gạo lứt. Sau đó là phương 7, rau lá xanh(cresson, rau má, cải xanh, củ cải). Đau nhiều thì đắp nước gừng vài phút rồi dán cao khoai sọ. Sốt cao thì đắp đậu hũ. Nôn mửa thì nuốt tí muối mè, nước luộc rong biển hay nước đất sét (argile, cho 1 thìa cafe đất sét mua ở pharmacie vào nửa ly nước không đun sôi, quấy bằng thìa gỗ).
Viêm Xoang Mũi (sinusis) : Dùng phương 7 với muối mè, ăn củ sen chiên với dầu mè, uống trà củ sen. áp nước gừng nóng vào vùng xoang, có thể đắp cao khoa sọ. Xông mũi bằng khói ngải cứu.
Vô Sinh Phương 7 trong 2 tháng, rồi 6, ,5,4. Trước khi đi ngủ ngâm mông nước muối nóng 15ph.
Xơ Cứng Mảng (sclérose en plaques): Phương 7 hay 6, ăn hơi lạt, carotte, củ sen, bí đỏ, cresson, cải bẹ xanh, đậu xanh; hấp luộc xào với ít tương. Không tắm nước nóng, tắm hơi. Lấy khăn nhúng nước gừng nóng, chà xát khắp người cho da đỏ, rồi xối nước đó lên.
Xuất Tinh Sớm Phương 7 nhưng cử mè. Nhai thật nhỏ. Cây Trinh nữ (cây mắc cở) cùng với tim sen nấu uống thay trà.
Giải Đáp Thắc Mắc
1- Phương pháp Ohsawa chỉ dùng thực phẩm chứ không dùng thuốc thì làm sao mà khỏi bệnh được?
Cơ thể con người cũng như của loài vật do Tạo Hóa sinh ra, vô cùng tinh vi, hoàn hảo và vi diệu. Để bảo vệ cơ thể khỏi bị hư hại, bệnh tật, Tạo Hóa đã ban cho cơ thể khả năng tự chữa trị lấy bệnh, rất nhiều bệnh, với điều kiện là phải được cung cấp phương tiện tối thiểu để cơ thể tự chữa trị lấy. Trong số thực phẩm hiện hữu, nhiều vô kể, Ohsawa nhận thấy chỉ có” gạo lứt và muối mè” thêm trà gạo lứt rang, trà ba năm là đủ điều kiện mà cơ thể cần, những thứ khác chỉ là để bổ túc thêm mà thôi. Nhu cầu sở dĩ ít ỏi, ít ra là trong thời gian bị bệnh, là muốn tránh cho cơ thể phải làm việc nhiều, những việc cơ thể thấy chưa cần thiết, để cơ thể chỉ tập trung vào việc sửa chữa những hư hao của cơ thể, vì đó mới công việc chính.
Nhiều không phải là tốt. Nói nhiều thì dễ sinh mất lòng, có khi mang họa; ăn nhiều thì dễ mang độc tố vào người, tạo thêm nhiều công việc nặng nhọc cho bộ máy tiêu hóa, bài tiết và các cơ quan khác, làm mệt cơ thể, cơ thể dễ bị “chia trí” không dành hết “tâm trí và sức lực” cho việc tu bổ. Thuốc hiện nay là hóa chất tuy có tính năng điều chỉnh được trục trặc lúc đầu, nhưng bản chất không phải do Tạo Hóa sinh ra (tế bào), nên sẽ bị cơ thể bất dung nạp mà sinh điều bất lợi (phản ứng phụ), sớm trở thành gánh nặng cho cơ thể, làm cơ thể tốn nhiều thì giờ và công sức để loại trừ. Nếu cơ thể không loại trừ được chúng, mà chúng vẫn cứ “ở lỳ” (tích tụ) trong cơ thể thì hậu quả sẽ ra sao? Gạo lứt muối mè thì khác, nó cung cấp nguyên liệu mà cơ thể cần để hoạt động, cung cấp thực phẩm để bồi bổ cơ thể, cho nên cơ thể OK ngay, quan trọng là không hề có phản ứng phụ. Cho nên không dùng thuốc mà còn hơn là dùng thuốc, và cơ thể sẽ mau khỏi bệnh.
2- Đàn bà con gái tay chân lông lá xồm xoàm làm sao cho hết?
Vì ăn quá nhiều đồ ăn huyết nhục (dương) nên cơ thể thành quá dương sinh nhiều lông lá.
Dùng phương 7 vài ba tháng để âm dương được quân bình, thì tay chân sẽ sạch lông, sẽ trả về cho cơ thể sự duyên dáng dịu dàng và xinh đẹp.
3- Muốn biến đổi thai nhi gái thành thai nhi trai thì làm sao?
Người đàn bà lúc có thai sắp được 2 tháng đi tìm mua một lượng Hùng Hoàng (As2 S3) (dương) (ở tiệm thuốc Bắc) bỏ vào một cái túi lụa đỏ (dương) đeo luôn trong mình để dương hóa cái thai, thai nhi sẽ hoá thành trai.
4- Dùng Nguyên lý Âm Dương để chữa trị chứng hiếm muộn
Có nhiều phương cách trị hiếm muộn, nhưng đây là trường hợp đặc biệt. Một cặp vợ chồng, cả hai đều khỏe mạnh, “tinh binh” của chồng đều đầy đủ và rất tốt, yếu tố rhésus thuận lợi, thế mà người vợ cứ bị hư thai hoài. Bác sĩ Morishita sau khi hiểu được Dịch lý âm dương ghi trong sách của Ohsawa, ông nẩy ra ý kiến là cái phôi thai bị kháng thể (anticorps) trong huyết quản của người mẹ chống đối kháng thể người con, vì chúng cùng Âm hoặc cùng Dương nên ghét nhau và xô đuổi nhau.
Nay muốn hóa giải sự chống đối thì phải có vật thế thân (như kiểu Lê Lai cứu chúa) để hướng dẫn sự chống đối vào một mục tiêu khác trầm trọng hơn.
Khi người mẹ có thai được 2 tháng, ông lấy một mảnh da của người chồng ghép vào cho người vợ. Độ 2 tuần sau thì miếng da bị tróc và bị kháng thể trong châu thân người vợ chống đối kịch liệt. Đến tháng năm rồi tháng tám, ông ta cũng ghép như thế, các miếng da vẫn bị tróc sau 2 tuần. Thế là thai nhi được bình yên và đứa bé chào đời hoàn toàn khỏe mạnh. Sở dĩ thai nhi được bình yên vi kháng thể người mẹ đã tập trung toàn lực quay mũi dùi để lo chống đối kịch liệt miếng da ghép của người chồng là một vật chỉ riêng của người chồng mà nó chống đối thù ghét nhiều hơn cái thai đã có một nửa phần là phần máu huyết của người mẹ.
5- Dùng Nguyên lý Âm Dương Để Tăng Khả Năng Chống Bệnh Của Cơ Thể
1-Ngâm Chân Nước Nóng
Trong thủy liệu pháp của Tây phương, người ta ngâm chân nước nóng chỉ là để đưa máu xuống chân làm hạ nhiệt. Còn theo Nguyên lý Âm Dương: đầu (âm) phải mát (âm), chân (dương) phải nóng ( dương), thì âm dương trên dưới mới là đúng vị thế, trong cùng một cơ thể mới là quân bình, bằng ngược lại sẽ bệnh. Một khi đã mất quân bình rồi thì ta phải lập tức tái lập vị thế quân bình âm dương bằng phương pháp sau, tuy giản dị nhưng có thể trị đượcnhiều bệnh như nhức đầu, nóng lạnh, mất ngủ, hạ nhiệt, ho nhất là cảm nhiễm phong hàn, cảm cúm. Lấy 2 cái chậu, đổ nước lạnh gần đầy thùng A, thùng B chỉ đổ phân nửa. Nấu nước sôi cho thêm vào nắm muối đổ vào thùng B cho nước nóng lên chừng 40 độ C. Ngồi chỗ kín gió, nhúng 2 chân vào nước ấm, nếu nước nguội thì châm thêm nước sôi. Khoảng 20 phút sau (10 phút nếu là trẻ con), nhúng cả 2 chân vào thùng A (nước lạnh) trong 1 phút, để giữ nhiệt (âm hút dương) rồi lấy 2 chân ra lau thật khô rồi xát mạnh vào lòng bàn chân cho ấm. Trùm mền cho người nóng. Khi ra mồ hôi thì lấy khăn lau khô, thay quần áo. Ngày có thể ngâm chân 2 lần, tốt nhất là trước khi đi ngủ.
2-Dậm Chân Tại Chỗ
Dựa trên nguyên lý âm dương: đầu (âm) cần mát (âm), chân (dương) cần nóng (dương). Ở đây ta dùng một vật tác động đến hai bàn chân để tạo sức nóng cho chúng, đưa chúng đến tình trạng nóng (dương), bằng sự ma sát liên tục. Phương pháp nầy mang lại nhiều lợi ích cho những người ở thành thị sống xa thiên nhiên, hằng ngày chỉ đi giày đi dép, đi xe cộ, ít có dịp đi chân không. Cưa một thanh gỗ dài 35 cm, mỗi đầu thanh gỗ có tiết diện hình vuông, mỗi cạnh là 3,5 cm. Một mặt trên thanh gỗ, bào cong hình vòng cung theo vòm bàn chân. Đặt thanh gỗ trên nền nhà cạnh bàn hoặc tủ, mặt bào cong hướng lên trên. Đứng thẳng lưng và đầu, hai bàn tay vịnh bàn, đặt lòng bàn chân lên mặt bào cong của thanh gỗ, dậm chân tại chỗ 20 phút, thỉnh thoảng dậm từ gót chân ra đến các ngón chân và ngược lại. Ngày 2 lần, buổi sáng mới thức dậy và buổi tối trước khi đi ngủ. Phương pháp nầy trị được nhiều bệnh : đau tim, mất ngủ, nhức đầu tê mỏi, suy nhược.
3-Tiếp Cận Ion-Âm
Trên mặt đất có một lớp Ion âm, khi đi vào cơ thể sẽ kích thích hệ thần kinh đối giao cảm, có tác dụng là làm thay đổi mực độ acid-kiềm của máu , làm gia tăng hoạt tính của tế bào lành mạnh, làm sung mãn cho các tế bào. Ion âm được sinh ra rất nhiều gần bên thác nước thiên nhiên. Người đang thời kỳ dưỡng bệnh nên đến gần tháng nước nghỉ mát, bệnh sẽ rất mau lành. Những người sống ở thành thị, chân luôn đi giày dép, hai bàn chân ít có dịp tiếp xúc với mặt đất, với cỏ cây sỏi đá nên không được hưởng khí lực nầy. Chân (dương) không thể hút Ion Âm (âm) được, cơ thể không được hưởng sinh khí của đất nên thường hay bị mệt mỏi chán chường trầm uất hay nóng giận. Vậy ta hãy dùng phương pháp sau đây để đưa nguồn sinh lực thiên nhiên vô tận nầy vào nhà, thậm chí đưa lên lầu cao hoặc trên nền gỗ. Nối 1 đầu dây đồng (dây trần đã bỏ vỏ cách ly) vào phần dưới của ống dẫn nước, đầu kia nối với một tấm kim loại inox, rộng bằng 2 bàn chân,(hay với 2 cái thìa lớn bằng inox). Hàng ngày dùng chân trần đạp lên tấm kim loại nầy (hay 2 thìa Inox), cho ion âm ở đất theo ống dẫn nước đi qua gang bàn chân, rồi chan hòa vào cơ thể. Phương pháp nầy làm tăng sức đề kháng cơ thể trị đau đầu, mất ngủ, hay mệt mỏi, bệnh tim mạch.
Biên Soạn Nguyễn San Hà
Nguồn: http://phanchauhong.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét