Năm 2007 có một sự kiện hy hữu xảy ra
trong báo chí Việt Nam : Một hiện tượng đã xảy ra cách đó 6 năm nhưng nó
lại biết tới bởi 6 năm sau nhiều hơn là thời gian nó tồn tại. Hơn nữa,
hiện tượng đó lại chỉ được đăng tải trên những “tờ báo loại 2”, nghĩa là
không mang tính chính thống. Đó chính là hiện tượng của loạt bài báo
mang tên “Thánh vật sông Tô Lịch” được “nhai lại” bởi tờ “Người bảo vệ
pháp luật”. Sau sự kiện trên, tờ báo kia có lẽ phải đăng một dấu đỏ chót
vào trong lịch sử Guinness Việt Nam vì khả năng thổi phồng một hiện
tượng nhằm thu hút độc giả lớn nhất trong thời gian ngắn nhất.
Sự thực, câu chuyện về “Báu vật sông Tô Lịch” hấp dẫn người bởi những phép thuật được cường điệu quá đà, dựa trên những câu chuyện dân gian cách đây hàng nghìn năm về nhân vật phù thủy Cao Biền nổi tiếng Trung Hoa muốn trấn yểm long mạch Việt Nam : viên tướng, thầy phù thủy, thầy phong thủy, thầy tướng dưới thời vua Đường. Nhưng câu chuyện trong quá khứ lại càng thu hút hơn bởi tính thời sự của nó, khi nó gắn với những câu chuyện đương thời.
Ngày 27/9/2001, Đội thi công số 12 (Công
ty xây dựng VIC) trong khi nạo vét sông Tô Lịch đã phát hiện những di
vật cổ rất lạ và huyền bí : 7 cây gỗ được chôn đứng dưới lòng sông tạo
thành một đa giác đều, tại đó có các bộ hài cốt bị đóng đinh bả vai,
táng giữa các cọc gỗ.., đồ gốm, xương voi, ngựa, dao, tiền đồng… Rồi
chuyện máy xúc Komatsu tự nhiên lao xuống sông, nào là những người đang
làm việc tự dưng ngã lăn ra đất, đưa la bàn ra thử thì la bàn quay tít.
Một năm sau đó, những câu chuyện buồn của
các thành viên trong Đội nạo vét sông được gán với những câu chuyện mơ
hồ liên quan tới thuật bùa chú. Các nhà khoa học được mời đến với nhiều
giả thuyết, tranh cãi khác nhau và cũng chẳng đưa đến một kết luận nào.
Câu chuyện ầm ĩ trên báo chí rồi đi vào quên lãng, cho đến khi nó được
khơi mào trở lại một cách ầm ĩ hơn gấp nhiều lần trong năm vừa qua.
Vậy điều gì đã xảy ra trong quá khứ ? Cao
Biền thật sự là ai ? Cao Biền có thực sự yểm bùa thành Đại La hay đó
chỉ là câu chuyện của trí tưởng tượng?
Dân gian là nguồn phát tán mạnh mẽ sâu và
xa các câu chuyện truyền thuyết. Điều gì càng bí hiểm, càng mơ hồ, càng
ma thuật thì càng hấp dẫn. Có thể thấy câu chuyện về Cao Biền đi vào
các làng quê, trong tiếng nhai trầu bỏm bẻm của người già kể lại cho lớp
con cháu sau này phong phú đến chừng nào.
Trận chiến giữa “phù thủy” phương Bắc và các vị thánh phương Nam
Trước khi tìm hiểu Cao Biền thật sự là ai
và nguyên nhân Cao Biền trấn yểm long mạch, chúng ta hãy xem sức mạnh
của Cao Biền thông qua cuộc chiến đấu với các vị thánh nước Nam.
Cao Biền hoảng sợ thần Long Đỗ, lập đền Bạch Mã
Được xây dựng trước khi có thành Thăng
Long, đền Bạch Mã (phố Hàng Buồm, Hà Nội) nằm ở hướng chính đông, là một
trong tứ trấn của kinh đô thuở ấy. Đền xưa thuộc phường Hà Khẩu, tổng
Hữu Trúc, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức nay là số 76 Hàng Buồm, quận
Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Cao Biền đắp La Thành, mấy lần cứ bắt
đầu lại bị sụt lở. Một đêm, Cao Biền đứng trên vọng lâu nhìn ra, thấy
một vị thần cưỡi ngựa trắng chạy đi, chạy lại như bay, rồi bảo Cao Biền
cứ theo vết chân ngựa chạy mà đắp thành. Vì vậy, sau khi đắp thành xong,
Cao Biền cho lập đền thờ vị thần ấy ở ngay nơi hiển hiện, gọi là đền
Bạch Mã. Đền thờ này ngày nay vẫn còn ở phố Hàng Buồm, Hà Nội. Chuyện
này còn có dị bản khác nói rằng Cao Biền đã cho đắp thành Đại La. Một
hôm, Cao Biền ra chơi ngoài cửa đông của thành, chợt thấy trong chỗ mây
mù tối tăm, có bóng người kì dị, mặc áo hoa, cưỡi rồng đỏ, tay cầm thẻ
bài màu vàng, bay lượn mãi theo mây. Cao Biền kinh sợ, định lấy bùa để
trấn yểm. Bỗng đêm hôm ấy thấy thần báo mộng rằng :
- Ta là tinh anh ở Long Đỗ, nghe tin ông đắp thành nên đến để hội ngộ, việc gì mà phải trấn yểm ?
Cao Biền lấy làm kỳ lạ, bèn lấy vàng,
đồng, bùa và đúc một tượng sát hình nhân dị dạng nhằm yểm ngục, không
cho nước Nam phát trỉển nhân tài. Chẳng dè, ngay đêm đó mưa gió sấm sét
nổi lên dữ dội, sáng ra xem, thấy vàng, đồng và bùa trấn yểm đều đã tan
thành cát bụi. Cao Biền sợ hãi hét lên : “Thần ma của nước Nam rất
thiêng, không có cách nào trị nổi được”, bèn lập đền thờ ở ngay chỗ ấy
và phong cho thần là thần Long Đỗ.
Theo một cuốn sách về văn bia ở Hà Nội
thì Bạch Mã là ngôi đền rất thiêng. Đây là vị thần chúa tể của một khu
vực ngàn dặm được tất cả các đời vua cúng tế. Sau này Lý Thái Tổ dời
kinh đô đến đất này, đổi gọi Đại La là Thăng Long. Nhà vua sai đắp lại
thành, nhưng hễ thành đắp xong lại lở, bèn sai người đến cầu đảo thần
Long Đỗ. Chợt người cầu đảo thấy có con ngựa trắng từ trong đền đi ra,
dạo quanh thành một vòng, đi tới đâu, để vết chân rõ ràng tại đó và cuối
cùng vào đền rồi biến mất. Sau nhà vua cứ theo vết chân ngựa mà đắp
thành thì thành không lở nữa, bèn nhân đó, phong làm thành hoàng của
Thăng Long. Các vua đời sau cũng theo đó mà phong tới Bạch Mã Quảng Lợi
Tối Linh Thượng Đẳng Thần.
Làng Cổ Pháp của dãy núi Tiêu Sơn, “đất hai vua”, nơi Cao Biền không trấn yểm được
Làng Cổ Pháp chỉ là một trong hàng ngàn
ngôi làng của miền Bắc Việt Nam (nay là làng cổ Đường Lâm) nhưng đây lại
là nơi ngưng và kết huyệt long mạch của dãy núi Tiêu Sơn.
Dân
gian kể lại, đến đời La Quý An, thế đất Cổ Pháp vượng quá. Bao nhiêu vì
sao tinh tú trên trời đều chầu về. Quan nhà Đường xem thiên văn, nhìn
rõ, tâu lên vua nhà Đường là Đường Ý Tông (860-873)…
Năm Giáp Thân (864) vua Đường Ý Tông,
nhân việc quan thiên văn báo cho biết thế đất Cổ Pháp và An Nam (Bắc
Việt và một phần Trung Việt) có loạn, sai Cao Biền sang Giao Châu.
Khi đi, vua Đường dặn riêng với Cao Biền
đại khái là Trưng thị là hai người đàn bà mà làm rung chuyển cơ nghiệp
nhà Đông Hán (25 – 220). Rồi đến Triệu Ẩu (cách người Trung Hoa gọi Bà
Triệu, nhằm ý miệt thị), Lý Bôn… làm cho ta vất vả lắm mới dẹp được. Nay
trẫm thấy linh khí An Nam quá thịnh, e sau này có biến. Khanh đến đó,
trước bình giặc Nam Chiếu, sau tìm cách trấn yểm linh khí An Nam đi và
vẽ địa đồ về cho trẫm.
Nhân dịp đi qua đất Cổ Pháp, Cao Biền có
cho đào 19 cái lỗ chôn bùa ngải để yểm đất. Ngài La Quý An biết vậy nên
cho người lẻn đào 19 cái lỗ đó lên và trồng 19 cây lê vào.
Về sau, đất này là nơi sản sinh ra rất
nhiều người tài giỏi. Nhiều vị anh hùng hào kiệt đã được nuôi dưỡng bởi
linh khí nơi này, trong đó có hai vị vua là Ngô Quyền và Phùng Hưng.
Cao Biền không “phỉnh” nổi thánh Tản Viên
Thánh Tản Sơn chính là vị thần Sơn Tinh
trong truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh, và là một trong tứ vị thần bất
tử của Việt Nam.
Để có thể diệt được thần bản địa, Cao
Biền đã dùng một mưu mẹo rất “con người” là giả lập đàn cúng tế, lừa
thần lên rồi dùng kiếm báu chém đầu. Chém xong, Cao Biền đào hào, chôn
kim khí để triệt long mạch. Truyền thuyết dân gian kể rằng khi sang Giao
Châu, Cao Biền thấy long mạch rất vượng, nên muốn phá đi, thường mặc áo
phù thủy, cưỡi diều giấy đi khắp nơi để xem địa thế, hoặc dùng cách cũ
để thần bản địa đến. Cao Biền có lần đến núi Tản (còn gọi là núi Ba Vì),
định dùng chước này, nhưng Tản Viên sơn thánh biết được, liền nhổ một
bãi nước bọt vào Cao Biền và bỏ đi (có truyền thuyết nói là mắng Cao
Biền và bỏ đi).
Phá linh khí chùa Thiên Mụ, nhưng chúa Nguyễn hàng trăm năm sau vẫn lấy lại được
Chuông Thiên Mụ nổi tiếng cả nước với
tiếng ngân vang xa rộng của nó. Quả chuông này do chúa Hiến Tông (Nguyễn
Phúc Chu) cấp tiền đúc vào năm Canh dần (1750). Tiếng chuông chùa Thiên
Mụ biểu trưng cho sự hiện diện của Phật giáo hằng ngày, sớm và chiều
tại cố đô Huế, trong lòng mỗi người dân tại cố đô Huế. Thiên Mụ là bà
lão nhà Trời. Theo truyền thuyết, Cao Biền khi làm An Nam đô hộ phủ ở
nước ta, dưới đời nhà Đường, theo lệnh vua Đường là Đường Ý Tôn
(860-873), đã đi khắp nơi ở nước ta, tìm những nơi đất tốt có vượng khí,
đều lập phép trấn yểm. Cao Biền đã đến Thuận Hóa, xã Hà Khê, huyện
Hương Trà, thấy giữa đồng bằng đột khởi một cái đồi hình đầu rồng, biết
là nơi linh địa, bèn cho đào hào cắt ngang dưới chân đồi. Đêm đến, Biền
mộng thấy một bà lão tóc bạc phơ, ngồi dưới chân đồi than vãn và nói to:
“Đời sau, nếu có bậc minh chủ, muốn bồi đắp mạch núi lại, đem lại linh
khí cho đồi núi này, thì hãy lập chùa thờ Phật ở đây…”
Về sau, Nguyễn Hoàng khi vào Thuận Hóa,
tìm cách gây dựng thế lực, để biệt lập và chống đối với họ Trịnh, đã đến
nơi này, nghe các bô lão kể lại câu chuyện bà lão Trời và Cao Biền, thì
rất mừng, lập tức cho xây chùa trên núi, và tự tay viết biển chùa là
“Thiên Mụ tự” (chùa Thiên Mụ – chùa bà lão nhà Trời).
Người Việt Nam bình thường tin ở thuật
phong thủy, nhưng đồng thời cũng tin ở Phật, Bồ-tát, và đạo Phật. Cao
Biền có tài trấn yểm, nhưng dân Việt Nam có xây chùa thờ Phật là mọi
phép yểm của Cao Biền đều bị phá hết. Ảnh hưởng của chùa Phật là ảnh
hưởng của Tam Bảo, của đức Phật thường trú, của Chánh pháp mà bánh xe
luôn luôn chuyển động, của Tăng là những người có trách nhiệm duy trì và
hoằng dương Chánh pháp tại thế gian này.
Núi Hàm Rồng – cuộc chiến giữa Cao Biền và Tả Ao
Truyền thuyết kể, Biền thấy đất Giao Châu
có nhiều kiểu đất đế vương, sợ dân nơi đây bất khuất, khó lòng cai trị,
nên thường cưỡi diều giấy bay đi xem xét và tìm cách trấn yểm các long
mạch để phá vượng khí của người Nam.
Một
lần bay qua vùng núi Hàm Rồng, nhìn thấy huyệt Hàm Rồng, Biền nói rằng
địa thế này tuy không phải là hung địa “xương long vô túc” (rồng không
chân) nhưng cũng là hình con rồng què chân, không phải đất cực quý, nên
bỏ đi.
Miệng nói vậy nhưng chính y lại âm thầm
trở lại, mang theo hài cốt cha để táng vào mong sau này có thể phát đế
vương. Sau nhiều lần táng mả cha vào, xương cốt cứ bị huyệt núi đùn ra,
không kết phát.
Cao Biền biết rằng đây là long mạch cực
mạnh, cực quý thì lại càng ham thích, rắp tâm làm đến cùng. Biền bèn tán
nhỏ xương vừa tung lên thì có muôn con chim nhỏ cùng bay đến, vỗ cánh
quạt vù vù làm xương cốt bám trên vách đá bay tứ tán.
Biền than rằng linh khí nước Nam quá
mạnh, không thể cưỡng cầu. Quả nhiên không lâu sau, Biền bị triệu về
nước rồi bị giết. Và sau này, đất Thanh là nơi phát khởi của nhiều vua
chúa.
Nhiều người cho rằng, những chim nhỏ phá
phép trấn yểm của Cao Biền là thần linh của sông núi nước Nam. Có người
lại cho rằng đó là do Thánh Tả Ao hóa phép.
Theo truyền thuyết, cụ Tả Ao là vua phong
thủy của nước ta, chuyên phá những long mạch bị Cao Biền trấn yểm.
Không ai rõ tên và năm sinh, năm mất của Tả Ao nên chỉ gọi theo tên
làng.
Như vậy, khi mới chỉ điểm qua những
truyền thuyết tiêu biểu về Cao Biền, đã cho thấy sức mạnh của các vị
Thánh nước Nam. Chúng ta có thể đưa ra giả thuyết rằng, những câu chuyện
trên được dân gian dựng lên nhằm tôn vinh linh khí của chính làng mình.
Phép thuật của Cao Biền có lẽ, phần đa là do những người kể chuyện xưa
vẽ lên. Thời điểm Cao Biền sang nước Nam cũng chính là thời điểm mà Đạo
giáo từ Trung Hoa truyền bá vào Việt Nam, cụ thể là các thuật xem tử vi,
phong thủy, bùa chú, luyện linh đan… Những câu chuyện về Cao Biền là
minh chứng cụ thể nhất cho tín ngưỡng Đạo giáo đang nở rộ ở nước ta thời
bấy giờ.
Lan caysu
Nguồn: http://thienviet.wordpress.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét