Thứ Bảy, 5 tháng 4, 2014

Tây Phương Huyền Bí (2)


Dịch giả : Nguyễn Hữu Kiệt
Tây Phương Huyền Bí (1)

Chương 7
Sự Cám Dỗ Đầu Tiên 
Trong một thời gian rất lâu, vị đệ tử của Kiềm Mâu dồn tất cả sự chăm chú vào các môn học đòi hỏi một sự chuyên cần ráo riết với những phép tính rất tỉ mỉ và tinh vi nhất. Những kết quả lạ lùng mà y đạt được đã tưởng thưởng cho những cố gắng và kích thích sự tò mò của y.
      Linh Đông lấy làm ngạc nhiên mà thấy Kiềm Mâu sở trường về khoa Thần số bí truyền của Môn Phái Pythagore, và làu thông tất cả những bí quyết trừu tượng và siêu hình về môn Số Học.
      Sự học hỏi khoa Thần Số nầy đã hé mở cho y thoáng thấy những tia sáng mới lạ độc đáo về phương pháp cấu tạo Vũ Trụ càng khôn, và phép vận hành của các bầu tinh tú trong không gian. Y cũng bắt đầu nhận thức rằng chí đến các khoa học trừu tượng như khoa Chiêm Tinh thuật số, nghệ thuật tiên tri và tính trước ác diễn biến của thời cuộc, vận mạng các quốc gia,.v..v... cũng đều có nguồn gốc và căn bản sâu xa trong khoa Thần Số bí truyền.
      Nhưng y nhận thấy rằng Kiềm Mâu luôn luôn giữ gìn bí mật những điều sở đắc, và không chịu tiết lộ cho y biết những bí quyết then chốt của khoa học thần bí siêu đẳng nầy. Khi y bày tỏ tâm sự của y về điều đó, thì câu trả lời mà y nhận được lại có vẻ nghiêm khắc hơn là làm cho y thỏa mãn. Kiềm Mâu nói:
      - Con tưởng rằng ta sẽ trao cho một người đệ tử sơ cơ chưa từng bị thử thách như con, những quyền năng có thể làm đảo lộn cuộc diện thế giới hay chăng? Những bí quyết lợi hại cuối cùng chỉ được trao cho người đệ tử nào mà Tôn Sư đã có thể kiểm chứng được đức hạnh một cách mỹ mãn. con hãy kiên nhẫn chờ đợi! Chính sự chuyên cần học Đạo và trau dồi đức hạnh là sự tinh luyện hiệu quả nhất. Khi mà linh hồn con trở nên già dặn hơn để có thể tiếp nhận được Đạo mầu, thì những bí quyết thần diệu sẽ lần lần được truyền dạy cho con.
      Sau cùng, Kiềm Mâu tuyên bố hài lòng về những tiến bộ mà người đệ tử đã thu hoạch được sau một thời gian học hỏi công phu ráo riết. Người nói:
      - Thời giờ sắp đến để cho con có thể vượt qua bức rào chướng ngại vô hình, con có thể Vong Linh Giữ Cửa
      Đêm ấy rất vắng vẻ tịch mịch. Tất cả mọi người đã yên giấc trong tòa nhà cổ. Mọi vật đều im lặng dưới ánh sao khuya. Linh Đông thấy rằng thời giờ đã đến. Y thầm nghĩ: "Kiềm Mâu, vị đạo sư khắc khổ, Kiềm Mâu, kẻ thù của ái tình, Kiềm Mâu, mà cặp mắt nhìn thấu suốt lòng người,sẽ từ chối những bí quyết đã hứa hẹn với ta chỉ vì gương mặt tươi đẹp của Phi Lịch đã làm mất sự an tĩnh trong tâm hồn người đệ tử, Kiềm Mâu sẽ về đến nơi trong ngày mai.
      Ta hãy lợi dụng thời cơ trong đêm nay! Đừng sợ sệt gì cả! Chỉ còn đêm nay nữa thôi..."
      Thế là, lại một lần nữa, Linh Đông, với một bàn tay rắn rỏi không chút do dự, cầm chìa kháo mở cửa gian phòng bí mật...
      Y đặt cái đèn trên bàn bên cạnh quyển sách vẫn mở sẵn. Y lật qua vài trang, nhưng chỉ có thể dịch được ý nghĩa chữ mật tự trong đoạn nầy:  " Khi người đệ tử đã được chuẩn bị và nhập môn, y hãy mở cửa sổ, đốt đèn lên và lấy linh dược thoa trên hai màn tang. Y phải vô cùng thận trọng trong việc xử dụng Kim Đơn thần dược. Trước khi uống, hãy hít nhiều lần liên tiếp chất hơi nóng vào phổi để cho cơ thể từ từ quen dần với chất linh dược, nếu không, thì thay vì được trường sinh, y sẽ chết toi mạng."
      Y không thể đọc được nhiều hơn nữa, vì ám số lại thay đổi. Y đưa mắt nhìn quanh phòng một cách chăm chú. Ánh trăng khuya rọi vào phòng xuyên qua cửa sổ mà y vừa mở, dường như cũng đem vào phòng một mãnh lực nhiệm mầu. Y sắp những ngọn linh đăng, tất cả là chín ngọn, chung quanh trung tâm điểm của gian phòng, và thắp sáng từng ngọn đèn một. Một ngọn lửa màu xanh và bạc xẹt ra từ mỗi ngọn đèn và chiếu sáng khắp phòng. Trong giây lát, ánh sáng ấy trở nên lu mờ dần, và một làn mây xám và nhẹ giống như sương mù từ từ tỏa ra khắp phòng. Một cơn run rẩy, ớn lạnh thình lình xâm chiếm lấy toàn thân Linh Đông cũng như một luồn tử khí. Cảm thấy nguy hiểm, với tay chân đã lạnh cóng như đá, y cố gắng một cách vô cùng khó khăn vất vả để lết tới chỗ cái kệ đặt những bầu thủy tinh. Y hối hả mở nút một bầu, hít hơi nồng vào phổi và lấy chất linh dược thoa lên màn tang. Tức thời cái cảm giác vui vẻ trẻ trung đầy sinh khí và nhẹ nhàng lâng lâng thoát tục mà y đã có từ lúc sớm, lại trở lại với y và dẹp tan cảm giác rã rời tê liệt của y vừa rối. Y bèn đứng thẳng người, hai tay khoanh trước ngực một cách ngang nhiên hùng dũng, và đợi chờ...
      Làn hơi tỏa khắp phòng đã đông đặc lại giống như một đám mây tuyết. Những ngọn linh đăng chiếu long lanh xuyên qua đó như những ngôi sao. Bây giờ,Linh Đông thấy rõ những hình bóng giống như hình người từ từ lướt nhẹ và đều xuyên qua đám mây. Những hình bóng đó có vẻ trong suốt như pha lê và có thể co giãn như những cái khoen rắn. Trong khi những hình bóng lượn qua lại một cách điều hòa, uyển chuyển, nhịp nhàng, thì y thoảng nghe một âm thanh nhỏ yếu, dường như bị che lấp, nhưng là một thứ nhạc điệu vui tươi và êm đềm. những hình bóng đó không có vẻ gì để ý đến sự có mặt của y. Y có cảm tưởng rằng y muốn nhập bọn với họ và cùng lướt nhẹ một cách thoải mái thong dong như họ trong khoảng không. Y bèn đưa hai tay ra về phía họ và và thử kêu gọi họ một tiếng lớn, nhưng y không thốt được ra lời, mà chỉ có một tiếng ú ớ thoát ra ngoài vành môi. Những bóng ấy vẫn tiếp tục bay lượn nhẹ nhàng dường như không hề biết có một người nào ở một bên họ. Rồi từ từ, chúng lượn qua một vòng trong gian phòng và bay bổng lên trên không cho đến khi chúng thoát ra một cách mềm mại, tuần tự, nghiêm chỉnh từng bóng một xuyên qua cái cửa sổ mở và biến mất dạng dưới ánh trăng.
      Khi đó, trong khi Linh Đông vẫn để mắt theo dõi những hình bóng đó, thì thình lình cánh cửa sổ bỗng bị che khuất bởi một vật lúc đầu còn chưa hiện rõ, nhưng sự xuất hiện đột ngột của nó cũng đủ gây cho y một cơn sợ sệt khủng khiếp, trái hẳn lại với cảm giác dễ chịu của y mới rồi. Lần lần, vật khủng khiếp ấy hiện rõ dưới đôi mắt của y. Hình như đó là một đầu người bao phủ dưới một tấm màn đen, xuyên qua đó, hai con mắt chiếu một tia sáng đục như từ cõi âm ty hiện lên nhìn vào y làm cho y rợn tóc gáy. Ngoài ra cái gương mặt phủ màn đen và đôi mắt có cái nhìn lạnh xương sống đó, thì phần còn lại không nhìn thấy rõ.
      Cơn sợ hãi kinh hoàng của y lại càng tăng thêm một cách rùng rợn, khủng khiếp hơn nữa khi cái bóng ma ấy, sau một lúc đứng yên lặng, bèn từ từ bước vào gian phòng. Đám mây mù lúc nãy tan biến dần khi nó bước tới. Những ngọn đèn cũng lưu mờ dần và chỉ còn là những đóm lửa lập lòe sắp tắt. Toàn thân hình của con quái vật cũng bị che khuất dưới tấm màn đen như cái đầu, nhưng cái dáng điệu ẻo lả có vẻ giống như hình bóng một nữ quái. Vật ấy không lướt nhẹ như những bóng ma khác khi chúng xuất hiện trước mắt người sống, mà trái lại nó dường như bò sát đất như loài rắn. Sau cùng, vật ấy ngừng lại gần bên cái bàn, và xuyên qua tấm màn đen che mặt, nó lại phóng cặp mắt sắc như dao nhìn kẻ táo bạo đã dám kêu gọi đến nó. Cái nhìn nóng bỏng như một ngọn lửa đó, tuy nhợt nhạt nhưng lại rất linh động, có hàm xúc một cái gì như vừa thù hận vừa nhạo báng, một cái gì nó chỉ rằng con quái vật rùng rợn nầy không phải chỉ là cái bóng ma mờ mờ nhân ảnh, mà dường như nó còn có tham dự một phần nào thể chất để có thể là một kẻ thù nguy hiểm và lợi hại đối với con người. Trong cơn hãi hùng, Linh Đông bám chặt vào tường một cách tuyệt vọng, đầu tóc dựng đứng, hai mắt trợn từng dường như muốn lọt tròng ra ngoài, và không thể nào tách rời đôi mắt ra khỏi cái nhìn ám ảnh ma quái nó như thôi miên lấy y một cách không cưỡng chế lại được. Trong khi đó thì con quái vật nói chuyện với y! Y không phải nghe bằng lỗ tai, mà là hiểu ngầm bằng sự giao cảm của linh hồn những lời nói như sau của con quái vật:
      - Ngươi đã bước vào cõi giới huyền bí vô biên. Ta là Vong HỒn Giữ Cửa. Người muốn gì ta? Ngươi không trả lời sao? Ngươi có sợ ta chăng? Ta há chẳng là tình yêu của ngươi sao? Phải chăng vì ta mà ngươi đã từ bỏ mọi thú vui của cuộc đời? Ngươi muốn có sự minh triết chăng? Ta vốn sở hữu sự minh triết vô biên của muôn vàn thế hệ! Ngươi hãy hôn ta đi, hỡi người yêu phàm trần của ta!
Nói xong, con quái vật bò lết lại gần một bên, cho đến khi nó đụng vào mình y, hơi thở của nó lướt qua bên má y. Linh Đông kêu thét lên một tiếng thất thanh, rồi ngã quỵ xuống đất, bất tỉnh nhân sự...Y không còn biết gì nữa cho đến khi mãi gần đến trưa ngày hôm sau, y chợt tỉnh và mở mắt ra thì thấy mình nằm trên giường. Ánh nắng mặt trời chiếu sáng rực xuyên qua cửa sổ, bác Phao Lồ ngồi ngay dưới chân giường đang bận lau chùi khẩu súng trường, miệng huýt sáo một bản tình ca của miền Nam nước Ý.

Nàng Chỉ Biết Yêu

Zanoni cùng người yêu hưởng tuần trăng mật trên một hòn đảo nhỏ có một khí hậu mát mẻ trong lành và phong cảnh thơ mộng ngoài khơi xứ Hy Lạp, trong biển Địa Trung Hải. Từ trên đỉnh một ngọn đồi cỏ cây sầm uất nhìn xuống dưới thì hòn đảo mà Zanoni đã chọn giống như một khu vườn hoa rất đẹp, màu sắc xinh tươi. Những đài cao và tháp nhọn của thành phố chói rạng ngời giữa những vườn cam và chanh. Những vườn nho tươi và ô liu bao phủ các thung lũng và bám sát các sườn đồi. Những nhà tranh, nông trại, và biệt thư xinh xinh chen lẫn với những rừng hoa lá rậm rạp xanh um và những tàn cây to với hoa quả đỏ thắm.
      Zanoni ở một ngôi nhà cách xa thành phố, và cách bờ biển chừng một đoạn đường. Nhà nầy do chàng mua lại của một người Ý tỉnh Venise, tuy nhỏ nhưng rất xinh xắn, và kiến trúc thanh nhã hơn những nhà khác trong vùng. Xa tận ngoài khơi, và có thể nhìn thấy từ trên bờ, là chiếc tàu của chàng bỏ neo. hai người gia bộc Ấn Độ mà chàng đem theo coi sóc việc nhà một cách nghiêm chỉnh và lặng lẽ âm thầm. Thật không có xứ nào đẹp và yên tĩnh hoàn toàn bằng đảo nầy. Đối với sự minh triết huyền bí của Zanoni, và tâm hồn ngây thơ, trong trắng của Kiều Dung, thì cuộc đời náo động ồn ào của thế nhân không có gì là hấp dẫn. Một bầu trời đất bao la bát ngát, với phong cảnh chung quanh tịch mịch êm đềm, cũng là quá đủ đối với những tâm hồn siêu việt và hồn nhiên khi họ yêu nhau. trong những cách sinh hoạt của Zanoni, tuy rằng không có gì chứng tỏ rằng chàng là một vị đạo đồ của khoa Huyền Môn, nhưng chàng có những thói quen của một người lúc nào cũng trầm tư mặc tưởng. Chàng hay sống một mình riêng biệt, nhất là lúc bình minh hay những buổi chiều tà, và đặc biệt những đêm trăng non hay trăng rằm, chàng thường hay rảo bước đi chơi bách bộ quanh vùng để hái những loại hoa cỏ mà chàng cất rất kỹ lưỡng và coi như những vật quý. Đôi khi, những lúc đêm sắp tàn, Kiều Dung thức giấc với cái ý thức mơ màn rằng Zanoni không có mặt bên cạnh nàng. Nàng đưa tay ra sờ soạng thì thấy giường trống không. Sau đó nàng nhận thấy rằng Zanoni có vẻ rất dè dặt trong những cử chỉ quen thuộc hằng ngày, và đôi khi nàng có cái cảm giác báo điềm, hoặc hồi hộp, hay nghi ngờ, thì nàng lại lặng thinh không hỏi chàng điều gì cả.
      Nhưng không phải lúc nào chàng cũng đi dạo chơi một mình. Khi biển lặng sóng êm, Kiều Dung và Zanoni thường sánh vai nhau đi dạo chơi trên bãi cát dọc theo bờ biển, hoặc thả thuyền nhỏ đi viếng các hòn đảo lân cận. tất cả những danh lam thắng cảnh của xứ Hy Lạp, đều quen thuộc đối với chàng, và khi chàng nói về lịch sử và truyền thống đẹp đẽ mỹ lệ của xứ ấy, chàng làm cho Kiều Dung cũng phải yêu cái dân tộc ngàn năm văn vật đã từng là nguồn gốc của nghệ thuật và minh triết của thế giới phương Tây. Với thời gian qua, khi nàng càng biết rõ Zanoni nhiều hơn, nàng nhận thấy ở chàng muôn nghìn sắc thái nó làm cho tình yêu của nàng lại càng trở nên thâm trầm sâu sắc hơn.
      Tình yêu của Zanoni đối với nàng có tính cách dịu dàng, săn sóc, cao thượng và quý báu đến nỗi dường như chàng tỏ ra biết ơn về cái hạnh phúc mà chàng được hưởng gần bên nàng hơn là kiêu hãnh về cái hạnh phúc mà chàng đem đến cho nàng.
      Zanoni cũng thường đi dạo một mình ở những nơi vắng vẻ tĩnh mịch, nhất là dưới ánh trăng khuya. Mục đích của những chuyến đi dạo cô đơn nầy là do một sự mong ước căn bản mà mỗi ngày sống bên cạnh Kiều Dung càng củng cố và tăng cường thêm lên.
      Cái cảnh tượng mà Linh Đông đã nhìn thấy trong cơn xuất thần một đêm trước đây quả thật đúng không sai một điểm. Ít lâu sau cái đêm ấy, Kiều Dung cảm giác một cách mơ màng rằng một thứ ảnh hưởng nào đó mà nàng không biết rõ, đang cố gắng ngự trị cuộc đời hoàn toàn hạnh phúc của nàng. Những hình ảnh sống động vui tươi và không rõ rệt bắt đầu ám ảnh nàng ngày đêm mỗi khi Zanoni đi vắng, và lại tan biến đi mất khi chàng vừa trở về, dường như chúng không thể so sánh được với sự có mặt của chàng. Những khi ấy thì Zanoni hỏi nàng một cách rất chăm chú và rất tỉ mỉ về những linh cảm đó, và chàng có vẻ thất vọng, đôi khi đến bối rối, khi nghe nàng trả lời. Ngày nọ chàng nói với Kiều Dung:
      - Em đừng nói với anh về những hình ảnh chập chờn vô định vừa lượn vừa múa hát trong khoảng không, hay những điệu nhạc du dương như nhạc ở Bồng Lai tiên cảnh. Em có nhận thấy chăng một trong những hình ảnh đó hiện rõ ràng và đẹp hơn những hình bóng khác? Em có nghe chăng một âm thanh nói chuyện với em, hay dường như nói bằng tiếng nói của em, về những điều bí mật lạ lùng của khoa Huyền Môn?
      - Không! Những cơn mộng mơ đó đều rất lộn xộn dẫu cho ban ngày hay ban đêm, và khi những bước chân của anh làm cho em tỉnh giấc, ký ức của em chỉ còn giữ lại có một ấn tượng mơ màng về một niềm hạnh phúc thoáng qua. Cái cảm giác lạt lẽo đó khác hẳn với niềm hạnh phúc đậm đà đến với em khi mắt em nhìn thấy nụ cười của anh, khi tai em nghe giọng của anh nói với em rằng: "Anh yêu em!"
      - Nhưng tại sao những linh ảnh không đẹp bằng những linh ảnh nầy khi xưa đối với em lại rất là mặn mà duyên dáng và đầy thú vị? Tại sao trước kia chúng lại làm cho óc tưởng tượng và tâm hồn em tràn đầy một niềm hạnh phúc vui tươi? Khi xưa, em mong ước được sống trong một cảnh giới thần tiên, còn ngày nay, em có vẻ sung sướng trong một cuộc sống thường tình!
      - Em đã chẳng giải thích với anh rồi hay sao? Yêu và chung sống với người mình yêu, há lại là một cuộc sống thường tình sao? Cảnh giới thần tiên thật sự của em, em đã có rồi. Anh đừng nói với em một cảnh giới nào khác nữa!
      Thế là màn đêm từ từ rơi xuống khi hai kẻ si tình đang ngồi trên bãi cát vắng lặng cô liêu, Zanoni gác bỏ một bên những kế hoạch mưu toan thần diệu của chàng, và cuối xuống gần kề gương mặt thanh tao dịu dàng của người đẹp, chàng quên hết tất cả mọi vật chung quanh và không còn biết có một vũ trụ nào khác hơn là cõi giới của tình người.
      Thiên Thần Adonai "Adonai! Adonai! Hãy đến với tôi! Hãy đến với tôi."
      Trong một hang núi hoang vắng, mà xưa kìa loài người đã từng giao tiếp với Thần minh để cầu xin những lời giáng ngôn mách bảo cho họ những điều họa phúc, thình lình xuất hiện giữa những tảng đá cao nhô lên với đủ hình thái khác nhau, một cái cột ánh sáng khổng lồ, chói lòa và rung động thường xuyên. Ánh sáng ấy chiếu rạng những thạch nhũ, những vòm cao và khe ngách trong động đá, và rọi một tia sáng nhợt nhạt rung rinh trên gương mặt của Zanoni. Sau khi lên tiếng kêu gọi Thiên Thần Adonai đến với chàng, Zanoni nói:
      - Hỡi Thiên Thần, Con của Ánh Sáng trường cửu muôn đời, ngài đã từng ban cho tôi sự hiểu biết huyền nhiệm trải qua nhiều cấp đẳng từ thế kỷ nầy qua thế kỷ khác, và sau cùng tôi cũng đạt tới mức tột đỉnh trong những vùng đồng bằng bát ngát của xứ Chaldée. Ngài đã ban cho tôi sự minh triết vô biên khôn cùng, ngài và tôi tuy khác biệt nhau về tánh chất nhưng cũng đồng quan niệm về tâm linh, ngài đã từng là vị thần hộ mạng của tôi trải qua nhiều thế kỷ, xin ngài hãy đáp lại lời cầu nguyện của tôi và hãy giúp lời mách bảo của tôi.
      - Khi đó, từ cái cột ánh sáng chói loà, xuất hiện hình ảnh một nhân vật cao cả huy hoàng. Gương mặt của nhân vật ấy giống như một người đang độ thanh xuân, nhưng với một phong thái uy nghi của một đấng thần tiên đầy vẻ ung dung tự tại. Một vầng hào quang bao bọc chung quanh thân hình và những tia ánh sáng tỏa ra chung quanh mái tóc dợn sóng trên đầu vị Thiên Thần. Hai tai khoanh trước ngực, Thiên thần ngừng lại cách Zanoni chừng vài bước, và nói thấp giọng:
      - Xưa kia, những lời khuyên của tôi được ông nghe theo. Trước kia, đêm đêm, linh hồn ông có thể theo dõi sự di chuyển của tôi xuyên qua không gian vô tận. Nhưng ngày nay, ông đã tự trói buộc mình vào cõi thế gian bằng những sợi dây rất kiên cố bền chặt, và sự hấp dẫn của thể xác bằng cát bụi còn mạnh hơn là lòng ưu ái nó làm cho các Thiên Thần muốn đến với ông. Lần cuối cùng mà linh hồn ông nghe tiếng nói của tôi, thì những xúc cảm của giác quan cũng đã làm cho trí tuệ và nhỡn quang tâm linh của ông bị lu mờ. Một lần nữa tôi đến với ông, nhưng cái quyền năng mà ông có để kêu gọi tôi xuất hiện đã bị che lấp, cũng như ánh nắng mặt trời tan biến khỏi mặt nước khi có cụm mây che giữa trời xanh và mặt biển đại dương.
Zanoni đáp một cách chua cay:
      - Hỡi Adonai, tôi cũng biết quá rõ những điều ngài nói. Tôi biết rằng nguồn gốc của minh triết la thái độ thản nhiên đối với sự vật của trần gian là những điều phù du giả tạm không đáng để cho ta chú ý. Tấm gương sáng của linh hồn không thể phản ảnh cùng một lúc cả đất lẫn trời, mà chỉ có thể phản ảnh một trong hai thứ. Một lần nữa, với sự cố gắng khổ nhọc của một quyền năng đã giảm sút, tôi kêu gọi và khẩn nguyện đến ngài. Nay tôi đang yêu, và do bởi tình yêu tôi bắt đầu sống trong cuộc sống êm đềm của một người khác. Với một ít minh triết còn lại của tôi, tôi còn có thể tự cứu giải khỏi mọi sự hiểm nguy hăm dọa bản thân tôi, nhưng tôi lại mù quáng không biết gì về định mệnh tương lai của người con gái đã làm rung động quả tim tôi bằng một thứ tình say đắm nó làm cho thần trí của tôi bị che ám lu mờ.
      Thiên thần Adonai đáp:
      - Vô ích! Đó chỉ là thứ tình tầm thường, không đáng gọi bằng danh từ {"tình yêu siêu nhân loại." Một người như ông không thể yêu bằng thứ tình của thế gian. Không bao lâu nữa, chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi dường như là một ngày trong cuộc đời trường cửu của ông, thì cái hình hài thể chất của người mà ông yêu thương chỉ còn là cát bụi. Những người ở cõi trần gian hạ giới phải trải qua vòng sinh tử luân hồi. Ông còn sống thêm nhiều thế kỷ nữa, còn nàng thì chỉ còn là vấn đề giờ khắc. Hỡi người siêu nhân có đầy quyền năng nhưng hãy còn đau khổ, giữa ông và nàng ấy làm sao có thể có được một sự tái hợp tương ứng nữa về sau nầy? Linh hồn nàng còn phải trải qua bao nhiêu cấp bực, bao nhiêu giai đoạn tuần tự trên ccác cõi giới vô hình, khi mà ông là một bậc siêu nhân còn sót lại trong sự sống cô đơn, ông sẽ vượt khỏi cuộc sống trần ai tục lụy để vươn mình lên tới ngưỡng cửa ánh sáng.
      - Hỡi Thiên thần! Ngài há lại không biết rằng cái ý nghĩ đó vẫn thường ám ảnh tôi không lúc nào nguôi? Và ngài há không thấy rằng nếu tôi kêu gọi đến ngài, chính là để cho ngài nghe lời cầu nguyện của tôi và giúp đỡ tôi? Ngài há lại không thấu rõ ước vọng và hoài bão của tôi là muốn nâng cao trình độ tâm linh của nàng lên tới mức độ của tôi sao? Hỡi Thiên Thần Adonai, ngài sống trong niềm an tĩnh phúc lạc của cõi Trời muôn đời trường cửu, chỉ do bởi lòng Đạo tâm tương ứng mà ngài có thể thông cảm những gì tôi đang cảm xúc trong lòng tôi, một con người của chủng tộc loài ngoài, khi tôi nhận thấy rằng tôi phải chịu cảnh sống cô đơn trên cõi thế gian nầy. Tôi đã tìm trong những kẻ đồng loại với tôi, những người bạn đường tri kỷ, nhưng không kết quả. Sau cùng, tôi đã tìm thấy một người bạn gái tâm giao, đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Loài chim muông mãnh thú cũng còn có bạn đường của chúng. Nói về sự tương hợp tâm linh giữa tôi với nàng về sau nầy thì, đối với những "Vong Linh Giữ Cửa" thù nghịch tọa trấn trên cõi vô hình, tôi có đủ quyền năng để đuổi chúng ra khỏi con đường hẹp đưa nàng lên tới các cõi trên, trong khi chờ đợi bầu không khí siêu việt của cõi Đạo nhiệm mầu chuẩn bị cho nàng sẵn sàng tiếp nhận bầu Kim Đơn thần dược để trở nên trường sinh bất tử.
      - Và ông bắt đầu nghi thức nhập môn cho nàng, nhưng rồi cũng chẳng đi đến đâu, và ông đã thất vọng. Tôi biết! Ông đã làm cho những linh ảnh tốt đẹp huy hoàng xuất hiện trong giấc ngủ của nàng, ông đã ra lịnh cho những địa tiên và tinh linh trong không gian trổi những khúc nhạc huyền diệu của cõi Trời để ru hồn nàng và đưa nàng vào cơn đại định. Nhưng linh hồn nàng không chịu nghe theo những lời dẫn dụ nầy, và khi trở về cõi tục, nàng thoát ly ra khỏi những ảnh hưởng huyền diệu đó. Tại sao vậy? mù quán thay cho ông! Ông không nhìn thấy sao? Đó là bởi vì trong linh hồn nàng, tất cả đều là tình yêu! Nàng không có một sở thích trung dung nào có sự phù hợp hoặc tương ứng với những điều mà ông muốn truyền qua cho nàng bằng những bí thuật Huyền Môn có thể có liên hệ gì đến tình yêu của thế tục, là loại tình cảm đam mê hữu hoại vô thường?
      - Có thể nào có chăng có một sự vật gì làm trung gian, làm sợi dây liên lạc để cho linh hồn cũng như tình yêu của chúng tôi có thể hòa hợp và do đó tâm hồn của nàng sẽ mở rộng để sẵn sàng đón nhận lấy ảnh hưởng của tôi?
      - Ông đừng hỏi tôi điều đó, ông sẽ hiểu tôi.
      - Xin ngài hãy vui lòng dạy bảo, tôi sẽ xin nghe theo.
      - Khi hai tâm hồn cách biệt nhau quá, thì ông há không biết rằng một linh hồn thứ ba trong đó cả hai đều gặp nhau và cùng chia sẻ sự sống với nhau, là cái khoen liên lạc để nối liền họ với nhau hay sao?
  Zanoni nói với một niềm hân hoan vui sướng hiện trên nét mặt:
- Tôi hiểu ngài muốn gì rồi! Và nếu định mệnh của tôi cũng là chung một số phận với người thường dân khiêm tốn nhất, nếu tôi cũng có một đứa con mà tôi có thể ôm ấp vào lòng và gọi nó là con tôi...
      - Ông đã cố gắng vươn mình lên tới quả vị siêu nhân, phải chăng rốt cuộc cũng chỉ là để trở nên một người thường?
      - Nhưng một đứa con, một Kiều Dung thứ nhì trong đời tôi, Zanoni tự thầm nhủ một mình dường như không nghe lời nói của Thiên Thần - "Một linh hồn trẻ mà tôi sẽ nuôi dưỡng từ khi mới chào đời, mà tôi có thể dạy dỗ, huấn luyện cho nó noi theo bước chân tôi để vẫy vùng trong khắp vũ trụ càn khôn, và do đứa con ấy mà mẹ nó có thể được giải thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi!"
      - Ông hãy coi chừng! Hãy suy nghĩ kỹ! Ông có biết đâu kẻ thù độc hại nhất của mình cũng ẩn núp dưới bóng Chân Lý? Những sự mong ước của ông càng ngày càng làm cho ông trở nên gần gũi hơn với nhân loại.
      - A! Nhân loại cũng dễ thương lắm chứ!, - Zanoni đáp.
      Nghe đến đây, Thiên Thần Adonai nở một nụ cười trên gương mặt và biến mất dạng...

Thư Zanoni Gửi Kiềm Mâu
      Về Phần tôi, điều mà Đạo huynh đã cảnh giác tôi, nay đã đến.Tình yêu đem mọi sự về với mình. Tôi phải, hoặc tự hạ thấp xuống cho vừa với trình độ của người tôi yêu, hoặc nâng cao trình độ của nàng lên ngang hàng với tôi.
Để đưa vào cửa Đạo một linh hồn khiết bạch như nàng, tôi đã kêu gọi đến sự trợ giúp của các Thiên Tinh trong không gian, là những vị có những hình thể dịu dàng tươi sáng, để nhờ các vị ấy xuất hiện trong những giấc mơ của nàng. Nhưng các vị ấy cũng không thể đưa tâm thức của nàng lên cao hơn mức độ của quả tim, vì quả tim của nàng sống trong một cõigiới riêng của nó.
      Tôi vừa nhìn ngắm nàng trong giấc ngủ. Tôi nghe nàng thốt ra tên tôi trong cơn mơ. Than ôi! Đối với người khác thì đó là một điều sung sướng, nhưng đối với tôi thì đó lại là một niềm cay đắng, vì tôi nghĩ rằng thời gian qua mau, sẽ có lúc giấc ngủ nầy sẽ không còn mộng mơ, quả tim đầy tình yêu nầy sẽ cứng lạnh, mà đôi môi nầy vừa thốt ra tên tôi cũng sẽ câm lặng.
      Thật là lạ thay khi người ta nghĩ đến hai đối tượng trái ngược nhau trong tình yêu! Nếu quan niệm tình yêu dưới khía cạnh thô kệch và nhục dục của xác thể, hoặc dưới khía cạnh đam mê sôi sục của tình cảm chiếm hữu, thì người ta không khỏi lấy làm một điều ngạc nhiên lạ lùng mà thấy rằng sự đam mê đó lại có thể là cái động lực sáng tạo của trời đất, nó là nguồn cảm hứng của mọi sự hi sinh cao cả vĩ đại, nó từng ảnh hưởng đến xã hội loài người xuyên qua thời gian và không gian. Những bậc vĩ nhân cao cả nhất trong thiên hạ cũng phải suy tôn phụng thờ tình yêu, và chính vì tình yêu, chỉ vì tình yêu mà thôi, mà con người mới có những nền văn minh rực rỡ huy hoàng, những kỳ công về văn nghệ, mỹ thuật, tuyên dương cái hay cái đẹp trong thiên nhiên, nói chung là có một đời sống cao thượng hơn loài vật!
      Bây giờ chúng ta hãy quan sát tình yêu dưới cái khía cạnh cao quý, siêu việt, hoàn toàn vị tha, vô kỷ. Tình yêu siêu thoát ấy đáp ứng với những gì là tế nhị, tinh anh trong linh hồn người. Nó có một mãnh lực vô cùng huyền diệu để có thế biến đổi một mái nhà tranh thành một tòa cung điện lâu đài, một bãi sa mạc khô khan thành một xóm làng xanh tươi trù phú, một vùng tuyết băng giá lạnh trở thành một nơi cỏ cây sầm uất dưới ánh nắng mặt trời. Trên thế gian, ít có người biết quan niệm tình yêu dưới cái khía cạnh thiên liêng đó. Hỡi Kiềm Mâu, có ngày tôi sẽ nói chuyện với Đạo huynh về Kiều Dung như một biểu tượng điển hình của tình yêu thiêng liêng siêu thoát.
      Hỡi Kiềm Mâu! Tôi có tin mừng cho huynh hay: một linh hồn mới sẽ gọi tôi bằng "Cha!" Đối với người thế gian bận rộn với việc đời và lo toan vì sinh kế hằng ngày, họ còn cảm thấy một niềm vui sướng mà sống lại thời thơ ấu của họ khi họ nhìn thấy gương mặt non trẻ của đứa con ra chào đời. Trong việc sinh ra một đứa con, họ cảm thấy dường như chính họ được tái sinh lại một lần nữa trong trạng thái hồn nhiên vô tội và thánh thiện, nó vốn là trạng thái nguyên thủy tối sơ của đời sống con người. Người đời có thể hiểu rằng họ cũng chia sẻ phần nào cái sứ mạng của một Thiên Thần khi họ có bổn phận nuôi dưỡng và dìu dắt một linh hồn kể từ khi còn nằm trong cái nôi để cho đến cứu cánh nó sẽ vương mình lên tận cõi Trời. Nếu người thế tục còn có được những cảm nghĩ như thế, thì cái hạnh phúc của tôi sẽ lớn đến đấu khi mà tôi đón nhận một linh hồn thừa kế để chuyển qua cho nó tất cả những khả năng thiên phú của tôi, dường như tôi sống lại cuộc đời của tôi xuyên qua đứa hài nhi, và tăng gia sự sống ấy lên gấp đôi phần. Thật là một niềm vui sướng lâng lâng nhẹ nhàng thay, khi tôi có thể chuyển hướng trào lưu sinh hoạt của mình qua một ngõ khác, trên cái ngõ ngách đó hai linh hồn của chúng tôi, tức tôi và mẹ đứa hài nhi, sẽ gặp nhau. Đứa con ấy sẽ thay thế cho sự hòa hợp tâm linh còn thiếu sót giữa chúng tôi hiện nay. Đến chừng đó, thì có một bóng ma nào có thể ám ảnh nàng, có một hình ảnh khủng khiếp nào có thể làm cho nàng kinh sợ, nếu nghi thức nhập đạo vào cửa Huyền Môn được thực hiện kề bên cái nôi của con nàng?

Sự Lo Ngại Của Kiều Dung

Zanoni và Kiều dung hằng ngày vẫn đi dạo chơi trên bãi cát và chiều đến thì ngắm nhìn cảnh mặt trời lặn từ từ khuất bóng dưới lòng biển sâu. Họ đã ở trên hòn đảo nầy từ bao lâu rồi? Nhiều tháng, hoặc có lẽ nhiều năm, nhưng cái đó có quan hệ gì? Họ có cần gì phải nhớ rõ cái thời lỳ hạnh phúc đó là bao nhiêu lâu? Giấc mộng trong một lúc, đôi khi cũng gây cho ta cái cảm giác là đã kéo dài hằng nhiều thế kỷ. Như thế, làm sao ta có thể đo lường những xúc cảm vui buồn bằng ý niệm thời gian?
      Mặt trời đã lần lần xế bóng, không khí có vẻ khô ráo và nặng nề. Chiếc tàu hùng vĩ vẫn bỏ neo ở ngoài khơi, trên bờ, không một ngọn gió làm rung một lá trên các cành cây.
      Kiều Dung tiến đến gần Zanoni. Một điềm triệu mà nàng không thể giải thích làm cho tim nàng đập mạnh hơn lúc bình thường. Nhìn vào gương mặt của Zanoni, nàng lấy làm ngạc nhiên, vì nét mặt ấy biểu lộ một sự băn khoăn, lo nghĩ và bối rối. Nàng nói thất vọng:
      - Cái im lặng thâm trầm nầy làm cho em sợ hãi!
      Zanoni không tỏ vẻ gì nghe lời nàng vừa nói. Chàng nói lầm bầm trong miệng một mình, và đôi mắt chàng nhìn quanh bốn phía một cách lo ngại. Nàng không hiểu tại sao, nhưng cái nhìn của chàng như muốn dò thám trong không gian và những câu nói lầm bầm một mình bằng một thứ tiếng ngoại ngữ của chàng, lại gợi cho Kiều Dung những ý nghĩ mê tín của nàng trước kia, khi nàng nghĩ rằng có lẽ chàng là một nhà phù thủy Bàn Môn tả đạo. Nàng đã trở nên dễ xúc cảm và dễ sợ sệt hơn kể từ ngày mà nàng biết rằng mình sắp làm mẹ. Đó là một cơn khủng hoảng lạ lùng trong một cuộc đời và trong tình yêu của một người đàn bà! Một đứa trẻ còn nằm trong bụng chưa sinh ra, mà đã tranh chấp quả tim của nàng đối với người từng làm chủ quả tim ấy.
      - Zanoni! Anh hãy nhìn mặt em!,
 - Nàng vừa nói vừa nắm lấy bàn tay chàng.
      - Kiều Dung! Em có vẻ tái xanh, bàn tay em lại hơi run. sao vậy?
      - Đúng thế. Em cảm thấy dường như có điều gì chẳng lành sẽ đến với chúng ta.
      - Linh cảm của em quả thất không lầm. Điều chẳng lành ấy quả thất đã đến. Anh nhìn thấy nó xuyên qua cái bầu không khí nặng nề nầy, anh nghe thấy nó đến xuyên qua cái im lặng chung quanh ta. Đó là bịnh ôn dịch tàn khốc và giết người! Em hãy chú ý nhìn xem những lá cấy kia: trên đó có đầy những loại sâu bọ, bịnh dịch đã đem chúng nó đến!
      Khi Zanoni còn đang nói chưa dứt, thì mỗt con chim từ trên cành cây té lăn xuống dưới chân Kiều Dung, nó còn dãy dụa một lần cuối cùng, rồi chết lịm!
      Zanoni bất giác kêu lên một cách lo lắng:
- Ô! Kiều Dung, Thần Chết đã tới đó! Em có sợ chết chăng?
      - Nếu chết có nghĩa là bỏ anh lại, thì...có, em có sợ thật đấy!
      - Và nếu anh có thể chỉ dẫn cho em biết làm thế nào để thắng đoạt sự chết, nếu anh có thể ngăn chận bước tiến của thời gian để giữ gìn thời kỳ thời son trẻ của em được lâu bền trường cửu, và nếu anh có thể...
      Chàng bỗng nhiên ngừng nói, vì thấy Kiều Dung biến sắc, đôi mắt nàng đầy vẻ sợ hãi, đôi má và đôi môi nàng tái nhợt. Nàng vừa day mặt đi một cách vô tâm vừa nói:
      - Anh đừng nói như thế, anh đừng nhìn em như thế. Anh làm cho em sợ. Ôi! Anh đừng nói vậy nữa, em cảm thấy run sợ, không phải cho em, mà cho con của em!
      - Con của em! Nhưng em không muốn cho con em cũng có được cái quyền năng tương tự sao?
      - Zanoni!
      - Em muốn nói chi?
      - Mặt trời đã lặn đối với cặp mắt của chúng ta, nhưng chỉ là để lại mọc lên đối với những cặp mắt khác. Từ bỏ thế giới nầy, tức là sống trên một thế giới khác thanh cao hơn. Ôi! Chàng hỡi! Chàng hãy nói cho em biết rằng chàng chỉ nói đùa đấy thôi, rằng chàng chỉ ghẹo em chơi đấy thôi! bịnh ôn dịch có lẽ cũng không rùng rợn như những lời chàng vừa nói!
      Zanoni sa sầm nét mặt, rồi im lặng nhìn nàng trong một lúc. sau cùng, chàng nói bằng một giọng hầu như nghiêm khắc với nàng:
      - Em đã biết được những gì về anh mà lại nghi ngờ anh như vậy?
      Kiều Dung ngả đầu vào ngực chàng và khóc nức nở:
      - Em xin lỗi anh! Em không biết gì cả. Em không muốn tin những lời nói của anh, dẫu cho chúng tố giác anh!
      - Zanoni chùi sạch những giọt lệ của Kiều Dung bằng một nụ hôn, nhưng không đáp lại. nàng bèn phát lên một tiếng cười tinh nghịch và ngây thơ, rồi nói:
      - A ha! Nếu anh cho em một lá bùa để trị bịnh ôn dịch, thì đây rồi, em sẽ đích thân gỡ lấy.
      Kế đó nàng luồn bàn tay vào ngực chàng để nắm lấy một đạo linh phù mà chàng đeo nơi cổ, rồi nói:
      - Chàng có biết đâu rằng vật nầy đã làm cho em ghen tức dĩ vãng. Chắc hẳn đó là một kỷ vật của một mồi tình nào? Nhưng không, anh không có yêu người nào đó như anh yêu em. Em muốn đánh cắp đạo bùa của anh đây.
      Zanoni nói một cách âu yếm:
      - Em hỡi! Người đàn bà đã trồng nó vào cổ anh hẳn là đã xem nó như một linh vật hộ phù, vì người ấy cùng như em, đã có ít nhiều mê tín. Nhưng đối với anh, vật ấy có giá trị hơn một đạo linh phù: đó là kỷ niệm một thời kỳ hạng phúc đã qua, mà những người từng yêu anh không hề ngờ vực anh.
      Chàng nói những lời ấy với một vẻ trách móc u buồn đến nỗi nó làm cho Kiều Dung phải xúc động tự đáy lòng. Nhưng chàng lại nói thêm với một giọng thật trang nghiêm nó làm cho lòng nàng tê tái:
      - Kiều dung, có lẽ một ngày kia anh sẽ chuyền đạo linh phù nầy qua ngực em, khi nào em hiểu anh hơn, nghĩa là khi mà "những định luật về sự sinh tồn của chúng ta sẽ giống như nhau."
      Nói đến đây, chàng đứng dậy sửa soạn bước đi. Hai người cùng nhau đi chậm bước trở về nhà, nhưng Kiều Dung vẫn cảm thấy lo sợ trong lòng dẫu rằng nàng cố xua đuổi cái cảm giác ấy. Nàng là người Ý và có đạo Gia Tô, với tất cả những mê tín của xứ sở quê hương và tôn giáo của nàng. nàng trở về phòng riêng và liền cầu nguyện trước một bức tượng nhỏ của Thánh Janvier, mà một vị giáo sĩ trong khu ấp đã cho nàng khi nàng còn nhỏ. Nàng luôn luôn đem bức tượng ấy theo mình bất cứ ở nơi nào...
      ...Bịnh dịch thật sự đã xuất hiện và hoành hành dữ dội trên hòn đảo. hai người phải bỏ nhà đi nơi khác. Hỡi Siêu Nhân, ông không có ột quyền năng nào để cứu nguy cho những người mà ông thương yêu. Vĩnh biệt tổ uyên ương đầm ấm, vĩnh biệt mãnh đất êm đềm của tình yêu tràn đầy hạnh phúc!
      Ôi! Những ngọn gió thổi xuôi thuận chiều, hãy thổi mạnh hơn nữa! hãy thổi căng phồng những lá buồm lớn kia lên, để chở cặp uyên ương tránh ra xa khỏi giải đất mà Thần Chết đã đến cướp đoạt mất cái quyền uy ngự trị của Thần Ái Tình!
Chương 8
Lời Cảnh Cáo Của Kiềm Mâu
Giả chắc còn nhớ chúng tôi đã để lại bác Phao Lồ ở dưới chân giường của Linh Đông. Khi vừa tỉnh giấc sau một đêm ngủ mê li bì, cái ký ức rùng rợn hồi đêm đã trở lại trong ký ức của y, Linh Đông bấc giác kêu lên một tiếng lớn và lấy hai bàn tay che mặt. Bỗng nghe Phao Lồ reo lên:
      - A! Chào tiên sinh! Tiên sinh vừa ngủ một giấc ngon lành!
      Giọng nói vui tươi đó phát ra một âm thanh trong trẻo lành mạnh nó xua những hình bóng ma quái hãy còn lởn vởn trong đầu óc của Linh Đông. Y bèn ngồi nhổm dậy trên giường và hỏi:
      - Anh đã gặp tôi tại đâu? Và tại sao anh lại ở đây?
      Phao Lồ ngạc nhiên đáp:
      - Gặp ông tại đâu ư? Tự nhiên là ở trên giường của tiên sinh chứ đâu! Còn tại sao tôi lại ở đây? Tại vì Tôn sư ông có dặn tôi hãy chờ ông tỉnh giấc để xem ông có sai bảo điều gì?
      - Tôn sư tôi? Kiềm Mâu đạo sư? Người đã về đến nơi rồi à?
      - Về rồi lại đi ngay. Người có để lại bức thơ nầy cho tiên sinh.
      - Anh đưa đây cho tôi, rồi hãy đợi tôi ở ngoài trong khi tôi thay áo.
      - Thưa vâng. Tôi có đặt một bữa ăn thịnh soạn, chắc tiên sinh đang đói. Tôi là một đầu bếp nấu ăn tạm được. Ông sẽ thích món gỏi cá của tôi làm.
      Nói xong, Phao Lồ đeo khẩu súng trường lên vai, bước ra khỏi phòng, rồi đóng cửa lại. Trong khi đó, Linh Đông mở thơ ra xem. Thơ của Kiềm Mâu viết như sau:
      "Khi Thầy thu nhận con làm đệ tử, Thầy có hứa với đạo huynh Zanoni rằng nếu con thất bại sau những cuộc thử thách đầu tiên, Thầy sẽ không bỏ rơi con trong tay của định mệnh và tai họa, mà Thầy sẽ cho phép con trở về với thế gian. Sự thử thách của con là sự thử thách dễ dàng nhất cho bất cứ một kẻ sơ cơ nào. Thầy chỉ có đưa ra cho con điều giới cấm tuyệt dục và bắt con trải qua một sự cám dỗ nhỏ nhặt để thử thách lòng kiên nhẫn và đức tin của con nhưng con đã thất bại. Vậy con hãy trở về với cuộc đời thế gian, vì tính chất của con không phù hợp với cuộc đời khổ hạnh của giới Huyền Môn chúng ta.
      Chính Thầy đã dặn Phao Lồ đón tiếp con trong cuộc lễ làng đêm hôm ấy. Chính Thầy đã thúc đẩy ông lão hành khất đến xin tiền bố thí của con. Chính Thầy đã mở sẵn quyển sách ở một trang mà con chỉ có thể đọc được sau khi đã bất tuân lời dặn của Thầy. Và sau đó, con đã thấy sự gì chờ đợi con ở ngưỡng cửa Huyền Môn. Con đã gặp phải Kẻ Thù đầu tiên nó hăm dọa những kẻ chưa đủ chuẩn bị sẵn sàng và hãy còn làm nô lệ của giác quan. Con có ngạc nhiên chăng mà thấy cửa Đạo diệu huyền từ nay sẽ vĩnh viễn khép chặt đối với con? Sau cùng, con có hiểu chăng là muốn vượt qua ngưỡng cửa Huyền Môn và thắng đoạt Kẻ Giữ Cửa đáng sợ ấy, người hành giả phải có một tâm hồn được trui rèn như sắt thép, được tinh luyện và chuẩn bị sẵn sàng, không phải bởi uống bầu Kim Đơn linh dược, mà bởi sự công phu cố gắng tự bản thân?
      Hỡi người đệ tử bất hạnh! Khoa Huyền Môn của ta đâu phải để dành cho những kẻ ngông cuồng, nông nổi như con, là những kẻ chỉ biết ham mê những thú vui nhục dục và đắm chìm trong những dục vọng chiếm hữu, ích kỷ. Con mà muốn làm một đệ tử của Tiên gia ư? Con, một môn đồ của Môn Phái Hồng Hoa cao cả thiêng liêng ư? Con đường ấy đối với con hãy còn xa lắm!
      Nhưng bất hạnh thay cho con, vì cãi lịnh Thầy, con đã hít chất Kim Đơn linh dược vào phổi, và bởi đó con đã hấp dẫn đến gần con một kẻ thù rùng rợn. Chỉ có con mới có thể xua đuổi loài tà ma mà con đã kêu gọi. Con phải trở về thế gian, nhưng chỉ bằng một sự cố gắng gian lao và đau khổ mà con mới có thể thu hồi lại được sự bằng an nội tâm và vui vẻ yêu đời như khi xưa mà nay con đã để mất đi. Để nâng đỡ tinh thần cho con, thì đây là điều mà Thầy muốn nhắn nhủ với con.
      Người nào, cũng như con, đã hấp thụ được vào cơ thể ít nhiều sinh lực chứa đựng trong bầu Kim Đơn thần dược, sẽ làm thức động nơi y những khả năng tiềm tàng. Những khả năng đó, do bởi đức khiêm tốn, kiên nhẫn, bởi một đức tin thật sự, bởi lòng cương nghị và quả cảm, sẽ còn có thể đưa người hành giả lên cao, nếu không phải là đạt tới một cuộc đời Đạo lý diệu huyền, thì ít nhất cũng đem đến cho y những thành quả tốt đẹp và cao quý trong đời sống hằng ngày. Con sẽ tìm thấy lại cái ảnh hưởng đó, hoạt động thường xuyên trong tất cả những công việc gì mà con làm. Giữa những thú vui trần tục, tâm hồn con sẽ hoài vọng đến những điều thánh thiện hơn. Nhưng con đừng tưởng rằng cái khả năng đó tự nó có thể đưa con đến Danh Vọng, cái hoài bão mãnh liệt đó cũng có thể đưa con đến con đường tội lỗi và hổ thẹn! Đó chỉ là một nguồn sinh lực mới và chưa được chế ngự, nó sẽ không để cho con được yên. Tùy theo cách mà con sử dụng nó, theo chiều hướng thiện hay ác, mà nó sẽ là hiện thân của vị thần hộ mạng hay tà thần ám ảnh con.
      Nhưng vô phước thay cho con, nay con cũng như con chuồng chuồn bị mắc lưới. Vì không những con đã hít chất Kim Đơn linh dược vào cơ thể, mà con còn kêu gọi đến Ma Vương trong cõi vô hình, là kẻ thù độc ác nhất của con người. Con đã hé mở tấm màn ngăn cách cõi thế gian với cõi vô hình, và Thầy không thể nào lập lại thế quân bình đó cho con được nữa. Con hãy biết rằng những vị đạo đồ trong giới Huyền Môn đã thật sự vượt qua ngưỡng cửa diệu huyền, phải thi hành nhiệm vụ đầu tiên và nguy hiểm của mình là chế ngự và khuất phục Kẻ Giữ Cửa khủng khiếp đáng sợ đó. Con hãy biết rằng con có thể thoát khỏi cái nhìn ám ảnh của đôi mắt rùng rợn đó. Con hãy biết rằng nếu đôi mắt đó theo dõi con, chúng không thể tác hại gì cả khi mà con chống lại những cám dỗ và sợ sệt mà nó gợi cho con. Con chỉ sợ đôi mắt đó khi nào con không nhìn thấy chúng!
      Và như vậy, kể từ nay giữa chúng ta, đường ai nấy đi. Tất cả những gì mà thầy có thể nói để khuyến khích, cảnh cáo và hướng dẫn con, Thầy đã viết rõ trong bức thơ nầy. Không phải do nơi Thầy, mà chính do nơi con đã gây nên cuộc thử thách bất hạnh vừa qua, mà Thầy ước mong rằng con sẽ thoát khỏi trong sự bằng an. Kể từ nay, con phải chịu mọi hậu quả của sự hấp thụ chất Kim Đơn linh dược, và con phải đương đầu với Vong Hồn Giữ Cửa mà con đã kêu gọi!"
Linh Đông đọc xong thư, trong lòng vô cùng xúc động, bất giác để rơi bức thư xuống đất lúc nào không hay. Cõi giới siêu việt mà y hoài vọng đạt tới với sự mong ước nhiệt thành từ bấy lâu nay, vì đó mà y đã chịu bao nhiêu điều hy sinh và khổ nhọc, từ nay sẽ vĩnh viễn khép chặt, do bởi sự táo bạo và lòng tự phụ kiêu căng của y. Nhưng Linh Đông không phải là người tự chê trách mình quá đáng. Sự bất bình của y không bao lâu đã nhen nhúm và nhắm vào Kiềm Mâu, chính đạo sư đã nhìn nhận đã đặt y trước sự cám dỗ, để rồi rốt cuộc lại bỏ rơi y trước sự ám ảnh của một bóng ma quái ác. Những lời khiển trách của đạo sư làm cho y tức giận hơn là hối hận ăn năn. Y đã làm nên tội ác thì để phải chịu những lời khiển trách nghiêm khắc và khinh bạc như vậy? Thưởng thức cái nụ cười trên cặp môi xinh như mộng của một cô gái rừng xanh như Phi Lịch có thật phải là một hành vi sa đọa hay không? Chính Zanoni há chẳng đã tỏ tình yêu say đắm với Kiều Dung đó sao? Zanoni há chẳng đã đem nàng theo làm bầu bạn tri kỷ đó sao? Linh Đông không màng dừng lại một lúc để tự hỏi có sự khác biệt nào giữa một mối tình nầy và một mối tình khác. Vả lại, phải chăng là một tội ác mà thất bại trước một sự thử thách chỉ dành cho những tâm hồn can đảm? Quyển sách thần bí mà Kiều Mâu đã cố tình để mở ra, há chẳng đã nói rằng: "[Người hãy đừng sợ sệt]"? Phải chăng người ta đã dụng ý khiêu khích những bản năng thô bạo nhất của linh hồn y khi họ vừa ngăn cấm y vào phòng, vừa đưa cho y cầm chìa khóa để gợi sự tò mò, lại vừa đặt trong tầm tay y một quyển sách đã mở sẵn dường như để chỉ cách cho y thỏa mãn sự tò mò ấy!
      Khi những ý nghĩ ấy thoáng qua trong trí y, Linh Đông bắt đầu nghĩ rằng cử chỉ của Kiều Mâu có thể diễn đạt bằng hai cách: hoặc đó là sự cố tình đưa y lọt vào cạm bẫy một cách trắng trợn, hoặc đó chỉ là sự tinh nghịch của một kẻ bịp bợm nói năng vu khoát chứ thật sự chẳng biết gì về khoa Huyền Môn. Và con ma quái ác mà y đã gặp, chỉ là một ảo ảnh do Kiều Mâu dùng tà thuật để tạo ra, thế thôi. Ánh sáng mặt trời rọi vào phòng dường như đã dẹp tan những cơn sợ hãi khủng khiếp của y trong đêm vừa qua. Lòng tự kiêu và căm hận càng làm tăng thêm lòng can đảm, và sau khi đã thay đổi y phục một cách hối hả, y đi tìm Phao Lồ với những bước đi kiêu hãnh và một vẻ mặt đầy tự tin.
      Y nói:
      - Nầy bác Phao Lồ, thế là Tôn sư đã dặn anh đợi chờ và tiếp đón tôi trong cuộc lễ làng đêm hôm nọ?
      - Đúng vậy, người gởi cho tôi một thông điệp do một lão hành khất què đem đến. Ngay lúc đó tôi ngạc nhiên, vì tôi tưởng là người đang ở xa lắm. Nhưng đối với những triết gia thượng thặng cỡ ấy, thì đôi ba trăm dặm đường cũng không đáng kể gì, họ dùng thuật thâu đường để đến trong nháy mắt!
      - Tại sao hôm đó anh không nói cho tôi biết rằng anh được chỉ thị của Tôn sư?
      - Bởi vì lão ăn mày có dặn tôi đừng nói gì cả.
      - Anh có gặp lại lão già ấy sau cuộc lễ chăng?
      - Thưa tiên sinh, không!
      - Chà chà! Lạ thật!
      Phao Lồ vừa dọn ăn, rót rượu vào ly cho Linh Đông, vừa nói chuyện huyên thiên. Linh Đông ăn uống ngon lành, cái kỷ niệm rùng rợn đêm trước và sự từ bỏ của Kiều Mâu lần lần xóa mờ trong trí của y. Bác Phao Lồ cao hứng nói chuyện nổ như gạo rang. Y nói về cuộc đời phiêu lưu giang hồ, về những cuộc du lịch xứ ngoài, về đàn bà với một sự hào hứng chân thật nó gây sự truyền cảm cho người nghe. Linh Đông lại càng thích thú nghe chuyện khi Phao Lồ, với một nụ cười đồng lõa, bắt đầu khen tặng không hết lời về cặp mắt nhung, hàm răng xinh như ngọc, hai cổ chân thon và vóc người tầm thước yểu điệu của nàng sơn nữ Phi Lịch. Phao Lồ dường như là kiểu người điển hình về sự sinh hoạt của thể chất và dục tính. Người ta không thấy có sự mỉa mai trên môi y khi y nói chuyện một cách hào hứng về sự tận hưởng lạc thú trần gian. Đối với người vừa chợt tỉnh mộng như Linh Đông, thì câu chuyện vui tươi hồn nhiên của Phao Lồ có một ảnh hưởng rất quyến rũ. Nhưng khi Phao Lồ xin phép rút lui và hứa trở lại vào sáng ngày mai, thì Linh Đông lại có một tâm trạng nghiêm túc và trầm lặng. Dường như Kim Đơn thần dược đã thật sự để lại cho y một ảnh hưởng khích động như Kiều Mâu đã nói. Trong khi Linh Đông đi bách bộ một mình qua lại trong hành lang vắng người, và dừng chân trước cửa sổ để ngắm nhìn cảnh vật hùng tráng bao la diễn ra đến tận chân trời, thì những tư tưởng cao quý, những sáng kiến táo bạo và đầy tham vọng, những linh ảnh vĩ đại huy hoàng về danh vọng tương lai, xuất hiện trong trí và đi xuyên qua tâm hồn y như một cuốn phim hình ảnh liên tục. Y thầm nghĩ một cách tự đắc:
      - Kiềm Mâu đã khép cửa Huyền Môn đối với ta, được rồi, nhưng y không lấy mất tài năng của ta được!
      Y lại bước vào phòng của đạo sư: Không còn một bầu thủy tinh hay một nhánh dược thảo nào! Quyển sách thần cũng biến mất, Kim Đơn thần dược không còn tiết ra một mùi hương và bốc hơi lấp loáng như kim cương nữa. Tuy vậy, trong phòng dường như hãy còn phảng phất một bầu không khí linh diệu thần tiên. Linh Đông cảm thấy trong lòng bộc khởi một ước muốn sản xuất, sáng tạo... Y hoài bão một đời sống cao quý hơn đời sống nhục thể, một đời sống chỉ khai mở cho những bậc thiên tài, một đời sống siêu việt trong một công trình bất hủ mà y có thể để lại cho hậu thế với một tên tuổi sáng chói bất diệt.
      Qua ngày hôm sau, Linh Đông từ giã tòa lâu đài sụp đổ hoang tàn. Y bước vào nơi đó với bao nhiêu niềm hy vọng sáng sủa tốt đẹp. Nhưng hôm nay, y nhìn lại một lần cuối cùng tòa nhà lầu bị tàn phá bởi thời gian, với những kỷ niệm rùng rợn có thể làm cho y phát run rẩy cả toàn thân và rợn tóc gáy khi bóng tối đến gần!

Công Dân Linh Đông

- Kìa anh!Ôi! Vui mừng cho em xiết bao! Anh đã trở lại! Anh hãy nói rằng anh không có bỏ em để yêu người khác. Anh nói nữa đi, nói luôn như vậy đi, rồi em sẽ tha thứ cho anh tất cả!
      - Anh ra đi có làm cho em khổ lắm không?
      - Ôi! Còn hỏi! Và anh còn ác là để vàng lại cho em! Đây anh thấy không? Vàng của anh hãy còn nguyên!
- Tội nghiệp! Làm sao em có chổ ăn và ở trong một thành phố xa lạ như Mạc Xây?
      - Em sống một cách lương thiện đó anh, và sống đường hoàng với cái gương mặt nầy mà anh vẫn cho là đẹp! Nhưng anh còn nghĩ như thế không?
      - Em còn đẹp hơn bao giờ hết, hỡi Phi Lịch! Nhưng em muốn nói gì?
      - Ở đây có một họa sĩ, một người có thế lực ở Ba Lê, em không biết người ta gọi họ bằng gì, nhưng ở đây y nắm trong tay mọi guồng máy chỉ huy, và nắm quyền sinh sát. Y đã trả tiền thù lao cho em rất hậu để làm mẫu cho y vẽ một bức họa. Đó là một họa phẩm mà y sẽ cống hiến cho quốc gia, vì y vẽ chỉ vì danh vọng tiếng tăm mà thôi. Anh sẽ thấy rằng có ngày Phi Lịch của anh sẽ nổi tiếng!
      Phi Lịch nói chuyện với một tia hứng khởi trong cặp mắt, và cảm thấy lòng tự ái được vuốt ve.
      - Thậm chí y đã có thể cưới em nếu em bằng lòng, y sẵn lòng ly dị vợ nhà để cưới em đó. Nhưng em vẫn đợi anh, anh thật là vô nghĩa!
      Lúc ấy có tiếng gõ cửa, và một người bước vào.
      - A! My Cốt!
      - A! Linh Đông!... Chà chà! Đây là lần thứ nhì mà anh là tình địch của tôi! Nhưng My Cốt không bao giờ thù vặt! Đức hạnh là điều mà tôi mong ước, tổ quốc là tình yêu của tôi. Hỡi công dân, anh hãy phụng sự tổ quốc tôi, rồi tôi sẽ tha thức cho anh những sự may mắn của anh về đàn bà! Khi My Cốt đang nói chưa dứt, thì âm điệu quốc ca [La Marseillaise] đã vang dội ngoài đường. Một biển người ồ ạt kéo đến, kẻ cầm cờ người cầm khí giới, đồng loạt hát vang lên bằng một giọng tràn đầy hứng khởi. Đoàn người tiếp tục tiến tới như sóng giợn, từng đợt, vẫn bấy nhiêu loại cờ ấy, bấy nhiêu khí giới ấy, vẫn âm điệu quốc ca ấy, niềm hứng khởi nồng nhiệt ấy! Ai có thể nghĩ rằng bài quốc ca hiếu chiến đó không phải là một bài chiến ca, mà là một bài hát thúc giục sự tàn sát? Tàn sát giữa người Pháp và người Pháp! Vì có hai đảng phái ở Mạc Xây, và sự thù nghịch thường đưa đến những vụ thanh toán đẫm máu! Nhưng Linh Đông, với tư cách một người Anh vừa mới đến, hoàn toàn xa lạ đối với mọi đảng phái đối lập, nên không hề biết ý nghĩa thật sự của sự biểu tình ầm ĩ đó. Y chỉ thấy có những giọng hát quốc ca, lòng hứng khởi nhiệt thành, khí giới, cờ quạt, những thứ ấy đưa ra ánh sáng mặt trời một sự dối trá, lừa bịp:
      "Dân chúng Pháp đứng lên chống lại nền quân chủ chuyên chế, áp bức!..."
      Nét mặt My Cốt tươi hẳn lên. Y bước đến cửa sổ nhìn đám rừng người đang tiến hành ở ngoài đường, cờ phất trống gióng. Đám đông thét lên hai tiếng "hoan hô" khi họ nhìn ra công dân ái quốc My Cốt, bạn của tự do, và công dân Hê Be, một lãnh tụ Cách Mạng.
      My Cốt lấy hai tay bụm miệng làm ống loa và gọi đám đông:
      - Hỡi các đồng chí! Hãy cho một tiếng "Hoan hô" nữa để đón mừng người bạn Ăng Lê nầy, y đã từ bỏ Anh Quốc để trở nên công dân của nền tự do và của nước Pháp!
      Hằng nghìn cuống họng cùng hoan hô một lượt, tiếng vang xé tan bầu không khí của thành phố, và quốc ca (Marseillaise) lại trổi lên những âm điệu hùng tráng.
      Linh Đông thầm nhủ lấy một mình, dường như y lại cảm thấy ảnh hưởng của Kim Đơn thần dược sôi lăn tăn trong huyết quản:
      - Phải chăng giữa những nguyện vọng cao siêu của dân tộc gan dạ nầy mà bóng ma sẽ phải vĩnh viễn biến mất?
      My Cốt vừa vỗ vai Linh Đông vừa nói:
      - Anh sẽ tham dự trong Quốc Hội với các công dân Anh Paine và Cờ Lút. Tôi sẽ sắp đặt việc ấy cho anh. Còn Ba Lê...
      Phi Lịch nghe nói bèn kêu lên một tiếng vui mừng:
      - À! Ba Lê! Nếu em có thể đến viếng Ba Lê thì... thật là sung sướng xiết bao!
      Hỡi Ba Lê, kinh đô của Ánh Sáng và Nghệ Thuật, hãy mở cửa đón tiếp người ngoại nhân đã trở thành công dân của nước Pháp. Hỡi những chiến sĩ Cộng Hòa của chế độ mới, hãy thu nạp trong hàng ngũ quý vị một ngôi sao mới của tự do, bình đảng, và tình thương nhân loại!
      Kiều Mâu nói có lý! Chính trong sự phát triển đức hạnh và tài năng, trong việc đấu tranh phục sự cho nhân loại, mà bóng ma phải vĩnh viễn rút lui và trở về nguyên quán!
Chương 9
Con Trai Của Zanoni
Trật tự của những diễn biến xảy ra trong truyện nầy, sau khi Linh Đông đến Mạc Xây được ít lâu, thì Zanoni và Kiều Dung rời khỏi hòn đảo của xứ Hy Lạp, nơi đó họ đã sống vài năm hạnh phúc. Ấy là vào năm 1793, khi mà cuộc Cách Mạng Pháp đã kéo dài được hơn bốn năm, Zanoni đã đến ở tại Venise.
      Sao khuya chiếu ánh sáng lu mờ xuống những ao vũng ngập nước của thành phố mơ mộng nầy. Những sự huyên náo ồn ào của khu ăn chơi Rialto cũng đã chấm dứt. Những người đi bộ cuối cùng cũng đã rời khỏi công trường Saint-Marc, và chỉ cách khoảng rất lâu người ta mới nghe có tiếng mái chèo của những chiếc du thuyền chở những người đi chơi đêm về nhà. Nhưng mặc dầu đêm đã khuya, những ánh đèn vẫn còn lấp lánh qua lại bên trong những cửa sổ của một tòa lâu đài trên bờ con Kinh Lớn, và trong tòa lâu đài ấy Kiều Dung đang quằn quại rên siết vì đau đớn trong giờ lâm bồn. Zanoni ngồi bên giường, nét mặt lo âu, nói với vị y sĩ:
      - Nếu ông cứu nàng khỏi cơn nguy hiểm, tôi sẽ đền ơn trọng hậu và làm cho ông trở nên người giàu có nhất tỉnh Venise nầy.
      Viên y sĩ đáp:
      - Thưa tiên sinh, vàng bạc không thể đẩy lui được Thần Chết, và thay đổi được ý Trời. Nếu trong một giờ nữa, mà không có một sự thay đổi mầu nhiệm nào, thì Tiên sinh hãy giữ vững tinh thần.
      Ôi! Zanoni! Con người kỳ bí và bản lĩnh cao cường, con người đã từng vượt qua tất cả mọi đam mê của cuộc đời thế tục mà không hề nao núng, nay đã phải bó tay đành chịu bất lực ư? Tâm hồn cứng rắn của ông đã bắt đầu lung lay trước những cơn giông tố sợ sệt chăng? Sau cùng ông đã phải chịu khuất phục trước uy lực của Thần Chết chăng?
      Zanoni toàn thân run rẩy chạy đi chỗ khác để khỏi phải nhìn thấy mặt viên y sĩ, chính gương mặt nầy cũng đã tái ngắt. Chàng đi ngang qua những gian phòng rộng lớn và những hàng lang dài, và đến một phòng riêng, nơi đó không hề có ai bước chân đến ngoài ra một mình chàng. Chàng kêu gọi đến Thiên Thần Adonai, nhưng không thấy một sự đáp ứng. Tại sao Thiên Thần Adonai không đến với chàng? Tại sao Adonai lại ngoảnh mặt làm ngơ trước những lời cầu nguyện khẩn thiết của chàng? Lần nầy thì quả thật là Thiên Thần không đến nữa rồi! Thế là, hỡi Siêu Nhân, những câu chân ngôn, thần chú của ông không còn linh nghiệm nữa chăng? Ông không còn quyền lực gì đối với các nhân vật trong cõi vô hình nữa chăng?
      Zanoni bước chân lảo đảo, sắc mặt tái nhợt và thân hình run rẩy vì bất lực. Chàng không còn cái phong độ hùng dũng oai nghi của thuở nào, khi mà những tinh linh và tiểu thiên thần trong không gian mau mắn ứng đáp lại tiếng gọi của chàng! Chàng biết rằng những vị ấy không bao giờ ứng đáp lời kêu gọi của những người bị dày vò trong cơn bối rối sợ sệt. Phải là một linh hồn tích cực, tự tín, mạnh mẽ, chứ không phải là Kim Đơn thần dược hay những thần chú chân ngôn mà có thể kêu gọi và sai khiến những vị thần tiên trong cõi vô hình. Và nay thì... tình yêu và sự sợ chết đã làm cho linh hồn chàng mất cả những quyền năng vẫn có từ trước. Sau cùng, ngọn đèn lung lay... như sắp tắt, âm phong thổi đến lạnh thấu xương như bốc lên từ dưới nhà mồ!...
      Một hình ảnh ma quái vừa xuất hiện ở cách đó một quãng, bao phủ trong một vầng sương mù tối tăm. Dưới một tấm màn đen che mặt, quái vật khủng khiếp rùng rợn ấy phóng cho chàng một cái nhìn soi mói:
      - A! Hỡi người thuật sĩ xứ Chaldée, người đã đạt tới cõi trường sinh bất tử, rốt cuộc rồi cũng lại sợ chết nữa chăng? Khoa Huyền Môn của ông phải chăng chỉ là cái vòng luẩn quẩn nó đưa ông trở về khởi điểm là nguồn gốc vô minh? Nhiều thế hệ đã trôi qua kể từ khi chúng ta gặp nhau lần cuối. Và nay, ông hãy nhìn tôi đây, chúng ta lại gặp nhau!
      - Phải, nhưng ta nhìn mi mà không sợ sệt! Tuy rằng có rất nhiều kẻ táo bạo đã từng chết vì khủng khiếp dưới cái nhìn của mi, tuy rằng mi có thể ám ảnh những nạn nhân mà mi đã làm cho mất trí và trở thành điên rồ, hay dọa nạt những kẻ sa đọa trong tội ác và đang đền tội trong ngục tối. Mặc dầu mi có thể quái ác đến mức độ đó, nhưng ta thách thức mi làm gì được ta! Mi không phải là kẻ chiến thắng, mà phải là kẻ nô lệ của ta!
      - Là kẻ nô lệ, tôi sẽ phụng sự ông! Vậy ông hãy ra lệnh và sai khiến tôi, hỡi người thuật sĩ đẹp trai của xức Chaldée! Ông hãy nghe kia tiếng rên siết của người đẹp mà ông yêu quý! Thần Chết đang lẩn khuất trong tòa nhà nầy. Thiên Thần Adonai không ứng đáp lời kêu gọi của ông. Những vị thần tiên chỉ đến với loài người, khi nào không có một sự đam mê của tình dục hay thể xác làm che khuất ánh sáng tâm linh của y mà thôi. Những còn [tôi], tôi có thể giúp ông.Ông hãy nghe kia!
      Zanoni lắng tai nghe rõ trong nội tâm, có giọng nói của Kiều Dung gọi chàng trong cơn mê sảng, dẫu rằng lúc đó chàng đang ở cách phòng nàng một quãng rất xa. Chàng thốt lên trong cơn tuyệt vọng:
      - Hỡi Kiều Dung! Anh không thể cứu em! Tình yêu đối với em đã làm cho anh mất cả quyền năng rồi!
      - Không! Ông không mất quyền năng đâu. Tôi có thể cho ông phương tiện để cứu nàng. Tôi làm cho ông có thể chữa khỏi nàng được.
      - Cho cả hai mẹ con? Cả mẹ lẫn con đều sẽ được an toàn?
      - Cả hai mẹ con!
      Zanoni run bắn cả thân mình, một cơn xung đột mãnh liệt của nội tâm đang dày vò chàng như một đứa trẻ: tình nhân loại và ý niệm về thời gian gấp rút đã thắng đoạt sự chống cự của tinh thần.
- Được rồi! Mi đã thắng! Mi hãy cứu lấy cả hai mẹ con cho được an toàn.
      Trong gian phòng u tối, Kiều Dung nằm liệt trên giường, quằn quại trong cơn đau bụng dữ dội khổ sở nhất. Những tiếng kêu rên siết của nàng mỗi lúc một yếu dần, tuy thế giữa cơn mê sảng nàng vẫn gọi tên Zanoni. Viên y sĩ nhìn đồng hồ và nói:
      - Những tiếng kêu rên siết đã yếu dần. Độ mười phút nữa thôi, là xong!
      Thế nhưng viên y sĩ đã lầm! Chính vào giờ phút nầy, người hấp hối vẫn còn hy vọng. Hơi thở của nàng đã lắng dịu lại, những tiếng rên siết cũng đã dứt. Một giấc mơ êm đềm đến với Kiều Dung. Ấy là một giấc mơ hay sự thật? Nàng cảm thấy dường như Zanoni ở bên cạnh, nàng ngả đầu dựa trên ngực chàng, cái nhìn của chàng dường như xua đuổi nhưng cơn đau đớn đang dày vò thể xác nàng, bàn tay chàng dường như xoa dịu cơn sốt trên trán nóng bỏng của nàng, những giọng nói thì thầm của chàng là một thứ âm nhạc xua đuổi những con ma bịnh tật đi mất. Còn đâu nữa cái quả núi nó đè nặng trên hai màn tang của nàng? Nó đã tan ra như mây khói. Trong cái lạnh của một đêm đông, nàng nhìn thấy mặt trời chiếu sáng trên nền trời rạng rỡ từng bừng. Cảnh vật thiên nhiên, cây cỏ hoa lá, suối rừng, non, nước diễn ra trước mắt nàng dường như thầm nhủ: " Đối với nàng, chúng tôi chưa mất đâu, mà vẫn còn đây!"
      - Hỡi người y sĩ, hãy nhìn lại đồng hồ! Mười phút đã trôi qua và rơi vào dĩ vãng. Linh hồn người mẹ lâm bồn mà ông đã tưởng rằng đang lâm nguy vẫn còn tồn tại với thời gian. Nàng ngủ mê, cơn sốt đã giảm bớt, những cơn đau đớn rên rỉ đã dứt, một màu hồng tươi tắn ửng trên đôi gò má, cơn đau khủng khiếp đã qua. Hỡi người chồng đau khổ! Vợ ông còn sống! Hỡi người tình khắc khoải lo âu! Vũ trụ của ông không phải là một bãi sa mạc khô khan! Cái đồng hồ, ví như quả tim của thời gian, vẫn tiếp tục thoi thóp nhảy một cách nhẹ nhàng... Một lúc... rồi một lúc nữa...Oa oa! Thật là vui mừng nhé! Hỡi người cha sung sướng! Hãy ôm lấy đứa con của ông!...
      Người ta trao đứa hài nhi cho cha nó. Zanoni lẳng lặng ôm lấy đứa con mà tuôn tràn giọt lệ, những giọt lệ thật là của người thế gian! Và đứa hài nhi mỉm cười giữa những hàng nước mắt nóng bỏng rơi xuống mặt nó. Ôi! Với những giọt lệ hạnh phúc nào người ta đón tiếp một kẻ lạ mặt bước vào thế giới của mình! Và cũng với những giọt lệ đau khổ nào người ta nhìn kẻ lạ mặt ấy từ bỏ cõi đời nầy để trở về cõi giới siêu linh! Niềm vui ấy vị tha vô kỷ, nhưng nỗi đau khổ kia cũng thật là ích kỷ thay!
      Xuyên qua gian phòng im lặng, một tiếng gọi yếu ớt và dịu dàng của Kiều Dung vọng đến tai Zanoni. Chàng đáp: " Có anh đây, anh đang ở bên cạnh em đây!"
      Kiều Dung mỉm cười và siết chặt bàn tay chàng trong bàn tay mình. Nàng không đòi hỏi gì hơn nữa, nàng cảm thấy sung sướng!
      Kiều Dung bình phục rất mau chóng đến nỗi làm cho vị y sĩ phải ngạc nhiên. Đứa hài nhi cũng mau lớn dường như nó đã mến cõi thế gian nầy mà nó vừa mới được quen biết. Kể từ khi đó, Zanoni dường như sống trong mầm sống của đứa trẻ, và trong cái mầm sống nầy linh hồn của cha mẹ nó kết hợp với nhau dường như bởi một sợi dây liên lạc mới.
      Đứa trẻ dường như đã nhận ra cha mẹ nó. Nó đưa hai tay ra khi Zanoni cúi xuống cái nôi của nó nằm. Zanoni ít khi rời khỏi cái nôi ấy, chàng nhìn nó bằng cặp mắt yên lặng và thích thú, linh hồn chàng dường như nuôi dưỡng linh hồn của đứa bé. Ban đêm, trong bóng tối, chàng vẫn ngồi bên cạnh nôi, và Kiều Dung, trong lúc mơ màng nửa tỉnh nửa mê, thường nghe nàng nói chuyện thì thầm với đứa con bằng một thứ ngoại ngữ lạ lùng khó hiểu. Điều nầy gợi lại trong trí nàng những mê tín dị đoan mơ hồ xa xưa của thời niên thiếu, làm cho nàng đâm ra sợ hãi! Chỉ vì muốn bảo vệ con mình một người mẹ sợ bất cứ ai, thậm chí đến các thần linh!
      Nhưng Zanoni, với những mục đích cao cả thiêng liêng trong tình yêu, quên hết tất cả, thậm chí đến sự đọa lạc của chính mình, và tất cả những gì chàng đã bị mất đi vì mối tình nó đã làm cho chàng mù quáng!
      Nhưng bóng Ma Giữ Cửa gớm ghiếc rùng rợn, tuy chàng không kêu gọi và không nhìn thấy nó, vẫn thường lởn vởn đến quanh mình chàng và thường ngồi lại gần bên cái nôi của đứa bé với cặp mắt đầy thù hận.

Zanoni Gửi Kiều Mâu
"Hỡi đạo huynh! Số phận của tôi nay đã trở lại giống như của mọi người, với tất cả những vui buồn sướng khổ của họ. Càng ngày tôi càng kết chặt sợi dây trói buộc tôi với cái số phận ấy. Vì phải sống trong cuộc đời của người khác, tôi đã mất trên phân nửa những quyền năng của tôi. Vì tôi không thể nâng cao cuộc đời họ lên bằng trình độ của tôi, nên họ kéo tôi xuống mức độ thế gian vật chất bằng những sợi dây trói buộc kiên cố của tình thương. Bị ngăn cách với cõi giới Thiên Thần mà chỉ có những giác quan tinh tế nhất mới có thể tiếp xúc, tôi cảm thấy mình bị mắc kẹt trong màng lưới của Kẻ Giữ Cửa đáng sợ và ghê tởm. Đạo huynh có tin chăng khi tôi cho đạo huynh biết rằng tôi đã nhận sự giúp đỡ của nó, và lẽ tất nhiên tôi cũng chịu nhận lãnh mọi hậu quả của việc ấy. Nhiều thế kỷ sẽ trôi qua trước khi những Thiên Thần lại chịu tuân lịnh sai khiến của người chịu thọ ơn của ma quỷ.
      Đạo huynh còn có một tầm nhỡn quang sáng suốt, xin đạo huynh hãy nhìn vào những vực thẳm của tương lai từ nay sẽ khép chặt đối với nhỡn quang của tôi, để khuyến cáo và cảnh giác tôi! Tôi biết rằng những sự trợ giúp của loài ma quỷ thường là chẳng lành và tráo trở đối với người cầu xin sự trợ giúp đó.
      Tôi đã nhận lãnh của Ma Vương cái bí quyết cứu tử cho vợ con tôi. Tôi có thể nào còn hy vọng có khả đủ quyền năng để đối phó với Ma Vương chăng nếu nó tìm cách ám hại vợ con tôi? Hỡi Kiềm Mâu, đạo huynh hãy trả lời cho tôi biết: vì, trong bóng tối dày đặc, tôi chỉ nhìn thấy có đôi mắt trong lành của đứa con tôi, tôi chỉ nghe có tiếng đập chậm chạp của trái tim tôi. Hãy trả lời tôi, hỡi đạo huynh, là người mà sự minh triết không hề biết có tình yêu!

Kiều Mâu Gửi Zanoni

  "Hỡi người bạn sa đọa! Tôi nhìn thấy tương lai bạn, gồm toàn là Tai Họa, Chết Chóc và Định Mệnh! Làm sao bạn có thể từ bỏ Thiên Thần Adonai để theo Ma Vương với đôi mắt khủng khiếp của nó? Làm sao bạn có thể trở thành nạn nhân của Kẻ Giữ Cửa rùng rợn, mà xưa kia khi còn là một đạo đồ, bạn đã từng thắng đoạt và nhiếp phục nó bằng cái nhỡn quang mạnh mẽ của mình? Bạn há không thấy rằng quyền năng của bạn đối với Ma Vương đã không còn sao? Ma Vương sẽ làm cho bạn sợ sệt, sẽ chế ngự bạn và phản bội bạn! Bạn đừng để mất một phút nào, bạn hãy đến với tôi. Nếu giữa chúng ta còn có một sự giao cảm nào, chính do mắt tôi mà bạn sẽ thấy và có lẽ bạn sẽ có thể tránh những hiểm nguy đang vây phủ chung quanh bạn và các người thân yêu. Hãy đến với tôi, hãy cởi bỏ những dây liên lạc nó trói buộc bạn với cuộc đời thế tục, và nó chỉ làm che ám tầm nhỡn quang của bạn. Hãy rủ sạch những điều sợ hãi, những hy vọng, những mong ước và đam mê của bạn. Hãy đến với tôi, để cho tinh thần bạn thêm vững mạnh, vì chỉ có tinh thần là có thể ngự trị và chiếu sáng ngời cõi giới tâm linh cao cả!"

Đây là lần thứ nhất mà Zanoni và Kiều Dung cách biệt nhau kể từ khi họ bắt đầu cuộc sống chung phối hợp. Zanoni đi La Mã vì những công việc quan trọng. Chàng nói rằng chàng chỉ đi có vài ngày, và sự ra đi cũng đột ngột đến nỗi nó không có thời gian để gây nên một phản ứng nào, dù là ngạc nhiên hay u sầu buồn thảm. Nhưng Kiều Dung đã có một đứa con để cho nàng thương yêu săn sóc. Vai trò làm mẹ làm cho người đàn bà giữ gìn sự tươi trẻ được luôn luôn đổi mới.
      Zanoni đã ra đi! Tiếng mái chèo đập nước đã nhỏ dần và tắt hẳn. Chiếc du thuyền nhẹ chỉ còn là một chấm đen nhỏ, đã biến mất dạng trên con Kinh Lớn. Đứa con đã ngủ yên trong nôi. Hỡi người mẹ hãy còn trẻ! Một trang đẹp nhất của quyển sách đời nàng đã lật qua, một bàn tay vô hình đã sắp sửa lật một trang mới.
      Gần cầu Rialto , hai người dân thành Venise đang đứng nói chuyện. Họ là những người nhiệt liệt hoan nghinh chế độ Cộng Hòa dân chủ, và coi cuộc Cách Mạng Pháp như một luồng gió mới sẽ làm sụp đổi chánh phủ thối nát đang hấp hối của họ và đem đến cho địa phận Venise một thể chế mới mẻ công bình hơn.
      Một trong hai người nói:
      - Ừ! Nầy anh Tô Cầu, người giao dịch thư tín với tôi ở Ba Lê có hứa với tôi là sẽ vượt qua mọi chướn ngại và đương đầu với mọi hiểm nguy. Y sẽ quyết định với chúng ta về ngày giờ khởi nghĩa, khi mà các đoàn quân viễn chinh Pháp đến khá gần để có thể nghe tiếng súng đại bác của chúng ta. Một ngày trong tuần nầy, vào giờ nầy, y sẽ gặp tôi tại đây, nhưng hôm nay mới là ngày thứ tư.
      Y vừa nói chưa dứt lời, thì một người khoác áo tơi vừa từ một con đường nhỏ ở bên tay trái bước tới, dừng chân lại trước mặt hai người, chăm chú nhìn họ một lúc rồi nói nhỏ:
      - Chào các đồng chí!
      - Với tình huynh đệ, - người vừa nói lúc nãy đáp lại.
      Người kia hỏi:
      - Phải chăng ông là đồng chí Đặng Lưu, mà Ủy Ban Cách Mạng đã giao cho tôi có bổn phận tiếp xúc bằng thơ tín? Còn đây là...?
      - Đồng chí Tô Cầu, mà tôi thường có dịp nhắc đến trong các thư tín của tôi.
      - Chào đồng chí công dân! Tôi có nhiều việc cần thông báo cho cả hai anh. Tôi sẽ gặp lại anh Đặng Lưu chiều nay, vì bây giờ nói chuyện ở ngoài đường không tiện.
      - Và tôi cũng không dám hẹn gặp tại nhà tôi, chế độ chuyên chế làm cho những vách tường nhà chúng ta cũng có lỗ tai. Nhưng chỗ hẹn ghi ở đây rất chắc chắn!
      Đặng Lưu vừa nói vừa dúi vào tay người kia một tờ giấy nhỏ.
      - Vậy là chiều nay, đúng chín giờ! Bây giờ tôi còn có việc khác. - Người lạ mặt ngừng nói, đổi sắc mặt, và nói tiếp với một giọng băn khoăn:
      - Bức thư cuối cùng của anh có nói tới một người ngoại quốc giàu có và bí mật... tên là Zanoni! Y còn ở Venise không?
      - Tôi nghe nói y đã đi hồi sáng nay, nhưng vợ y vẫn còn ở đây.
      - Vợ y? À! Tốt lắm!
   - Vậy anh cũng biết y? Anh có tin rằng y sẽ nhập bọn với chúng ta chăng? Tài sản của y sẽ...
      Người kia nói chận ngang:
      - Nhà y ở đâu? Xin cho tôi biết địa chỉ, mau!...
      - Y ở tại biệt thự Bông Cơ, trên bờ con Kinh Lớn.
      - Cám ơn anh, nhớ chín giờ tối nay.
      Người khách lạ biến mất dạng vào con đường nhỏ, và khi y về đến nhà trọ ở Venise, một người đàn bà đợi sẵn trước cửa chận y lại và nói bằng tiếng Pháp:
      - Thưa ông, tôi đợi ông nãy giờ, chờ lúc ông về. Ông có biết chăng, tôi sẽ bất chấp hiểm nguy, dám đương đầu với tất cả mọi sự có thể xảy đến, để đi cùng với ông trở về đất Pháp, để cùng chia sẻ số phận dầu sống dầu chết với chồng tôi.
      - Hỡi nữ công dân! Tôi có hứa với chồng cô rằng nếu cô quyết định như thế, tôi sẽ liều mạng để giúp cô. Nhưng cô hãy nghĩ kỹ, chồng cô có chân trong một đảng phái mà Chủ Tịch Robert đã dòm ngó và nghi kỵ: y không thể trốn tránh đi đâu được. Toàn thể nước Pháp đã trở nên một nhà tù khổng lồ để giam giữ những kẻ tình nghi. Khi về xứ, cô chỉ tự gây nên sự nguy hiểm cho cô thôi. Nói thật, hỡi nữ công dân, cái số phận mà cô muốn chia sẻ với chồng cô, có thể là máy chém. Như cô đã biết, vì tôi đã chuyển giao cho cô bức thư của chồng cô, tôi chỉ nói những điều đó như chồng cô đã nhắn với cô.
      Người đàn bà kia đáp với một nụ cười trên gương mặt nhợt nhạt:
      - Thưa ông, tôi muốn đi cùng với ông về xứ.
      Người khách lạ nói bằng một giọng vừa ngạc nhiên vừa trách móc:
      - Sao lạ vậy? Cô đã bỏ chồng đi ra xứ ngoài trong những ngày Cách Mạng thành công rực rỡ, và nay cô lại muốn trở về với chồng giữa lúc thời cuộc đang trải qua cơn sấm sét bão bùng?
      - Bởi vì lúc Cách Mạng thành công, cha tôi đang lâm nguy và chỉ an toàn tánh mạng bằng cách bỏ chạy ra xứ ngoài. Cha tôi đã già và không có tài sản, và chỉ trông cậy vào một mình tôi. Lúc đó, chồng tôi không bị một nguy cơ hiểm họa nào, còn cha tôi thì rõ ràng là có. Nay cha tôi đã chết, và bây giờ thì đến lượt chồng tôi bị lâm nguy! Tôi đã làm xong bổn phận đối với cha tôi, bây giờ thì tôi phải lo tròn bổn phận làm vợ.
      - Được rồi, hỡi nữ công dân! Trong ba ngày tôi sẽ lên đường. Trong khi chờ đợi, cô được trọn quyền tự do thay đổi ý kiến.
      - Không khi nào!
      Một nụ cười bí hiểm hiện trên môi người khách lạ. Y thốt lên như nói riêng với mình:
      - Cái máy chém thật rùng rợn, nhưng nó cũng đã tạo nên bao tấm gương trung liệt! Thật không phải là vô cớ mà người ta đã gọi nó là "Thánh Mẫu!"
      Người ấy vừa đi vừa lầm bầm nói một mình, gọi một chiếc du thuyền cập bến và trong giây phút đã biến mất dạng trên giòng nước của con Kinh Lớn.

Linh Đông Đến Venise

   Kiều Dung ngồi một mình gần bên cửa sổ nhìn ra ngoài con Kinh Lớn. Những chiếc du thuyền lướt nhẹ trên dòng nước ngang trước mặt tòa lâu đài. Bỗng có một chiếc ngừng lại và từ từ cập vào bờ. Một người khách từ trong thuyền bước ra, đi lên những bậc than tam cấp và bước vào tòa nhà lầu. Một gia nhân bước vào phòng Kiều Dung và đưa cho nàng một tấm danh thiếp của Linh Đông. Kiều Dung rất mừng mà gặp lại người bạn cũ nầy để có thể nói chuyện với y về hạnh phúc của nàng, về Zanoni, và cho y xem đứa con kháu khỉnh của mình!
      Linh Đông bước vào. Nàng giật mình kinh ngạc mà nhìn thấy hình dáng cố nhân hoàn toàn đổi khác, với cái trán sa sầm, nét mặt cương quyết, nhưng có những vết nhăn do sự nghĩ ngợi lo âu, khác hẳn với người nghệ sĩ duyên dáng và vô tư đã có lúc yêu nàng khi xưa. Nàng nói:
      - Anh đây à, Linh Đông? Anh thay đổi nhiều quá!
      Linh Đông ngồi xuống bên cạnh nàng và nói:
      - Thay đổi nhiều! Và tôi phải cám ơn ai đây, nếu không phải những tay phù thủy, những loài quỷ sống đã can thiệp vào cuộc đời cô cũng như cuộc đời tôi? Kiều Dung, hãy nghe tôi nói đây! Cách đây vài tuần, tôi nghe tin cô đang ở Venise. Tôi bèn mạo hiểm vượt qua bao nhiêu nỗi chướng ngại hiểm nguy đi đến đây, để giải bày tâm sự nỗi niềm của tôi, và cũng để cứu cô. Cô nói tôi thay đổi ư! Đó là chỉ nói về hình dạng bên ngoài! Nó không thể so sánh với sự tàn phá bên trong nội tâm! Cô hãy nghe những lời khuyên của tôi trong khi còn kịp thời giờ!
      Giọng nói vang những âm hưởng rùng rợn thâm trầm của Linh Đông còn làm cho Kiều Dung sợ hãi hơn là những lời nói của y. Với gương mặt ngơ ngác, tiều tụy và tái nhợt, y có vẻ giống như một người vừa chui lên từ dưới mồ hoang để làm cho nàng kinh sợ. Sau cùng, nàng nói như nghẹn ngào trong cổ họng:
      - Sao! Anh nói chuyện gì vậy? Anh hãy...
      - Cô hãy nghe đây! - Linh Đông vừa nói vừa đặt nhẹ bàn tay lên vài nàng, và nàng cảm thấy nó giá lạnh như bàn tay của một xác chết - Cô có bao giờ nghe nói về những người kết liên với ma quỷ để có được những sự hiểu biết phi phàm? Những chuyện đó không phải là huyền thoại. Quả thật có những người như vậy. Họ chỉ vui thích nhất khi nào họ lôi cuốn được những người khác cùng nhập bọn với họ. Nếu những người nầy thất bại trong cuộc thử thách, ma quỷ sẽ ám ảnh họ ngay trong cuộc sống hiện tại, cũng như chúng đã ám ảnh tôi. Còn nếu họ thành công, thì thật là một tai họa vì một số phận còn rùng rợn khủng khiếp hơn đang chờ đó họ. Họ phải trải qua một kiếp sống mà không một phù phép nào có thể trừ tà trục quỷ, hay xoa dịu sự cực hình. Tôi đến đây từ một nơi mà máu tuôn như suối chảy, mà sự chết luôn luôn rình rập một bên người lành cũng như kẻ dữ, mà uy quyền độc nhất vô nhị là cái máy chém. Nhưng tất cả những nguy cơ và hiểm họa đó đều không đáng kể so với sự khủng khiếp của gian phòng nầy, là nơi ngự trị của Ma Vương!...
      Kế đó, với một sự chính xác lạnh lùng, đầy đủ chi tiết và có mạch lạc đầu đuôi, Linh Đông thuật lại câu chuyện nhập môn của mình. Y diễn tả hình dáng con [Ma Giữ Cửa] với đôi mắt nhìn rùng rợn làm cho người nghe phải nổi ốc rợn người và lạnh xương sống! Khi người ta đã nhìn thấy nó một lần, người ta không thể xua đuổi nó được nữa. Nó xuất hiện bất cứ lúc nào, gợi cho nạn nhân những ý nghĩ đen tối và sự cám dỗ lạ lùng! Nó chỉ biến mất trong những hoàn cảnh huyên náo ồn ào và kích động thần kinh. Trái lại, trong sự vắng vẻ cô đơn, sự yên lặng tâm hồn, trong sự cố gắng của linh hồn để hướng về đạo đức tâm linh và đạt tới sự bằng an nội tâm, thì luôn luôn tà ma xuất hiện và phá phách.
      Kiều Dung nghe nói mà rợn người: câu chuyện dị kỳ nầy khêu gợi lại nơi nàng những ấn tượng mơ màng mà trong tình yêu nồng thắm, nàng không bao giờ xem xét tỉ mỉ. Những ấn tượng đó làm cho nàng nghĩ rằng cuộc đời của Zanoni không giống như của mọi người thế gian. Tình yêu của nàng cho đến nay vẫn luôn luôn gạt bỏ mọi sự hiềm nghi, và dập tắt mọi ý nghĩ mà nàng cho là bất hảo đối với chồng nàng. Nhưng hôm nay, câu chuyện tường thuật của Linh Đông lại có tác dụng gây cho nàng một cơn sợ sệt truyền nhiễm. Nàng bắt đầu run sợ, nhưng không phải sợ cho nàng. Đột nhiên nàng đưa tay ẵm lấy con và siết chặt nó trong lòng mình.
      Linh Đông kêu lên trong cơn run rẩy:
      - Thật là bất hạnh! Phải chăng cô đã sinh ra một nạn nhân mà cô không thể cứu giúp? Tốt hơn đừng cho nó ăn gì cả, cứ để cho nó chết đói! Trong nấm mồ, ít nhất còn có sự yên nghỉ và sự bằng an!
      Chính khi đó, Kiều Dung mới nhớ lại những đêm mà Zanoni thức luôn không ngủ ở bên cạnh cái nôi, và những nỗi sợ sệt của nàng khi nàng nghe chàng thốt lên những câu với âm thanh lạ lùng bí hiểm có âm điệu nhịp nhàng gần như giọng hát.
      Nhưng lần lần, những kỷ niệm êm đềm và tốt đẹp của dĩ vãng, cũng đã xuất hiện trở lại trong trí của nàng. Nàng nhìn con, và thấy gương mặt nó phảng phất những nét mặt của cha nó. Giọng nói dường như xuất hiện trên đôi môi hồng thắm của nó và nhắn nhủ với nàng một cách buồn rầu:
      - Anh nói qua miệng của con. Đáp lại tình thương của anh đối với mẹ con em, em lại há mất lòng tin nơi anh vì sự tố giác bừa bãi của một thằng điên ư?
      Nàng vươn mình ngồi nhổm dậy, ngẩng mặt nhìn lên, đôi mắt chiếu một ánh sáng trong lành, thánh thiện. Nàng nói với Linh Đông:
      - Thôi, anh hãy đi đi, hỡi nạn nhân những ảo giác của chính mình. Tôi không tin cả những giác quan của chính mình, nếu chúng tố giác người cha của đứa nhỏ nầy. Và anh biết gì về Zanoni? Kiềm Mâu và những hình ảnh ma quái của ông ta có liên hệ gì đến chồng tôi đâu mà anh muốn vơ đũa cả nắm?
   Linh Đông đáp với một giọng buồn thảm:
      - Rồi cô sẽ được biết. Chính con Ma ám ảnh tôi đã nói cho tôi biết rằng nó cũng sẽ phá luôn cả gia đình cô. Tôi không đòi hỏi cô phải trả lời ngay bây giờ. Trước khi tôi rời khỏi Venise, tôi còn trở lại gặp cô lần chót.Nói xong, y bèn kiếu từ và ra đi.

Cơn Khủng Hoảng Lương Tâm

Suốt ngày hôm ấy, Kiều Dung đầu óc rối bời như tơ vò. Bao nhiêu ý nghĩ dồn dập và bao nhiêu điều sợ hãi biến tan đi mất khi nàng tỉnh táo sáng suốt, để rồi trở lại quay cuồng trong trí nàng một cách tối tăm rùng rợn hơn. Nàng nhớ lại, điều nầy trước kia nàng đã nói với Linh Đông, rằng hồi thuở nhỏ nàng luôn luôn có những linh cảm lạ lùng báo trước cho nàng biết rằng nàng sẽ có một định mệnh lạ kỳ. Nàng cũng nhớ rằng khi nàng nói cho Linh Đông biết như thế, thì y cũng nhìn nhận rằng chính y cũng linh cảm tương tự như vậy, và một sự giao cảm huyền bí dường như đã nối liền định mệnh của hai người. Nàng nhớ nhất là khi đem đối chiếu những ý nghĩ rời rạc của họ với nhau, thì linh cảm đó có một ý nghĩa rõ rệt hơn và gây cho họ cái ấn tượng rằng cái định mệnh lạ lùng của hai người đều có liên hệ trực tiếp với Zanoni.
      Và hôm nay, khi Kiều Dung đã gặp lại Linh Đông, thì những điều sợ hãi ám ảnh của thời niên thiếu lại càng thức động trở lại khi vừa được nhắc nhở đến. Những sợ hãi của Linh Đông gây cho nàng một lòng ưu ái, cảm thông mà lý trí và tình yêu của nàng cũng không sao chống lại được. Tuy vậy, khi nàng nhìn con nàng thấy nó vẫn thức, đôi mắt nó nhìn nàng và đôi mắt mấp máy như muốn nói với nàng điều gì. Nó không chịu đi ngủ. Đôi mắt nó thức lao láo, có vẻ nghiêm trang, đượm nét u buồn dường như có vẻ trách móc và tố giác, làm cho nàng cảm thấy lạnh tận trong xương tủy.
      Không thể nào chịu nổi sự đảo lộn tinh thần nó dày vò trong tâm hồn, nàng bèn cho mời vị linh mục mà nàng vẫn thường tiếp xúc và xưng tội ở Venise để thổ lộ tâm sự giữa những cơn khóc lóc thảm thiết và những dấu hiệu của một sự sợ hãi kinh hoàng tột độ. Vị linh mục là người ngoan đạo và sùng tín, những có kiến thức nông cạn và óc xét đoán chật hẹp. Cũng như những người Ý có văn hóa kém và dị đoan ngày nay, ông ta có cái nhìn lệch lạc, và thường coi một người có tư tưởng khác lạ như một nhà phù thủy. Bởi đó ông ta đã khép chặt mọi cánh cửa hy vọng đối với tâm hồn của Kiều Dung. Ông ta cũng đâm ra sợ hãi và thốt ra những lời nghiêm huấn vô cùng chặt chịa. Ông ta hiệp lực với Linh Đông để khuyên nàng bỏ nhà trốn đi, nếu nàng có một mảy may nghi ngờ rằng những hoạt động của chồng nàng giống như của những nhà bác học thời xưa mà Hội Thánh La Mã đã bắt đem thiêu sống trên giàn hỏa dưới tội danh là hành nghề phù thủy. Và một vài chi tiết rời rạc mơ hồ mà Kiều Dung có thể tiết lộ về vấn đề nầy, đã hiện ra trong tầm mắt của ông ta như những bằng chứng không thể chối cãi của khoa Bàn Môn tả đạo. Thật vậy, linh mục Bartolomeo đã có nghe dư luận đồn đãi về Zanoni, và bởi đó ông ta sẵn sàng chấp nhận giả thuyết nầy. Có lẽ ông ta sẽ không ngần ngại mà thiêu sống vị kỹ sư Watt trên giàn hỏa nếu ông ta nghe ông Watt nói về máy chạy bằng hơi nước!
      Nhưng Kiều Dung còn sợ hãi hơn nữa khi vị linh mục nói về những hiểm họa có thể xảy đến không phải cho bản thân nàng, mà cho con nàng. Ông ta nói:
      - Những nhà phù thủy vẫn luôn luôn tìm cách dụ dỗ và quyền rũ những linh hồn trẻ, tức linh hồn của những trẻ thơ.
      Kế đó, ông nêu ra một loạt dài những chuyện ngụ ngôn và huyền thoại mà ông ta bảo đảm như những chuyện có thật. Những điều nầy làm cho nàng, vốn sẵn có ít nhiều óc mê tín dị đoan của người ít học và kém văn hóa, lại càng sợ sệt hơn nữa. Và khi vị linh mục kiếu từ ra về, ông ta còn thốt lên những lời cảnh cáo và tố giác nghiêm trọng rằng nàng đã quên mất bổn phận của người mẹ hiền đối với đứa con thơ nếu nàng còn do dự không chịu từ bỏ ngôi nhà bị ô nhiễm bởi những mãnh lực hắc ám và sự tiếp xúc với ma quỷ.
      Đêm ấy, Kiều Dung trằn trọc thao thức đến khuya. Nàng nằm lăn lộn trên nệm giường, với bao nhiêu ý nghĩ triền miên trong trí nên không sao chợp mắt ngủ được. Lần lần nàng rơi vào trạng thái nửa tỉnh nửa mê, thì thình lình một tư tưởng vừa xuất hiện, dẹp tan cả những ý nghĩ khác! Đó là gian phòng bí mật, mà Zanoni chỉ dành riêng cho chàng, và không ai được bước vào, kể cả Kiều Dung. Từ trước đến nay sống trong cảnh hạnh phúc gia đình đầm ấm, nàng không bao giờ có ý nghĩ tò mò muốn bước vào. Nhưng giờ thì gian phòng ấy có sức lôi cuốn hấp dẫn rất mãnh liệt. Nàng nghĩ rằng bước vào trong gian phòng đó, chắc nàng sẽ có một bằng chứng hay tang vật gì giúp cho nàng tìm ra sự giải đáp cho bài toán bí hiểm, hoặc nó sẽ dẹp tan hay xác nhận những sự nghi nan của nàng bấy lâu. Ý nghĩ ấy càng tăng trưởng dần, và ngự trị trong tâm hồn nàng. Nàng dường như đã sẵn sàng vận dụng ý chí để thực hiện cái ý nghĩ đó.
      Thế rồi, với một ý định cương quyết, và những bước chân bình tĩnh vững chắc, nàng đi xuyên qua các hành lang, và đi thẳng đến gian phòng bí mật. Phòng không có khóa, nàng chỉ đẩy cửa bước vào. Không có một phù phép trấn ếm, hay đạo bùa linh thiêng nào ngăn cản bước chân của nàng! Hỡi người con gái của trần gian đầy cát bụi, nàng đã một mình giữa ban đêm lọt vào gian phòng bí mật nơi đó vô số những Tinh Linh của cõi không gian vô tận đã từng xuất hiện theo lời kêu gọi của người Thuật Sĩ.
      Nàng bước vào phòng và nhìn chung quanh nhưng không thấy dấu hiệu gì chỉ rằng chủ nhân có thể là một nhà phù thủy của phái Bàn Môn. Không có những đồ khí dụng luyện kim như lò chảo, không có những pho sách Huyền Môn đóng bìa da, những dây nịt có khắc phù hiệu bí mật, không có đầu lâu, sọ người. Ánh trăng rọi vào gian phòng trống trơn, chỉ thấy có vài nắm cỏ héo với vài lọ bình cổ bằng đồng, đặt một cách sơ sài trên một chiếc ghế dài bằng gỗ.
      Nhưng trong sự vắng lặng của gian phòng nầy, phải chăng vẫn còn phảng phất cái ảnh hưởng của bầu không khí linh thiêng mà chủ nhân của nó đã tạo ra do bởi sự tiếp xúc thường xuyên với các vì khuất mặt và các thần linh trong cõi vô hình? Chắc hẳn là có như vậy, vì sau một lúc, Kiều Dung nhận thấy một sự thay đổi bí mật đang diễn ra trong người nàng. Tim nàng đập mạnh hơn và máu chạy đều trong huyết quản gây cho nàng một cảm giác thoải mái dễ chịu. Nàng cảm thấy đi đứng nhẹ nhàng dường như lướt nhẹ trong không khí, và tầm mắt của nàng rộng mở thênh thang, nhìn thấu suốt mọi nơi không chướng ngại. Dường như nàng đang sống trong một bầu không khí tâm linh đặc biệt xuyên qua đó linh hồn nàng có thể thoát ra khỏi cái thể xác ngục tù bằng cát bụi và giao cảm với thần linh.
      Nàng bước tới chiếc "băng" gỗ, trên đó có bày những chiếc bình cổ và những nắm dược thảo đã héo, và khi nàng nhìn xuống, nàng thấy trong một bình có để một lọ nhỏ bằng thủy tinh.
      Nàng thò tay cầm lấy cái lọ một cách vô tâm thì thấy chất dược thủy trong lọ chiếu hào quang sáng rực. Nàng mở nút ra, chất hơi trong lọ thủy tinh thoát ra ngoài chiếu lấp lánh trong không khí như muôn nghìn mảnh hột kim cương tán nhuyễn, và tỏa khắp phòng một mùi hương thơm tho ngào ngạt. Nàng đưa lọ thủy tinh lên mũi hít một hơi, lấy ngón tay thấm chất nước thơm tho thoa lên hai màn tang. Bỗng nhiên nàng cảm thấy một nguồn sinh lực dồi dào vận chuyển trong châu thân, làm cho nàng có một sức sống mãnh liệt phi thường.
      Do khiếu linh thị thình lình khai mở dưới ảnh hưởng kích thích của chất Kim Đơn thần dược, nàng không còn thấy rõ ràng sự vật ở chung quanh.
      Thế rồi, nàng từ từ đứng dậy, rời khỏi gian phòng, đi qua hành lang và trở về phòng mình. Nàng bước lại gần cái nôi và nhìn con, đứa con đẹp đẽ ngây thơ với đôi mắt trong sáng, thông minh vẫn còn thức và mở thao láo. Nhưng gần bên cái nôi, nàng thấy một đen ngòm, hình dáng mờ mờ nhân ảnh không thấy rõ ràng, dường như bao phủ dưới một bức màn đen. Nó lại càng có vẻ rùng rợn đáng sợ hơn vì nó không phải là một vật có sắc tướng hình hài cụ thể mà dường như một cái bóng ma! Lúc ấy, những vách tường của gian phòng dường như mở rộng ra như một cảnh trên sân khấu... Nàng thấy hiện ra trong cơn linh ảnh một nhà ngục tối tăm u ám, rồi một đám đông nghẹt những người chen chúc nhau trên các đường phố, nét mặt tái nhợt, và co quắp trong cơn thù hận, căm hờn, tràn đầy sát khí, coi như một đám quỷ sống hiện hình, một chốn pháp trường, một cái máy chém, một đống thây người vấy máu chồng chất cao như núi, trong đó có cả chính nàng, và con nàng,... tất cả những hình ảnh đó nối tiếp nhau diễn ra như một cuốn phim. Thình lình nàng thấy trong đám đông có Zanoni, chàng có vẻ như nhìn thấy nàng và vội vã chạy về phía nàng. Nàng không chịu nổi nữa, bèn hét lên một tiếng thất thanh và chợt tỉnh. Bên cạnh nàng vẫn là cái nôi và đứa con nàng đã nằm ngủ yên. Tất cả những gì xuất hiện trong cơn linh thị vừa rồi đã biến mất, kể cả cái bóng Ma rùng rợn đen ngòm! Nàng bất giác thốt lên:
      - Con hỡi! Con của mẹ! Dầu sao mẹ cũng phải cứu con!

Thư Của Kiều Dung Gửi Zanoni

  "Sự việc đã diễn biến cách nào mà, giữa đôi ta, chính em lại là người nói chuyện ra đi trước nhất. Chính em, mà chắc anh sẽ cho là không chung thủy, em xin gửi lời vĩnh biệt anh từ đây! Khi mà anh đọc những giòng chữ nầy, thì đối với anh, em đã là người của dĩ vãng. Hỡi anh yêu dấu, hỡi người chồng yêu quý của em! Nếu anh đã yêu em, và có thể còn thương hại em, thì xin anh đừng tìm kiếm em làm gì. Nếu những phép thuật của anh có thể giúp anh tìm được em, xin anh hãy nương tay, tha cho em, và tha cho con của chúng ta! Hỡi Zanoni, em muốn nuôi dưỡng nó để cho nó có thể thương anh và gọi anh bằng cha. Đôi môi tươi trẻ của nó sẽ cầu nguyện cho anh! Hãy tha cho con em, vì trẻ con là á thánh trên cõi trần gian nầy, và sự thỉnh nguyện của chúng có thể cảm thông tới trời.
      Em có nên nói cho anh biết tại sao em ra đi chăng? Không. Anh vốn có đủ minh triết sáng suốt, anh có thể đoán biết những gì mà bàn tay em run rẩy không viết được nên lời. Và mặc dầu em rùng mình e ngại trước quyền năng của anh, em vẫn còn được an tâm mà nghĩ rằng với quyền năng đó anh có thể thấu hiểu cõi lòng em! Anh biết rằng em viết cho anh trong tư cách của một người mẹ hết lòng vì con, chứ không phải với tư cách một người vợ... Có lẽ, hỡi Zanoni, khoa pháp môn của anh có bị ô nhiễm vì tội lỗi? Tội lỗi gây nên sự hối hận, và nếu chỉ có em với anh, thì hỡi ôi! Thật là êm đẹp xiết bao nếu em có thể là nguồn an ủi của anh. Nhưng còn con, đứa con của chúng ta! Linh hồn trẻ đang núp bóng sau lưng em! Hỡi thuật sĩ, em xin mạn phép giành lấy nó trong tay anh! Em xin lỗi anh nếu những lời nầy có vẻ bất công đối với anh. Anh hãy xem, em xin quỳ gối để viết tiếp đoạn còn lại!
      Tại sao em không bị sợ hãi sớm hơn về khoa pháp môn bí mật của anh? Tại sao cuộc đời kì dị của anh không làm em sợ sệt mà còn thích thú? Bởi vì, dầu cho anh là nhà phù thủy hay Bàn Môn tả đạo, mối nguy cơ cũng chỉ có ảnh hưởng đến một mình em thôi. Nhưng bây giờ, thì còn có một mối nguy cơ khác. Anh hãy xem tại sao nó lại nhìn em như vậy? Tại sao đôi mắt nó cứ luôn luôn mở thao láo, luôn luôn nghiêm nghị và đầy vẻ trách móc? Những phù phép trấn ếm của anh đã bao phủ chung quanh nó rồi chăng? Hỡi người thuật sĩ tàn ác, phải chăng anh đã lôi cuốn cho nó tham dự vào những điều rùng rợn của phép thuật hắc ám của anh? Thôi, anh đừng làm cho em phát điên lên đây! Xin anh hãy chấm dứt những phù phép đó ngay đi cho! Anh hãy nghe kia tiếng mái chèo ở ngoài sông... Đó là những mái chèo sẽ đưa em đi xa khỏi nhà anh! Em nhìn chung quanh, và dường như em còn nhìn thấy hình ảnh của anh ở khắp nơi trong nhà nầy. Bao nhiêu kỷ niệm êm đềm của cuộc sống hạnh phúc giữa đôi ta hãy còn đây. Nhưng em chỉ nhớ nhất là trong những giờ phút đau đớn khi lâm bồn, giọng nói dịu dàng ưu ái của anh trấn tĩnh tâm hồn em. Khi đó, xuyên qua bóng tối em nghe anh thì thầm lần đầu tiên bên tai em: Hỡi Kiều Dung, em đã là mẹ!... Là mẹ, phải đấy, em đã là mẹ một đứa con! À! Thuyền đã cập bến kia rồi, em đã quyết định... Xin vĩnh biệt, chào anh!"
      Thế là Kiều Dung, người mà Zanoni đã yêu với một mối tình sâu xa nồng thắm, vì nàng mà Zanoni đã chịu hy sinh bao nhiêu quyền năng và bản lĩnh, đã từ bỏ chàng. Nàng từ bỏ chàng một cách đột ngột, tàn nhẫn, do bởi một sự mê tín dị đoan mù quáng và lạc lõng, hoặc do bởi sự thúc đẩy của bổn phận làm mẹ. Sự từ bỏ hoàn toàn bất ngờ nầy chỉ là sự thực hiện cái định mệnh nó chờ đợi những người nào tìm cách nâng cao thần trí của mình vượt lên khỏi mức độ trần gian, nhưng đồng thời lại vẫn còn bị trói buộc với thế gian bởi liên hệ tình cảm.
      Sự thất học, dốt nát, vẫn sẽ luôn luôn thối lui trước sự hiểu biết và kiến thức sâu rộng! Nhưng chưa hề có tình yêu nào được biểu lộ với một tấm lòng vô kỷ vị tha, và một tinh thần hy sinh cao quý, thuần khiết hơn là ở người đàn bà nầy. Vì nàng đã nói rất đúng: không phải là một người vợ phản bội, mà chính là người mẹ vì bổn phận mình mà phải tự tách rời ra khỏi tất cả những gì là hạnh phúc của nàng ở thế gian.
      Tình mẫu tử thiêng liêng đã làm cho nàng có cái quyết định đó, nàng bèn ôm chặt lấy đứa con vào lòng và cảm thấy một niềm an ủi và an phận. Nhưng đồng thời nàng lại cũng bị dày vò bởi những nỗi hoài nghi và hối hận cay đắng về thái độ của mình. Đó là lúc ở trạm nghỉ dọc đường trên đường đi Livourne, nàng nghe một người đàn bà cùng đi trên một chuyến tàu, cầu nguyện Thiêng Liêng phù hộ cho được gặp lại chồng bà và cho bà có đủ sức mạnh tinh thần để chia sẻ hoạn nạn với chồng bà trong cơn nguy hiểm. Thật là một sự trái ngược kinh khủng với sự bỏ phế gia đình của nàng! Kiều Dung lại rơi vào trạng thái tối tăm u ám của cõi lòng mình, và kể từ lúc đó, không một tiếng nói lương tri nào có thể an ủi nàng được nữa.
Chương 10
Chủ Tịch Robert
Là năm 1794. Cuộc Cách Mạng Pháp đã kéo dài trên năm năm, và đang bước vào giai đoạn đẫm máu đến cực điểm. Người ta gọi giai đoạn đó là Thời Đại Khủng Bố mà người lãnh đạo là một nhà Cách Mạng đa sát có cái tên là Robert (Robespierre), Chủ Tịch Ủy Ban Cách Mạng Trung Ương và Chủ Tịch Chánh Phủ Cộng Hòa lâm thời.
      Năm 1794 cũng là năm vừa chấm dứt cuộc tranh chấp quyền hành và xung đột ảnh hưởng giữa con trăn và con sư tử. Con trăn Robert đã thắng đoạt và giết chết con sư tử (Danton). Danton đã ngã gục giữa pháp trường cùng một lượt với Mậu Linh, một nhà cách mạng ái quốc chân chính, chủ trương ôn hòa và ngã về phe Danton. Kể từ khi đó, những vụ tàn sát các nhà cách mạng đối lập đã làm lu mờ sự phán đoán sáng suốt của Robert.
      Sau vụ thanh toán đẫm máu cuối cùng nầy, có lẽ là cần thiết cho sự an toàn của ông ta, nếu Robert chấm dứt ngay Triều Đại Khủng Bố, và áp dụng chánh sách rộng rãi khoan dung như Danton vẫn hô hào đề xướng, thì có lẽ y đã được suy tôn như một người anh hùng của dân tộc. Nhưng những đề lao và khám tối vẫn tiếp tục chứa thêm người cho đến đầy tràn, quân đao phủ và máy chém vẫn tiếp tục hoạt động ngày đêm. Robert không nhận thấy rằng dân chúng đã chán ngấy đến lợm giọng những vụ sát phạt lưu huyết và đang cần có sự tái lập lại cuộc sống bình thường.
      Chủ Tịch Robert làm việc trong một văn phòng đặt tai nhà của công dân Dupleix, người nầy vốn xuất thân làm nghề thợ mộc (Phủ Chủ Tịch đặt tai nhà riêng của một người thuộc giai cấp thợ thuyền là ngụ ý cải cách chế độ quan liêu phong kiến của nền quân chủ đã sụp đổ.
      Robert ngồi trên một chiếc ghế bành, lưng thẳng, trước một cái bàn giấy rộng lớn chứa đầy những văn thư. Đầu chải bóng, tóc hơi quăn nhưng rất ngay hàng và chăm sóc rất kỹ, vị Chủ Tịch Cách Mạng Pháp mặc trang phục chải chuốt với một áo ngoài bằng nỉ xanh, một áo lót trắng tinh cổ lật bằng sa tanh màu hường. Cái trán hơi thấp nhưng rộng và thông minh, đôi môi mím chặt với một vẻ cương quyết, nhưng đôi khi hơi run. Đôi mắt sâu sắc, thần mắt dữ, cái nhìn như soi thấu tâm can người đối thoại, lại không phù hạp với một khổ người mảnh khảnh và một nước da tái nhợt nó biểu lộ một sự lo nghĩ và một sức khỏe kém.
      Văn Phòng Chủ Tịch đặt trên lầu của tiệm thợ mộc nói trên chính là nơi xuất phát ra những quyết nghị tiến binh để cho những đạo binh Cách Mạng ra quân nơi chiến trường. Đó cũng là nơi ra nghị định cho các nhà thầu xây cất một ống cống nhân tạo để dẫn những dòng suối máu người từ những cái máy chém cho chảy thông ra sông và khỏi bị ứ đọng dưới những cống rãnh trong thủ đô của một dân tộc hiếu sát nhất thế giới!
      Trên đây là một vài nét phác họa sơ lược bản chất của một người có tâm trạng rất mâu thuẫn mà cuộc đời thực tế lại hoàn toàn trái ngược hẳn với những ý tưởng của ông ta lúc thiếu thời.
      Tham vọng đầu tiên của ông ta là nắm giữ một chức vị thẩm phán trong ngành tư pháp, nhưng về sau ông ta đã từ chối kh6ng nhận lãnh chức vị quan tòa để khỏi phải hành động trái ngược với những lý tưởng từ ái, nhân đạo của mình, nếu ông ta phải lên án xử tội tử hình một người đồng loại! Với cái lý tưởng nhân đạo đó khi còn trẻ, ông ta đã từng nhiệt liệt chủ trương hủy bỏ án tử hình, nhưng bây giờ thì ác liệt thay, ông ta lại đang đóng vai trò một lãnh tụ độc tài khát máu nhất thế giới! Ngoài ra điểm mâu thuẩn kể trên, thì Chủ Tịch Robert là người rất mực thanh liêm, ngay chính, có tâm hồn khiết bạch, khắc khổ và khinh bỉ mọi sự thái quá, kể cả trong vấn đề tình ái cũng như rượu chè. Với những nết hạnh đó, nếu ông ta chỉ chết sớm hơn độ năm năm thôi, thì ông ta đã có thể làm mẫu mực cho những người trong dân gian lấy đó làm gương hoặc chỉ dạy cho con em của họ noi theo.
      Chủ Tịch Robert đang cầm lấy một quyển sách để trên bàn và chăm chú đọc, thì một người cận vệ lực lưỡng tay cầm gậy lớn với hai khẩu súng ngắn giắt lưng vừa mở cửa bước vào báo tin có hai người khách đến viếng.
      Người khách đầu tiên hãy còn trẻ, nhưng có vẻ mặt cương nghị và quyết đoán. Y bước vào và nhìn thấy quyển sách trong tay Robert, y nói:
      - À! Héloise của Lư Thoa! Một truyện tình cảm!
      - Hỡi đồng chí Bá Văn! Điều làm tôi thích thú không phải là truyện tình cảm, mà là phần triết lý trong sách nầy. Bao nhiêu là tư tưởng dồi dào phong phú, và một lòng nhiệt thành đề cao đức hạnh! A! Nếu Lư Thoa có thể sống tới bây giờ để nhìn thấy có ngày hôm nay!
      Trong khi nhà độc tài còn đang bình phẩm tác giả Lư Thoa, là vị triết gia mà ông ta thường bắt chước tư tưởng để soạn những bài diễn văn của mình, thì người ta đưa vào người khách thứ nhì ngồi trên một chiếc xe lăn. Người nầy trạc độ tứ tuần, và bị liệt cả hai chân. Tuy bị tàn phế hết nửa thân mình, nhưng ông ta lại là một bàn tay đẫm máu, đã từng bày mưu thanh toán nhiều nhân vật quan trọng. Nhưng trên cặp môi ông ta lại xuất hiện một nụ cười êm ái dịu dàng nhất thế gian, và trên gương mặt ông ta phảng phất nhưng nét thanh tao mỹ lện như cái đẹp của Thiên Thần! Bằng một giọng nói êm ái, trong trẻo và du dương, đồng chí cố vấn Cửu Thông mở lời chào vị Chủ Tịch Robert:
      - Đừng nói không phải tình yêu làm cho anh thích thú, đó chính là tình yêu! Nhưng đây không phải là thứ tình yêu nhục dục tầm thường, mà là tình yêu thương rộng rãi bao la đối với nhân loại và tất cả chúng sinh muôn loài.
      Cửu Thông vừa nói vừa vuốt ve con chó nhỏ lông xù mà y luôn luôn đem theo trên chiếc xe lăn, dẫu trong khi họp ở Quốc Hội. Chủ Tịch Robert nói với một giọng xúc cảm:
      - Phải, tình yêu đối với tất cả muôn loài. Hỡi Cửu Thông! A! Loài người thật là hung dữ! Họ vu khống chúng ta! Họ tố giác chúng ta nhúng tay vào máu của những bạn đồng nghiệp! Đó mới là chuyện đau lòng! Thanh toán những kẻ thù của quốc gia dân tộc, đó là một điều cao quý, nhưng khủng bố đàn áp những người tốt, những công dân yêu nước, những người mà ta mến yêu, đó là điều độc ác nhất trong những việc làm đen tối của con người, ít nhất đối với một quả tim chánh trực và nhạy cảm.
      Cửu Thông nói:
      - Đó là lời nói chí lý! Tôi thích nghe anh nói như vậy!
Bá Văn có vẻ sốt ruột, nói:
      - Thôi! Nói chi những chuyện dông dài. Chúng ta hãy bàn việc nước đi thôi!
      Chủ Tịch Robert vừa phóng một tia sáng rùng rợn trong cặp mắt đỏ ngầu như máu, vừa nói:
      - Phải đấy, ta hãy bàn việc nước.
      Bá Văn nói:
      - Nay đã đến lúc mà lẽ sống còn của nền Cộng Hòa đòi hỏi một sự tập trung mọi quyền hành trong tay. Những tay bạo động trong Ủy Ban Cứu Quốc chỉ biết làm có một việc, là: phá hoại. Họ hoàn toàn bất lực khi nói đến vấn đề xây dựng. Họ đã thù ghét anh, hỡi đồng chí Chủ Tịch, kể từ khi mà anh muốn thay thế chế độ vô quân bằng những thể chế hiến định. Họ nhạo báng cả cuộc Lễ tuyên bố thừa nhận một Đấng Tối Cao! Họ không muốn có ai làm chủ, dẫu rằng ở trên trời! Với khối óc thông minh sáng suốt của anh, anh cũng hiểu rằng chế độ cũ đã sụp đổ, thì ta cần phải xây dựng nên một chế độ mới. Bước đầu tiên đi đến xây dựng, phải là thủ tiêu những kẻ phá hoại. Trong khi chúng ta thảo luận, thì kẻ thù của anh ra tay hành động. Tốt hơn ta nên hạ thủ ngay đêm nay để tóm trọn tiểu đội Cảnh Sát bảo vệ chúng, hơn là đợi đến ngày mai để phải đương đầu với những trung đoàn quân chánh quy mà chúng có thể huy động.
      Robert không bằng lòng đề nghị của Bá Văn, bèn đáp:
      - Không! Tôi có một kế hoạch tốt và chắc chắn hơn. Hôm nay là mồng sáu, đến ngày mồng mười, toàn thể nhân viên Quốc Hội sẽ đến dự cuộc Đại Lễ thập niên. Ngày đó sẽ có một cuộc tập hợp quần chúng đông đảo: Những sinh viên trường Pháo Binh, quân đội Bảo An của tướng Hăng Ri, sinh viên sĩ quan bộ binh cũng sẽ trà trộn với dân chúng. Chừng đó, chúng ta sẽ thủ tiêu những kẻ âm mưu tạo loạn mà những nhân viên mật vụ đã được điềm chỉ cho biết trước. Ngày đó, Phúc Khuê và Duy Mật cũng sẽ không ngồi yên, và lưới luật pháp sẽ tóm luôn một số người tình nghi nữa để duy trì uy lực và niềm hứng khởi Cách Mạng. Ngày mồng mười sẽ là ngày đại nhật để chúng ta ra tay hành động. Bá Văn, anh đã lập xong bản danh sách những kẻ tình nghi chưa?
      Bá Văn vừa đưa ra một tờ giấy vừa nói:
      - Đây rồi!
      Chủ Tịch Robert đưa mắt liếc nhanh qua một lượt:
      - Đê Boa! Được! Ba Rê! Tốt lắm! Chính Ba Rê đã nói: Ta hãy hạ thủ! Chỉ có những kẻ chết là không còn trở lại!" Vát Đê! Được! Tên Vát Đê nầy là tay lãnh tụ miền núi. Nó dám gọi tôi là Mahomet, thằng xúc phạm, thằng báng bổ thần thánh!
      Cửu Thông vừa vuốt ve con chó xù vừa nói:
      - Thì Mahomet sẽ đi lên miền núi.
      - Nhưng nầy! Tôi không thấy có tên Tạ Liên! Tạ Liên đâu? Tôi không ưa người nầy. Trong cả Quốc Hội không có người nào làm cho tôi e ngại bằng tên Tạ Liên nầy. Anh Cửu Thông, anh nghĩ sao? Theo tôi thì Tạ Liên còn nguy hiểm gấp ngàn lần Danton!
      Bá Văn vốn là người khôn ngoan mềm dẻo trong mọi việc, thậm chí trong cả việc giết người, bèn nói:
      - Tạ Liên là khối óc duy nhất chỉ huy nhóm đối lập hiện nay. Tốt hơn là hãy tạm thời nhân nhượng và mua chuộc y trong lúc nầy, để rồi sẽ thanh toán y dễ dàng hơn khi y đã bị cô lập. Như vậy có phải là hay hơn chăng? Có thể rằng Tạ Liên không ưa anh, nhưng có một vật mà y rất thích, đó là tiền!
      - Không! - Robert vừa nói vừa viết tên Tạ Liên một cách chậm rãi và rõ ràng từng nét trên bản danh sách - Các anh hãy cho tôi xin cái đầu nầy!
Cửu Thông nói bằng một giọng rất êm ái:
      - Tôi cũng có một bản danh sách nhỏ nầy đây, rất nhỏ thôi! Các anh lo toan về các lãnh tụ miền núi, nhưng ta cũng phải làm một vài "cú" ờ miền đồng bằng chứ! Những thành phần ôn hòa cũng giống như những cọng rơm, chúng hay ngã theo chiều gió. Mới hôm qua đây, chúng vừa chống lại chúng ta tại Quốc Hội. Một vài hành động khủng bố sẽ làm cho họ thay đổi lập trường. Tôi không thù ghét gì họ, nhưng phải đặt Tổ Quốc trên hết.
      Cái nhìn rùng rợn của Robert lướt mau trên tờ giấy nhỏ xíu mà Cửu Thông vừa đưa ra.
      - À! Khéo lựa chọn đây! Những thành phần không quá nổi bật để có thể gây sự hối tiếc và xúc động. Đó là chánh sách tốt nhất đối với những nạn nhân của đảng ta. Có cả vài người ngoại quốc nữa... Được! Những người nầy không có bà con gì ở Ba Lê. Chứ nếu có, thì những phụ nữ và thân quyến của họ sẽ khiếu nại ầm lên! Những tiếng khóc than tru tréo của họ sẽ làm cho cái máy chém cũng phải xuống tinh thần!
      Bá Văn nói:
      - Cửu Thông có lý. Bản danh sách của tôi nêu tên những người mà ta sẽ thủ tiêu tập thể một cách chắc chắn hơn trong đám đông tề tựu đến dự cuộc Lễ. Còn bản danh sách của y chọn lựa những người mà chúng ta có thể đưa ra pháp luật một cách an toàn không e ngại. Đồng chí không ký bản danh sách đó ngay bây giờ sao?
      Chủ Tịch Robert vừa đặt cây bút lên giá một cách trịnh trọng vừa nói:
      - Tôi đã ký rồi. Bây giờ chúng ta hãy xét qua những vấn đề quan trọng hơn. Những án tử hình nầy sẽ không gây một cơn xúc động nào, nhưng còn Đê Boa, Buốc Đông và Tạ Liên, họ là những lãnh tụ các đảng phái. Đây là một vấn đề sống chết đối với chúng ta, cũng như đối với họ.
      Bá Văn nói thấp giọng:
      - Thủ cấp của những người nầy tức là những nấc thang để cho anh bước lên đài danh vọng. Không có một hiểm nguy nào xảy đến nếu chúng ta hành động mạnh bạo. Các vị quan tòa và nhân chứng đều do phe ta chọn lựa. Một tay, anh nắm vững quân đội, tay kia, anh nắm luật pháp. Tiếng nói của anh vẫn còn đầy đủ uy lực trong dân chúng.
      Chủ Tịch Robert còn đang suy gẫm, thì Bá Văn đã nói tiếp:
      - Và dẫu cho kế hoạch của ta trong buổi Lễ bị thất bại, ta cũng còn những lực lượng hùng hậu để bày kế khác. Đại tướng Hăng Ri, chỉ huy quân đoàn phòng vệ thủ đô Ba Lê, sẽ cung cấp quân lính cho anh thi hành những vụ bắt bớ. Đảng Jacobins sẽ chuẩn bị dân chúng để hoan hô hành động của anh. Chánh Án Duy Mật sẽ chọn những vị thẩm phán không bao giờ biết dung thứ một tội nhân nào. Chúng ta chỉ cần hành động táo bạo!
      - Phải hành động táo bạo! - Chủ Tịch Robert vừa nói lớn với một sự cảm hứng đột ngột, vừa nện quả đấm xuống bàn và đứng dậy, tóc dựng ngược, cũng như con rắn sắp sửa chụp lấy mồi. - Chúng ta không thể dung túng những kẻ tham lam và tội lỗi trong hàng ngũ của những người cách mạng chân chính. Quái gở thật! Họ muốn cùng nhau chia sẻ quốc gia như một chiến lợi phẩm! Chính những người ấy (y nắm chặt trong tay bản danh sách của Bá Văn) chính họ, chứ không phải chúng ta, đã vạch một đường chia rẽ cách biệt với những người thật sự thương yêu nước Pháp.
      Bá Văn thì thầm:
      - Phải đó, chúng ta phải nắm trọn chính quyền. Nói cách khác, quốc gia cần có một ý chí duy nhất.
      Robert nói tiếp:
      - Tôi sẽ đến dự Quốc Hội. Từ lâu nay tôi đã vắng mặt không đến họp vì e người ta hiểu rằng tôi muốn khống chế cả Quốc Hội sau khi đã sáng lập nền Cộng Hòa. Nay thì không cần phải giữ ý như thế nữa, tôi muốn chuẩn bị quần chúng! Tôi muốn đập tan những kẻ phản bội!
      Y nói với một giọng rắn rỏi của nhà hùng biện chưa hề biết thất bại, và với một quyết định tinh thần của người chiến sĩ xung trận sắp đánh chiếm một pháo đài. Ngay lúc đó, y ngừng lại, vì người cận vệ đem vào một bức thơ. Y mở ra xem, gương mặt sa sầm và tứ chi run rẩy... Đó là một bức thơ nặc danh, lời lẽ hăm dọa như sau:
  "Mi đã nhúng tay vào máu của những người bị hàm oan, hãy xem bản án của mi đây! Ta đợi đến ngày giờ mà dân chúng sẽ đưa mi ra trước tòa án để cho mi đền tội. Nếu hy vọng ấy chưa được thực hiện nay, mà phải chờ đợi quá lâu, thì đây, mi hãy đọc và nghe cho rõ:
      Bàn tay nầy, mà mi đang tìm biết xem của ai, sẽ đâm thủng quả tim của mi. Ta nhìn thấy mi mỗi ngày, hằng ngày ta vẫn sống bên cạnh mi. Bất cứ giờ phút nào, tánh mạng mi cũng nằm trong tay ta. Đồ khốn kiếp! Mi hãy sống thêm ít lâu nữa, nhưng chỉ vài ngày ngắn ngủi nữa thôi. Mi sẽ phải nghĩ đến ta và lo sợ ngày đêm. Hãy cầu nguyện cho linh hồn mi trước khi đền tội."
      Nhà độc tài nói với một giọng trống rỗng, bàn tay run rẩy làm rơi bức thơ xuống đất:
      - Bản danh sách đó chưa đủ dài. Đưa đây tôi xem lại! Hãy tìm thêm những kẻ tình nghi nữa. Hãy kiếm thêm! Ba Rê nói có lý! Phải, y rất có lý! Ta hãy hạ thủ! Chỉ có những người chết mới không còn trở lại!

Sự Phản Bội

Trong khi Chủ Tịch Robert còn đang bận rộn với những kế hoạch và sự lo âu đó, thì cái hiểm họa chung, sự thù hận chung của tất cả những phe phái cách mạng riêng rẽ đối với sự cai trị độc tài đẫm máu của y, đã làm cho họ kết hợp lại với nhau thành một khối. Thật vậy, một cuộc liên minh thật sự đã được tổ chức chống lại y, do âm mưu của những lãnh tụ cách mạng khác cũng đa sát và đẫm máu như y vậy. Thiên Thời và Nhân Hòa là hai yếu tố phá hoại ngày càng siết chặt gọng kềm thù nghịch chung quanh y. Xét về khía cạnh Thiên Thời, thì y không còn thích hợp với thời cuộc nữa. Về khía cạnh thứ hai, y đã mất hẳn yếu tố Nhân Hòa bởi y đã tỏ ra khinh miệt lòng dân và gây thù chuốc oán khắp trong mọi giới cũng như trong các đảng phái đối lập. Đảng phái ghê gớm nhất trong cuộc Cách Mạng do lãnh tụ Hê Be cầm đầu, nổi tiếng là tàn bạo và vô thần, cũng đã đồng loạt trở mũi súng chống lại y sau khi Hê Be bị hành quyết.
      Trong số những người đã theo chủ thuyết vô thần của Hê Be và bây giờ đang lo sợ phải chịu cùng chung số phận với vị lãnh tụ nầy, có nhà họa sĩ My Cốt. Bất bình và thất vọng vì sự nghiệp cách mạng của y đã tan tành ra mây khói vì cái chết của quan thầy y, và thấy rằng giữa hồi Cách Mạng đang thành công rực rỡ, với sự đóng góp bao nhiêu công lao khó nhọc của chính mình, nay y lại phải sống ẩn núp trốn tránh trong những hầm rượu, nghèo túng, tối tăm và nheo nhóc khốn khổ hơn bao giờ hết, thậm chí cũng không dám công khai hành nghề của mình, và ngày đêm lo sợ bị tóm cổ đem ra pháp trường xử trảm, nên dĩ nhiên là y đã trở thành một trong những kẻ thù bất cộng đái thiên với Chủ Tịch Robert và chánh phủ Cách Mạng.
      Y thường có những cuộc hội họp kín với Đê Boa, người nầy cũng chia sẻ quan niệm với y, y đã viết hịch và truyền đơn đem phân phát các nơi, và đi tuyên truyền trong dân chúng để chuẩn bị cuộc nổi dậy chống nhà độc tài khát máu. Tuy nhiên, thế lực của Chủ Tịch Robert vẫn còn khá mạnh và vững chắc, và cuộc âm mưu chống đối vẫn còn e dè, do dự, đến nỗi My Cốt cũng như nhiều người khác, đã hy vọng nơi mũi dao găm của kẻ ám sát hơn là sự nổi dậy của quần chúng. Nhưng My Cốt, tuy không hẳn là một kẻ hèn nhát, lại không thích cái viễn ảnh của một sự hy sinh. Y cũng có đủ lý trí sáng suốt để hiểu rằng nếu tất cả các đảng phái đều sẵn sàng hoan hô vụ ám sát, thì chắc họ cũng sẵn sàng đồng ý chặt đầu tên thích khách! Y không có đức hy sinh và can đảm cần thiết để trở nên một Brutus. Mục đích của y là gây nguồn cảm hứng cho một Brutus để làm công việc đó thế cho y, và giữa một quần chúng đang sôi sục nẩy lửa như dân Ba Lê thời ấy, thì cái hy vọng đó không phải là không có căn cứ.
      Trong số những người tỏ ra thù nghịch một cách công khai nhất và cương quyết nhất đối với chế độ sắt máu nầy, trong số những người tỏ ra thất vọng nhất, kinh ngạc nhất về những hành động tàn ác quá trớn của Cách Mạng Pháp, có một người Ăng Lê tên Linh Đông. Trước đó, Linh Đông đã có ủng hộ lập trường ôn hòa và khoan dung của Mậu Linh, và sau khi nhà lãnh tụ cách mạng nầy bị Robert đưa lên máy chém thì Linh Đông sợ bị liên lụy đến mình, bèn tìm cơ hội thoát thân. Nhưng ngoài ra bản thân y, Linh Đông còn phải lo cho hai mạng sống khác nữa, và chính vì lo sợ cho hai người nầy mà y phải đặt kế hoạch đào tẩu ra khỏi xứ Pháp một cách an toàn. Tuy y không ưa những lập trường, chánh kiến và thói xấu của My Cốt, y vẫn giúp đỡ người họa sĩ nầy những phương tiện sinh sống trong cơn túng ngặt, và để đáp lại tấm thịnh tình đó, My Cốt bèn phác họa trong trí cái kế hoạch đưa Linh Đông lên cái vai trò thiêng liêng bất tử của một Brutus, vai trò mà y đã từ chối một cách khiêm tốn cho riêng mình.
      Đúng vào ngày giờ mà Chủ Tịch Robert thảo luận với các cố vấn của y như chúng ta đã thấy trước đây, thì trong một gian phòng nhỏ cạnh bên đường Thánh Honoré, có hai người đang nói chuyện với nhau: một người đàn ông đang ngồi nghe một cách nhẫn nại và an phận, với một người đàn bà trẻ đẹp một cách khác thường, nhưng gương mặt biểu lộ những nét mạnh bạo, cương quyết. Trong khi nàng nói chuyện thì những nét mặt vô cùng linh động biểu lộ một tánh chất man dại hung hăng như sát khí của rừng thiêng. Nàng nói:
      - Anh hãy coi chừng! Anh biết rằng trong cuộc trốn chạy hay trong cơn nguy hiểm, em sẽ đường đầu với tất cả mọi sự để có mặt ở một bên anh. Anh biết rõ chứ, vậy anh hãy nói đi!
      - Hỡi Phi Lịch, anh có bao giờ nghi ngờ lòng chung thủy của em đâu?
      - Lòng chung thủy của em, anh không thể nghi ngờ, nhưng anh có thể phản bội! Anh nói rằng trong khi chạy trốn, anh phải đem theo một người nữa ngoài ra em, và người đó là một người đàn bà. Cái đó không được đâu.
      - Không được à?
      - Không được!
      Phi Lịch vừa lập lại câu đó một cách quyết liệt vừa khoanh hai tay trước ngực. Nhưng Linh Đông chưa kịp đáp, thì có tiếng gõ cửa, và My Cốt thò tay rút then cửa rồi bước vào. Phi Lịch để rơi mình ngồi phịch xuống ghế bành và hai tay ôm lấy đầu, nàng có vẻ thản nhiên với người mới đến và không chú ý gì đến câu chuyện giữa hai người.
      My Cốt bước vào trong bộ y phục của người bình dân, một cái nón rách đội trên đầu, hai tay thọc vào túi và một bộ râu dê mọc đã tám ngày ở dước cằm:
      - Tôi không thể chúc anh một ngày tốt, vì ngày nào mà tên bạo chúa còn sống, thì ngày đó chưa có thể tốt được!
- Đúng, và sao nữa? Chúng ta đã gieo gió, bây giờ chúng ta phải gặt bão.
      My Cốt nói với giọng độc thoại dường như y không nghe câu trả lời:
      - Tuy vậy, thật là một điều lạ lùng mà nghĩ rằng tên đao phủ cũng có thể chết như những nạn nhân của y, rằng cuộc đời y chỉ như chỉ mành treo chuông, và giữa làn da mỏng với quả tim trong lồng ngực y, quãng cách không xa bao nhiêu. Nói tóm lại, chỉ cần một bàn tay quyết liệt với một mũi dao nhọn là có thể cứu nạn cho nước Pháp và toàn thể nhân loại.
      Linh Đông nhìn y một cách ngạo nghễ và thản nhiên, không đáp. My Cốt nói tiếp:
      - Đôi khi tôi cũng để ý tìm kiếm chung quanh tôi một người do Trời sinh ra để làm cái sứ mạng đó, và mỗi lần như vậy, những bước chân của tôi lại đưa tôi đến đây.
      Linh Đông nói một cách mỉa mai:
      - Những bước chân của anh sao không đưa anh đến ngay nhà của Chủ Tịch Robert, có phải là tiện hơn chăng?
      My Cốt đáp một cách lạnh lùng:
      - Không, bởi vì tôi là một kẻ bị tình nghi. Tôi không thể trà trộn vào đám tùy viên, cận vệ của y được, tôi không thể nào đến gần y dưới một trăm bước mà không bị bắt giữ. Còn anh, anh có một hồ sơ trong trắng, và anh không có gì phải sợ. Anh hãy nghe tôi nói: việc nầy bề ngoài xem dường như nguy hiểm, nhưng thật ra không có gì hết! Tôi vừa hội ý với Đê Boa và Va Ren, họ sẽ tuyên bố trắng án cho người nào dám ra tay hành động. Dân chúng sẽ ủng hộ anh, Quốc Hội sẽ hoan hô anh như một anh hùng giải phóng.
      - Sao anh có thể nghĩ rằng tôi là một kẻ ám sát? Nếu phải nổi dậy và công khai tuyến chiến với tên bạo chúa, thì tôi sẽ không phải là kẻ đi sau chót ra bãi chiến trường. Những người theo lý tưởng tự do có bao giờ thừa nhận một kẻ phản bội là ân nhân của họ đâu!
      Giọng nói và cử chỉ của Linh Đông làm cho My Cốt thất vọng. Y hiểu rằng y đã xét lầm con người nầy. Lúc ấy Phi Lịch ngẩng đầu lên và nói với My Cốt:
      - Không! Bạn anh có một kế hoạch khôn ngoan hơn: y muốn rằng cứ để yên cho bọn hùm beo cấu xé lẫn nhau, y có lý, nhưng...
      My Cốt kêu lên trong sự ngạc nhiên:
      - Thế nghĩa là chạy...? Có thể được sao? Làm sao chạy? Chừng nào? Chạy bằng phương tiện gì mới được? Khắp cả nước Pháp đều có quân lính và mật vụ bao vây chặt chẽ, một con chuột cũng không qua lọt! Chạy sao cho thoát bây giờ?
      - Nếu vậy anh cũng muốn chạy trốn cuộc Cách Mạng thần thánh của anh hay sao?
      My Cốt vừa quỳ xuống đất và hai tay ôm lấy đầu gối Linh Đông vừa kêu lên:
      - Sao không muốn? Ôi! Anh hãy cho tôi đi với! Cuộc đời tôi là một cái cực hình, cái máy chém lúc nào cũng lởn vởn trước mắt tôi. Tôi biết rằng ngày giờ chết của tôi đã điểm, tên tôi sẽ có trong bản án tử hình. Tôi biết rằng Chánh Án Duy Mật, vị thẩm án không bao giờ tha tội cho ai, đã lên án tử hình tôi từ lâu. Ôi! Linh Đông, nhân danh tình bạn cố cựu giữa chúng ta, anh hãy cho tôi tháp tùng theo anh với nhé!
      - Được rồi, nếu anh muốn.
- Cám ơn anh. Suốt đời tôi sẽ nhớ ơn anh. Nhưng anh đã chuẩn bị đi bằng cách nào? Phương tiện di chuyển? Giấy thông hành? Và cách hóa trang, làm sao...?
      - Tôi sẽ nói cho anh biết. Anh biết lão Cai Da trong Quốc Hội chứ? Y rất có thế lực và y lại tham nhũng. Nếu người ta phiền trách y về cái tật tham nhũng nầy, thì y nói rằng: "Ai có khinh tôi cũng không sao, miễn là tôi có ăn no bụng!"
      - Thế rồi sao nữa?
      - Với sự giúp đỡ của lão trong đảng Cộng Hòa, và cũng không thiếu gì bạn bè vây cánh trong Ủy Ban Cách Mạng, tôi đã có những phương tiện cần thiết để lên đường, lẽ tất nhiên là phải có đút lót cho lão ít nhiều. Với một ít tiền, tôi cũng sẽ lo được một giấy thông hành cho anh.
      - Anh định đem cả giấy bạc theo chăng?
      - Không, tôi có đủ số vàng cần thiết cho cả bọn chúng ta.
      Đến đây, Linh Đông bèn kéo My Cốt qua phòng bên cạnh, nói vắn tắt cho y nghe kế hoạch đào tẩu và y phục hóa trang cần có, theo như đã ghi trong giấy thông hành rồi nói thêm:
      - Để đáp lại lòng tốt của tôi, anh hãy làm giúp tôi một việc mà tôi nghĩ rằng anh có thể làm được. Anh còn nhớ Kiều Dung chứ?
      - Tôi còn nhớ rõ cô ta, luôn cả người tình đã đem cô ta đi mất.
      - Người tình ấy cô ta cũng vừa mới từ bỏ để ra đi.
      - Thật vậy sao?... Có chuyện gì? À! Tôi hiểu rồi, mẹ kiếp! Anh thật có số đào hoa kinh khủng, hỡi đồng nghiệp!
      - Hãy im đi! Anh lúc nào cũng đề cao đức hạnh và tình huynh đệ, nhưng dường như không bao giờ tin một hành động vô kỷ, hay một tư tưởng vị tha.
      My Cốt đáp:
      - Việc đời thường hay đem đến cho ta nhiều kinh nghiệm rất phũ phàng! Nhưng thôi! Anh muốn nhờ tôi việc gì đó?
      - Tôi chịu trách nhiệm đã đưa Kiều Dung đến đây là một thành phố đầy rẫy những cạm bẫy và vực thẳm. Tôi không thể bỏ nàng ở lại một mình giữa nhiều sự hiểm nguy, bất trắc trong cơn dầu sôi lửa bỏng nầy. Nói tóm lại, Kiều Dung phải đi cùng với chúng ta ra nước ngoài.
      - Có gì khó? Chắc anh đã lo giấy thông hành cho cô ta rồi?
      - Rất khó, vì có Phi Lịch! Tôi rất hối hận đã dính líu với nàng. Liên hệ tình cảm với một người con gái thô bạo, thất học, thiếu lễ nghi quy tắc, bắt đầu từ cõi thiên đàng để rồi kết thúc nơi chốn địa ngục! Nàng có máu ghen kinh khủng, và không muốn nghe nói đến chuyện có một người đàn bà cùng đi với chúng ta. Đó là nàng chưa nhìn thấy sắc đẹp của Kiều Dung, tôi chỉ nghĩ đến khi đó mà rùng mình. Trong cơn ghen tức, nàng có thể làm bất cứ điều gì! Theo ý anh, ở địa vị tôi, anh sẽ làm sao?
      - Hãy bỏ Phi Lịch ở lại.
- Không được. Ai nỡ lòng nào bỏ nàng lại trong chỗ hỗn loạn đầy sát khí, máu chảy đầu rơi như ở đây! Không. Tuy tôi từng có những lầm lỗi đối với nàng, nhưng dầu việc gì xảy ra, tôi cũng sẽ không bỏ rơi một cách hèn nhát một người con gái đã phó thác vận mệnh của nàng trong tay tôi.
      - Anh đã bỏ nàng ở Mạc Xây một lần rồi.
      - Phải, nhưng tôi để nàng trong hoàn cảnh tuyệt đối an toàn, và hồi đó tôi không nghĩ rằng tình yêu của nàng lại sâu đậm và trung kiên như vậy. Tôi đã để lại cho nàng một số vàng, và nghĩa rằng nàng sẽ tìm cách xoay sở và tự an ủi một cách dễ dàng. Nhưng kể từ khi đó, chúng tôi đã cùng nhau chia sẻ những cơn hoạn nạn. Và bây giờ, tôi lại bỏ nàng một mình giữa cơn nguy hiểm mà nếu không vì tình yêu chung thủy với tôi, nàng đã không bao giờ mạo hiểm đến đây. Không! Tôi không thể làm như vậy được! À! Tôi có một ý kiến. Anh có thể nào nói rằng anh có một người em gái, một người bà con, một nữ ân nhân hay một bạn gái mà anh muốn cứu giúp chăng? Có thể nào trong cuộc hành trình cho đến khi rời khỏi nước Pháp, chúng ta làm cho Phi Lịch tưởng rằng Kiều Dung là người của anh, mà vì tình bạn đối với anh, nên tôi bằng lòng cho anh đem đi lánh nạn cùng với chúng ta?
      - À! Anh có óc tưởng tượng khá lắm đấy.
      - Tôi có thể giả vờ từ bỏ ý định riêng của tôi để làm vừa lòng Phi Lịch. Trong khi đó, anh sẽ cầu khẩn Phi Lịch hãy nói giúp anh một lời, để cho tôi lo giấy tờ và phương tiện di chuyển cho...
      - Một nữ ân nhân của tôi, đã từng cứu giúp tôi trong cơn quẫn bách (vì nàng biết rằng tôi không có em gái). Phải đó, tôi sẽ sắp đặt việc ấy, anh đừng lo gì cả. À! Còn Zanoni bây giờ ra sao?
      - Anh đừng hỏi tôi việc ấy, tôi không biết.
      - Y còn yêu Kiều Dung nữa không?
      - Dường như còn, nàng đã là vợ y, và đã có một đứa con. Đứa con hiện đang ở cùng với nàng.
      - A! Làm vợ! Làm mẹ! A! A! Tại sao?
      - Anh đừng hỏi gì ngay bây giờ. Tôi sẽ báo tin cho Kiều Dung để sửa soạn lên đường. Trong khi chờ đợi, anh hãy qua nói chuyện với Phi Lịch.
      - Nhưng còn địa chỉ của Kiều Dung? Tôi cần biết địa chỉ ấy phòng khi Phi Lịch hỏi đến...
      - Đường M.T... số nhà 27. Thôi, tôi đi!
      Linh Đông bèn hối hả bước ra khỏi nhà. My Cốt còn ngồi lại một mình và đắm chìm một lúc trong cơn suy gẫm. Y nghĩ thầm:
      - À! À! Ta có thể xoay trở câu chuyện nầy vào một tư thế có lợi cho ta chăng? Ta có thể nào, như ta đã nhiều lần thề nguyền, trả thù Zanoni bằng cách ám hại vợ con y chăng? Ta có thể tước đoạt của Linh Đông số vàng, những giấy thông hành và Phi Lịch chăng? Ta yêu Phi Lịch, nhưng số vàng của nó, ta yêu nhiều hơn!
      Thế rồi, y bước qua phòng bên cạnh. Phi Lịch vẫn còn ngồi đó, nét mặt sa sầm vì những ý nghĩ đen tối ám ảnh, và đôi mắt nhung đen của nàng đẫm ướt long lanh. Khi cửa vừa mở, nàng ngẩng đầu lên một cách đột ngột, nhưng vừa nhìn thấy bộ mặt xấu xí của My Cốt, nàng quay mặt đi chỗ khác một cách thất vọng và sốt ruột. Chàng họa sĩ vừa kéo ghế xích lại gần bên Phi Lịch vừa nói:
      - Hỡi người đẹp, Linh Đông có dặn tôi hãy qua nói chuyện với cô cho có bạn. Y không ghen với gã My Cốt xí trai đó chứ? Ha ha! Xưa kia My Cốt vẫn yêu cô, khi mà thời vận của y khả quan hơn bây giờ... Nhưng thôi, không nhắc làm gì những chuyện đã qua!
      - Bạn anh đã đi vắng nhà rồi chứ? Anh ấy đi đâu vậy? À! Anh nhìn qua chỗ khác, anh do dự, lúng túng, anh không dám nhìn thẳng vào mắt tôi? Anh hãy nói đi, tôi yêu cầu anh hãy nói thật. Anh nói đi!
  - Cô sợ gì vậy?
      - Sợ à? Phải, tôi sợ, hỡi ôi!
      Phi Lịch đáp và để rơi mình xuống chiếc ghế bành. Sau một phút im lặng, thình lình nàng ngồi nhổm dậy, lấy tay vén lại mái tóc rơi xỏa xuống trán che lấp đôi mắt nhung, rồi đứng dậy đi bách bộ qua lại trong gian phòng. Sau cùng, nàng dừng chân trước mặt My Cốt, đặt một bàn tay trên vai y và kéo y lại gần một tủ đứng. Nàng vặn chìa khóa xoay một vòng, mở nắp một cái hộp gỗ, chỉ cho y thấy số vàng ròng đựng trong đó và nói:
      - Anh nghèo, chắc anh thích có tiền. Vàng đây anh muốn lấy bao nhiêu tùy ý, nhưng anh phải nói thật, không được dấu tôi! Người đàn bà mà bạn anh vừa đi thăm đó là ai vậy?
      Nhìn thấy vàng, đôi mắt My Cốt sáng rực lên. Nhưng y gắng gượng chống lại sự cám dỗ và nói bằng một giọng thành thật giả tạo:
      - Cô muốn lung lạc tôi sao? Nếu cô có thể lung lạc được tôi thì không phải là bằng tiền của bạc vàng. Nhưng nếu Linh Đông yêu một người đàn bà khác? Nếu nó phản bội cô? Nếu vì chán ngán sự ghen tuông của cô, nó âm mưu chạy trốn và bỏ cô ở lại? Cô có thật sung sướng hơn chăng mà muốn biết tất cả những điều đó?
      Phi Lịch đáp:
      - Có chứ! Có chứ! Thật là một điều sung sướng mà được thù ghét và có hành động trả thù. Ôi! Anh không biết rằng sự thù ghét thật là êm ái dịu dàng xiết bao đối với người đã từng yêu thật tình!
      - Nếu tôi nói cho cô nghe những gì tôi biết, cô có thề rằng cô sẽ không phản bội tôi không? Cô có dám hứa chắc rằng cô sẽ không khóc than, kể lể, trách móc người đã phụ tình cô chăng, cũng như mọi người đàn bà khác?
      - Khóc than hử? Trách móc hử? Sự trả thù phải được ẩn dấu kín nhẹm dưới một nụ cười!
      My Cốt nói mà trong lòng khen thầm:
      - Cô thật là một người can đảm. Nhưng còn một điều kiện nầy nữa. Người tình của cô định trốn đi với một người yêu mới, và bỏ cô ở lại. Nếu tôi giúp cho cô phương tiện để trả thù kẻ tình địch, cô có chịu bằng lòng ra đi với tôi không? Tôi yêu cô, và muốn cưới cô làm vợ.
      Đôi mắt Phi Lịch phóng những tia lửa... bực tức! Nàng nhìn My Cốt với một vẻ khinh ngạo khôn tả và giữ im lặng không nói gì.
      My Cốt hiểu rằng y đã đi quá trớn, bèn nói vớt vát:
      - Xin lỗi cô, tình yêu đã làm cho tôi trở nên... tự phụ. Tuy nhiên, chính vì tình yêu của tôi đối với cô là một người đẹp như thế mà bị phụ bạc, nên tôi phải nói cho biết hết sự thật, mặc dầu nói thế là bất lợi cho bạn tôi. Cô hãy thề nguyền với tôi là cô sẽ dấu diếm việc nầy không cho Linh Đông biết gì cả.
      - Tôi xin thề bằng danh dự, bằng máu của tôi.
      - Được lắm. Bây giờ cô hãy sửa soạn rồi đi theo tôi.
      Trong khi Phi Lịch bước qua phòng bên thay áo, My Cốt lại liếc nhìn số vàng, vàng nhiều lắm, nhiều hơn sự dự đoán của y. Khi y còn đang ước lượng tổng số vàng ròng đựng trong cái hộp gỗ, và thuận tay mở luôn các hộc tủ khác, y nhìn thấy một bó văn thư với tuồng chữ quen thuộc của nhà Cách Mạng Mậu Linh. Y chụp lấy gói thơ mở ra xem, vừa đọc qua mấy giòng chữ đầu tiên đôi mắt y đã vụt sáng lên! Y nói thầm một mình: "Với những tang chứng nầy, thì năm chục cái đầu như Linh Đông cũng phải rụng!" Rồi y lén dấu trọn gói thơ ấy vào trong túi áo.

Thư Của Zanoni Gửi Kiều Mâu

  "Hỡi đạo huynh, quyền năng của tôi đã mất gần hết. Để tìm tung tích Kiều Dung, tôi chỉ còn sử dụng được có những bản năng tầm thường của một kẻ thế nhân phàm tục. Tôi vẫn không hề thất vọng, và trong sự dò dẫm khó khăn, tôi có cái linh cảm rằng có ngày chúng tôi sẽ gặp lại nhau. Tất cả những bí thuật linh ứng nhất của khoa Huyền Môn mà tôi đã dùng đều tỏ ra vô hiệu và không làm sao giúp tôi tìm thấy được linh hồn nàng.
      Tuy vậy, hai buổi sớm mai và chiều, hỡi người hiền giả cô đơn, bằng cách xuất thần, tôi có thể giao cảm tâm linh với đứa con tôi. Tôi không biết gì về nơi ăn chốn ở của nó, những linh ảnh của tôi không cho tôi thấy rõ nó đang ở tại xứ nào mà chỉ thấy có linh hồn còn non dại của nó trong không gian. Vì linh hồn trẻ con còn trong trắng hồn nhiên, vốn không có sự cách biệt ranh giới quốc gia hay ngôn ngữ, nên nó vẫn là công dân của tất cả mọi người và của tất cả mọi bầu thế giới. Trong không gian, linh hồn nó giao cảm được với linh hồn tôi, đứa con đã thông công được với cha nó!
      Bằng cách nào tôi đã theo dõi mẹ con nó đến tại thành phố Ánh Sáng? Tôi được nghe tin người đệ tử của đạo huynh đã đến Venise. Tôi đã lạc hướng không nhận ra được người đệ tử sơ cơ son trẻ của đạo huynh, khi tôi nghe người ta diễn tả hình dáng của một nhân vật có cái vẻ mặt hốc hác bơ phờ đến tìm Kiều Dung trước khi nàng bỏ nhà ra đi. Nhưng khi tôi thử kêu gọi linh hồn y đến với tôi trong cơn xuất thần, thì nó từ chối không chịu nghe lời tôi. Khi đó tôi mới kết luận rằng định mệnh của nó đã kết liên chặt chẽ với định mệnh của Kiều Dung. Bởi đó, tôi mới theo dõi nó đến tận chốn hiểm nguy đầy sắt máu nầy? Tôi vừa đến đây ngày hôm qua, nhưng chưa tìm thấy nó ở đâu.
      Hởi Kiềm Mâu! Những sự tìm kiếm của tôi vẫn không có kết quả. Tôi đã đi lục lạo trong những phiên xử ở các Tòa Án, tôi đã len lõi trong giới thẩm phán, quan tòa, và những giới công an, mật vụ, nhưng vẫn không tìm thấy một chi tiết nào có thể giúp tôi theo dõi dấu vết của họ. Tôi biết rằng nàng đang ở đây, bản năng của tôi xác nhận như vậy: tôi cảm thấy hơi thở của con tôi dường như đã trở nên nồng ấm hơn và quen thuộc hơn..."

Kiều Dung Trong Cơn Hoạn Nạn

Những câu lạc bộ dân chúng trong thành phố vang rền những tiếng hoan hô nồng nhiệt. Tướng Hăng Ri chạy tới lui lăng xăng khắp nơi và thì thầm với các binh sĩ trong các quân trại: "Chủ Tịch Robert, thần tượng của các anh em, đang lâm nguy!" Robert cố gắng che dấu sự lo ngại của y trong những điệu bộ bình tĩnh. Bản danh sách những nạn nhân của y mỗi lúc càng dài thêm. Tạ Liên, địch thủ đáng ngại của y, hô hào những đảng viên đối lập hãy can đảm và giữ vững tinh thần. Trên các đường phố, những chiếc tù xa đưa tội nhân ra pháp trường vẫn lăn bánh chạy một cách nặng nề chậm chạp. Những cửa tiệm đều đóng chặt, dân chúng đã chán ngấy mùi máu tanh đến lợm giọng.
      Trong một gian phòng ở trung tâm thành phố, Kiều Dung đang ngồi chơi với con. Đứa bé nằm dưới chân nàng, đang đưa tay định bắt lấy một tia nắng xuyên qua cửa sổ. Ánh nắng ấy làm cho nàng lại càng buồn thấm thía, nàng bèn day mặt qua một bên và thở dài não nuột.
      Kiều Dung đã thay đổi nhiều. Nàng có vẻ xanh xao héo hắt! Nàng ngồi đó nhưng trí óc nàng vơ vẩn đâu đâu, nàng để hai tay buông thõng, nụ cười tươi tắn thường xuất hiện trên môi trước kia, nay đã biến mất. Một sự chán nản tối tăm nặng nề dường như đè nặng lên tuổi trẻ hồn nhiên và làm cho ánh nắng vui tươi của tuổi ban mai cũng trở nên khó chịu đối với nàng. Cuộc đời đối với nàng dường như đã mất cả sinh khí. Nàng không cảm giác, hay nghe, thấy gì cả về cơn giông tố đang gầm thét bên ngoài. Chỉ khi nào nhìn thấy Linh Đông đến với nàng mỗi ngày, mặt mầy tái nhợt, mệt mỏi và âm thầm lặng lẽ như một cái bóng ma, mà nàng mới hiểu rằng cái bầu tử khí bao bọc chung quanh nàng lúc ấy thật là nặng nề u ám đến mức độ nào. Đắm chìm trong một tâm trạng vô ý thức, giữa một cuộc sống máy móc khô khan, nàng vẫn thản nhiên không hề biết sợ sệt, tuy rằng lúc ấy nàng ví như người đang ngồi trên bờ vực thẳm, với bao nhiêu những độc xà ác thú rình rập trong bóng tối ở chung quanh. Cánh cửa đột nhiên mở, và Linh Đông bước vào với một vẻ băn khoăn lo nghĩ hơn ngày thường. Kiều Dung nói với một giọng dịu dàng, vô tư:
      - Ủa! Anh đó sao? Anh đến trước giờ mà tôi định gặp anh.
      Linh Đông nói với một nụ cười rùng rợn:
      - Ai mà có thể tính toán giờ giấc được ở Ba Lê? Sự có mặt của tôi há chẳng phải là đủ lắm sao? Sự điềm nhiên vô tư của cô làm tôi phát sợ. Cô thản nhiên khi tôi đến cũng như khi tôi đi, cơ hồ như mỗi góc đường không có che dấu một tên gián điệp, hay mỗi ngày không có xảy ra một vụ ám sát!
      - Xin lỗi anh, nhưng thế giới của tôi là ở đây, ở giữa bốn bức tường nầy. Tôi không tài nào chứng minh được gì cho những điều mà anh vừa kể. Ở đây, trừ ra con tôi, thì tất cả đều như là cõi chết không có gì là sống động đến nỗi không ai màng để ý đến những việc gì xảy ra ở bên ngoài.
      Linh Đông im lặng trong một lúc, y nhìn vào gương mặt và thân hình người đàn bà hãy còn tươi trẻ như thế mà đã trở thành một con người chán đời, với một quả tim cảm thấy sắp già.
      Sau cùng, y nói với một giọng xúc động:
      - Hỡi Kiều Dung, chỉ có ở đây, giữa những cơn bạo động, dầu sôi lửa bỏng nầy, mà Tà Ma mới không theo dõi tôi. Thậm chí tôi cũng quên cả sự chết, nó vẫn lén lút theo sát cạnh tôi và ám ảnh tôi như một cái bóng. Nhưng có lẽ chúng ta sẽ còn có những ngày tốt đẹp hơn. Hỡi Kiều Dung, tôi bắt đầu nhận thấy một cách mơ hồ bằng cách nào tôi có thể thắng đoạt con Ma nó ám ảnh cuộc đời tôi: đó là thách thức nó, và đương đầu với nó. Tôi có nói với cô rằng trong những khi tôi sống cuộc đời cẩu thả, trác táng, thì nó không theo đuổi tôi. Nhưng bây giờ tôi đã hiểu lời cảnh cáo rùng rợn của Kiềm Mâu, rằng [con Ma chỉa đáng sợ nhất khi nào ta không nhìn thấy nó]. Trong những lúc tâm hồn bình tĩnh, hướng thượng, thì nó xuất hiện. À! Tôi đã thấy nó rồi kia kìa, với đôi mắt nhợt nhạt lạnh lùng của nó. (Trán y toát mồ hôi lạnh). Nhưng tôi không sờn lòng mà vẫn giữ đúng quyết định của tôi: tôi nhìn thẳng vào mặt... và tôi thấy rằng nó đã từ từ rút lui vào bóng tối...
      Y ngừng lại, đôi mắt y nhìn vào khoảng không gian chói rạng ánh sáng mặt trời, rồi với một tiếng thở dài nặng nề não nuột, y nói thêm:
      - Hỡi Kiều Dung, tôi đã có cách trốn đi. Chúng ta sẽ rời khỏi Ba Lê, chúng ta sẽ sống với nhau, nâng đỡ an ủi nhau ở nước ngoài và sẽ quên dĩ vãng.
Kiều Dung nói một cách bình thản:
      - Không, tôi không còn đi đâu nữa cho đến khi người ta đem tôi đi đến chốn an nghỉ cuối cùng. Hỡi Linh Đông, đêm vừa qua tôi đã nằm mộng thấy chàng. Đây là lần đầu tiên mà tôi nằm mơ thấy chàng từ ngày cách biệt nhau. Anh đừng nhạo báng tôi nhé, dường như chàng tha lỗi cho tôi và gọi tôi bằng: Hiền thê ơi! Giấc mộng đó đã thánh hóa gian phòng nầy: có lẽ chàng sẽ còn đến thăm tôi trước khi tôi chết.
      - Cô muốn ở lại hử? Tại sao? Để bỏ mất bổn phận làm mẹ ư? Nếu cô gặp tai nạn ở đây, con cô sẽ ra sao? Nó sẽ trở nên mồ côi, thật tội nghiệp. Cô có muốn chăng cho nó trở thành đứa con mồ côi ở một xứ đã báng bổ tôn giáo cô, ở một xứ mà lòng từ ái của con người sẽ không còn nữa? Phải! Cô hãy khóc đi và ôm nó vào lòng! Nhưng nước mắt sẽ không đủ bảo vệ, che chở hay cứu mạng cho nó được đâu!
      - Tôi xin nghe lời anh, tôi sẽ cùng anh lên đường!
      - Cô hãy sẵn sàng vào lúc chiều mai. Tôi sẽ đem đến cho cô những đồ y phục hóa trang cần thiết.
      Kế đó, Linh Đông bèn kể sơ qua trong vài nét đại cương, sự sắp đặt cuộc hành trình sắp tới, lộ trình sẽ đi qua và những gì phải làm ở dọc đường. Kiều Dung nghe câu được câu chăng, như người tâm hồn bất định. Y nói xong, bèn siết lấy hai bàn tay nàng trong lòng bàn tay mình, rồi kiếu từ bước ra.
Sự Trả Thù Của Phi Lịch

Khi Linh Đông vội vã đi ra khỏi nhà, y không nhìn thấy có hai cái bóng đen ẩn núp ở một nơi góc tường rào. Y nhìn thấy một cái bóng lướt nhẹ một bên y, nhưng y lại không nhìn thấy những cặp mắt ganh tị, nham hiểm và ghen tương đang rình rập y lúc y bước ra cửa. My Cốt tiến đến gần nhà, Phi Lịch lặng lẽ bước theo sau. Người họa sĩ, vốn là một kẻ cùng đinh vô sản thâm niên, biết cách mở lời nói chuyện với người gác cổng. Y đưa tay ra hiệu cho người nầy đang ngồi trong chòi canh:
      - Thế nầy nghĩa là gì, hỡi công dân? Anh che giấu một kẻ tình nghi sao?
      - Hỡi công dân, anh làm tôi sợ hãi! Nếu quả thật như vậy, anh hãy nói tên y nghe coi!
      - Đây không phải là một người đàn ông, mà là một người nữ di trú, một người đàn bà Ý ở tại đây.
      - Đúng, gian phòng thứ ba trên lầu, cửa bên trái. Nhưng cô ấy có gì là tình nghi? Nàng không thể là một người nguy hiểm, con bé thật hiền quá!
      - Hãy coi chừng đó, hỡi công dân! Anh có dám đảm bảo cho cô ta không?
      - Không, không! Tự nhiên là không, nhưng mà...
      - Có ai đến viếng cô ta?
      - Không ai cả, trừ một người Anh.
      - Phải rồi! Một người Anh, một người gián điệp của William Pitt và Cobourg!
      - Lạy trời! Có thể như vậy được sao?
  - Ủa! Nầy công dân! Anh dám nói lạy Trời ư? Vậy chắc anh phải là một người trong dòng quý tộc?
      - Không phải! Đó là một thói quen cố hữu, tôi chỉ thốt ra một cách vô tâm vậy thôi!
      - Người Ăng Lê đó có thường đến không?
      - Y đến đây hằng ngày.
      Phi Lịch không đè nén nổi một tiếng kêu ngạc nhiên. Người gác cổng nói tiếp:
      - Cô ấy không đi ra ngoài bao giờ. Cô ta chỉ lo bận rộn công việc và săn sóc đứa con mà thôi.
      - Đứa con!
      Phi Lịch bất giác thốt lên và xông vào cư xá. My Cốt cố gắng giữ nàng lại nhưng vô hiệu, nàng bước lên lầu do cánh cửa hé mở mà người gác cổng đã chỉ lúc nãy. Phi Lịch bước tới gian phòng thứ ba và dừng chân trước ngưỡng cửa khi nàng nhìn thấy gương mặt vẫn còn đẹp sắc sảo mặn mà của Kiều Dung. Cảnh tượng ấy làm nàng mất đi một tia hy vọng cuối cùng. Nàng không thốt lên được một tiếng kêu, cơn ghen tức đã nổi lên và gậm nhấm quả tim nàng. Lúc ấy Kiều Dung quay đầu nhìn ra cửa thì thấy Phi Lịch. Sự xuất hiện đột ngột của người sơn nữ với vẻ mặt đầy sát khí, hằm hằm một khác vọng trả thù, một niềm thù hận không đội trời chung, làm cho Kiều Dung bất giác thốt lên một tiếng kêu và ôm chặt đứa con vào lòng. Người sơn nữ phát lên một tiếng cười rùng rợn, chậm rãi quay lưng đi ra, bước xuống thang lầu, trở lại chòi canh của người gác cổng, và kéo tay My Cốt đi ra ngoài. Ra tới đường lộ, nàng ngừng lại đột ngột và nói:
      - Anh hãy trả thù cho tôi, và cho tôi biết tôi phải đền đáp anh bằng cái giá nào?
      - Bằng cái giá nào, hử cô bạn gái rừng xanh? Cái giá đó là... cô cho tôi được phép yêu cô! Cô sẽ cùng đi trốn với tôi vào lúc chiều mai. Cô hãy giữ các giấy thông hành, và những bản lộ trình.
      - Còn họ?
   - Họ sẽ vào nghỉ mát trongkhám lớn trước giờ chúng ta khởi hành. Cái máy chém sẽ trả thù giúp cho cô.
      Phi Lịch nói với một giọng quyết liệt:
      - Anh cứ làm đi. Được vậy tôi mới yên lòng.
      Hai người không nói với nhau một lời nào nữa cho đến khi họ về tới nhà. Nhưng Phi Lịch ngước mắt lên nhìn ngôi nhà, nàng nhìn thấy những khung cửa sổ gian phòng ngủ ấm cúng mà sự tin tưởng vào tình yêu của Linh Đông trước kia đã làm cho nó trở thành một vườn địa đàng mến yêu với bao nhiêu kỷ niệm êm đềm, khi đó sư tử cái Hà Đông bỗng cảm thấy mềm lòng, lòng trắc ẩn của nữ giới làm cho nàng dịu dàng trở lại, và quên mất cái bản tính man dại cố hữu của mình. Nàng bèn kéo tay My Cốt lại và nói:
      - Không, không phải hắn! Anh chỉ tố giác con mụ kia thôi, nó phải chết, con mụ đó! Còn hắn, thì thôi, hãy tha cho!
      My Cốt vừa phát lên một tiếng cười quỷ quái, vừa nói:
      - Cô muốn sao cũng được, nhưng nó phải bị bắt giam tạm trong ít lâu. Nó sẽ được bình yên, vì sẽ không có ai đứng ra tố giác. Nhưng còn con mụ kia, cô không tội nghiệp cho con mụ ấy sao?
Phi Lịch quay lại nhìn thẳng vào mặt y: cái nhìn u ám rùng rợn ấy cũng đủ nói lên cái quyết định cứng rắn của nàng.

Ngoài Hành Lang Phủ Chủ Tịch

Khi Linh Đông về đến nhà, thái độ của Phi Lịch vẫn không có gì thay đổi. Không một lời nói hay một cái nhìn khác lạ nào tỏ ra cho Linh Đông thấy sự thay đổi nghiêm trọng nó đã làm cho mối tình chung thủy của nàng từ nay đã trở thành mối hận thù. Vả lại, Linh Đông còn đang mắc lo toan về những kế hoạch sắp tớ và bận rộn với những ý nghĩ về cái định mệnh lạ lùng của chính mình, nên y cũng không để ý đến việc gì xảy ra ở chung quanh. Y bèn nói cho Phi Lịch biết về những triển vọng tương lai đang chờ đón họ ở nước ngoài, một khi họ trốn ra khỏi nước Pháp một cách an toàn.
      Phi Lịch hỏi:
      - Còn người đẹp mà anh định đem đi cùng với chúng ta? My Cốt có nói với em là anh đã bỏ nàng ở lại, để cho một người bạn gái của My Cốt thay vào chỗ đó, có phải vậy không?
      Linh Đông nói:
      - Y đã nói cho em nghe rồi à? Em có hài lòng về sự thay đổi đó không?
      Phi Lịch nghĩ thầm:
      - Đồ phản bội!
      Rồi nàng đột nhiên đứng phắt dậy, bước đến sau lưng Linh Đông lấy tay vén lại mái tóc xỏa xuống mắt y, vừa ôm lấy đầu y vừa nói với một nụ cười nhạt:
      - Cái đầu đẹp như thế nầy mà đút vào máy chém thì cũng hơi uổng!
      Nói xong, nàng quay mặt đi và làm ra vẻ sửa soạn đồ hành trang để lên đường.
      Qua ngày hôm sau, lúc thức giấc, Linh Đông không thấy Phi Lịch, nàng vẫn còn vắng mặt khi y rời khỏi nhà. Y phải đến viếng lão nghị viên Cai Da một lần cuối cùng trước khi lên đường, để thanh toán số tiền trà nước về việc lo giấy thông hành cho My Cốt, và cũng để thăm dò xem có việc gì bất trắc xảy ra có thể làm hỏng kế hoạch của y chăng.
      Trong khi đó, My Cốt cũng đang quay cuồng trong trí những ước mơ, mộng tưởng về tương lai, và định bụng sẽ sử dụng một cách khôn ngoan số vàng của người bạn mà y sắp phản bội, y bèn đi đến phủ Chủ Tịch của Robert. Y không hề có ý muốn tha mạng sống cho Linh Đông để làm vừa lòng Phi Lịch. Y cũng nghĩ như Ba Rê rằng chỉ có những người chết mới không còn trở lại. Và bây giờ trên đường đi đến phủ Chủ Tịch, y bắt đầu nghiền ngẫm trong trí một sự đảo lộn tất cả mọi kế hoạch mà y đã dự tính từ ngày hôm trước. Không phải là y do dự trong quyết định tố cáo Linh Đông, và do hành động nầy làm cho Kiều Dung phải bị liên lụy như một người bạn thân và đồng lõa. Về khoản ấy, y đã quyết định rồi, vì y căm thù luôn cả hai người. Kiều Dung đã khinh rẻ y và không thèm chiếu cố đến cái mặt y, còn Linh Đông tuy có giúp đỡ y, nhưng y không thể chịu đựng nổi cái ý nghĩ phải chịu ơn, nó gần như là một sự sỉ nhục.
      Vậy thì bây giờ, y có cần gì phải rời khỏi nước Pháp? Y có thể chiếm đoạt số vàng của Linh Đông, và ép bức Phi Lịch phải chiều theo ý muốn của y. Những thư từ của Mậu Linh gửi cho Linh Đông mà y đã lén lấy trộm, vừa là những tang chứng độc hại để khép Linh Đông vào án tử hình, lại vừa là một dịp để cho y lập công lớn với Robert. Nhờ đó, y có thể làm cho Robert tha thứ cho y cái tội kết giao với lãnh tụ Hê Be trước kia, và đồng thời thâu dụng y làm vây cánh trong đảng để thực thi chính sách khủng bố hiện tại. Những triển vọng về công danh, giàu sang, danh vọng, lại hé mở trước mắt y. Những thơ từ ấy gởi đi ít lâu trước khi Mậu Linh bị hành quyết, được viết ra một cách táo bạo và vô tâm là những đặc tính quen thuộc của nhà cách mạng nói trên, một đệ tử của Danton. Những văn thư ấy công khai nói về những âm mưu chống lại Robert, và nêu đích danh những người chủ mưu và đồng loã, mà nhà độc tài vẫn cho người rình rập thường xuyên, chỉ chờ đợi có một bằng chứng cụ thể trong tay là đập tan cả bọn một cách hợp pháp trước dư luận quần chúng. Y có thể hiến dâng cho nhà độc tài món quà nào quý báo hơn nữa?
      Với những ý nghĩ đó lởn vởn trong trí óc, y đã bước đến phủ Chủ Tịch. Trước cửa, có một nhóm độ chừng một chục tên quân canh cao lớn lực lưỡng, ngày đêm canh phòng và giữ gìn an ninh cho Chủ Tịch Robert. Bên ngoài là một đám đông dân chúng, phần lớn gồm những người có việc cần gặp Chủ Tịch để xin xỏ đặc ân hoặc khiếu nại, kêu oan một việc gì đó, cũng có vài kẻ vô tích sự đứng xem để giết thời giờ. Thình lình, đám đông rẽ ra hai bên để nhường chổ cho một người mảnh khảnh, với một khuôn mặt có vẻ dịu dàng, một nụ cười khả ái trên môi, ăn mặc giản dị nhưng sạch sẽ và có một cái nhìn khiêm tốn, e dè. Người ấy từ ngoài đi vào với một bước đi âm thầm lặng lẽ như một cái bóng, nhưng dường như có một mãnh lực gì bí mật làm cho đám quân canh lực lưỡng với những thớt lưng nặng nề như những tấm phản phải hối hả vẹt ra để dọn đường và đè dẫm lên nhau một cách hỗn độn. Đi gần đến trước cửa, ngừơi ấy liếc nhìn My Cốt và người cận vệ với một cái nhìn thoáng qua nhanh như chớp, không nói một lời, hay hỏi một câu nào, người cận vệ cũng đứng thẳng người để nhường lối đi. Thế là người khách lạ cứ đi thẳng lên lầu để vào văn phòng Chủ Tịch.

Vào Hang Sói

Chủ Tịch Robert đang ngả lưng nghỉ trên chiếc ghế bành, gương mặt tái ngắt có vẻ mệt mỏi và đôi má lõm sâu hơn lúc bình thường. Thật vậy, y giống như một người mà cuộc đời sắp sửa xuống dốc và đặt sẵn một chân xuống mồ.
Cách đó một quãng, Bá Văn và Cửu Thông ngồi chung nhau ở một bàn khác, đang loay hoay viết lách và thỉnh thoảng lại ngưng làm việc dể thăm dò nhau bằng những giọng nói thì thầm.
      Thình lình, tên cận vệ Jacobin túc trực bên ngoài mở cửa phòng và bước đến gần Robert rồi kề tai nói nhỏ: "Ghê Ranh". Nghe báo, Chủ Tịch Robert liền đứng dậy dường như cái tên ấy có mãnh lực chuyền vào người y một nguồn sinh khí mới. Một lúc sau đó, con người mãnh khảnh và khiêm tốn vừa rẽ đám đông từ bên ngoài lúc nãy, đã bước vào phòng và nghiêng mình chào rất sâu trước mặt nhà độc tài. Thật vậy, Robert đang vui mừng đón tiếp một trong những cộng sự viên đắc lực nhất của y, một người mà y có thể tin cậy hơn cả các câu lạc bộ đảng viên Jacobins, hay tài hùng biện của những viên sứ giả ruột thịt, hay khí dũng hiên ngang của những đạo binh giải phóng. Đó là Ghê Ranh, tay trùm mật vụ của Ủy Ban Cách Mạng, một người có cặp mắt dò xét thấu suốt đến mọi nơi, và đem đến cho nhà độc tài những tin tức sốt dẻo, xác thực, không những về hành động mà còn về cả những tư tưởng của mọi người.
      - Thế nào, hỡi công dân, có tin gì thêm về Tạ Liên không?
      - Sáng nay, y đã ra đi thật sớm, vào lúc tám giờ hai phút.
      - A! Sớm như vậy à! Hừm!
      - Y đi theo đường Tứ Tự, đường Nhà Thờ, đường Thống Nhất, đường Bãi Sậy, rồi đường Mác Tinh, nhưng không có gì lạ, trừ ra...
      - Gì đó?
      - Y dừng chân lại trước một quán sách và trả giá vài quyển.
      - Mua sách? A! Thằng bịp láo! Nó muốn lập mẹo gì đây trong bộ lốt áo của nhà bác học đó hử? Được lắm.
      - Sau đó, y đến đường Mông Mạc, thì một người lạ mặt khoác áo tơi màu xanh bước đến cạnh y. Hai người cùng đi bách bộ với nhau vài phút trên đường lộ, thì gặp Lữ Giang cùng nhập bọn.
      - Lữ Giang à? Nầy Bá Văn, hãy lại đây. Anh có nghe gì chưa? Lữ Giang?
      - Khi đó tôi bèn nấp vào một tiệm trái cây, và bày mưu cho hai đứa con gái nhỏ giả vờ đánh banh ở gần bên họ để nghe lỏm xem họ nói với nhau những gì. Hai đứa bé gái ấy nghe Lữ Giang nói:"Hình như quyền uy của y đã giảm sút." Và Tạ Liên đáp: "Đúng, và cả sức khỏe của y cũng vậy. Tôi cho y sống nhiều lắm là ba tháng nữa." Hỡi đồng chí Chủ Tịch, tôi không biết có phải là họ nói về anh không.
      Robert đáp với một nụ cười lạnh như băng, tiếp theo với một vẻ mặt lo lắng băn khoăn:
- Tôi cũng vậy.
      Rồi y lại thầm nhủ lấy một mình:
      - Nhưng không, mình hãy còn trẻ, đang độ tuổi xuân, lại không trác táng hay vô tiết độ. Không, sức khỏe của mình còn lành mạnh.
      Còn tin gì nữa không?
      - Có. Người yêu của Tạ Liên, là Tê Rê Xa de Fontenai, hiện đang bị giam, vẫn tiếp tục trao đổi thư tín với y. Nàng thúc giục y hãy tìm cách giết đồng chí để cứu nàng. Điều nầy, chính bọn nhân viên của tôi đã nghe. Chính tên người nhà của y làm người liên lạc để thông tin tới Tê Rê Xa.
      - Vậy sao? Tên gia bộc đó anh phải chận bắt nó ở giữa đường cho tôi. Thời đại khủng bố còn chưa chấm dứt. Nếu bắt được thơ tín gì trong mình nó và có tang chứng rõ ràng, tôi sẽ trục xuất Tạ Liên ra khỏi Quốc Hội.
Robert đứng dậy, và sau khi vừa đi bách bộ vừa suy nghĩ một lúc trong gian phòng, y mở cửa và gọi một người cận vệ. Y ra lệnh cho người nầy hãy theo dõi và chận bắt tên đầy tớ của Tạ Liên. Khi người cận vệ đã ra đi, Ghê Ranh hỏi thấp giọng:
      - Có phải người nầy là công dân Ari đó không?
      - Phải đó. Nó là một người trung tín. Chớ chi nó chịu khó tắm nhiều hơn và chửi thề ít hơn một chút thì hay quá!
      - Phải chăng đồng chí đã ra lịnh chặt đầu anh nó?
    - Phải, chính Ari đã tố giác anh ruột nó!
      - Tuy nhiên, đối với anh, những người như vậy có đáng tin cậy hay không?
      - À nhỉ! Anh nói đúng!
      Kế đó, Robert rút một quyển sách tay từ trong túi áo, viết trong đó vài hàng chữ, rồi đặt lại chỗ cũ và nói:
      - Còn gì nữa về Tạ Liên?
      - Hết rồi! Lữ Giang và người lạ mặt đi đến công viên rồi chia tay từ giã. Tôi thấy Tạ Liên trở về nhà y. Nhưng tôi có những tin khác. Anh có dặn tôi tìm cho ra tác giả của những bức thơ nặc danh.
      - À! Anh có tìm được chưa? Hử, Ghê Ranh? Hãy nói đi.
      - Thưa đồng chí Chủ Tịch, tôi đã tìm ra được một người. Đồng chí hẳn biết rằng trong số những kẻ bất mãn nhát, có một người tên My Cốt?
      Robert vừa tra hồ sơ trong một quyển vở đóng bìa da màu đỏ, vừa nói:
      - À!À! Hãy đợi một chút... My Cốt! Đây rồi: "Vô thần, bạn thân của Hê Be." À! À! Chú thích: Chánh Á Duy Mật biết rõ lý lịch và tội ác của tên nầy."... Rồi gì nữa?
      - Tên My Cốt nầy bị tình nghi đã viết hịch và rải truyền đơn chống đồng chí Chủ Tịch và Ủy Ban Cách Mạng. Đêm qua, khi nó đi vắng nhà, người gác cổng cư xá đã để cho tôi vào nhà nó, ở đường Bô Rơ Pe: Với xâu chìa khóa của tôi, tôi mở cửa phòng và cửa tủ của nó. Tôi tìm thấy một bức hoạt họa vẽ đồng chí bị đút đầu vô máy chém với một giòng chữ nầy ở dưới: "[Hỡi đao phủ của dân tộc, mi hãy đọc bản án của mi!" Tôi so sánh hàng chữ đó với tuồng chữ trong các bức thư nặc danh mà anh đã đưa cho tôi, thì thấy tất cả đều giống nhau. Anh xem đây, tôi có cắt giòng chữ đó đây rồi!
      Robert lấy xem và mỉm cười. Rồi dường như đã được thỏa mãn, y lại ngã ngửa người trên lưng ghế bành và nói:
      - Tốt lắm! Tôi tưởng rằng đó là một kẻ thù nào nguy hiểm hơn! Thằng nầy phải bị bắt giữ, và lên án tử hình!
      - Nhưng nó đang đợi ở dưới, tôi có thấy nó khi tôi bước lên lầu.
- Vậy sao? Hãy kêu nó lên. À không, hãy đợi một chút. Ghê Ranh, anh hãy tạm lánh mặt sang phòng bên, chờ đến khi nào tôi gọi lại anh. Bá Văn đâu, anh hãy cho người lục soát tên My Cốt trước khi đưa nó vào đây.
      Bá Văn, bước ra cửa, trong khi đó, Robert đầu cúi xuống trước ngực, có vẻ chìm đắm trong một cơn suy tư thâm trầm.
      Sau một lúc, cánh cửa thình lình mở, Bá Văn bước vào và nói nhỏ với nhà độc tài:
      - Xong rồi! Đồng chí có thể tiếp nó được.
      Robert ra lịnh cho người cận vệ đưa My Cốt vào. Người họa sĩ bước vào với một vẻ mặt bình tĩnh và đứng thẳng người trước mặt vị Chủ Tịch.
      Robert hỏi:
      - Hỡi công dân, anh muốn nói chuyện với tôi? Tôi biết công lao và lòng ái quốc của anh đã từ lâu rồi. Phải chăng anh muốn xin tôi một chức vụ, hay anh có điều gì muốn trình bày, anh cứ nói thẳng.
      - Thưa đồng chí Chủ Tịch, tôi đến đây không phải để cầu xin một ân huệ, mà để làm một việc phụng sự quốc gia. Tôi có nắm trong tay những tang chứng về một vụ âm mưu khuynh đảo chính quyền, mà nhiều kẻ chủ mưu vẫn còn sống phây phây ngoài vòng pháp luật.
      Nói xong, y đặt bó văn thư lên bàn. Robert cầm lấy, liếc nhanh qua một lượt, và tự nói thầm một mình:
      - À! À! Tốt quá, đây là tất cả những gì ta đang cần. Ba Rê! Lữ Giang! Ta đã nắm được bọn nầy. Mậu Linh chỉ là nạn nhân bị chúng lừa bịp. Cám ơn anh, hỡi công dân My Cốt! Tôi thấy rằng những thơ từ nầy là gửi cho một người Anh. Có người Pháp nào mà không đề phòng bọn chó săn Ăng Lê hóa trang làm trừu non nầy? Nước Pháp không còn cần đến những công dân thế giới nữa. Cái trò hề đó đã chấm dứt với tên Cờ Lút. À! Xin lỗi anh, hỡi công dân My Cốt, hình như Cờ Lút và Hê Be đều là bạn thân của anh?
      My Cốt đáp bằng một giọng dường như để tự bào chữa:
      - Thưa đồng chí Chủ Tịch, tất cả mọi người đều có thể lầm lẫn. Tôi không còn chơi thân với họ nữa kể từ ngày mà đồng chí Chủ Tịch công khai tuyên bố chống lại họ, vì tôi sẵn sàng từ bỏ những cảm tình riêng tư của tôi hơn là nền công lý và chánh nghĩa cách mạng!
      - Đúng vậy, tôi nắm vững công lý: đó chính là cái đức tính mà tôi hằng có! Anh có thể tin chắc rằng sự công bằng của tôi sẽ không còn nhắm mắt làm ngơ đối với những công lao của anh, hỡi công dân My Cốt. Anh biết tên Linh Đông nầy không?
      - Tôi biết y lắm, và còn chơi thân nữa kia. Y là bạn tôi trước kia, nhưng tôi sẵn lòng tố cáo cả anh ruột tôi nếu y là một trong những kẻ đối lập ôn hòa. Tôi cũng không hổ thẹn mà nhìn nhận rằng tôi có chịu ơn y ít nhiều.
      - À! À! Và phải chăng anh chủ trương một cách can đảm và thành thật rằng khi có kẻ nào hăm dọa đến tính mạng tôi, thì tất cả những cảm tình cá nhân của anh đều phải được dẹp bỏ?
      - Tất cả!
      - Anh là một công dân gương mẫu, hỡi My Cốt. Anh hãy viết cho tôi cái địa chỉ của tên Linh Đông nầy nhé!
      My Cốt cúi xuống bàn viết. Thình lình, khi tay y cầm lấy cán bút, một tư tưởng vụt thoáng qua óc y, làm cho y khựng lại, lộ vẻ bối rối và lưỡng lự vô cùng.
- Anh hãy viết đi, My Cốt!
      Người họa sĩ buộc lòng phải tuân lệnh một cách miễn cưỡng.
      - Tên Linh Đông nầy có giao thiệp với ai nữa không?
      My Cốt đáp:
      - Chính tôi muốn nói với đồng chí Chủ Tịch về điểm đó. Mỗi ngày, y đến viếng một người đàn bà, một nữ ngoại nhân biết rõ tất cả những điều bí mật của y. Mụ đàn bà ấy giả vờ nghèo và làm việc nuôi con. Nhưng mụ ấy là vợ của một người Ý rất giàu, và đã từng tiêu xài những khoản tiền khổng lồ để mua chuộc công dân ở xứ ta. Mụ ấy phải bị bắt giữ mới xong.
      - Anh cũng viết tên mụ ấy luôn thể.
      - Nhưng phải làm gấp mới được, vì tôi biết rằng cả hai đều định rời khỏi Ba Lê nội trong đêm nay.
      - Anh đừng sợ gì cả, hỡi My Cốt! Chánh phủ ta hành động rất mau lẹ!
      Robert cầm lấy tờ giấy mà My Cốt vừa viết xong, và nói với một nụ cười:
      - Có phải chăng lúc nầy anh cũng viết như thế nầy, hử công dân? Dường như anh đã đổi tuồng chữ khác?
      - Tôi không muốn cho họ biết rằng chính tôi đã tố cáo họ, thưa đồng chí Chủ Tịch!
      - Tốt lắm! Tốt lắm! Công lao của anh sẽ được tưởng thưởng xứng đáng, anh hãy trông cậy nơi tôi. Chào đoàn kết!
      Robert vừa nói xong vừa đứng nhổm dậy nửa người, My Cốt cũng cúi chào và lui ra.
      Nhà độc tài rung cái chuông nhỏ. Người cận vệ túc trực bên ngoài bước vào chờ lịnh.
      - Anh hãy theo dõi người nầy, y tên là My Cốt. Khi y vừa ra khỏi cửa, hãy bắt giữ y lại và đưa ngay ra khám lớn. À! Đợi chút nữa! Đây là lịnh tống giam. Công tố viên sẽ được chỉ thị buộc tội sau!
      Người cận vệ bước ra. Robert không có vẻ gì là mệt mỏi bơ phờ như lúc đầu. Y chồm dậy, và đứng dạng hai chân ngay giữa phòng, hai tay khoanh trước ngực, nét mặt căng thẳng và kêu to:
      - Ghê Ranh đâu?
      Tay trùm mật vụ lại xuất hiện.
      - Anh hãy cầm lấy những địa chỉ nầy. Trong vòng một giờ, hãy bắt giam người Ăng Lê và người đàn bà nầy. Những lời khẩu cung của họ sẽ giúp tôi bắt giữ những kẻ thù quan trọng hơn. Họ sẽ bị án tử hình, và đưa lên máy chém cùng với những tội nhân khác vào ngày mồng mười, tức là còn ba ngày nữa. Và đây - y hối hả viết vài chữ trên một tờ giấy, - đây là lịnh tống giam.
      Sau khi Ghê Ranh đã đi ra cửa, Robert nói:
      - Và bây giờ, hỡi Bá Văn và Cửu Thông, chúng ta không trì hoãn ngày giờ với Tạ Liên và đồng bọn được nữa. Tôi vừa được báo cáo là toàn thể nghị viên sẽ không dự ngày đại lễ mồng mười tháng nầy. Chúng ta phải dựa vào pháp luật mà thôi. Tôi sẽ sắp đặt ý tứ cho có trật tự, và chuẩn bị bài diễn văn của tôi. Ngày mai, tôi sẽ đăng đàn trở lại tại Quốc Hội. Ngày mai, Sanh Juýt sẽ khải hoàn với những đạo binh thắng trận và sẽ nhập cuộc với chúng ta. Ngày mai trên diễn đàn tôi sẽ đả kích những kẻ thù bí mật của nước Pháp. Ngày mai, trước quốc dân, tôi sẽ đòi thủ cấp của những kẻ phản bội.
Chương 11 (chương kết)
Zanoni Trục Tà Giúp Linh Đông
Cuộc hội chiến lần chót với Cao Da, để thảo luận những chi tiết cuối cùng về việc đào thoát ra khỏi xứ, Linh Đông cảm thấy vững dạ và trở về nhà. Giữa những ý nghĩ lạc quan về triển vọng tốt đẹp của một cuộc sống an toàn ở nước ngoài, thình lình y nghe một giọng nói rùng rợn mà y đã quen thuộc, như nói vào lỗ tai: "Sao? Mi muốn thách thức ta và muốn thoát khỏi tay ta ư? Mi muốn làm lại cuộc đời tốt lành và hạnh phúc ư? Vô ích, vì đã quá trễ! Không! Không phải ta theo dõi mi đâu, mà những vết chân người, cũng rùng rợn không kém, nay đã rình rập theo sát bên cạnh mi. Còn ta, khi mà mi gặp lại ta, thì là ở trong ngục tối, lúc nửa đêm, trước khi định mệnh của mi kết thúc. Kìa! Hãy nhìn xem!"
      Linh Đông quay đầu nhìn lại, thì thấy sau lưng có một người lạ mặt, dáng điệu khả nghi, mà y đã từng nhìn thấy trước đây ở ngoài đường, nhưng không để ý. Người ấy dường như đã núp sẵn ở đâu đây và theo y bén gót khi y vừa từ nhà lão Cai Da đi ra. Y hiểu ngay là mình đang bị rình rập và theo dõi. Tuy y là người gan góc, nhưng cũng cảm thấy chột dạ. Y biết quá rõ tình hình ở Ba Lê lúc ấy để nhận định mối nguy cơ mà y đang gặp phải.
      Một viễn cảnh rùng rợn đã phô bày trước mắt y: bị theo dõi, bị bắt giữ, bị đem ra xử án và đưa lên máy chém. Đó là cách thức làm việc thông thường và mau lẹ của cái gọi là Luật Pháp dưới chế độ đương thời! Tim y đập mạnh, hơi thở dồn dập, y tìm cách lẩn tránh cái bóng đen đang rình mò y trên quãng đường vắng.
      Một lúc sau đó, Linh Đông đi vào một con đường nhỏ cong queo khúc khủy và lọt vào một khu đầy những ngỏ ngách chằng chịt như mê cung. Y nhìn lại phía sau thì không thấy người theo dõi y đâu nữa, khi đó, do một con đường tắt, y đi rảo bước và nhắm hướng trở về nhà. Khi y vừa ra tới một con đường cái, thì một người đi đường đầu đội nón sụp xuống tận mắt và khoác áo tơi che kín cổ, bước lại gần y và nói nhỏ:
      - Linh Đông! Anh đang bị theo dõi! Hãy đi theo tôi!
      Người ấy nói xong, bèn tiếp tục đi trước mặt y để dẫn đường. Kế đó, y thấy người kia đi tạt ngang qua lề đường và rẽ vào một ngôi nhà cửa đã hé mở sẵn ở một bên đường lộ. Người ấy mà y không nhìn thấy rõ mặt trong cái áo tơi rộng phủ kín đến mang tang, ra dấu cho y bước vào. Linh Đông bèn rón rén bước vào cửa và cánh cửa liền khép lại. Y nín hơi thở, vẫn không hỏi một câu nào, y đi theo người kia bước lên một cầu thang rộng rãi, và đi xuyên qua những gian phòng trống trơn. Sau cùng, khi hai người đi vào một gian phòng nhỏ, người lạ mặt bèn bỏ mũ và áo tơi ra, thì Linh Đông lấy làm ngạc nhiên vô cùng mà nhận ra người ấy là... Zanoni.
      Zanoni mời Linh Đông ngồi xuống ghế và nói:
      - Ở đây, anh được an toàn. Anh thật là có phước mà được tôi tìm thấy ở tại đây.
      Linh Đông đáp:
  - Riêng tôi, có lúc tôi đã nghĩ rằng tốt hơn chúng ta không nên gặp lại nhau! Tuy vậy, trong những giờ phút nầy, tôi cũng thấy vui gặp lại nhân vật kỳ bí và chẳng lành, đã từng đem đến cho tôi tất cả những nỗi đau khổ trong đời. Ở đây, ít nhất ông cũng phải nói thật cho tôi biết. Trước khi chúng ta chia tay, tại đây, ông hãy cho tôi biết điều bí ẩn lạ lùng của đời ông hoặc nếu không, thì ít nhất cũng của đời tôi!
      Zanoni nói với một giọng thương hại:
      - Anh đã đau khổ ư? Hỡi người sơ cơ đáng tội nghiệp! Phải, tôi đã thấy điều đó trên gương mặt anh. Nhưng tại sao anh lại quy trách nhiệm cho tôi? Tôi há chẳng đã cảnh giác anh từ trước về những ngẫu hứng nhất thời của anh sao? Tôi há chẳng đã cho anh biết trước rằng cuộc thử thách thật là khủng khiếp và tai hại hay sao? Thậm chí, hỡi Linh Đông, tôi há chẳng hiến cho anh tình yêu của người con gái ấy hay sao? Một tình yêu khá mãnh liệt để có thể làm cho tôi được sung sướng khi nàng thuộc về tôi? Phải chăng anh đã táo bạo mà quyết tâm chọn lựa con đường khó khăn để đương đầu với cuộc thử thách? Chính do ý muốn của anh mà anh đã tôn Kiềm Mâu làm thầy và chọn con đường Huyền Môn làm mục đích của cuộc đời.
      - Nhưng do bởi ai mà tôi nảy sinh ra những ý muốn mãnh liệt khó cưỡng lại được, để chọn khoa Pháp Môn lạ lùng và tai hại đó? Tôi không hề biết gì về việc ấy trước khi gặp ông, và chính ông đã lôi cuốn tôi vào trong bầu không khí mê hoặc của ông đấy thôi! Ông có chịu nhìn nhận rằng ông là một kẻ bịp đời chăng? Hoặc ông có dám nói cho tôi biết rằng ông đã tự bán mình cho Ma Quỷ? Và thú nhận rằng ông chỉ là một tay phù thủy lợi hại, đã để cho tà ma ám ảnh tôi ngày đêm ?
      Zanoni nói:
      - Có quan hệ gì mà biết tôi là ai? Điều quan hệ là hãy biết rằng tôi có thể giúp anh để trục xuất loài yêu nghiệt và đem anh trở về cuộc sống bình thường. Để đạt tới mục đích ấy, anh hãy biết rằng tôi không phải là một người phù thủy hay một kẻ thù. Tôi không thể cho anh những gì nó không phù hạp với khả năng của anh. Tôi không thể hoàn thành nơi anh những gì mà Kiềm Mâu đã không làm được. Nhưng tôi có thể đem lại cho anh một điều quý báu: đó là làm cho anh được an thuận với thế gian, trở về với cuộc sống bình thường của mọi người, và đem lại cho anh sự bằng an trong nội tâm.
    - Ông hứa chắc không?
      - Tôi hứa như vậy, nhân danh mạng sống của hai mẹ con nó!
      Linh Đông nhìn chàng với sự tin tưởng trong lòng. Y thì thầm cho chàng biết địa chỉ của Kiều Dung, tại đó những cuộc viếng thăm của y đã đem đến tai họa bất ngờ.
      Zanoni nói với một niềm hứng khởi trong lòng:
-         Cầu xin ân phước được ban xuống cho anh. Anh há không biết rằng ở ngưỡng cửa của các cõi trên, luôn luôn có những tà ma, ác quỷ canh gác và coi chừng? Anh đã dám phiêu lưu đột nhập vào vùng cấm địa, làm cho loài yêu ma đã xuất hiện trước mắt anh, và nó sẽ không dứt ám ảnh cho đến khi nào anh có thể vượt lên cõi không gian vô tận như các đấng Thiên Thần, hoặc là trở về cuộc sống bình thường một cách hồn nhiên như đứa trẻ con! Nhưng anh hãy trả lời cho tôi biết: mỗi khi anh có lòng hướng thiện và quay về đạo đức, con Ma thình lình xuất hiện một bên anh, làm cho anh thất vọng, sợ hãi, lại muốn đắm chìm trong những cảnh ăn chơi trụy lạc và lăn lóc trong những chốn náo nhiệt phồn hoa. Trong khi đó nó nhường chỗ cho những kẻ thù còn độc ác hơn nó để làm cho sa đọa linh hồn anh, có khi nào anh đã can đảm chống cự lại nó và đương đầu với sự khủng khiếp mà nó gây cho anh chăng? Có khi nào anh tự nhủ rằng: "Dầu việc gì xảy ra, tôi cũng sẽ nắm vững lấy cuộc đời đạo hạnh chăng?"
 Linh Đông đáp:
      - Hỡi ôi! Chỉ có mới gần đây tôi mới dám làm như thế!
      - Và anh cảm thấy rằng khi đó loài yêu ma trở nên lu mờ dần, và quyền lực của nó đã yếu bớt?
      - Đúng vậy.
      - Vậy anh nên mừng đi! Anh đã vượt qua được cái điều khủng khiếp thật sự và nắm cái bí quyết của cơn thử thách. "Muốn thắng" tức là đã đạt được sự thành công đầu tiên. Anh hãy vui đi, vì sự trừ tà tróc quỷ sẽ có kết quả chắc chắn. Anh không phải là hạng người chối bỏ cái ý niệm về cuộc đời sau, và bởi đó trở thành nạn nhân của lực lượng hắc ám. Ôi! Bao giờ cho loài người hiểu được rằng nếu Tôn Giáo đề cao Đức Tin, ấy không phải chỉ vì Đức Tin đưa đến cuộc đời sau mà thôi, và bởi vì nếu không có Đức Tin, nếu không có một cái gì minh triết sáng suốt hơn, một cái gì thánh thiện và thiêng liêng hơn cuộc đời trần gian nặng trọc nầy, thì con người không có lẽ sống vững bền chân thật. Người nghệ sĩ có lý tưởng, nhưng vị giáo sĩ có đức tin. Lý tưởng và đức tin đều có ý nghĩa riêng của nó, nhưng tựu trung cả hai đều hòa hợp làm một.
-        
      Hỡi người lãng tử lạc loài cô đơn, hãy trở về với cuộc sống bình thường của thế gian. Hãy cố gắng tìm hiểu những gì là cao đẹp và thánh thiện trong đời sống hằng ngày. Và hỡi loài Yêu Nghiệt, hãy rút lui về bóng tối của Ngưỡng Cửa. Hãy thối lui cho mau, loài quỷ quái Vô Thường! Và hỡi đấng Cao Xanh vời vợi, xin Ngài hãy ban ân huệ tốt lành cho tâm hồn trẻ con nông nổi nầy, xin Ngài hãy soi sáng tâm linh y ngày cũng như đêm bằng ánh sáng của Hy Vọng.
      Zanoni vừa nói vừa đặt nhẹ bàn tay lên hai màn tang nóng bỏng như lửa của Linh Đông. Y lấy làm ngạc nhiên và run lên vì sung sướng. Khi đó y dường như rơi vào một cơn hôn mê, thình lình y cảm thấy như đang sống tại cuộc đời thơ ấu trong ngôi nhà của cha mẹ y trước kia, với bao nhiêu kỷ niệm êm đềm của tuổi xanh ngây thơ vô tội. Những hình ảnh rùng rợn khủng khiếp đã từng theo dõi, ám ảnh, làm cho y đến muốn phát điên, nay đã biến tan đi đâu mất. Y cảm thấy dường như y đã quỳ gối và cầu nguyện. Kế đó, y tỉnh lại... y đã tỉnh giấc với những giọt lệ rơi trên hai má, đó là những giọt nước mắt sung sướng vì y cảm thấy rằng loài yêu ma đã vĩnh viễn thối lui. Y nhìn chung quanh: Zanoni đã biến mất dạng. Trên bàn có một mảnh giấy với mấy giòng chữ, mực hãy còn ướt:
      "Tôi sẽ vạch một lộ trình và có những phương tiện chắc chắn để giúp anh trốn thoát. Tối nay, khi đồng hồ điểm chín giờ, một chiếc tàu sẽ đưa anh đến một nơi trú ẩn an toàn cho đến khi Triều Đại Khủng Bố, nay đã gần đến hồi kết thúc, đã hoàn toàn sụp đổ. Anh hãy từ bỏ cuộc đời bê tha trác táng nó đã làm cho anh đi lạc đường và suýt bỏ mạng. Hãy trở về xứ sở của anh để sống an toàn. Anh sẽ còn nhiều năm trước mắt để suy gẫm về cuộc đời đã qua và để cứu chuộc lại dĩ vãng. Còn về tương lai, hãy lấy lý tưởng làm đuốc soi đường, và lấy nước mắt làm nước thánh rửa tội!]"
      Linh Đông tuân theo một cách chặt chẽ những lời dặn dò khuyên bảo, và nhận thấy rằng về sau tất cả đều hoàn toàn được thực hiện.

Quần Chúng Sôi Động
  Thơ Zanoni gửi Kiềm Mâu:"Nàng đã bị bắt giam, theo lịnh của Robert! Theo sự tìm tòi khám phá của tôi, thì nguyên nhân là do Linh Đông. Đó là mối liên hệ rùng rợn nó nối liền định mệnh của họ với nhau mà tôi không thể nào gỡ được. Mối liên hệ đó trước đây vẫn bao phủ Linh Đông bằng một đám mây mù nó che ám nhỡn quang của tôi không cho tôi tìm thấy nàng. Bị bắt! Bị giam! Đó là cái cửa ngỏ đưa vào nhà mồ! Phiên xử án và thọ hình sẽ đến trong ba ngày tới đây. Tên bạo chúa đã định ngày chém tập thể vào mồng mười. Trong khi cái chết của những kẻ vô tội làm sôi động cả thành phố, thì những bộ hạ của y sẽ tàn sát những kẻ thù. Chỉ còn lại một niềm hy vọng duy nhất, là Đấng Tối Cao sẽ xử tội tên bạo chúa, và sẽ dùng tôi làm cái khí cụ để hạ bệ nó. Nhưng tôi chỉ còn có hai ngày nữa thôi. Sau hai ngày đó, là âm u, cô quạnh, nhưng tôi còn có thể cứu nàng. Tên bạo chúa sẽ vong mạng trước ngày mà y đã định thi hành vụ hành quyết tập thể. Đây là lần đầu tiên mà tôi can thiệp vào những vụ âm mưu, sát phạt của loài người! Linh hồn tôi, trong cơn thất vọng não nề, đã nhất định xông xáo hăm hở nhảy vào vòng chiến."
      Một cuộc tập hợp quần chúng đã diễn ra chung quanh đường Thánh Hô Nô Rê. Một người thanh niên vừa bị bắt theo của lịnh của Chủ Tịch Robert. Đó là người nhà của Tạ Liên, lãnh tụ phe Đối Lập ở Quốc Hội, người mà cho đến nay, vị bạo chúa vẫn do dự chưa dám xuống tay. Vụ bắt bớ nầy chắc chắn sẽ gây một cơn sôi nổi dư luận còn trầm trọng hơn là một vụ bắt bớ thường, coi như một việc quá quen thuộc dưới Triều Đại Khủng Bố. Trong đam đông, có nhiều bạn bè thân hữu của Tạ Liên là những kẻ thù của bạo chúa, và nhiều công dân đã quá chán ngán mà thấy con cọp dữ giết hại quá nhiều người, từ nạn nhân nầy đến nạn nhân khác. Người ta nghe trong đám đông có những tiếng chửi rủa ồn ào báo hiệu những việc chẳng lành, những cái nhìn tức giận đương đầu với những nhân viên mật vụ đang tóm cổ nạn nhân. Tuy họ không dám công khai chống cự, những người ở phía sau xô đẩy những người ở trước ào tới và chận nghẽn con đường của kẻ tù nhân cùng đám nhân viên công lực đi qua. Người thanh niên thấy vậy bèn vùng vẫy để thoát thân, đám đông bèn mở đường cho y chạy thoát và khép chặt hàng ngũ lại chung quanh để bảo vệ cho y khi y chạy lủi vào đám rừng người. Nhưng thình lình, tiếng vó ngựa của một đoàn quân kỵ mã vang rền dồn dập trên vệ đường lót đá: tướng Hăng Ri và đoàn kỵ binh của y xung phong đột kích vào đám đông. Dân chúng sợ hãi bèn chạy vẹt ra hai bên, và người tù nhân lại bị bắt trở lại. Trong khi đó, có người thì thầm vào tận tai của người bị bắt:
      - Cái thơ anh đang giữ trong mình sẽ có hại cho anh nếu nó lọt vào tay người khác. Anh hãy đưa đây cho tôi! Tôi sẽ trao lại cho Tạ Liên!
      Người tù nhân ngạc nhiên day đầu nhìn lại, và thấy trong đôi mắt của người lạ mặt vừa thốt ra câu ấy có một cái gì dường như khích lệ. Đoàn kỵ binh thúc ngựa xáp lại gần, tên cảnh binh vừa tóm cổ người thanh niên bèn tránh qua một bên. Thừa dịp thuận tiện người tù nhân bèn giúi bức thơ vào tay người lạ mặt, người nầy bèn mất dạng trong đám đông.
      Những người thù nghịch với bạo chúa Robert đang tựu họp tại tư gia của Tạ Liên. Tất cả các chi phái đã tạm thời quên đi những sự bất đồng chia rẽ giữa họ với nhau để kết liên thành một khối chống lại nhà độc tài đã chà đạp lên tất cả mọi đảng phái đối lập và cai trị với một bàn tay sắt máu. Trong buổi hội họp ấy có Lê Công, kẻ thù công khai của bạo chúa, Ba Rê, anh hùng của những kẻ nhút nhát, còn mơ tưởng việc hòa hợp tất cả những cực đoan, Ba Rát, con người bình tĩnh và nghiêm nghị, Đê Boa đầy sát khí và hận thù, và không thấy rằng những tội ác của Robert cũng không hơn những vụ tàn sát đẫm máu của y bao nhiêu!
      Cuộc thảo luận có vẻ sôi nổi và lộn xộn. Chế Độ Khủng Bố, nó đã tạo nên sự thành công liên tục và làm nổi bật cái nghị lực phi thường của Robert, vẫn còn ảnh hưởng đến phần đông những người đến dự buổi họp. Tạ Liên, người mà bạo chúa e sợ hơn cả, là người duy nhất có thể đứng ra điều khiển bao nhiêu những ý tưởng tương phản đối nghịch nhau. Nhưng chính y cũng đã có những hành động tàn nhẫn và không thể không cảm thấy lúng túng, ngượng ngùng trong vai trò đối lập ôn hòa. Sau khi Lê Công đã đọc một bài diễn văn hùng hồn, Tạ Liên nói:
- Tên soán nghịch thật sự đã hăm dọa tất cả chúng ta. Nhưng y vẫn còn được quần chúng mến yêu, y vẫn còn được các đảng viên Jacobins hậu thuẫn đắc lực, nên tốt hơn là hãy đình chỉ mọi hành động công khai thù nghịch cho đến khi thời cơ thuận tiện hơn. Một âm mưu bị thất bại sẽ đưa chúng ta lên máy chém. Uy quyền của y càng ngày càng suy giảm, sự kéo dài thời gian chờ đợi là biện pháp tốt nhất của chúng ta.
      Khi Tạ Liên đang cố gắng xoa dịu cử tọa, thì có người vào báo tin có một người lạ mặt muốn vào gặp y về một việc khẩn cấp. Nhà diễn giả mất bình tĩnh, đáp:
      - Tôi không có thời giờ để tiếp ai vào giờ nầy.
      Nhưng người đưa tin đặt một mảnh giấy lên bàn. Tạ Liên mở ra xem thấy vài chữ viết bằng bút chì:
      "Có thơ của Tê Rê Sa viết trong nhà ngục."
      Y bèn đứng dậy, đi mau ra hành lang, thì thấy một người hoàn toàn xa lạ không hề quen biết. Người lạ mặt nói:
      - Người gia bộc của ông đã bị bắt giữa đường. Tôi đã cứu mạng cho ông và cho người vợ tương lai của ông. Đây là bức thơ của bà Tê Rê Sa.
      Tạ Liên mở bức thơ với một bàn tay run rẩy và đọc:
      "Phải chăng tôi vẫn cứ khẩn cầu anh một cách vô ích? Một lần nữa, tôi cho anh biết: đừng để mất một giờ nào nếu anh muốn giữ mạng sống của anh và cả của tôi. Ngày xử án và hành quyết tôi đã định vào mồng mười, trong ba ngày tới đây. Anh hãy hành động ngay khi còn kịp thời giờ, hãy hạ bệ tên bạo chúa. Anh còn được những hai ngày nữa. Nếu anh do dự, nếu anh trì hoãn, thì anh sẽ thấy tôi một lần cuối cùng trên chiếc xe cây đi qua cửa nhà anh để lên máy chém.
      Người lạ mặt nói:
      - Bản án nầy sẽ liên hệ tới ông. Cái chết của bà sẽ đưa đến cái chết của ông. Ông đừng sợ dư luận quần chúng. Quần chúng đã sẵn sàng giải thoát cho người gia nhân của ông. Ông đừng sợ Robert, y sẽ tự đến nạp mình cho ông tấn công. Ngày mai y sẽ đến Quốc Hội, ngày mai, ông phải đánh một ván bài sống chết với cái đầu của ông và cái đầu của y.
      - Ngày mai y đến dự Quốc Hội sao? Và ông là ai mà biết rõ cả những việc mà tôi không biết?
      - Một người cũng như ông, muốn cứu người đàn bà mà mình yêu.
      Tạ Liên còn chưa hết ngạc nhiên và chưa kịp làm một cử chỉ để giữ người ấy lại, thì người lạ mặt đã lui gót và mất dạng. Khi Tạ Liên trở lại phòng khách, y đã đổi thái độ và nói:
      - Tôi vừa có tin tức - các bạn không cần biết là tin gì - nó làm cho tôi phải sử đổi kế hoạch. Ngày mai Robert sẽ đến dự Quốc Hội. Chúng ta phải tấn công và đè bẹp y. Ngày mai, chúng ta sẽ trả thù cho Danton. Vergniaud và Condorcet. Ngày mai chúng ta sẽ hạ thủ.
      Ba Rê bỗng trở nên táo bạo trước sự can đảm của người bạn đồng nghiệp, bèn kêu to:
- Phải hạ thủ! Chỉ có những người chết mới không còn trở lại!
      Người ta nhận thấy rằng trong ngày và đêm đó, có một người lạ mặt xuất hiện ở nhiều nơi trong thành phố: trong những hàng quán, những câu lạc bộ và những nơi hội họp tại trụ sở các đảng phái, và trước sự ngạc nhiên kinh sợ của những người chung quanh, y phát ngôn lớn tiếng về những tội ác của Robert và tiên đoán sự sụp đổ sắp đến của nhà độc tài.

Trong khi nói năng hùng biện, người ấy khích động lòng người, làm tiêu tan sự sợ sệt của mọi người chung quanh, nhen nhúm trong lòng họ ngọn lửa thù hận và gây cho họ một tinh thần dũng mãnh phi thường. Nhưng điều làm cho người ta ngạc nhiên hơn hết là không ai phản đối lại cũng không có người nào bắt giữ y hay thốt lên câu: "Hãy bắt tên phản bội!" Tình trạng đó rõ ràng là chứng tỏ rằng dân chúng đã chán và không còn ủng hộ nhà độc tài khát máu. Chỉ có một lần, một đảng viên Jacobins cao lớn vạm vỡ đang ngồi uống rượu trong quán, thình lình xốc tới gần người lạ mặt đang diễn thuyết và nói:
      - Nhân danh nền Cộng Hòa, tôi bắt ông!
      Người lạ mặt nói thấp giọng vừa đủ nghe:
      - Hỡi công dân Ari! Anh trở về văn phòng của Robert, y đã đi vắng. Trong túi áo ngoài mà y vừa cởi ra cách đây không đầy một giờ, anh sẽ thấy có một mảnh giấy. Khi anh đã đọc xong, anh hãy trở lại đây, và nếu anh còn muốn bắt tôi, tôi sẽ không chống cự. Bây giờ, anh hãy nhìn xem những bộ mặt hung tợn của những người đang đứng chung quanh đây: nếu anh đụng tới mình tôi là anh sẽ chết không kịp ngáp!
      Tên Jacobins buộc lòng phải vâng lời một cách miễn cưỡng. Y vừa đi ra vừa lầm bầm, một lát sau, khi y trở lại thì người lạ mặt vẫn còn ở chỗ đó. Y liền nói mau:
      - Cám ơn ông! Mẹ kiếp! Thằng xỏ lá đã biên tên tôi trên bản danh sách những người bị đưa lên máy chém!
      Nói xong, Ari bèn nhảy lên bàn, khoa chân múa tay và hét lớn: "Đả đảo tên bạo chúa!"

Sự Thất Bại Của Robert

Sáng ngày mồng tám, Chủ Tịch Robert đi dự Quốc Hội. Y đã chuẩn bị sẵn sàng bài diễn văn soạn rất công phu tỉ mỉ. Tất cả những nhân vật vây cánh trong đảng đã sẵn sàng tiếp đón y. Tay hung thần Sanh Juýt, vừa từ quân đội trở về để trợ giúp lòng can đảm và tưới dầu vào lửa thù hận căm giận của y. Sự xuất hiện của y báo hiệu chẳng lành và sẽ Quốc Hội vào một con đường khủng hoảng bế tắc.
      Y mở đầu bài diễn văn bằng việc đính chánh, phủ nhận những sự bất công, những lời vu khống và những tin đồn bất hảo chung quanh sự cai trị bằng bàn tay sắt máu của y. Y bác bỏ và lên án danh từ "bạo chúa" mà người ta gán cho y.
      Giữa chừng, y ngừng lại. Cửu Thông lấy khăn chùi mắt. Sanh Juýt tỏ vẻ tán thành trong y phóng cái nhìn nghiêm khắc vào những hàng ghế của phe Đối Lập đang giữ thế thủ. Một cơn im lặng rùng rợn và giá lạnh như băng đè nặng lên hội trường. Lời kêu gọi của diễn giả không gây được một tiếng vang! Nhà độc tài nhìn chung quanh khắp một lượt. Y phải phá tan sự thờ ơ lãnh đạm nầy. Y bèn tiếp tục, y không tự bào chữa, tự đề cao mình nữa, cũng không than vãn, trách móc nữa, y tố giác, y lên án. Nhưng con mãng xà phun nọc độc, y lên án tất cả, nào là quốc gia, rồi ngoại bang, nền tài chánh, chiến tranh, và tất cả...
      Trong suốt hai giờ đồng hồ, trước một cử tọa lạnh lùng, thù nghịch, giọng nói đanh thép của Chủ Tịch Robert thốt lên một bài diễn văn đầy sát khí. Bắt đầu trong sự im lặng, nó vẫn kết thúc trong im lặng. Những kẻ đối nghịch không dám bày tỏ sự căm hờn thù hận vì họ chưa biết rõ cán cân lực lượng của các đảng phái nghiêng về bên nào. Một mặt khác, những bè phái vây cánh của Robert lại do dự không dám vỗ tay hoan hô, vì họ không biết rõ người nào trong giới bạn bè thân quyến của họ sẽ bị tố giác! Họ thì thầm riêng với nhau: "Hãy coi chừng, y đang hăm dọa anh đấy!"
      Tuy vậy, mặc dầu cơn im lặng lạnh lùng, toàn thể cử tọa hầu như sắp bị thuyết phục. Từ con người lợi hại đó vẫn toát ra cái ảnh hưởng của một ý chí cang cường sắt thép. Dầu sao, những lời nói hùng hồn đanh thép đó vẫn còn hiệu lực, khi nó được thốt ra từ cửa miệng của một người mà, chỉ với một cử chỉ gật đầu hay vẫy tay ra hiệu, cũng đủ huy động các đạo binh của tướng Hăng Ri, và ảnh hưởng đến sự phán quyết của Chánh Án Duy Mật, vị Chủ Tịch rùng rợn của Tòa Án Cách Mạng.
      Từ hàng ghế Đối Lập, Tạ Liên lấy làm bất mãn và tức giận, bèn đưa mắt nhìn lên hàng ghế dành cho các quan khách ngoại quốc được phép theo dõi cuộc bàn cãi tại Quốc Hội. Thình lình, y nhìn thấy đôi mắt của người lạ mặt đã đem thơ của Tê Rê Sa đến cho y hôm vừa qua. Đôi mắt đó dường như có một cái mãnh lực nhiệm mầu, đem đến cho y một luồng sinh khí mới và tăng gia lòng can đảm của y một cách bất ngờ. Tạ Liên bèn đứng dậy và nói thì thầm với các bạn đồng chí vài lời. Sự can đảm của y có tác dụng truyền nhiễm. Những người mà Robert vừa tố giác và cảm thấy sắp bị lâm nguy như chỉ mành treo chuông, đồng thanh đứng dậy cùng một lượt. Tất cả đều đòi lên phát biểu ý kiến, ai cũng đòi lên diễn đàn tức khắc.
      Vát Đê nói trước tiên, rồi kế đó là những người khác nói tiếp theo. Phe Đối Lập đã có dịp gầm thét như hỏa diệm sơn phun lửa. Từng người một, họ đăng đàn để chĩa mũi dùi tấn công vào Robert và tuôn ra những nỗi căm hờn uất hận bị đè nén dồn dập trong tâm can từ bấy lâu nay. Robert cảm thấy bối rối, do dự, tìm cách tự bào chữa, tìm lối thoát. Phe Đối Lập thấy thế lại càng tăng thêm lòng hứng khởi và can đảm. Họ chận ngang lúc y còn đang nói giữa chừng, họ la hét để khỏa lấp tiếng nói của y. Giang phòng Quốc Hội bỗng trở nên ồn ào, náo loạn ầm ĩ! Robert im lặng, nhưng vẫn tỏ thái độ kiêu hãnh thách thức. Mặt tái nhợt, bị thua trận những vẫn chưa ngã quỵ, y vẫn hiên ngang đứng thẳng người, giống như một cây cổ thụ giữa một cơn giông bão!
      Quốc Hội đã biểu quyết bác bỏ bài diễn văn của Robert. Trong sự thất bại nầy, mọi người đều nhìn thấy trước sự sụp đổ của nhà độc tài. Một tiếng kêu lẻ loi bỗng vang lên ở một góc phòng. Nó được mọi người chuyền nhau lập lại khắp vòng cung hình bán nguyệt của hội trường, và trở thành một khẩu hiệu chung của toàn thể Quốc Hội: "Đả đảo độc tài! Nền Cộng Hòa muôn năm!"
      Khi Robert vừa rời khỏi Quốc Hội, một cơn im lặng thâm trầm có tính cách báo điềm chẳng lành bào trùm cả đám đông dân chúng đứng đợi ở bên ngoài. Quần chúng, bất kỳ ở đâu và bất kỳ lúc nào cũng ngả về phía thắng lợi, và đàn chuột luôn luôn chạy trốn khỏi tòa nhà lầu sắp sụp đổ. Nhưng Robert nếu có thiếu can đảm, lại không thiếu sự kiêu hãnh, và cái nầy đôi khi cũng thay thế được cái kia. Vẻ mặt suy tư, vần trán bí hiểm, y rẽ lối đi qua đám đông, tay vịn lên vai của Sanh Juýt, có Bá Văn và người em cùng đi theo.
      Khi cả bọn cùng đi đến chỗ công trường, Robert thình lình phá tan sự im lặng:
-                                - Có bao nhiêu cái đầu phải rụng vào ngày mồng mười?
      Bá Văn đáp:
      - Tám chục.
      - A! Không nên để lâu như vậy. Một ngày có thể làm mất cả một đế quốc, chế độ khủng bố phải còn phục vụ cho chúng ta nữa.
      Robert im lặng trong một lúc và nhìn dáo dác chung quanh với nét mặt băn khoăn. Thình lình y nói:
      - Sanh Juýt! Bọn chúng nó chưa tìm thấy thằng Ăng Lê, mà lời cung khai hoặc phiên xử án có thể giúp cho ta tài liệu để đập tan Tạ Liên và đồng bọn. Bọn mật vụ của chúng ta đã trở nên ngu ngốc và vô dụng. Nhưng chúng nó có bắt được một người đàn bà, chỉ có một mụ đàn bà ấy thôi.
      Sanh Juýt nói:
      - Chính bàn tay của đàn bà đã giết chết Marat.
      Robert ngừng hẳn và thở một cách khó khăn, rồi nói:
      - Sanh Juýt! Khi cơn sóng gió đã qua, chúng ta sẽ xây dựng một Thế Hệ Hòa Bình. Chúng ta sẽ xây cất những khu gia cư cho kẻ nghèo và những người già yếu. Họa sư David đã vẽ họa đồ thiết kế khu ấy. Những người đức hạnh sẽ được chọn lựa để giáo dục bọn thanh niên. Những tệ đoan xã hội sẽ không bị giết tận gốc, mà chỉ bị ngăn cấm thôi. Chúng ta chưa nên chết vô tội! Hậu thế không thể xét đoán chúng ta đã hoàn thành sứ mạng. Chúng ta đã tái lập Đấng Tối Cao: bây giờ chúng ta phải cải tạo lại cái xã hội mục nát. Tất cả sẽ là tự do, bình đẳng và bác ái. À nầy, Si Mông đâu? Sanh Juýt, anh đưa tôi cái bút chì...
      Robert viết vội vàng trên một mảnh giấy và nói:
      - Si Mông, anh hãy đem tờ giấy nầy cho Chánh Án Duy Mật. Hãy chạy đi ngay. Tám chục cái đầu nầy phải rụng vào ngày mai. Ngày mai, nghe chưa, Si Mông? Duy Mật sẽ xử án sớm hơn một ngày. Tôi sẽ viết thư cho Biện Lý Phúc Khuê sau. Chúng ta sẽ hội họp chiều nay tại trụ sở Đảng Jacobins. Chúng ta sẽ lên án cả toàn thể Quốc Hội và quy tựu chung quanh ta là những người bạn cuối cùng của Tự Do và của nước Pháp.
      Khi đó, cách một quãng ở phía sau lưng họ, vang lên một tiếng hoan hô:
      - Nền Cộng Hòa muôn năm!
      Mắt nhà độc tài phóng ra một tia thù hận:
      - Nền Cộng Hòa! Ha ha! Không phải vì cái... đồ vô lý đó mà chúng ta đã tiêu diệt cả một triều đại vững chắc tự muôn đời!
      Thế là phiên xử và hành hình các nạn nhân đã được định đoạt sớm hơn một ngày! Được hướng dẫn bởi cái bản năng huyền bí từ trước đến nay vẫn thúc đẩy mọi hành động của chàng, Zanoni đã nhận thấy rằng chàng đã hoài công vô ích. Chàng biết rằng Kiều Dung sẽ được cứu thoát nếu nàng có thể sống sót lại sau tên bạo chúa được một giờ. Chàng biết rằng Robert đã sắp đến ngày tận số, và ngày mồng mười mà y đã định trước đây làm ngày hành quyết các nạn nhân cuối cùng của y cũng sẽ là ngày mà chính y sẽ bị đưa lên máy chém. Tất cả những cố gắng và kế hoạch của chàng đều nhắm vào việc hạ bệ nhà độc tài và tiêu diệt luôn chế độ cai trị của y. Nhưng kết quả ra sao? Chỉ một tiếng nói của vị bạo chúa đã phá hỏng tất cả, và làm cho kết quả ấy thành con số không. Sự thọ hình của Kiều Dung đã bị rút ngắn hơn một ngày. Hỡi người thuật sĩ quá tự phụ muốn trở nên cái khí cụ của Đấng Vô Cùng, những mối nguy cơ đang hăm dọa nhà độc tài lại càng hối thúc thời gian hành quyết các nạn nhân cho sớm hơn mà thôi! Ngày mai sẽ rơi tám chục cái đầu, trong số đó có� cái đầu của người đẹp đã từng ấp ủ bên quả tim chàng! Ngày mai! Và tạm thời, trong khi chờ đợi, bạo chúa Robert vẫn bình yên như vại!

Andonai Xuất Hiện

Một lần nữa, trong cơn tuyệt vọng và đau khổ, Zanoni lại đắm chìm trong sự cô đơn u tịch để kêu gọi sự trợ giúp của những vị thiên sứ trong không gian. Trong cơn khủng hoảng tinh thần đang dày vò tâm hồn chàng, còn có một quyền năng mà chàng chưa kêu gọi đến...
      Lời kêu gọi của chàng đã được đáp ứng. Trong khoảnh khắc, một luồng ánh sáng trong như bạc tràn vào gian phòng khi chàng còn đang cầu nguyện. Thiên Thần Adonai xuất hiện giữa một vầng hào quang sáng rỡ bao phủ chung quanh, và ban cho người thuật sĩ một cái nhìn tràn đầy một tình thường vô biên. Nụ cười ưu ái của người dường như cũng làm cho toàn cõi không gian trở nên tươi sáng. Cũng như cái hoa tỏa ra chung quanh nó một mùi hương thơm, sự hiện diện của Thiền Thần phát ra trong không gian một niềm an lạc tuyệt vời. Giọng nói êm ái du dương của Thiên Thần vọng đến tai người thuật sĩ:
      - Ông đã hành động hợp lý. Sự can đảm của ông đã làm cho ông vớt vát được vài quyền năng đã mất. Một lần nữa, linh hồn ông đã thu hút được tôi đến với ông. Bây giờ, khi mà ông đã hiểu được [sự chết], ông đã trở nên minh triết hơn khi xưa, khi mà một tâm hồn thanh thản, ông chuyên lo học hỏi về những bí quyết của [sự sống]. Những rung cảm của tình người từ lâu nay vẫn trói buộc ông, bây giờ, trong những giờ phút cuối cùng của cuộc đời, mới đem đến cho ông cái di sản cao quý nhất của chủng tộc loài người, đó là: đời sống trường cửu bắt đầu ở nắm mồ!
      Zanoni nói:
      - Hỡi Thiên Thần! Con người vào lúc chết, thấy và hiểu được ý nghĩa của những điều bí hiểm từ trước vẫn khép chặt đối với y. Vào giờ nầy, khi mà sự hy sinh mạng sống của tôi cho một người khác, chấm dứt kiếp sống trường sinh của tôi trải qua nhiều thế hệ, tôi mới nhận thấy sự nhỏ nhen cạn hẹp của đời sống so với sự cao cả huy hoàng của cõi Chết! Nhưng, hỡi Thiên Thần cao cả, ngay lúc nầy, dẫu cho trước sự hiện diện của Ngài những liên hệ tình cảm của tôi vẫn còn làm cho tôi lo buồn. Để lại sau lưng tôi, trên cõi thế gian hung ác nầy, không người trợ giúp và không người bảo vệ, những người thân yêu vì họ mà tôi chịu chết! Vợ tôi! Con tôi! Hỡi Adonai, hãy giúp can đảm cho tôi trong cơn thử thách đau đớn nầy!
      Thiên Thần đáp với một giọng trách móc xen lẫn với một tình thương siêu nhiên thoát tục:
      - Với tất cả sự minh triết huyền diệu của ông, với tất cả quyền năng quán thông dĩ vãng và tiên liệu tương lai, ông vẫn còn thắc mắc về điều đó sao? Sức ông có là bao, đứng trước Đấng Thiêng Liêng điều khiển mọi sự và biết rõ tất cả? Có phải chăng ông nghĩ rằng sự có mặt của ông trên đời nầy có thể đem đến cho những người mà ông thương yêu, sự trú ẩn an toàn mà những kẻ nhỏ nhoi khiêm tốn nhất tìm thấy dưới cánh tay bảo vệ của Đấng Cha Lành ngự trên Trời? Ông đừng lo ngại gì cho tương lai của vợ con ông. Dù ông sống hay chết, cái tương lai của họ vẫn nằm trong tay của Đấng Tối Cao. Trong nhà ngục và trên máy chém, Thiên Nhãn của Ngài vẫn luôn luôn dòm ngó, che chở, tình thương của Ngài còn sâu đậm hơn tình thương của ông, sự dìu dắt của Ngài còn sáng suốt hơn của ông, quyền năng cứu khổn phò nguy của Ngài còn hiệu lức hơn của ông!!!
      Zanoni được thấm nhuần ân sủng thiêng liêng, bèn cúi đầu xuống trong im lặng, và khi chàng ngước mặt lên, thì nỗi âu lo cuối cùng đã tiêu tan không còn nữa. Thiên Thần Adonai đã biến mất dạng, nhưng ảnh hưởng huyền diệu toát ra từ sự hiện diện của Người dường như vẫn còn phảng phất trong gian phòng.
      Trong một phút xuất thần, Zanoni thả hồn phiêu diêu trong không gian, chan hòa cùng vạn vật và vũ trụ. Giữa những tòa nhà cổ điêu tàn ở ngoại ô thành La Mã, chàng nhìn thấy từ đàng xa người đồng môn của mình trên đường Đạo vẫn điềm nhiên lạnh lùng chăm chú vào những bài toán Thần Số và Kinh Kabala. Kiều Mâu đạo sư đang ngồi trong tịnh thất, bỗng cảm thấy rùng mình, bèn ngẩng đầu lên và trong thâm tâm lúc ấy người mới nhận ra rằng tinh thần của Zanoni đang thức động đến tâm linh của mình bằng đường lối thần giao cách cảm:
      - Hỡi Kiềm Mâu, tôi vĩnh viễn từ giã đạo huynh trên cõi thế gian nầy! Người đồng môn cuối cùng của đạo huynh sẽ không còn nữa! Tôi sẽ tự do bước qua bên kia cửa Tử, còn đạo huynh vẫn còn sống mãi với thời gian, và vào ngày Phát Xét cuối cùng, đạo huynh chắc vẫn còn sống để suy gẫm trên những nấm mồ của chúng tôi! Tôi bước vào cõi giới nơi đó linh hồn của những người thân yêu, vì họ mà tôi hy sinh cái xác thể bằng đất sét nầy, sẽ cùng tôi sum họp trong niềm vui trường cửu.
      Vào lúc sắp từ giã cuộc đời, tôi mới hiểu rằng bước Nhập Môn thật sự vào một đời sống thánh thiện và minh triết diệu hiền phải đi ngang qua những cửa của Thần Chết! Tôi đã nhận biết thế nào là cơn thử thách và chiến thắng thật sự... Hỡi Kiềm Mâu, hãy liệng quách đi cái bầu Kim Đơn của đạo huynh, hãy trút đi cái gánh nặng của bao nhiêu năm trường! Bất cứ nơi nào mà linh hồn đến trú ngụ, thì nó vẫn được đặt dưới sự chăm nom che chở của Đấng Trường Cửu muôn đời, là Đại Hồn thiêng liêng của mọi vật.

Sự Hy Sinh Của Zanoni

Sau cuộc hội họp tại trụ sở Đảng Jacobins, ông Chánh Án Duy Mật, Chủ Tịch Tòa Án Cách Mạng, bèn trở lại văn phòng làm việc. Cùng đi với ông, có hai người nữa, là những người đại diện cho công lý vào bạo lực của Triều Đại Khủng Bố: đó là Biện Lý Phúc Khuê và tướng Hăng Ri, chỉ huy quân đoàn phòng vệ thủ đôBa Lê. Bộ ba "Tam Đầu Chế" lợi hại nầy hội họp để bàn luận về những biện pháp sẽ áp dụng trong ngày hôm sau.
      Duy Mật nhìn xem bản danh sách những nạn nhân sẽ bị xử án vào sáng ngày mai và nói:
      - Đây là một bản danh sách khá dài! Tám chục bản án trong một ngày! Và lịnh của Robert rất rõ ràng, không thể có sự hiểu lầm được. Tất cả đều phải xử và hành quyết nội trong ngày mai.
      Biện Lý Phúc Khuê nói với một chuỗi cười ồn ào và thô bạo:
      - Có gì khó! Chúng ta phải đem tất cả bọn ra xử tập thể. Tôi biết cách nói với Bồi Thẩm Đoàn:
      "Hỡi các công dân, tôi chắc các đồng chí đều nhận rõ tội ác của các bị cáo chứ?" Ha ha! Bản danh sách càng dài, thì công việc lại càng giản dị!
Chánh Án Duy Mật day lại nói với tướng Hăng Ri:
      - Ngày mai, quần chúng sẽ đổ xô ra đường, tất cả các tầng lớp dân chúng đều nổi dậy. Rất có thể họ sẽ tìm cách ngăn chận các chuyến tù xa trên đường đi đến pháp trường. Đại tướng hãy cho lịnh báo động khẩn cấp, quân lính phải võ trang đầy đủ và chuẩn bị sẵn sàng. Hãy tảo thanh mọi con đường, và tuốt gươm chém bất cứ người nào muốn chận nghẽn các đường phố.
      Tướng Hăng Ri vỗ mạnh vào thanh gươm đeo bên hông làm cho Duy Mật giật mình đánh thót một cái, và nói:
      - Tôi hiểu lịnh của ông Chánh Án. Tôi sẽ không tha thứ kẻ nào vi phạm.
      Nói xong, y đứng dậy chào từ giã, rồi quay lưng bước ra ngoài. Trong phòng chỉ còn lại có hai người. Duy Mật nói với ông Biện Lý:
      - Tôi thấy có một nữ ngoại nhân trong bản danh sách, một người đàn bà Ý. Nhưng không thấy cô ta bị tố giác vì tội gì!
      - Cần gì cái đó, phải chém luôn cho đủ số chẵn. Tám chục nghe gọn hơn là bảy mươi chín!
      Khi đó một viên lục sự vào báo có khác đến viếng. Biện Lý Phúc Khuê có vẻ mệt mỏi, bèn cáo từ và rút lui. Chánh Án Duy Mật bèn cho mời người khách vào.
      Người khách lạ bước vào ngồi trước mặt Duy Mật và nói:
      - Thưa ông Chánh Án, mấy năm nay mắc bận rộn nhiều công việc đa đoan, không biết ông có nhớ chăng chúng ta đã từng gặp nhau xưa kia.
      Vị thẩm phán nhìn kỹ gương mặt của người khách lạ, và đôi gò má tái nhợt của ông ta hơi có sắc trở lại.
      - Có, hỡi công dân, tôi nhớ ra rồi.
      - Chắc ông cũng nhớ cả những lời tôi nói khi đó? Hồi đó ông có bày tỏ lòng bất mãn về việc áp dụng án tử hình. Ông vui mừng mà tin tưởng rằng Cách Mạng sẽ chấm dứt mọi hình phạt đổ máu. Ông đề cao chánh trị gia Robert khi ông ta nói rằng: "Người đao phủ là một phát minh của những tay bạo chúa!" Tôi có cho biết khi ông nói như vậy, thì tôi có cái linh cảm rằng chúng ta có ngày sẽ lại gặp nhau, và chừng đó thì những quan điểm của ông về sự chết và triết lý cách mạng cũng sẽ thay đổi. Ông thấy tôi nói có đúng không, hỡi công dân Duy Mật, Chủ Tịch Tòa Án Cách Mạng?
      Duy Mật có vẻ hỡi lúng túng và nói:
      - Ôi! Hồi đó tôi nói như người ta nói khi mà họ chưa bắt tay vào việc. Những cuộc Cách Mạng không phải được thực hiện bằng nước hoa hường! Nhưng thôi, hãy bỏ qua những chuyện nói chơi của thời quá khứ! Tôi cũng nhớ rằng hồi đó ông có cứu mạng cho một người bà con của tôi, và chắc ông sẽ vui lòng mà được biết rằng tên thủ phạm vụ ám sát đó sẽ bị chém đầu vào ngày mai.
      - Điều đó chỉ có liên hệ tới ông và việc làm của ông thôi. Xin ông cho phép tôi nhắc lại lời hứa của ông hồi đó rằng "nếu tôi có dịp nào cần đến ông, thì ông sẽ ra công khuyển mã để đền đáp." Hỡi quan Tòa nghiêm khắc, ông đừng tưởng rằng tôi đến để cầu xin một ân huệ nào có thể ảnh hưởng đến cá nhân ông. Tôi đến chỉ để xin dời phiên xử án lại một ngày sau cho một người khác.
      - Không thể được, hỡi công dân! Tôi đã được lịnh của Chủ Tịch Robert rằng tất cả những người có tên trên danh sách của tôi, phải đem ra xử án vào ngày mai, không sót một người. Còn bản án như thế nào, thì còn tùy sự phán quyết của Bồi Thẩm Đoàn.
      - Tôi không muốn xin ông giảm bớt số người trên bản danh sách. Xin ông hãy nghe tôi nói đây! Trên bản danh sách ấy có tên của một người đàn bà Ý, trẻ đẹp, vô tội, không những không có gây nên một tội lỗi gì, mà không còn ai có thể nghi ngờ hay tố giác một vi phạm nào cả. Chính ông, hỡi công dân Duy Mật, ông cũng không thể nào đọc bản án tử hình cô ta mà lòng không run sợ. Thật là nguy hiểm nào nếu có ngày quần chúng nổi dậy và ngăn chận các chuyến tù xa đi ra pháp trường, rồi họ sẽ nhìn thấy bao nhiêu người trẻ, đẹp và vô tội bị đưa đi hành hình, và họ sẽ nghĩ thế nào?
Duy Mật ngước mắt lên, và lại cúi mặt xuống dưới cái nhìn của người khách lạ. Y nói:
      - Hỡi công dân, tôi không phủ nhận những điều ông vừa nói, nhưng lịnh trên phán xuống không thể đổi được.
      - Không thể đổi số nạn nhân mà thôi. Bởi vậy tôi đề nghị thay thế một nạn nhân khác vào chỗ của người đàn bà mà tôi muốn cứu. Tôi xin thế vào đó cái đầu của một người biết rõ một vụ âm mưu hiện nay đang hăm dọa Chủ Tịch Robert và luôn cả ông. Và nếu ông biết rõ chuyện nầy, ông sẽ nhận thấy rằng dẫu thả hết tám chục người để đổi lấy cái đầu đó cũng còn có lợi rất nhiều.
      Duy Mật sáng mắt lên và nói mau:
      - A! Đây lại là một vấn đề khác! Nếu ông có thể làm được như vậy, tôi sẽ sử dụng quyền hạn và trách nhiệm của tôi để đình chỉ phiên xử người đàn bà Ý lại một ngày. Bây giờ, ông hãy nói tên người kia đi!
      - Người ấy đang đứng trước mặt ông!
      Duy Mật kêu lên trong sự ngạc nhiên, với một vẻ sợ hãi lộ trên nét mặt:
      - Ông sao? Ông? Và ông đến đây giữa lúc đêm khuya, để tự nạp mình cho công lý? A! Đây là một cạm bẫy! Ông hãy run sợ đi! Hỡi con người điên rồ! Ông đang ở trong tay tôi, và tôi có thể quyết định số phận của cả hai người luôn thể!
      Người khách lạ nói với một nụ cười bình tĩnh và ngạo nghễ:
      - Ông có thể, nhưng mạng sống của tôi không có ích lợi gì cho ông nếu tôi không tiết lộ ra những điều bí mật. Ông hãy ngồi yên và nghe tôi nói: ông cứ bắt tôi giam vào khám lớn, và đem ra xử cùng một lượt với bảy mươi chín người kia vào ngày mai, dưới cái tên là Zanoni. Nếu những điều do tôi tiết lộ không làm ông thỏa mãn, chừng đó ông vẫn có thể bắt giữ lại người đàn bà mà tôi muốn cứu bằng cái chết của tôi. Tôi chỉ xin đình hoãn phiên xử cho cô ấy có một ngày thôi. Ngày mốt, tôi đã trở thành cát bụi và ông có thể trả thù đối với sinh mạng của người còn nằm trong tay ông.
      Hỡi ông Chánh Án, bút và mực đây! Ông hãy viết trát lịnh cho người cai ngục rằng ông đình chỉ phiên xử người đàn bà Ý lại một ngày, và tôi sẽ đích thân đem tờ trát ấy đến nhà giam của chính tôi. Để chứng thật những gì tôi có thể tiết lộ cho ông biết, ngày từ giờ phút nầy, tôi có thể nói rằng tên ông đã được ghi trên bản danh sách những kẻ phải "đền nợ máu" đối với nhân dân. Tôi có thể nói cho ông biết bàn tay nào đã viết ra bản danh sách đó, và những ai sẽ đứng ra lật đổ triều đại của Robert và những người cộng tác.
      Duy Mật tái mặt, và đôi mắt y tìm cách lẩn tránh cái nhìn như điện chớp đang chế ngự và khuất phục y. Dường như chịu ảnh hưởng của một mãnh lực vô hình mà y không chống lại được, y viết một cách vô tâm trong khi người lạ mặt đọc từng chữ cho y viết. Y vừa cười gượng vừa nói:
      - Tôi đã hứa giúp ông, nay tôi phải giữ lời hứa. Để đáp lại, ông có thể nào tiết lộ cho tôi biết chăng những sự việc mà ông định để đến mai mới nói? Có thể rằng ông và cả người đàn bà ấy sẽ được hưởng, không những một sự triển hoãn, mà luôn cả sự trắng án.
      - Tôi chỉ nói những điều ấy trước Tòa mà thôi. Vả lại, hỡi ông Chánh Án, có lẽ những điều tối tiết lộ sẽ không có lợi cho ông, và chính vào lúc mà tôi vén đám mây mù, thì có thể cơn giông bão cũng sẽ nổi dậy.
      - Có phải ông là một nhà tiên tri chăng? Nếu vậy, ông hãy lo cho chính bản thân ông! Chúng tôi đã quá quen giỡn mặt với cái chết đến nỗi chúng tôi quên cả sự tôn kính đối với nó. Vì lẽ ông đã chịu cung hiến cái đầu ông, nên tôi chấp nhận. Ngày mai có lẽ ông sẽ hối tiếc, nhưng chừng đó thì quá trễ.
      - Phải, đã quá trễ, thưa ông Chánh Án! - người lạ mặt lập lại câu ấy như một tiếng vang.
      - Nhưng ông hãy nhớ rằng đó không phải là một ân huệ phóng thích, mà chỉ là sự triễn hoãn một ngày, như tôi đã hứa, đối với người đàn bà ấy. Ngày mai, tùy theo việc ông có làm thỏa mãn tôi hay không, mà bà ấy được sống hay phải chết. Tôi rất thành thật, hỡi công dân! Khi ông chết, linh hồn ông chớ có trở về khuấy phá tôi vì tôi đã phản bội lời cam kết nhé!
    - Tôi chỉ xin có một ngày. Còn sau đó, tôi để cho công lý và Thiêng Liêng định đoạt. Thôi xin chào ông!

Trong Nhà Ngục

Kiều Dung bị giam trong nhà ngục chỉ dành riêng cho những người bị lên án trước khi đem ra xử. Nàng không hiểu tại sao nàng bị bắt. Nàng cũng không hiểu họ muốn gì khi những người bị giam chung một khám, ngạc nhiên về cái sắc đẹp phi thường của nàng, tựu họp quây quần chung quanh nàng để hỏi thăm và nói với nàng những lời an ủi khích lệ.
      Từ trước đến nay, nàng vẫn quen có cái thành kiến không tốt đối với những người mà luật pháp lên án vì những tội ác của họ, nhưng nay nàng lấy làm ngạc nhiên mà thấy những người đầy lòng nhân ái, hiền từ, gương mặt sáng sủa tinh anh, lại là những người phạm tội mà luật pháp không dành cho một hình phạt nào khác hơn là cái chết.
      Một vị giáo sĩ Gia Tô già, đầu bạc, trong đám tù nhân, hỏi nàng:
      - Con hỡi! Tại sao con lại đem con vào đây?
      - Chính con cũng đang tự hỏi như thế!
      Một người trong nhóm nói:
      - A! Nếu cô không biết bắt vì tội gì, thì thật là... đáng ngại lắm!
      - Còn con tôi? Số phận nó sẽ ra sao? (Nàng được phép đem con theo vào khám).
      - Không sao, chắc họ sẽ để cho nó sống.
      Kiều Dung tự trách mình và thầm nhủ:
      - Thế là ta đã làm cho con chàng thành một đứa mồ côi ở trong ngục tối! Hỡi Zanoni! Xin chàng đừng hỏi em, dẫu rằng chỉ bằng tư tưởng, rằng em đã làm gì đối với đứa con của chúng ta.
      Đêm đến, mỗi người tù nhân đều tựu đến trước cửa khám có song sắt để nghe điểm danh. Tên nàng có trong bản danh sách của những người tử tội. Vị giáo sĩ già, sẵn lòng chờ chết hơn, nhưng lại không có tên trong bản danh sách tử tù, bèn đặt hai bàn tay trên đầu Kiều Dung làm phép, vừa ban ân huệ cho nàng vừa rơi hai hàng lệ. Kiều Dung ngạc nhiên, nhưng không khóc. Đôi mắt nhìn xuống, hai tay khoanh trước ngực nàng cúi đầu an phận trước định mệnh. Kế đó, giọng người cai ngục kêu lớn một tên khác, và một người đàn ông vừa đẩy nàng một cách thô bạo vừa chen lấn tới trước để nhìn và nghe cho rõ, bèn rú lên một tiếng thất vọng và căm hờn. Nàng quay lại nhìn, và người kia cũng nhìn nàng. Qua những ký ức của dĩ vãng, nàng nhận ra bộ mặt gớm ghiếc hồi thuở nọ. Nhưng nét mặt xấu xí của My Cốt liền đổi qua một nụ cười quỷ quái:
      - Hỡi người đẹp! Ít nhất cái máy chém cũng giúp chúng ta được xum họp! Ha ha! Chúng ta sẽ ôm nhau ngủ thật kỹ trong đêm tân hôn!
      Nói xong, y phát lên một chuỗi cười ồn ào thô tục, vượt qua đám đông và trở về chỗ ngồi trong một góc khám.
      Trong khi chờ đợi ngày thọ hình, Kiều Dung bị nhốt riêng trong một xà lim tối. Người ta vẫn để cho nàng giữ đứa con bên nàng tới giờ phút chót.
      Bỗng có tiếng kêu to: "Hãy dang ra! Hãy còn chỗ trống trong những xà lim đã chật người! Đây là một tù phạm mới sẽ ra pháp trường vào sáng ngày mai!"
      Khi người cai ngục một tay cầm đèn, đưa người tù nhân mới vào, người nầy bèn nắm tay y và nói nhỏ thì thầm tận tai. Người ấy vừa nói xong, liền rút một chiếc nhẫn đang đeo ở ngón tay, hột kim cương khá lớn chiếu sáng rực dưới ánh sáng lập lòe của ngọn đèn dầu và nói:
  - Hãy cứ đánh giá tám chục cái đầu sắp rụng nầy mỗi cái là một ngàn quan, thì chiếc nhẫn nầy vẫn còn đáng giá gấp bội!
      Người cai ngục hơi do dự, hột kim cương chiếu lấp lánh dưới cặp mắt trố nhìn thao láo của y. Với cái nghề tàn ác thô bạo nầy, y đã dập tắt tất cả những gì là nhân đạo người y: y không còn có lòng trắc ẩn, tình thường, hay hối hận. Nhưng lòng tham của y vẫn còn! Và thế là... người tù nhân lạ mặt kia đã thắng! Họ cùng như đi qua dãy hành lang đen tối, rồi đến trước cửa xà lim mà người cai ngục đã làm dấu sẵn nhưng bây giờ thì y bèn xóa bỏ, vì người nữ tù ở trong đó sẽ được đình hoãn lại một ngày. Người cai ngục lấy chìa khóa mở cửa, người lạ mặt cầm lấy cái đèn dầu, rồi bước vào.

Đứa Trẻ Mồ Côi

Kiều Dung đang cầu nguyện. Nàng không nghe tiếng cửa mở, cũng không nhìn thấy bóng người trên nền đá. Nàng quỳ gối trong một góc xà lim, và đứa bé tuy không hiểu gì, cũng bắt chước khoanh hai tay nhỏ xíu và cũng quỳ gối một bên mẹ nó.
      Zanoni ngừng lại và nhìn hai mẹ con một cách trìu mến. Chàng nghe giọng nói của vợ, tuy rằng nàng không hề thốt ra lời, đó là cái giọng nói xuất phát từ bên trong nội tâm nhưng khá mạnh mẽ thiết tha để cho Thượng Đế nghe được:
      "Lạy Chúa, nếu có phải là con sẽ không bao giờ gặp lại chàng, xin Chúa có thể nào làm cho tình yêu của chúng con được vĩnh cửu dẫu rằng ở tận bên kia nắm mồ? Dẫu rằng số mệnh của chúng con ra sao, dẫu cho chúng con phải cách xa nhau đến mười thế kỷ, xin Chúa hãy giúp cho chúng con sẽ còn gặp lại nhau. Còn con của chàng, nó cũng đang quỳ trước Chúa bên cạnh con, ngày mai đây, nó sẽ ngủ ở đâu? Bàn tay nào sẽ nuôi dưỡng nó? Ai sẽ là người bảo học và che chở cho nó trên cõi đời nầy?"
      Đến đây, nàng ngừng lại, những tiếng khóc nức nở nghẹn ngào làm lấp mất giọng nói của nàng.
      - Chính em, hỡi Kiều Dung! Người mà em đã bỏ rơi, nay đến cứu mẹ con em!
      Nàng rùng mình khi những lời nầy vang dội âm thanh bên tai nàng! Nàng bèn đứng phắt dậy. Chàng đang đứng đó, vẫn với phong độ trẻ đẹp phi thường như độ nào trong nhà ngục tối tăm rùng rợn, và vào giờ phút nguy khốn nầy! Với một tiếng kêu reo mừng sung sướng không tả, mà có lẽ những vách tường nhà ngục nầy chưa từng nghe bao giờ, nàng chạy lại và để rơi mình thụp xuống đất dưới chân chàng.
      Zanoni cúi xuống đỡ nàng dậy, nhưng nàng thoát ra khỏi vòng tay của chàng và khóc nức nở.
      - Kìa, em! Anh đến đây để cứu em. Sao em lại ngảnh mặt đi? Em còn muốn trốn anh nữa sao?
      - Em không trốn anh nữa đâu! Không phải vì em mà em đã bỏ anh, vì...
      Kế đó, nàng đột ngột đứng dậy, ẵm đứa bé lên và đặt nó lên vòng tay của chàng. Đứa bé dường như đã nhận ra cha nó, bèn áp mặt vào ngực Zanoni, và nằm gọn trong lòng chàng như chim nằm trong ổ rồi ngước mặt lên nhìn mẹ nó vừa mỉm cười.
      Zanoni đến để cứu nàng. Nàng không hỏi cứu bằng cách nào, nàng tin lời chàng mà không thắc mắc hay do dự gì cả. Thế là sau cùng, họ sẽ được tái hợp với nhau, họ sẽ tránh xa những cảnh tượng sắt máu ở nơi nầy. Hòn đảo xinh như mộng ngoài khơi xứ Hy Lạp sẽ đón nhận họ trở lại một lần nữa. Nàng vui cười một cách ngây thơ như trẻ con trước cái viễn ảnh thần tiên đó trong nhà ngục tối tăm... Nàng nói:
      - Lúc nãy em tưởng rằng em đã sẵn sàng chờ đón cái chết. Em chỉ nhìn thấy anh, sống gần kề bên anh thôi, là em lại thấy rằng cuộc đời êm đẹp tươi vui. Anh hãy nhìn qua song cửa sổ: các ngôi sao đã mờ dần, ngày mai đã sắp đến, ngày mai cửa nhà ngục sẽ mở để chúng ta được tự do! Anh đã nói rằng anh đến để cứu em, em không nghi ngờ gì cả! Ôi! Cái ngày mai đó đẹp làm sao! Ủa! Sao anh không mỉm cười với em? Hử anh? Ngày mai há chẳng phải là một ngày tốt đẹp của chúng ta sao? Anh ác thật! Hay anh vẫn còn muốn trừng phạt em, nên anh không cùng chia sẻ niềm vui của em?...
      Zanoni đáp sau một cơn im lặng:
      - Kiều Dung! Em còn nhớ chăng ngày nọ khi chúng ta ngồi trên bãi cát gần bên động đá trên hải đảo, em có hỏi anh về đạo bùa anh đeo trên cổ. Đó là cái di vật cuối cùng của quê hương xứ sở anh, và mẹ anh lúc hấp hối đã đeo vào cổ anh. Khi đó anh có hứa là sẽ tặng cho em ngày nào mà cuộc đời chúng ta cùng chịu ảnh hưởng của những định luật giống như nhau.
      -À! Em nhớ ra rồi!
- Ngày mai, nó sẽ thuộc về em.
      - À! Cái ngày mai... đáng yêu của em!
      Bên ngoài cửa sổ, ánh sáng lờ mờ của buổi bình minh đã bắt đầu hiện lên trên nền trời. Một ngày mới sắp đến. Ngày nay là ngày quyết định vận mệnh của nước Pháp. Trong sân các Tòa Án, đã bắt đầu xuất hiện sự náo nhiệt ồn ào như mọi ngày. Dầu việc gì xảy ra, bất luận ai thắng ai bại trong cuộc tranh chấp quyền hành, ngày nay tám chục cái đầu sẽ rơi trên máy chém!
      Quá mệt mỏi, Kiều Dung đã ngủ mê. Zanoni đứng bên cạnh nhìn xem nàng ngủ, mà lòng chàng xúc động vô ngần! Giấc ngủ nầy, nàng sẽ không còn thấy chàng bên cạnh nữa khi nàng tỉnh giấc. Nàng không thể biết sự êm ái, an toàn của cái giấc ngủ đó đã được mua với cái giá đắt là dường nào! Cái ngày mai, mà nàng vẫn thấp thỏm chờ mong, nay đã hết. Nàng sẽ tiếp đón cái ngày mai đó như thế nào khi thấy rõ sự thật phũ phàng mà nó đem đến?
      Còn chàng? Zanoni quay lại, và nhìn thấy đứa con, thằng bé vẫn trố cặp mắt đen lánh và sáng rỡ nhìn cha nó. Zanoni cúi xuống hôn lên mặt con và tự nhủ thầm:
      - Từ nay, con không bao giờ còn thấy cha nữa: từ nay cha cũng sẽ không còn bảo vệ che chở cho con. Số phận của con sẽ không thể được đào tạo như cha mong ước. Con sẽ phải chia sẻ cái số phận chung của chủng tộc loài người: con phải tranh đấu, thất bại, khổ đau... Nhưng cha ước mong sao cho cuộc thử thách của con sẽ được êm ái, và tinh thần con sẽ dũng mãnh, để biết thương yêu và tin tưởng! Khi cha nhìn con một lần cuối cùng, ước gì tình yêu của cha đối với mẹ con được chuyển sang cho con, và mong sao mẹ con sẽ tìm thấy trong cái nhìn của đôi mắt con, và mong sao mẹ con sẽ tìm thấy trong cái nhìn của đôi mắt con, sự khích lệ và an ủi của cha! À! Họ đã đến kia rồi!... Phải... Thôi, cha sẽ đợi cả hai mẹ con ở bên kia nấm mồ!
      Cánh cửa phòng giam từ từ hé mở, người cai ngục xuất hiện và xuyên qua khe cửa mở, một tia nắng mặt trời dọi vào phòng.
      - Hỡi công dân, giờ của anh đã điểm!
      - Chttt! Nàng còn ngủ! Đợi một chút! À... Xong rồi! Nhờ Trời, nàng vẫn còn ngủ mê!
      Zanoni không giám hôn nàng lần cuối cùng, sợ nàng thức giấc. Chàng chỉ đeo vào cổ nàng đạo linh phù, nó sẽ thay thế cho những lời từ giã, và hứa hẹn sẽ tái ngộ ở thế giới bên kia.
      Zanoni bước ra cửa, rồi quay đầu nhìn lại... một lần cuối cùng... Cánh cửa khép từ từ. Chàng đã vĩnh viễn ra đi không trở lại! Sau cùng Kiều Dung đã thức giấc, nhìn dáo dác chung quanh và kêu:
- Zanoni, trời sáng rồi!
      Không một tiếng đáp lại. Lạ thật! Phải chăng đó chỉ là một giấc mơ? Nàng vén lại mái tóc xỏa trước trán làm che án tầm mắt của nàng, và nhận thấy sợi dây bùa đeo trên cổ. Không! Đó không phải là một giấc mơ!
      "Trời hỡi! Chàng đã đi rồi!"
      Nàng lao mình ra chỗ song cửa, và kêu to, người cai ngục bước tới.
      - Chồng tôi đâu? Cha của đứa bé?
      - Hỡi nữ công dân, ông ta đã đi rồi.
      - Đi đâu, hử?
- Đi ra pháp trường!
      Cánh cửa lại khép chặt. Kiều Dung để rơi mình xuống ghế, im lặng với nỗi khổ đau, thất vọng. Như trong một tia chớp, nhưng lời nói của Zanoni, vẻ u buồn, và sự hy sinh của chàng, đến khi đó mới trở nên rõ ràng ý nghĩa trong trí óc của nàng. Trong khi nàng vẫn ngồi đó, câm lặng, không thốt nên một lời và im như pho tượng đá, một linh ảnh lướt qua như một cái bóng trong tâm hồn nàng: cảnh tượng rùng rợn trong Tòa án, vị quan tòa, bồi thẩm đoàn, viên biện lý buộc tội và trong số những nạn nhân, có một người hiên ngang ra đứng trước vành móng ngựa.
      - Anh biết rõ những mối nguy cơ đang hăm dọa nền Cộng Hòa. Anh hãy nói những gì anh biết.
      - Tôi biết, và tôi giữ đúng lời hứa. Hỡi quan tòa, tôi xin tiết lộ cho ông biết định mệnh của ông. Tôi biết rằng cái tình trạng vô chính phủ, mà ông gọi là quốc gia, sẽ chậm dứt vào lúc chiều nay. Ông hãy nghe kia những tiếng chân người dồn dập, và những tiếng la hét ồn ào của dân chúng! Hỡi những người chết! Hãy chuẩn bị tiếp đón Robert và bọn đồng lõa ở dưới địa ngục!
      Khi đó, những thư tín viên, những sứ giả mặt mày tái nhợt và hoang mang sợ hãi tràn vào phòng: tất cả đểu là hỗn độn, kinh hoàng, khủng khiếp!
      - Kẻ âm mưu tạo loạn sẽ phải đền tội!... Và ngày mai, người đàn bà mà anh muốn cứu sẽ phải chết.
      - Ngày mai, thưa ông Chánh Án, chính ngọn đao trên máy chém sẽ rơi xuống đầu ông!
      Chạy xuyên qua những đường phố đông nghẹt dân chúng, là những chiếc tù xa cuối cùng chở các nạn nhân ra pháp trường. A! Dân chúng rốt cuộc đã thức tỉnh! Những tội nhân may ra khỏi chết! Thần Chết đã bị hạ bệ! Chủ tịch Robert đã bị truất phế! Dân chúng chạy ra đường định giải thoát cho những tù nhân! Trên những chiếc xe cây, đứng cạnh Zanoni, một người khoa chân múa tay miệng kêu ríu rít, coi lại càng xấu xí dị dạng hơn lúc thường. Đó là người mà trong những giấc mơ tiên tri, Zanoni đã từng thấy đứng bên cạnh chàng vào lúc thọ hình.
      My Cốt hét lên trong cơn tuyệt vọng:
      - Bớ dân chúng, hãy tiến lên! Tiến lên và giải cứu cho chúng tôi!
      Trong đám quần chúng, người ta thấy có một người đàn bà trẻ đẹp, tóc đen buông xõa rối bù, đang chen lấn để tiến đến gần đoàn tù xa. Nàng kêu to bằng một giọng miền Nam nước Ý:
      - Linh Đông đâu rồi! Quân đao phủ, mi đã làm gì Linh Đông của ta?
      Nàng vừa nói vừa trố mắt nhìn đám tù nhân trong xe nhưng không tìm thấy người mà nàng tìm kiếm.
      - Cám ơn Trời! Tôi đã không nỡ hại chàng!
      Dân chúng mỗi lúc càng tiến đến gần và sắp sửa bao vây đoàn tù xa, chỉ trong một lúc nữa là đám tù nhân đã được giải thoát khỏi tay đao phủ. Nhưng, kìa Zanoni! Tại sao gương mặt chàng lại vẫn còn cái vẻ an phận và không biểu lộ một niềm hy vọng nào? Bỗng nhiên có tiếng vó ngựa dồn dập từ xa chạy tới mỗi lúc một gần. Tuân theo thượng lệnh, Tướng Hăng Ri chỉ huy toán kỵ binh Bảo An, xông xáo đẩy lui đám rừng người trên các đường phố. Đoàn kỵ binh tiến đến mau như cơn gió lốc, và giải tán đám đông chung quanh đoàn xe. Trong số những người toan cướp xe để giải thoát tù nhân, một số chạy tán loạn, một số bị ngựa đạp té ngã trên đường lộ. đoàn kỵ binh tuốt gươm trần chém loạn xạ vào đám người định cướp tù xa, nhiều người ngã gục trên vũng máu đào, trong số đó có người sơn nữ miền Nam nước Ý, với mái tóc đen huyền đẫm máu, trên môi co quắp dường như vẫn thoảng một nụ cười trong khi nàng thì thầm một câu nói cuối cùng:
      - Linh Đông hỡi! Em không có giết anh!
      Đoàn tù xa đã đi đến pháp trường, trước mặt đã hiện rõ cái máy chém với luỡi dao sáng quắc khổng lồ, rùng rợn! Họ đi hàng một bước lên đài, từng người một, họ đút đầu vô máy chém: một người,... một người nữa... và một người nữa!...
      Thế rồi,... đến lượt của chàng!
Từ trong ngục tối, nàng nhìn thấy cảnh tượng nầy trong giấc mơ, bèn kêu lên:
      - Khoan đã, chàng đừng chết vội! Đừng bỏ em trong cô đơn! Hãy nghe em nói đây. Ủa! Lạ nhỉ! Sao anh còn có thể mỉm cười được?
      Phải! Đôi môi tái nhợt của chàng còn mỉm cười! Và trong nụ cười đó, toàn thể không gian dường như chói rạng một ánh sáng trường cửu, vô cùng... Linh hồn nhà thuật sĩ đã vượt lên khỏi mặt đất, bay lượn trên không gian trước mặt nàng, không phải trong một hình thể vật chất nữa, mà như một niềm vui tươi, sáng lạn, để an ủi, xoa dịu tâm hồn nàng! Sau lưng chàng, cõi Trời đã mở rộng đến tận chốn vô biên! Hằng hà sa số những các cấp đẳng Thiên Thần đã xuất hiện và một ca khúc đón mừng chàng được đồng loạt hòa xướng lên với những âm điệu thần tiên của cõi Trời: " Chúng ta đón mừng người đã� được tinh luyện bằng đức hy sinh, người đã dùng cái chết để trở nên bất tử! Sự chết đó là thế đó!"
      Hân hoan sung sướng giữa các hàng Thiên Thần, linh hồn nhà Thuật Sĩ day lại nói thì thầm với người tri kỷ: "Hỡi người bạn đường của anh trên cõi vô cùng, sự Chết là như thế đó!"
      "Ơ kìa! Tại sao họ ra dấu cho chúng ta, những người đang đứng trên các nóc nhà kia? Tại sao quần chúng lại tràn ra khắp các nẻo đường? Tại sao có tiếng chuông nhà thờ đổ khắp nơi? Tại sao tiếng mõ reo vang? Hãy nghe kia! Tiếng đại bác gầm rung chuyển mặt đất! Tiếng va chạm lích kích của các nòng súng và võ khí! Hỡi các ạn tù nhân! Rốt cuộc có hy vọng gì đến với chúng ta không?"
      Đó là những câu hỏi mà những tù nhân trong khám đưa ra cho nhau. Ngày đã hầu tàn, hoàng hôn đã đến, và những gương mặt tái nhợt vẫn cứ thập thò bên các chấn song, để mong nhìn thấy những dấu hiệu gì khác lạ ở bên ngoài. Từ những khung cửa sổ và trên những nóc nhà ở vùng lân cận, họ vẫn nhìn thấy những nụ cười thân hữu và những bàn tay ra dấu làm các ám hiệu. Sau cùng, một tin đồn được tung ra: " Robert đã bị hạ bệ, triều đại Khủng Bố đã chấm dứt!... Nhờ Trời, chúng ta sẽ được thoát chết!"
      Trong căn phòng của Phủ Chủ Tịch, nhà bạo chúa và các cố vấn đang lắng tai nghe những tiếng gầm thét rung chuyển từ bên ngoài. Thình lình, Tướng Hăng Ri, mặt đỏ ngầu vì say rượu và say máu, hăm hở xong vào phòng với một bước đi loạng choạng, quăng xuống đất thanh gươm vẩn còn rỉ máu nhỏ giọt và nói:
      - Thôi rồi! Hỏng bét hết cả!
      - Đồ khốn kiếp! Chính vì sự hèn nhát của mi mà làm cho chúng ta chết cả đám! - Đồng chí Cổ Phi giận giữ vừa hét lớn vừa xông lại, hai tay nắm lấ�y Hăng Ri giở hổng lên và ném qua cửa sổ. Bị ném từ lầu trên xuống đất, Tướng Hăng Ri té vỡ sọ chết không kịp ngáp.
      Bình tĩnh trong cơn thất vọng, Sanh Juýt rời khỏi chỗ ngồi, đứng dậy nhìn ra cửa sổ xem đám rừng người tiến tới như nuớc vỡ bờ. Cửu Thông bỏ chiếc xe lăn, bò lết nửa thân mình tàn phế tới núp dưới gầm bàn. Một tiếng súng nổ: Chủ Tịch Robert toan tự sát, nhưng bàn tay run rẩy quá mức nên bắn trúng chỗ nhược, viên đạn chỉ chạy sướt qua quai hàm!
      Đồng hồ tòa Đô Chính điểm ba giờ sáng. Do cánh cửa lớn bị phá vỡ tung, quần chúng tràn vào dinh, đi xuyên qua các hành lang tối om, và xông vào Văn Phòng Chủ Tịch. Gương mạt hốc hác, tái xanh và vấy máu đỏ lòm, không thốt nên được một lời, nhưng vẫn luôn tỉnh táo, Chủ Tịch Robert ngồi yên trên ghế bành, lưng thẳng và không một cử động, vẫn còn thách thức định mệnh. Quần chúng vây chung quanh, la hét và nguyền rủa y thậm tệ, khí giận bốc lên những cặp mắt đỏ ngầu và những gương mặt đầy sát khí biểu lộ lòng uất hận căm hờn tột độ dưới ánh sáng lập lòe của những ngọn đuốc.
      Đám đông xông vào xốc Robert dậy, lôi y đi ra và đem y vào khám lớn. Thế là từ nay, bạo chúa Robert không còn được ai nhắc đến nữa! Thành phố Ba Lê được giải phóng tự do, hằng ngìn hằng muôn người đổ xô ra đường hoan hô nồng nhiệt. Chiếc tù xa đang lăn bánh chạy về hướng Công Trường Cách Mạng có chở theo bạo chúa Robert, Sanh Juýt, Duy Mật, Bá Văn và Cửu Thông cùng đi ra pháp trường.
      Người đao phủ giật mạnh cuộn vải băng trên cái xương hàm gãy của Robert... Một tiếng kêu thất thanh... quần chúng phá lên cười.. và lưỡi đao lớn hạ phập xuống giữa những tràng hoan hô như giông bão của quần chúng đứng xem dưới đài. Thế là xong đời của một bạo chúa! Và đồng thời, triều đại Khủng Bố cũng chấm dứt.
      Một ngày mới rọi ánh nắng bình minh vào các gian nhà ngục. Từ đề lao nọ đến xà lim kia, những tù nhân truyền tin tức cho nhau. Quần chúng đã lần lượt nối đuôi nhau kéo vào khám lớn. Các tù nhân mừng rỡ hân hoan tuôn tràn ra ngoài cùng với những người cai ngục để tiếp đón dân chúng vào giải thoát cho họ. Những cai ngục nầy trong lòng sợ sệt, cũng giả vờ chia sẻ nỗi vui mừng của đám tù nhân. Mọi người đều đi vòng quanh quan sát một lần cuối cùng những hành lang ngoắt ngoéo như mê cung trong khám lớn, trước khi họ rời khỏi nơi địa ngục trần gian hắc ám nầy! Họ bước vào một xà lim đã bị lãng quên từ sáng ngày hôm qua. Trong đó, họ trông thấy một người thiếu phụ đang quỳ gối trong tư thế cầu nguyện, mái tóc đen và dài buông xõa xuống hai vai thòng xuống trước ngực, gương mặt ngước lên trời, hai mắt hé mở, trên môi nở một nụ cười đầy an lạc.
      Họ lùi lại trong sự ngạc nhiên mặc dầu trong cơn vui nhộn ồn ào. Họ chưa từng thấy một người nào đẹp như thế bao giờ, và khi họ rón rén buớc lại gần, vì họ tưởng rằng người thiếu phụ đang cầu nguyện, họ mới nhìn thấy đôi môi nàng không cử động và toàn thân nàng không còn hơi thở nhịp nhàng của người sống, rằng sự yên nghỉ đó là sự yên nghỉ cuối cùng, vĩnh viễn nghìn thu, và sắc đẹp cùng cơn đại định của nàng có mang dấu vết của Thần Chết... Tất cả mọi người đều lẳng lặng đứng tựu họp chung quanh nàng. Và họ nhìn thấy dưới chân nàng, một đứa hài nhi vừa tỉnh giấc vì tiếng động do những bước chân của họ gây nên. Đứa trẻ vừa chăm chú nhìn họ, vừa đưa cánh tay bé nhỏ ra mân mê vạt áo của mẹ nó... Một đứa trẻ mồ côi nằm trên nền nhà ngục!
      Một người đàn bà trong đám đông cất tiếng nói:
      - Tội nghiệp đứa bé! Ngưới ta nói rằng người cha vừa chết sáng hôm qua, và hôm nay lại đến phiên người mẹ! Côi cút một mình, số phận nó rồi sẽ ra sao đây?
      Đứa bé cười một cách hồn nhiên với đám đông trong khi người đàn bà ấy bình phẩm như trên. Vị giáo sĩ già đầu bạc cũng đứng trong nhóm ấy, nói bằng một giọng dịu dàng:
      - Kìa! Bà hãy nhìn xem! Đứa bé đang cười! Những trẻ mồ côi được sự che chở của Thượng Đế!
Hết

Không có nhận xét nào: