Thứ Sáu, 28 tháng 9, 2018

THÁNH HẠNH

Bạch Thế-Tôn! Các phái ngoại đạo nhiều cách nói có thường, lạc, ngã, tịnh, nên biết quyết định có thường, lạc, ngã, tịnh. Do nghĩa đó nên các phái ngoại đạo cũng nói được rằng: "Ta có chơn-đế.”

Phật bảo Văn-Thù Sư-Lợi: “Nếu có Sa-Môn hay Bà-La-Môn mà có thường, có lạc, có ngã, có tịnh, thời người đó chẳng phải là Sa-Môn chẳng phải là Bà-La- Môn. Vì họ mê nơi sanh tử xa lìa bực đại-đạo-sư nhứt thế-trí. Hàng Sa-Môn và Bà-La-Môn như vậy thiếu kém pháp lành tham đắm các dục nhiễm. Hàng ngoại đạo nầy ràng buộc trong ngục tham dục, sân khuể, ngu si mà kham nhẫn thọ lạc. Các ngoại đạo nầy dầu biết nghiệp quả mình làm mình chịu, nhưng còn chẳng thể xa lìa pháp ác. Hàng ngoại đạo nầy chẳng phải là chánh pháp, chánh mạng, để tự sống, vì họ không có lửa trí huệ nên chẳng thể tiêu được vậy.

Các phái ngoại đạo dầu tham đắm ngũ dục thượng diệu, tham nơi pháp lành nhưng chẳng siêng tu. Ngoại đạo nầy dầu muốn đến chánh giải thoát, nhưng trì cấm giới chẳng thành tựu. Các ngoại đạo nầy dầu muốn cầu vui nhưng chẳng có thể cầu nhơn duyên của vui. Các ngoại đạo nầy dầu bị bốn rắn độc lớn đeo vấn nhưng vẫn phóng dật chẳng cẩn thận. Các ngoại đạo nầy bị vô minh che đậy, xa lìa phương pháp lành, thích ở trong tam giới, lửa vô thường đốt cháy mà chẳng thể ra được. Các ngoại đạo nầy gặp những bệnh phiền não khó lành mà họ chẳng cầu bực lương y đại trí. Các ngoại đạo nầy thuở vị lai sẽ đi trên đường xa hiểm vô biên, mà chẳng biết tu tập tư-lương pháp lành để tự trang nghiêm. Các ngoại đạo nầy thường bị tay độc dâm dục làm hại mà trở lại ôm ấp rương độc ngũ dục. Các ngoại đạo nầy giận hờn hung dữ mà trở lại gần gũi bạn ác. Các ngoại đạo nầy thường bị vô minh che đậy mà trở lại tìm cầu pháp tà ác. Các ngoại đạo nầy thường bị tà kiến mê lầm mà trở lại thân thiện với tà kiến. Các ngoại đạo nầy trông mong ăn trái ngọt mà lại gieo giống đắng. Các ngoại đạo nầy đã ở trong nhà tối phiền não mà trở lại xa lìa đuốc sáng đại trí. Các ngoại đạo nầy mang bịnh khát phiền não mà trở lại uống nước mặn dục nhiễm. Các ngoại đạo nầy mê lầm điên đảo nói các hạnh là thường. Cho các hạnh là thường thời không đúng.

Nầy Thiện-nam-tử! Đức Phật quán sát các hạnh thảy đều vô thường. Tại sao biết như vậy? Vì các hạnh đều do nhơn duyên. Phàm những pháp do nhơn duyên, mà sanh thời biết là vô thường. Các ngoại đạo nầy không có một pháp gì chẳng từ nhơn duyên sanh.

Nầy Thiện-nam-tử! Phật tánh không sanh không diệt, không đi không đến, chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, chẳng phải do nhơn làm ra cũng chẳng phải không nhơn, chẳng phải tu tác chẳng phải tác giả chẳng phải tướng chẳng phải không tướng, chẳng phải có danh chẳng phải không danh, chẳng phải danh sắc, chẳng phải dài ngắn, chẳng phải nhiếp trì trong ấm, giới, nhập. Vì thế nên Phật tánh gọi là thường.

Nầy Thiện-nam-tử! Phật tánh là Như-Lai, Như-Lai là pháp, pháp là thường.

Nầy Thiện-nam-tử! Thường là Như-Lai, Như-Lai là Tăng, Tăng là thường.

Do nghĩa nầy nên những pháp từ nhơn duyên mà sanh chẳng gọi là thường. Các ngoại đạo nầy không có một pháp gì chẳng từ nhơn duyên mà sanh. Các ngoại đạo nầy chẳng thấy Phật tánh Như-Lai là pháp. Vì thế nên lời nói của ngoại đạo đều là vọng ngữ, không có chơn đế.

Người phàm phu lúc trước thấy bình, y, xe cộ, nhà cửa, thành quách, nước sông, rừng núi, nam nữ, voi ngựa, trâu dê, lúc sau thấy tương tợ bèn nói là thường, phải biết những vật ấy thiệt chẳng phải là thường.

Nầy Thiện-nam-tử! Tất cả pháp hữu vi đều là vô thường. Pháp vô vi là thường. Hư không và Phật tánh là vô vi nên là thường. Hư không tức là Phật tánh, Phật tánh là Như-Lai, Như-Lai là vô vi, vô-vi là thường. Thường là pháp, pháp là Tăng, Tăng là vô-vi, vô-vi là thường.

Nầy Thiện-nam-tử! Có hai thứ pháp hữu vi: Một là sắc pháp, hai là phi sắc pháp. Phi sắc pháp là tâm và tâm sở. Sắc pháp là địa thủy hỏa phong.

Nầy Thiện-nam-tử! Tâm gọi là vô thường vì tánh nó phan-duyên phân biệt. Tánh của nhãn thức khác, nhẫn đến tánh của ý thức khác, nên là vô thường. Cảnh giới sắc khác, nhẫn đến cảnh giới pháp khác, nên là vô thường.

Nầy Thiện-nam-tử! Nếu tâm là thường thời nhãn thức lẽ ra một mình duyên tất cả pháp. Nếu nhãn thức khác, nhẫn đến ý thức khác, thời biết là vô thường. Bởi các pháp tương tợ niệm niệm sanh diệt, người phàm phu thấy đó chấp cho là thường.

Nầy Thiện-nam-tử! Vì các tướng nhơn duyên có thể phá hoại, nên cũng gọi là vô thường. Như nhơn nhãn căn, nhơn sắc, nhơn ánh sáng, nhơn tư duy mà sanh nhãn thức. Lúc nhĩ thức sanh ra nhơn duyên đều khác chẳng phải là nhơn duyên của nhãn thức, nhẫn đến nhơn duyên của ý thức cũng khác như vậy.

Nầy Thiện-nam-tử! Nhơn duyên phá hoại các hạnh sai khác, nên tâm gọi là vô thường. Như tâm tu vô thường khác, tâm tu khổ, không, vô ngã khác. Nếu tâm là thường lẽ ra thường tu vô thường. Còn chẳng đặng quán khổ, không, vô ngã huống lại quán thường, lạc, ngã, tịnh. Do nghĩa nầy nên trong giáo pháp của ngoại đạo chẳng có thể nhiếp lấy thường, lạc, ngã, tịnh, phải biết tâm pháp quyết định là vô thường.

Nầy Thiện-nam-tử! Vì tâm tánh sai khác nên gọi là vô thường. Như tâm tánh Thanh-Văn khác, tâm tánh Duyên-Giác khác, tâm tánh chư Phật khác.

Tất cả ngoại đạo có ba thứ tâm: Một là tâm xuất gia, hai là tâm tại gia, ba là tâm xa lìa tại gia. Tâm tương-ưng với lạc khác, tâm tương ưng với khổ khác, tâm tương-ưng với bất khổ bất lạc khác, tâm tương-ưng với tham dục khác, tâm tương-ưng với sân-khuể khác, tâm tương ưng với ngu si khác. Tâm tướng của tất cả ngoại đạo cũng khác: Các tâm tương-ưng với ngu si, nghi hoặc cùng tà kiến đều khác, lúc đi đứng nằm ngồi tâm đó cũng khác. Nếu tâm là thường thời lẽ ra chẳng phân biệt được các sắc như xanh, vàng, đỏ, trắng, tía. Nếu tâm là thường lẽ ra chẳng quên những việc đã từng ghi nhớ. Nếu tâm là thường thời sự đọc tụng lẽ ra chẳng tăng trưởng. Nếu tâm là thường lẽ ra chẳng nên nói rằng: Đã làm, đương làm, sẽ làm. Nếu có đã làm, đương làm, sẽ làm thời biết rằng tâm này quyết định là vô thường. Nếu tâm là thường thời không có oán thù thân ái cũng chẳng oán chẳng thân. Nếu tâm là thường thời chẳng nên nói rằng vật của tôi, vật của người hoặc sống hoặc chết. Nếu tâm là thường thời dầu có tạo tác lẽ ra chẳng tăng trưởng. Do những nghĩa đó, nên biết tâm tánh mỗi mỗi đều sai khác. Vì sai khác nên biết là vô thường.

Nầy Thiện-nam-tử! Nay đức Phật ở trong tâm pháp nầy diễn nói nghĩa vô thường, đã rõ, vì ông mà nói sắc là vô thường. Sắc nầy vô thường vốn không có sanh, vì sanh đã diệt. Lúc thân ở thai bào vốn không có sanh, vì sanh đã biến đổi. Các mầm cây vốn không có sanh, vì sanh đã biến đổi. Do đó biết rằng, tất cả sắc pháp thảy đều vô thường.

Nầy Thiện-nam-tử! Sắc thân tùy theo thời gian mà biến đổi: Lúc tượng thai nhẫn đến lúc mới sanh đều đổi khác. Lúc thơ bé, lớn khôn nhẫn đến tuổi già luôn luôn đổi khác. Lúc nẩy mầm, lên cây, mọc nhánh sanh lá, trổ bông, kết trái đều đổi khác.

Nầy Thiện-nam-tử! Chất vị ở trong cũng đổi khác, lúc tượng thai nhẫn đến lúc già luôn luôn biến đổi. Mầm cây, nhánh, lá, hoa, trái, chất vị cũng đều đổi khác. Sức lực lúc tượng thai nhẫn đến sức lực lúc tuổi già đều đổi khác. Trạng mạo lúc tượng thai nhẫn đến trạng mạo lúc tuổi già đều đổi khác. Quả báo lúc tượng thai nhẫn đến quả báo lúc tuổi già cũng khác. Danh tự lúc tượng thai nhẫn đến danh tự lúc tuổi già cũng sai khác. Sắc thân có hoại có hiệp nên biết là vô thường. Cây cối cũng có hoại có hiệp nên biết là vô thường. Thứ đệ sanh lần lần, như lúc tượng thai sanh lần lần đến tuổi già. Lúc nầy mầm sanh lần lần đến khi kết trái. Vì thế nên biết là vô thường vì những sắc pháp có thể hoại diệt, như lúc tượng thai hoại diệt nhẫn đến lúc tuổi già hoại diệt đều sai khác, lúc nẩy mầm hoại diệt nhẫn đến lúc kết trái đều hoại diệt nên biết là vô thường. Người phàm phu không hiểu biết thấy tương tợ sanh ra chấp cho là thường. Do những nghĩa nầy nên gọi là vô thường. Đã là vô thường thời chính là khổ, đã là khổ thời chính là bất tịnh.

Nầy Thiện-nam-tử! Các hạnh đều không có ngã. Tổng tất cả pháp không ngoài hai thứ: Sắc và tâm. Sắc không phải ngã, vì sắc có thể phá có thể hoại, có thể vỡ có thể đập, có thể tăng trưởng. Ngã thời chẳng thể phá hoại vỡ đập sanh trưởng. Do nghĩa nầy nên biết sắc chẳng phải là ngã.

Tâm cũng chẳng phải ngã vì do nhơn duyên mà sanh khởi. Các ngoại đạo do chuyên niệm mà biết là có ngã. Tánh chuyên niệm thiệt ra chẳng phải ngã. Nếu cho chuyên niệm là ngã, những việc quá khứ có lúc quên mất, vì có quên mất nên quyết định biết là không ngã. Nếu các ngoại đạo do ức tưởng mà biết là có ngã, vì có lúc không ức tưởng nên quyết định biết là không ngã. Như nói: Thấy người bàn tay có sáu ngón, bèn hỏi rằng chúng ta ngày trước gặp nhau ở chỗ nào. Nếu là có ngã thời chẳng nên lại hỏi. Vì hỏi nhau nên quyết định biết là không ngã.

Nếu các ngoại đạo cho rằng vì có ngăn ngại mà biết là có ngã. Xét ra vì có ngăn ngại nên quyết định biết là vô ngã, như nói Điều-Đạt thời trọn chẳng nói rằng không phải Điều-Đạt. Cũng vậy, nếu ngã quyết định là ngã thời trọn chẳng ngăn ngại ngã. Nhưng vì cũng ngăn ngại ngã nên quyết định biết là vô ngã. Nếu vì ngăn ngại mà biết là có ngã, nay ông chẳng ngăn ngại đáng lẽ là không ngã!

Nầy Thiện-nam-tử! Nếu các ngoại đạo cho rằng vì bạn cùng chẳng phải bạn mà biết rằng có ngã. Cứ nơi thuyết nầy mà suy, vì không bạn lẽ ra không có ngã. Có những pháp không bạn: Như-Lai, Hư-Không, Phật tánh, Ngã cũng như vậy thiệt không có bạn. Do vì nghĩa nầy nên quyết định biết là không ngã.

Nầy Thiện-nam-tử! Nếu có ngoại đạo cho rằng vì có danh tự mà biết là có ngã. Trong pháp không ngã cũng có danh tự ngã: Như người nghèo hèn mà tên là phú quí. Như nói ta chết, nếu ta chết thời là ta giết ta, nhưng ngã thiệt chẳng có thể giết, giả danh là giết ngã. Cũng như người lùn mà tên là Trưởng-giả. Do nghĩa nầy nên quyết định biết không ngã.

Nầy Thiện-nam-tử! Nếu các ngoại đạo cho rằng vì người mới sanh đã biết đòi bú nên biết là có ngã. Nếu có ngã thời tất cả trẻ thơ chẳng nên bốc phẩn, đất, lửa, rắn, thuốc độc. Do nghĩa nầy nên quyết định biết không ngã.

Nầy Thiện-nam-tử! Tất cả chúng sanh đối với ba pháp: Dâm dục, uống ăn, kinh sợ đều có sự hiểu biết đồng nhau, vì thế nên không có ngã.

Nầy Thiện-nam-tử! Nếu các ngoại đạo cho rằng vì có tướng mạo mà biết là có ngã. Vì có tướng thời không có ngã, không có tướng cũng là không ngã. Như lúc ngủ, người không thể đi đứng ngước cúi nhìn ngó, chẳng biết khổ biết vui, như thế thời đáng lẽ không có ngã. Nếu cho rằng vì có đi đứng cúi ngước mà biết là có ngã, thời người máy lẽ ra cũng có ngã.

Như-Lai chẳng đi, chẳng đứng, chẳng cúi, chẳng ngước, chẳng nhìn, chẳng ngó, chẳng khổ, chẳng vui, chẳng tham sân si. Như-Lai như vậy mà có ngã chơn thật.

Nầy Thiện-nam-tử! Nếu các ngoại đạo vì thấy người khác ăn trái cây, trong miệng mình sanh nước miếng, nên biết là có ngã. Do vì nhớ tưởng thấy thời sanh nước miếng, nước miếng chẳng phải ngã, ngã cũng chẳng phải là nước miếng, chẳng phải vui buồn, chẳng phải ngáp, chẳng phải cười, chẳng phải nằm, chẳng phải đứng, chẳng phải đói, chẳng phải no. Do nghĩa nầy nên quyết định biết là không ngã.

Nầy Thiện-nam-tử! Các ngoại đạo ấy ngu si như trẻ nít không có trí huệ phương tiện chẳng hiểu thấu được thường cùng vô thường, khổ, vui, tịnh, bất tịnh, ngã, vô ngã, thọ mạng, phi thọ mạng, chúng sanh, phi chúng sanh, thật, phi thật, hữu, phi hữu. Ở trong Phật pháp họ lấy chút ít phần rồi vọng chấp là có thường, lạc, ngã, tịnh, như người sanh manh chẳng biết màu sữa, bèn hỏi người khác rằng màu sữa giống như thứ gì ? Người khác đáp : Màu sữa trắng như vỏ ốc.

Người sanh manh lại hỏi: “Thế thì màu sữa như tiếng thổi ốc ư?"

Đáp: Không phải.

Người sanh manh lại hỏi màu ốc giống thứ gì?

- Màu ốc trắng như bột gạo.

Người sanh manh nghe nói cho rằng màu sữa mịn nhuyễn như bột gạo. Khi biết không phải lại hỏi.

Người khác đáp: Màu sữa trắng như tuyết.

Người sanh manh lại cho rằng màu sữa lạnh lẽo như tuyết.

Người khác lại bảo màu sữa trắng như lông chim bạch hạc.

Người sanh manh ấy dầu nghe cả bốn thứ thí dụ tỉ lệ, nhưng trọn chẳng biết được màu sắc thiệt của sữa.

Cũng vậy, các ngoại đạo nầy trọn không thể biết được thường, lạc, ngã, tịnh. Do nghĩa nầy trong Phật pháp của ta có chơn-thật-đế, không phải hàng ngoại đạo có được.

Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát bạch Phật: “Hi hữu thay: Hôm nay đức Như-Lai sắp nhập Niết-Bàn phương tiện chuyển pháp luân vô thượng, bèn phân biệt chơn-thật-đế như vậy.”

Phật bảo Văn-Thù Sư-Lợi: Nay ông cớ sao ở nơi đức Như-Lai mà sanh quan niệm nhập Niết-Bàn. Nầy Thiện-nam-tử ! Như-Lai thiệt là thường trụ chẳng biến đổi chẳng nhập Niết-Bàn.

Nầy Thiện-nam-tử! Đức Như-Lai trọn chẳng có quan niệm ta là Phật, ta thành vô thượng chánh giác, ta chính là pháp, pháp là cái có của ta, ta là đạo, đạo là của ta có, ta là Thế-Tôn, Thế-Tôn là của ta, ta là Thanh-Văn, Thanh-Văn là của ta, ta có thể thuyết pháp làm cho người khác nghe và thọ trì, ta chuyển pháp luân, người khác không chuyển được. Đức Như-Lai trọn không có quan niệm như vậy nên đức Như-Lai chẳng chuyển pháp luân.

Nầy Thiện-nam-tử! Như-Lai không có những quan niệm ta thấy biết, sự thấy biết là của ta, tai nghe, mũi ngửi v.v… cũng như vậy, ta là sắc, sắc là của ta, thinh, hương, nhẫn đến pháp cũng như vậy, ta là địa đại, địa đại là của ta, thủy hỏa phong đại cũng như vậy. Như-Lai cũng không có những quan niệm ngã là tín là đa-văn, tín và đa-văn là của ta, ta là đàn-ba-la-mật, là thi-ba-la-mật, nhẫn đến là bát-nhã-ba-la-mật, đàn-ba-la-mật nhẫn đến là bát-nhã-ba-la-mật, đàn-ba-la- mật nhẫn đến bát-nhã-ba-la-mật là của ta, ta là tứ niệm xứ là tứ chánh cần, nhẫn đến là bát-thánh-đạo, tứ-niệm-xứ nhẫn đến bát-thánh-đạo là của ta. Như-Lai trọn chẳng có những quan niệm như vậy, nên Như-Lai chẳng chuyển pháp luân.

Nầy Thiện-nam-tử! Nếu nói thường trụ không biến đổi, sao lại nói rằng Phật chuyển pháp luân! Vì thế nên ông chẳng nên nói rằng đức Như-Lai phương tiện chuyển pháp luân.

Nầy Thiện-nam-tử! Như nhơn nhãn căn, sắc trần, ánh sáng và tư duy hoà hiệp sanh ra nhãn thức. Nhãn căn chẳng nghĩ rằng ta sanh ra thức, sắc, ánh sáng và tư duy cũng chẳng nghĩ rằng ta sanh nhãn thức, nhãn thức cũng chẳng nghĩ rằng ta có thể tự sanh. Những pháp như vậy nhơn duyên hòa hợp đặng gọi là thấy. Cũng vậy, đức Như-Lai nhơn sáu ba-la-mật cùng ba mươi bảy pháp trợ đạo mà giác ngộ rõ thấu các pháp. Lại nhơn yết hầu, lưỡi răng, môi miệng có ra lời ra tiếng, vì các ông Kiều-Trần-Như v.v… mà thuyết pháp lần đầu tiên, gọi đó là chuyển pháp luân. Do nghĩa nầy nên đức Như-Lai chẳng gọi là chuyển pháp luân.

Nầy Thiện-nam-tử! Nếu chẳng chuyển thời gọi là pháp, pháp là Như-Lai. Như do bùi nhùi, do cọ xát, do tay, do phân bò khô mà có lửa sanh ra. Bùi nhùi v.v… đều chẳng nghĩ rằng ta sanh ra lửa. Lửa cũng chẳng nói rằng ta có thể tự sanh. Cũng vậy, đức Như-lai nhơn sáu ba-la-mật v.v… Vì các ông Kiều-Trần-Như thuyết pháp gọi là chuyển pháp luân, đức Như-Lai trọn chẳng nghĩ rằng ta chuyển pháp luân. Nếu chẳng nghĩ tưởng như vậy thời gọi đó là chuyển chánh pháp luân. Chuyển pháp luân như vậy bèn gọi là Như-Lai.

Như do nơi chất lạc, nước khuấy, bình, giây, tay người mà có chất tô sanh ra. Lạc v.v… chẳng nghĩ rằng ta sanh ra tô. Tô cũng chẳng nói rằng ta có thể tự sanh ra. Do các duyên hòa hiệp nên sanh ra chất tô. Cũng vậy, đức Như-Lai trọn chẳng nghĩ rằng ta chuyển pháp luân. Nếu chẳng nghĩ như vậy, thời gọi đó là chuyển chánh pháp luân. Chuyển pháp luân như vậy thời là Như-Lai.

Nầy Thiện-nam-tử! Như do hột giống, đất, nước, phân, hơi nóng, gió, thời gian, công tác của người mà có mầm mọc lên. Hột giống v.v… chẳng nghĩ rằng ta sanh ra mầm. Mầm cũng chẳng nói rằng ta có thể tự sanh. Cũng vậy, đức Như- Lai trọn chẳng nghĩ rằng ta chuyển pháp luân. Nếu chẳng nghĩ như vậy thời gọi đó là chuyển chánh pháp luân. Chuyển pháp luân như vậy thời là Như-Lai.

Nầy Thiện-nam-tử! Như do trống, khoảng không, do, dùi, người hòa hiệp nhau mà sanh ra tiếng trống v.v… chẳng nghĩ rằng ta sanh ra tiếng. Tiếng cũng chẳng nói rằng ta có thể tự sanh.

Cũng vậy, đức Như-Lai trọn chẳng nghĩ rằng ta chuyển pháp luân. Chẳng nghĩ như vậy thời gọi đó là chuyển chánh pháp luân. Chuyển pháp luân như vậy thời là Như-Lai.

Nầy Thiện-nam-tử! Chuyển pháp luân là cảnh giới của chư Phật Thế-Tôn chẳng phải hàng Thinh-Văn Duyên-Giác biết được.

Nầy Thiện-nam-tử! Hư không chẳng phải sanh, chẳng phải xuất, chẳng phải tạo tác chẳng phải pháp hữu vi. Cũng vậy, Như-Lai chẳng phải sanh, xuất, tạo tác chẳng phải pháp hữu vi. Phật tánh cũng như vậy.

Nầy Thiện-nam-tử! Chư Phật Thế-Tôn lời thuyết giáo có hai thứ: Một là thế ngữ hai là xuất thế ngữ. Đức Như-Lai vì hàng Thinh-Văn Duyên-Giác dùng thế ngữ để thuyết giáo. Vì các vị Bồ-Tát nói xuất thế ngữ.

Nầy Thiện-nam-tử! Hàng đại chúng nghe pháp cũng có hai hạng: Một là hạng cầu tiểu thừa, hai là hạng cầu đại thừa. Ngày trước ở thành Ba-La-Nại ta chuyển pháp luân cho hàng Thinh-Văn. Nay ở thành Câu-Thi-Na nầy mới vì các vị Bồ- Tát chuyển đại pháp luân.

Nầy Thiện-nam-tử! Lại có hai hạng người trung căn và thượng căn. Vì hạng trung căn ở thành Ba-La-Nại ta chuyển pháp luân. Vì hạng thượng văn như Ca-Diếp Bồ-Tát v.v… ở nơi thành Câu-Thi-Na nầy ta chuyển đại pháp luân.

Nầy Thiện-nam-tử! Hạng tột hạ-căn đức Như-Lai trọn chẳng chuyển pháp luân cho họ. Hạng tột hạ-căn tức là nhứt-xiển-đề.

Nầy Thiện-nam-tử! Người cầu Phật đạo có hai hạng: Một là hạng trung tinh tấn, hai là hạng thượng tinh tấn. Như-Lai ở thành Ba-La-Nại vì hạng trung tinh tấn mà chuyển pháp luân. Nay ở thành Câu-Thi-Na nầy chuyển đại pháp luân cho hạng thượng tinh tấn.

Nầy Thiện-nam-tử! Ngày trước Như-Lai ở thành Ba-La-Nại, chuyển pháp luân lần đầu tiên, có tám muôn thiên nhơn chứng đặng quả Tu-Đà hoàn. Nay trong hội thuyết pháp tại thành Câu-Thi-Na nầy, có tám mươi muôn ức người chứng bực bất thối chuyển vô thượng Bồ-Đề.

Nầy Thiện-nam-tử! Ngày trước ở thành Ba-La-Nại, Đại-Phạm thiên-Vương đảnh lễ thỉnh Phật chuyển pháp luân. Nay tại thành Câu-Thi-Na nầy, Ca- Diếp Bồ-Tát đảnh lễ thỉnh Phật chuyển đại pháp luân.

Nầy Thiện-nam-tử! Ngày trước ở thành Ba-La-Nại lúc chuyển pháp luân Phật giảng thuyết về vô thường, khổ, không và vô ngã. Nay tại thành Câu-Thi- Na nầy Như-Lai giảng thuyết về thường, lạc, ngã và tịnh.

Nầy Thiện-nam-tử! Ngày trước ở thành Ba-La-nại, lúc thuyết pháp tiếng nói của Phật nghe xa đến trời Phạm-Thiên. Nay tại thành Câu-Thi-Na nầy, lúc chuyển pháp luân tiếng của Phật khắp đến hai mươi hằng hà sa thế giới ở mười phương.

Nầy thiện-nam-tử! Chư Phật Thế-Tôn phàm có lời nói ra đều gọi là chuyển pháp luân.

Ví như Chuyển-Luân-Thánh-Vương có Luân-bảo, kẻ chưa hàng phục có thể làm cho hàng phục, người đã hàng phục có thể làm cho an ổn. Chư Phật Thế-Tôn phàm có thuyết pháp cũng như vậy. Vô lượng phiền não người chưa điều phục có thể làm cho điều phục, người đã điều phục làm cho sanh căn lành.

Ví như Chuyển-Luân-Thánh-Vương còn Luân-bảo có thể phá tan tất cả oán tặc. Cũng vậy, đức Như-Lai thuyết pháp có thể làm cho tất cả giặc phiền não thảy đều tịch tịnh.

Ví như Chuyển-Luân-Thánh-Vương có Luân-bảo trên dưới xoay chuyển. Cũng vậy, Như-Lai thuyết pháp có thể làm cho các chúng sanh ở ác thú sanh lên cõi trời cõi người nhẫn đến thành Phật đạo.

Nầy Thiện-nam-tử! Vì thế nên nay ông chẳng nên khen rằng đức Như-Lai ở nơi đây lại chuyển pháp luân.

Văn-Thù Sư-Lợi bạch Phật rằng: “Thế-Tôn! Đối với nghĩa nầy chẳng phải là tôi không biết. Hỏi Phật là vì muốn lợi ích cho những chúng sanh. Từ lâu tôi đã biết chuyển pháp luân thiệt là cảnh giới của chư Phật Như-Lai, chẳng phải hàng Thinh-Văn Duyên-Giác biết được.

Phật bảo Ca-Diếp Bồ-Tát: “Nầy Thiện-nam-tử! Đây gọi là Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-Thừa Đại-Niết-Bàn thật hành Thánh-hạnh."

Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật: Thế-Tôn, do nghĩa gì gọi là Thánh-hạnh?

- Nầy Thiện-nam-tử! Thánh là nói chư Phật Thế-Tôn. Do nghĩa nầy nên gọi là Thánh-hạnh.

- Bạch Thế-Tôn! Nếu là chỗ thật hành của chư Phật thời chẳng phải hàng Thinh-Văn Duyên-Giác, Bồ-tát có thể tu hành được.

- Nầy Thiện-nam-tử! Đây là chư Phật Thế-Tôn an trụ nơi Đại-Niết-Bàn này mà phân biệt khai thị như vậy, do nghĩa nầy nên gọi là Thánh-hạnh. Hàng Thinh- Văn, Duyên-Giác, và Bồ-Tát nghe như vậy rồi thời có thể phụng hành nên gọi là Thánh-hạnh. Đại-Bồ-Tát nầy đặng tu hành hạnh đây rồi thời đặng trụ nơi bực vô sở úy. Chẳng còn sợ tham, sân, si, sanh, lão, bịnh, tử. Cũng chẳng còn sợ ác đạo, địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ.

Nầy Thiện-nam-tử ! Luận về sự ác có hai hạng: Một là A-Tu-La, hai là trong loài người. Trong loài người có ba hạng ác: Một là nhứt-xiển-đề, hai là hủy báng kinh điển Đại-Thừa Phương-Đẳng, ba là phạm bốn tội trọng. Trụ trong vô sở úy nầy, hàng Bồ-Tát trọn chẳng sợ đọa trong những hạng ác như vậy. Cũng chẳng còn sợ Sa-Môn, Bà-La-Môn, ngoại đạo tà kiến, Thiên-Ma Ba-Tuần. Cũng chẳng còn sợ thọ thân trong hai mươi lăm cõi. Vì thế nên bực nầy gọi là vô sở úy.

Nầy Thiện-nam-tử! Đại-Bồ-Tát trụ bực vô sở úy chứng đặng hai mươi lăm môn tam muội, phá hoại hai mươi lăm cõi. Đặng vô-cấu tam-muội có thể phá hoại cõi địa ngục. Đặng bất-thối tam muội có thể phá hoại cõi súc sanh. Đặng tâm- lạc tam muội có thể phá hoại cõi ngạ quỉ. Đặng hoan-hỷ tam muội có thể phá hoại cõi A-Tu-La. Đặng nhựt-quang tam muội có thể dứt cõi Phất-Bà-Đề. Đặng nguyệt-quang tam muội có thể dứt cõi Cù-Da-Ni. Đặng nhiệt-diện tam muội có thể dứt cõi Uất-Đơn-Việt. Đặng như-huyễn tam muội có thể dứt cõi Diêm- Phù- Đề. Đặng nhứt-thiết pháp bất-động tam muội có thể dứt cõi Tứ-Thiên- Vương. Đặng tối-phục tam muội có thể dứt cõi Đao-Lợi-Thiên. Đặng Duyệt-ý tam muội có thể dứt cõi Diệm-Ma-Thiên. Đặng Thanh-sắc tam muội có thể dứt cõi Đâu- Suất-Thiên. Đặng Huỳnh-sắc tam muội có thể dứt cõi Hoá-Lạc-Thiên. Đặng xích-sắt tam muội có thể dứt cõi Tha-Hoá-Tự-tại-Thiên. Đặng Bạch-sắc tam muội có thể dứt cõi Sơ-Thiền. Đặng chủng chủng tam muội có thể dứt cõi Đại- Phạm- Vương. Đặng song tam muội có thể dứt cõi Nhị-Thiền. Đặng lôi-âm tam muội có thể dứt cõi tam-Thiền. Đặng chú-võ tam muội có thể dứt cõi Tứ-Thiền. Đặng như hư-không tam muội có thể dứt cõi Vô-Tưởng. Đặng chiếu-cảnh tam muội có thể dứt cõi Tịnh-Cư A-Na-Hàm. Đặng vô-ngại tam muội có thể dứt cõi Không- Xứ- Thiên. Đặng thường tam muội có thể dứt cõi Thức-Xứ-Thiên. Đặng lạc tam muội có thể dứt cõi Bất-Dụng Xứ-Thiên. Đặng ngã tam muội có thể được cõi Phi- Tưởng-Phi-Phi-Tưởng-Xứ-Thiên.

Đây gọi là Bồ-Tát chứng đặng hai mươi lăm tam muội dứt hai mươi lăm cõi.

Nầy Thiện-nam-tử! Hai mươi lăm môn tam muội nầy gọi là vua của các môn tam-muội. Đại Bồ-Tát nhập trong những môn tam muội vương nầy, nếu muốn thổi hoại núi Tu-Di liền có thể tùy ý. Nều muốn biết tâm niệm của mọi loài chúng sanh trong cõi đại thiên, cũng đều có thể biết. Muốn đem mọi loài chúng sanh trong cõi đại thiên để vào trong một lỗ chơn lông nơi thân của mình liền có thể tùy ý, cũng có thể làm cho những chúng sanh đó không còn quan niệm chật hẹp. Nếu muốn hoá làm vô lượng chúng sanh đầy khắp trong cõi đại thiên, cũng liền có thể tùy ý. Muốn chia một thân làm nhiều thân, lại hiệp nhiều thân làm một thân, dầu làm những sự như vậy nhưng tâm không trụ trước, dường như hoa sen.

Nầy Thiện-nam-tử! Đại Bồ-Tát nhập trong những môn tam muội vương như vậy rồi, liền đặng trụ nơi bực tự tại. Bồ-Tát trụ bực tự tại nầy thời đặng sức tự tại, tùy ý muốn sanh chỗ nào liền đặng vãng sanh.

Ví như Chuyển-Luân-Thánh-Vương thống lãnh bốn cõi thiên hạ, tùy ý qua lại không bị chướng ngại. Cũng vậy, tất cả chỗ muốn thọ sanh Bồ-Tát nầy có thể tùy ý vãng sanh.

Bồ-Tát nầy nếu thấy tất cả chúng sanh nơi địa ngục, kẻ nào có thể làm cho sanh căn lành, Bồ-Tát liền qua mà thọ sanh trong đó, dầu sanh nhưng chẳng phải là nghiệp quả, do sức tự tại mà thọ sanh trong đó. Bồ-Tát nầy dầu ở nơi địa ngục nhưng chẳng bị những sự khổ đốt cháy nát thân v.v…

Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát nầy thành tựu vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức công đức như vậy, còn không thể nói hết, huống là công đức của Phật mà có thể nói được.”

Bấy giờ trong chúng hội, có một vị Bồ-Tát tên là Trụ-Vô-Cấu-Tạng- Vương, có oai đức lớn thành tựu thần thông, đặng đại tổng trì đầy đủ môn tam muội, chứng bực vô sở úy, liền đứng dậy trịch y bày vai bên hữu qùy gối hữu, chắp tay bạch Phật rằng : “Thế-Tôn! Như lời đức Phật nói: Chư Phật Bồ-Tát thành tựu vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức công đức thiệt không thể nói được. Ý tôi còn cho rằng vẫn chẳng bằng kinh điển Đai-thừa nầy vì nhơn sức của kinh Đại- Thừa Phương-Đẳng nầy nên có thể xuất sanh chư Phật Thế-Tôn vô thượng chánh giác”.

Phật khen rằng: Lành thay! Lành thay! Phải lắm đúng như lời ông nói. Những kinh Phương-Đẳng Đại-Thừa dầu thành tựu vô lượng công đức, muốn so sánh với kinh nầy thời không thể kịp được, trăm lần, ngàn lần, trăm ngàn muôn ức lần, nhẫn đến toán số thí dụ cũng chẳng kịp được.

Ví như từ bò có sữa, từ sữa sanh ra chất lạc, từ lạc sanh ra chất sanh tô, từ sanh tô sanh ra chất thục tô, từ thục tô sanh ra chất đề hồ. Chất đề hồ là vị hơn hết, nếu có người uống chất nầy các thứ bịnh đều tiêu trừ, bao nhiêu chất thuốc đều vào trong đề hồ.

Cũng vậy, từ Phật có ra mười hai loại kinh, từ mười hai loại kinh có ra Tu-đa-la, từ Tu-đa-la có ra kinh Phương-đẳng, từ kinh Phương-đẳng có ra Bát-Nhã Ba-La-Mật, từ Bát-Nhã Ba-La-Mật có ra Đại-Niết-Bàn, như chất đề hồ. Chất đề hồ dụ cho Phật tánh. Phật tánh tức là Như-Lai.

Nầy Thiện-nam-tử! Do nghĩa nầy nên nói rằng Như-Lai có vô lượng vô biên công đức chẳng thể nói được tính được.”

Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật: “Thế-Tôn! Như lời Phật khen kinh Đại-Niết- Bàn như chất đề hồ là vị thượng diệu, nếu có người uống đề hồ thời những chứng bịnh đều tiêu trừ, tất cả các vị thuốc đều vào trong chất đề hồ. Tôi nghe lời nầy trộm nghĩ rằng: Nếu có người chẳng nghe chẳng lãnh thọ được kinh nầy, phải biết người đó rất là ngu si không có tâm lành.

Bạch Thế-Tôn! Nay tôi thiệt có thể kham chịu lột do làm giấy, chích máu làm mực, lấy tủy làm nước, chẻ xương làm viết, biên chép kinh Đại-Niết-Bàn nầy. Biên chép đọc tụng thông thuộc, rồi vì người mà giảng rộng ý nghĩa đó.

Bạch Thế-Tôn! Nếu có chúng sanh tham trước của cải, tôi sẽ bố thí của cải rồi sau đem kinh Đại-Niết-Bàn nầy khuyên họ đọc. Nếu có người sang qúi, tôi trứơc dùng ái ngữ để được cảm tình, rồi sau lần lần sẽ đem kinh Đại-Thừa Đại- Niết- Bàn nầy khuyên họ đọc. Nếu là kẻ thường dân, tôi sẽ dùng oai thế ép họ đọc tụng. Nếu với người kiêu mạn tôi sẽ làm tôi tớ họ, tùy thuận ý của họ cho họ vui lòng, rồi sau sẽ đem kinh Đại-Niết-Bàn nầy mà dẫn dắt họ. Nếu có người hủy báng kinh Đại-Thừa tôi sẽ dùng thế lực hàng phục họ, rồi sau khuyên họ đọc kinh Đại-Niết-Bàn. Nếu có người ưa thích kinh Đại-Thừa, tôi đích thân đến cung kính cúng dường tôn trọng tán thán họ.

Phật khen Ca-Diếp Bồ-Tát: Lành thay! Lành thay! Ông thiệt đáng là người ưa thích kinh điển Đại-Thừa, tham kinh Đại-Thừa, thọ kinh Đại-Thừa, say kinh Đại-Thừa, kính tin tôn trọng cúng dường kinh Đại-Thừa.

Nầy Thiện-nam-tử! Nay do tâm lành nầy, ông sẽ siêu việt vô lượng vô biên hằng hà sa đại Bồ-Tát, đặng thành vô thượng chánh giác trước, chẳng bao lâu ông cũng sẽ vì đại chúng diễn nói tạng bí mật Đại-Niết-Bàn, Như-Lai, Phật tánh, như ta hôm nay.

Nầy Thiện-nam-tử! Về thuở quá khứ thời kỳ không có Phật ra đời, lúc đó ta làm Bà-La-Môn tu hạnh Bồ-Tát, có thể thông đạt những kinh luận của tất cả ngoại đạo, tu hạnh tịch diệt, đầy đủ oai nghi, tâm ta thanh tịnh chẳng bị các dục nhiễm ở ngoài phá hoại, dứt lửa sân hận, thọ trì pháp môn thường, lạc, ngã, tịnh. Khắp nơi ta tìm cầu kinh điển Đại-Thừa, nhẫn đến vẫn chẳng được nghe danh tự kinh Phương-Đẳng. Bấy giờ ta ở núi Tuyết, núi nầy thanh tịnh có suối chảy ao tắm, rừng rậm cây thuốc, hoa thơm nở khắp núi, chim thú không thể tính đếm, nhiều thứ trái ngon, lại có vô lượng ngó sen, củ ngọt củ thơm. Ta ở một mình trong núi chỉ ăn các thứ trái, ăn xong ngồi thiền chuyên tâm quán tưởng. Ta tu khổ hạnh như vậy trải qua vô lượng năm, cũng chẳng được nghe có Phật ra đời cùng tên kinh Đại-Thừa.

Thích-Đề-Hoàn-Nhơn và chư Thiên thấy ta bền tu khổ hạnh như vậy lòng họ kinh sợ bảo nhau rằng:

Chúng ta nên xem coi. Trong núi Tuyết thanh tịnh, Người ly dục tịch tịnh. Vua công đức trang nghiêm, Đã lìa tham sân mạn. Dứt hẳn lòng ngu si, Miệng chưa từng nói ra, Những lời thô ác thảy.

Có một vị Thiên-tử tên là Hoan-Hỷ lại nói kệ rằng:

Người ly dục như vậy, Thanh tịnh siêng tinh tấn, Toan chẳng cầu Đế-Thích, Và làm chư Thiên ư! Nếu là hạng ngoại đạo, Họ tu hành khổ hạnh, Phần nhiều đều mong cầu, Tòa ngồi của Đế-Thích.

Có một vị Tiên-thiên-tử lại vì Đế-Thích mà nói kệ rằng:

Thiên-Chúa Kiều-Thi-Ca, Chẳng nên sanh lòng lo, Ngoại đạo tu khổ hạnh, Hà tất cầu Đế-Thích.

Thiên-Tử nầy lại thưa với Đế-Thích: “ Bực đại-sĩ trong đời vì chúng sanh nên chẳng tham luyến thân mình mà tu vô lượng khổ hạnh để làm lợi ích cho chúng sanh. Hạng người như vậy thấy rõ những lỗi lầm trong giòng sanh tử, dầu của báu đầy cả mặt đất, đại sĩ nầy cũng chẳng tham muốn như thấy mũi dãi. Bực đại sĩ nầy rời bỏ của cải vợ con đầu mắt tủy não tay chơn da thịt, nhà cửa, voi ngựa, xe cộ, tôi tớ, cũng chẳng mong cầu sanh lên cõi trời, chỉ mong muốn làm cho tất cả chúng sanh được an vui. Như chỗ tôi hiểu bực đại-sĩ như vậy lòng thanh tịnh không ô nhiễm, đã dứt hết phiền não chỉ muốn cầu quả vô thượng bồ-đề.

Thích-Đề-Hoàn-Nhơn bảo rằng: “Theo như lời ông nói thời người ấy vì nhiếp thủ tất cả chúng sanh trong đời. Nầy Đại-Tiên! Nếu trong đời nầy có Phật dứt trừ được tất cả rắn độc phiền não của chư Thiên, loài người và A-Tu-La. Nếu các chúng sanh ở trong bóng mát của Phật thời tất cả những độc phiền não đều tiêu diệt. Nầy Đại-Tiên! Bực Đại-sĩ nầy nếu trong đời vị lai sẽ thành Phật, thời chúng ta sẽ được dứt trừ vô lượng phiền não. Việc nầy thiệt là khó tin, vì vô lượng chúng sanh phát tâm vô thượng bồ-đề, bị chút ít duyên liền thối thất Bồ-đề tâm, như bóng trăng trong nước, nước động thời trăng động. Lại như họa tượng, khó thành mà dễ hư. Cũng vậy, tâm Bồ-đề khó phát mà dễ thối thất.

Nầy Đại-Tiên! Như có nhiều người mặc giáp cầm gậy muốn đi dẹp giặc, lúc ra đến chiến trận lòng sợ sệt thời bèn chay lui. Cũng vậy vô lượng chúng sanh phát tâm Bồ-đề tự trang nghiêm bền chắc, lúc thấy lỗi sanh tử lòng sợ sệt bèn thối thất. Nầy Đại-Tiên! Ta từng thấy vô lượng chúng sanh sau khi phát tâm Bồ-Đề đều bị thối chuyển. Vì thế nên nay dầu thấy người nầy tu khổ hạnh tịch tịnh không phiền não nhưng ta chưa tin được. Nay ta sẽ đến thử xem coi người nầy thiệt có thể gánh vác nổi vô thượng Bồ-Đề chăng? Nầy Đại-Tiên! Như xe có hai bánh thời có công dụng chở chuyên, như chim có hai cánh mới có thể bay đi. Người tu khổ hạnh nầy, dầu thấy là giữ gìn giới cấm, nhưng chưa biết có trí sâu chăng. Nếu có sâu thời có thể gánh nổi vô thượng Bồ-Đề. Nầy Đại-Tiên! Như cá mẹ đẻ ra bầy cá con, nhưng số cá được lớn khôn rất ít. Như cây am-la nhiều bông mà ít trái. Chúng sanh phát tâm Bồ-Đề đông vô lượng nhưng ít người được thành tựu. Nầy Đại-Tiên! Ông nên cùng ta đồng qua thử đó. Như vàng ròng sau khi thử đủ ba cách mới biết là vàng thiệt, là đốt, đập và mài. Nay chúng ta cũng thử người tu khổ hạnh nầy.

Lúc đó Thích-Đề-Hoàn-Nhơn tự biến thân mình làm quỉ La-sát dung mạo đáng sợ, bay xuống núi Tuyết đến gần người tu khổ hạnh, cất tiếng thanh nhã tuyên nói nửa bài kệ của Phật quá khứ:

Các hạnh vô thường, Là pháp sanh diệt.

Quỉ La-sát nói nửa kệ xong liếc mắt tìm ngó bốn phía. Người tu khổ hạnh nghe hai câu kệ ấy lòng rất vui mừng, như người khách buôn ban đêm đến đường hiểm lạc mất đồng bạn, kinh sợ tìm kiếm bỗng gặo được đồng bạn, lòng rất vui mừng. Cũng như người bịnh lâu chưa gặp được lương y, về sau bỗng gặp được. Như người trôi nổi ngoài biển khơi bỗng gặp được thuyền bè. Như người quá khát gặp được nước mát trong. Như người bị oán-địch rượt mà chạy thoát được. Như người bị trói nhốt đã lâu bỗng đặng thả. Cũng như nhà nông trời nắng hạn mà gặp mưa. Như người đi xa trở về đến nhà, cả nhà đều vui mừng.

Nầy Thiện-nam-tử! Lúc nghe được nửa bài kệ ấy, lòng người khổ hạnh vui mừng cũng như vậy. Liền đứng dậy lấy tay đỡ tóc lên ngó tìm bốn phía nói rằng: “Chẳng biết ai vừa nói hai câu kệ? Ngó mãi không thấy người nào khác chỉ thấy quỉ La-Sát bèn nói rằng: “Ai khai môn giải thoát như vậy? Ai có thể thuật lời của Phật như vậy? Ai có thể ở trong giấc ngủ sanh tử mà có thể riêng được giác ngộ xướng lên lời đó vậy? Ai có thể ở chốn nầy đem đạo vị vô thượng chỉ dạy cho chúng sanh đang đói khát trong vòng sanh tử? Ai có thể làm thuyền lớn cứu vớt vô lượng chúng sanh đang nổi chìm trong biển sanh tử? Những chúng sanh nầy thường mang bịnh nặng phiền não, ai có thể làm lương y nói hai câu kệ ấy khai ngộ tâm của tôi. Như mặt trăng nửa như hoa sen hé nở.

Người khổ hạnh lúc đó không thấy có ai khác chỉ thấy quỉ La-Sát nghĩ rằng có lẽ quỉ nầy nói hai câu kệ ấy chăng? Rồi lại nghĩ rằng quỉ nầy hình dung hung dữ đáng sợ, phàm người đặng nghe những câu kệ ấy thời tất cả sự sợ sệt xấu xa liền tiêu trừ, đâu có lẽ người hình mạo xấu xa nầy mà có thể nói lời kệ ấy. Như trong lửa mọc được hoa sen. Trong ánh nắng mặt trời chẳng sanh được nước mát. Rồi lại tự trách: Ta thật là vô trí hoặc quỉ nầy đặng gặp chư Phật quá khứ, nên được nghe nửa bài kệ ấy, nay ta nên hỏi ý nghĩa của lời ấy. Suy nghĩ xong liền đến trước quỉ La-Sát nói rằng: “Lành thay lành thay! Đại-Sĩ! Ngài ở đâu mà học được nửa bài kệ của Phật quá khứ như vậy?

Quỉ La-Sát liền đáp rằng: “Nầy Bà-La-Môn! Ông chẳng nên hỏi ta về việc ấy. Vì ta đã nhiều ngày không được ăn đói khát khổ não tâm ý mê loạn. Ta tìm cầu khắp nơi vẫn chẳng được thức ăn. Vì thế nên ta nói những lời như vậy.”

Người khổ hạnh lại nói với quỉ La-Sát: “Nếu Đại-Sĩ có thể vì tôi nói trọn bài kệ, tôi sẽ trọn đời làm đệ tử ngài. Kệ của Đại-Sĩ vừa nói lời chẳng đủ, nghĩa chẳng trọn, sao Đại-Sĩ chẳng nói cho trọn? Luận về tài-thí thời có cạn hết, còn pháp-thí thời chẳng thể cùng tận, nhiều sự lợi ích. Tôi nghe nửa bài kệ ấy sanh lòng kinh nghi. Trông mong ngài vì tôi mà nói cho trọn, tôi sẽ trọn đời làm đệ tử ngài.”

Qủi La-Sát nói: “Ông tham thái quá chỉ biết tự thương thân mình mà chẳng nghĩ đến người. Ta đương đói khổ thiệt không thể nói đặng”.

Người khổ hạnh hỏi: “Thức ăn của ngài là vật gì?"

Quỉ nói: “Ông đừng hỏi, nếu ta nói ra thời mọi người phải kinh sợ”.

Người khổ hạnh nói: “Giữa đây chỉ có mình tôi không có người nào khác. Tôi không sợ, ngài cứ nói."

Qủi nói: “Tôi chỉ ăn thịt người tươi nóng, chỉ uống máu nóng của người. Vì ta phước mỏng nên chỉ ăn những thứ đó. Ta tìm khắp các nơi mà chẳng đặng. Trong đời dầu có người đông nhiều, nhưng mỗi người đều có phước đức, lại được chư Thiên-Thần thủ hộ, ta không đủ sức bắt ăn được.”

Người khổ hạnh nói: “Ngài cứ nói đủ bài kệ ấy, tôi nghe kệ rồi sẽ đem thân nầy dâng cho ngài dùng. Thưa Đại-Sĩ nếu lúc tôi chết thân nầy sẽ không dùng vào việc gì được, sẽ bị cọp, sói, chim hiêu, kên kên ăn mổ, không được một mảy phước đức. Nay tôi vì cầu Vô-thượng Bồ-đề xả thí thân vô thường chẳng bền nầy, để đổi lấy thân thường trụ bền chắc”.

Quỉ nói: “Ai tin được lời của ông, chỉ vì có tám chữ mà thí bỏ thân đáng mến đáng tiếc.”

Người khổ hạnh nói: “Như có người đem đồ sành bố thí cho người khác mà đặng đồ bằng thất bảo. Cũng vậy, tôi xả thí thân vô thường nầy để đặng thân kim cương. Ngài nói ai tin được lời tôi?”

Các vị Đại-Phạm Thiên-Vương, Thích-Đề Hoàn-Nhơn và Tứ-Thiên-Vương có thể chứng minh lời tôi. Lại có các vị Bồ-Tát tu hành Đại-thừa đủ lục độ, lợi ích vô lượng chúng sanh, có thiên nhãn cũng chứng biết được lời của tôi, Thập phương chư Phật cũng chúng biết cho tôi vì tám chữ mà xả thí thân mạng.

Quỉ nói: “Nếu ông có thể xả thí thân mạng như vậy, thời nên lóng nghe kỹ tôi sẽ vì ông nói nửa bài kệ sau”.

Người khổ hạnh nghe quỉ hứa nói vui mừng hớn hở, liền cởi tấm da nai đang mặc trên thân trải tòa rồi mời quỉ: “Bạch Hòa-Thượng xin thỉnh ngài lên tòa nầy”.

Quỉ ngồi xong người khổ hạnh quỳ dài, vòng tay thưa rằng: “Mong Hòa- Thượng vì tôi mà nói nửa bài kệ còn lại cho được đầy đủ”.

Quỉ La-sát liền tuyên rằng:

Sanh-diệt diệt rồi, Tịch diệt là vui.

Quỉ La-Sát nói hai câu kệ rồi bảo rằng: “Nầy Đại Bồ-Tát nay ông đã nghe đủ cả nghĩa bài kệ, lòng mong muốn của ông đã đầy đủ, nếu ông muốn lợi ích chúng sanh giờ đây nên thí thân cho ta.

Người khổ hạnh suy nghĩ kỹ những nghĩa trong bài kệ rồi biên chép lên trên đá, trên vách, trên cây, bên đường đi. Tự cột áo xiêm sợ sau khi chết thân thể lõa lồ rồi leo lên cây cao.

Thọ-Thần bảo người khổ hạnh: “Lành thay! Nay ông muốn làm việc gì?

Người khổ hạnh đáp: “Tôi muốn thí xả thân nầy để trả giá bài kệ”.

Thọ-Thần nói: “Bài kệ như vậy có những lợi ích gì?”

Người khổ hạnh đáp: “Những câu kệ ấy là lời thuyết pháp của Phật ba đời, trong ấy chỉ dạy đạo pháp chơn không. Tôi vì pháp nầy muốn lợi ích tất cả chúng sanh mà thí xả thân nầy, chẳng phải vì lợi danh, chẳng cầu Chuyển- Luân- Thánh-Vương, Tứ-Thiên-Vương, Thích-Đề-Hoàn-Nhơn, Đại-Phạm-thiên-Vương, chẳng cầu quả vui của người của trời.

Lúc sắp sửa xả thân, người khổ hạnh nói rằng: “Nguyện cho tất cả người tham lam bỏn sẻn đều thấy tôi xả thân. Những người bố thí chút ít sanh lòng cống cao cũng đặng thấy tôi vì một bài kệ mà xả thân mạng.

Nói xong, người khổ hạnh buông mình từ trên cây rơi xuống. Lúc thân chưa tới đất. Trong hư không vang ra các thứ tiếng thấu đến cõi trời Sắc-Cứu-Cánh. Quỉ La-sát huờn lại hình Thiên-Đế hứng lấy thân người khổ hạnh để nhẹ nhàng xuống đất.

Bấy giờ Thích-Đề-Hoàn-Nhơn, Đại-Phạm-Thiên-Vương cùng chư Thiên đảnh lễ người khổ hạnh mà khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Thiệt là Bồ-Tát có thể lợi ích nhiều cho vô lượng chúng sanh, muốn thắp đuốc pháp lên giữa đêm tối vô minh. Vì tôi mến tiếc pháp lớn của Như-Lai nên cố nhiễu não ngài. Ngưỡng mong ngài cho tôi sám hối tội lỗi. Thuở vị lai ngài quyết định thành Vô- thượng Chánh-giác. Khi được thành Phật, mong ngài tế độ chúng tôi.

Nói xong, Thích-Đề-Hoàn-Nhơn và chư Thiên đảnh lễ người khổ hạnh, cáo từ, bỗng nhiên ẩn mất.

Nầy Thiện-nam-tử! Người khổ hạnh thuở xưa chính là tiền thân của ta. Ngày trước vì nửa bài kệ mà ta xả thí thân mạng. Do cớ đó ta đặng vượt bực thành Phật trước Di-Lặc mười hai kiếp.

Nầy Thiện-nam-tử! Ta đặng vô lượng công đức như vậy đều do cúng dường chánh pháp của Như-Lai.

Nay ông phát tâm Vô- thượng Bồ-đề, thời ông cũng đã vượt hơn vô lượng vô biên hằng hà sa Bồ-Tát.

Nầy Thiện-nam-tử! Đây gọi là Bồ-Tát trụ nơi Đại-Thừa Đại-Bát Niết-Bàn tu hành thánh hạnh.

(Trích PHẨM THÁNH HẠNH THỨ MƯỜI CHÍN - KINH ÐẠI BÁT NIẾT BÀN 
Dịch Từ Hán Sang Việt: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Tịnh Xá Minh Ðăng Quang, Hoa Kỳ Xuất Bản 1990)

Không có nhận xét nào: