Thứ Năm, 21 tháng 5, 2015

LUẬN VỀ SỐ PHẬN CON NGƯỜI VÀ NHỮNG CÁCH CẢI SỐ PHẬN

Khoa tử vi phương Đông đã tổng kết và ước lượng số mệnh con người qua hàm số sau: Số mệnh = Thiên Mệnh + Địa Mệnh + Nhân Mệnh. Thiên mệnh là người sinh ra bị chi phối bởi: ngày, giờ, tháng, năm, các vì sao chiếu lúc sinh ra và phúc của tổ tiên. Theo đó, Địa mệnh là môi trường xã hội và Phong Thủy nơi sinh sống. Nhân mệnh là phần nỗ lực học tập, rèn luyện, lao động, tu tâm dưỡng tính của mỗi cá nhân trong cuộc sống.
1. Tổng luận sự phụ thuộc các yếu tố về số phận con người
1.1. Con người là trung tâm của vũ trụ
Theo thuyết tam tài của triết học phương Đông là Thiên - Địa – Nhân thì Con người chính là sản phẩm hoàn chỉnh nhất của tự nhiên và là trung tâm của Trời Đất. Có Trời có đất rồi qua sự phát triển vận động mà tạo nên con người như một vũ trụ thu nhỏ. 
Chính vì con người là một sản phẩm của tự nhiên thì tất nhiên phải chịu sự chi phối của tự nhiên. Cũng giống như các sinh vật khác trên trái đất, con người phải chịu sự chi phối của thiên nhiên và môi trường tự nhiên. Mỗi người sinh ra đời tại những thời điểm nào đó, những vị trí ở khác nhau trên trái đất thì đã có sự khác nhau về số mạng vì sự vận hành của các thiên thể trong vũ trụ, trên những quỹ đạo khác nhau. Trái đất chịu ảnh hưởng mạnh nhất của các hành tinh trong hệ mặt trời như mặt trăng, mặt trời, sao kim, sao hoả, sao thổ cùng các tia vũ trụ, các yếu tố môi trường tác động vào mỗi con người khác nhau, do đó được hình thành nên với những tố chất tốt xấu của mỗi người khác nhau. 
Khoa học hiện đại cũng chỉ ra rằng: con người còn bị chi phối bởi những yếu tố khác như: chu kỳ sinh học, chẳng hạn như chu kỳ trí tuệ, sức khoẻ và tâm lý. Chính vì thế mỗi người có một xuất phát điểm khác nhau, một quá trình sinh hoạt bị chi phối bởi những chu kỳ khác nhau, người xưa gọi đó là “Thiên Mệnh” hay tiền định.
Tiền định có nghĩa là đã được định trước. Con người khi sinh ra đời đã được định (hay bị định) trước rồi. Tại sao con người phải sinh ra đời trong thời gian đó, trong không gian đó, trong gia đình đó, trong hoàn cảnh đó? Con người có sửa đổi thời gian, hoàn cảnh cũng như môi trường khi ta sinh ra đời này được không? Lẽ dĩ nhiên là không. Con người đã được sinh ra với những yếu tố tiền định mà mình không được biết cũng như không được quyền chọn lựa. Đó là bước đầu khi con người hiện hữu trên cõi đời này. Sau đó khi con người lớn lên thì cuộc đời cũng đã được định sẵn. Con đường đã được vạch ra và con người cứ phải theo đó mà đi từ lúc ta chào đời cho đến khi ta từ giã cõi đời. Tất cả đều được định sẵn nên mỗi người đều có số mạng riêng của mình. Số mạng đó đã được định sẵn như vậy. Ta gọi đó là định mệnh. 
Nếu có định mệnh thì ai có đủ quyền năng làm công việc định đoạt đó? Theo các nhà nho xưa thì Trời có đủ quyền năng để định đoạt mọi việc ở trong vũ trụ cũng như trên thế gian này. Cho nên đối với cuộc sống của con người trên đời này, các nhà nho xưa bảo “Tử sinh hữu mạng, phú quí tại thiên” (nghĩa là: sống chết có số mạng, giàu nghèo đều do nơi Trời). Ngoài Thiên Mệnh ra còn có những yếu tố khác chi phối số mệnh con người như con người còn phục thuộc vào gen di truyền, vào môi trường sinh hoạt, vào vị trí địa lý và nỗ lực mỗi cá nhân gọi là Nhân mệnh và Địa mệnh. Chính vì con người sinh ra phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau cho nên nếu hai người sinh cùng một thời điểm nhưng lại có thể có số mệnh khác nhau. 
1.2. Tổng quát hàm số luận đoán số mệnh
Khoa tử vi phương Đông đã tổng kết và ước lượng số mệnh con người qua hàm số sau: 
Số mệnh = Thiên Mệnh + Địa Mệnh + Nhân Mệnh 
Thiên mệnh là người sinh ra bị chi phối bởi: ngày, giờ, tháng năm, các vì sao chiếu lúc sinh ra và phúc của tổ tiên. Theo đó, Địa mệnh là môi trường xã hội và Phong Thủy nơi sinh sống. Nhân mệnh là phần nỗ lực học tập, rèn luyện, lao động, tu tâm dưỡng tính của mỗi cá nhân trong cuộc sống. 
Phần “Thiên mệnh” là cố định không thể cải biến được. Nhưng “Địa mệnh” và “Nhân mệnh” hoàn toàn có thể cải biến, điều đó cho thấy Phong thủy Âm trạch có vai trò vô cùng quan trọng. Con người có thể chọn lựa được nhà cửa, văn phòng, phòng ngủ, bàn làm việc theo hướng phù hợp. Bên cạnh đó, tích đức hành thiện, sẽ có tác dụng cải tạo số phận to lớn. 
1.3. Công thức lượng hoá vận mệnh của mỗi người
Số mệnh = Thiên Mệnh + Địa Mệnh + Nhân Mệnh
Thiên mệnh: 60% gồm:
1. Bản mệnh (Tử Vi, Tứ Trụ) 18%;
2. Đại vận Phúc đức ảnh hưởng 30%;
3. Lưu niên thọ yểu ảnh hưởng 12%.
Nhân mệnh - Địa mệnh 40 % gồm:
1. Phong thủy Địa lý 10%; 
2. Ý chí bản thân 10% ;
3. Tích đức hành thiện 8%; 
4. Xã hội hoàn cảnh môi trường sống 4%;
5. Giáo dục trình độ 4%; 
6. Tính danh ảnh hưởng 4%.
2. Thiên mệnh
2.1. Luận về Thiên mệnh 
Người ta sinh ra bị chi phối bởi: ngày, giờ, tháng năm, các vì sao chiếu lúc sinh ra, phúc đức của tổ tiên và sự thọ yểu là Thiên mệnh. Trong thiên mệnh bao hàm ba yếu tố chính: 
1. Bản mệnh (Tử Vi, Tứ Trụ) chiếm 18%;
2. Đại vận Phúc đức ảnh hưởng 30%;
3. Lưu niên thọ yểu ảnh hưởng 12%.
Tử vi là do các vì sao chiếu theo giờ, ngày, tháng năm lúc được sinh ra. Tứ trụ là Ngũ hành theo giờ ngày tháng năm sinh hợp hay xung. Tương sinh là tốt, tương khắc là xấu. Để hiểu rõ tại sao Đại vận Phúc đức ảnh hưởng 30 % số mệnh cuộc đời bạn hãy tìm hiểu cái gốc của Phúc đức là mồ mả tổ tiên của dòng tộc được táng đúng Long mạch. Trong thiên mệnh phần thọ yểu chiếm 12% vì theo khoa Tử vi trong lá số tử vi mỗi người khi sinh ra họ đã được định sẵn nghề nghiệp cho cuộc đời và tuổi thọ của họ theo tháng sinh. Cùng một tuổi như nhau nhưng sinh các tháng khác nhau thì tuổi thọ cũng khác nhau. Về sức khỏe của mỗi người cũng khác nhau. Lá số cũng chi ra những bệnh tật mà họ phải có trong cuộc đời. Sự khỏe yếu, bệnh tật sẽ ảnh hưởng lớn đến cuộc đời của mỗi người. Người khỏe và sống lâu sẽ thực hiện tốt những dự tính trong đời. Người bệnh tật, thọ yểu không có đủ khả năng thực hiên những kế hoạch đề ra nên ảnh hưởng lớn đến cuộc sống. 
2.2.  Lý giải tại sao cung phúc đức chiếm 30% vận mệnh
Giải thích điều này như sau: theo triết lý nhà Phật thì số mệnh của mỗi người khi sinh ra được gói gọn trong sáu chữ “Nhân - quả, Thiện - ác, luân hồi”. Theo triết lý này thì số mệnh con người khi sinh ra tốt xấu là do nhân mà mình đã gieo trong các kiếp trước. Nhân mình gieo tốt thì kiếp này mình được số mệnh tốt và ngược lại. Số mệnh tốt xấu sẽ ra đời vào những ngày giờ có sao tốt chiếu mạng. Do được các vì sao tốt chiếu theo giờ, ngày, tháng năm lúc được sinh ra tốt nên tạo nên số mạng tốt. Con người sinh ra sang hay hèn, giàu hay nghèo đó là do cung mệnh. Cung Phúc đức là ảnh hưởng mạnh nhất đến cả cuộc đời chiếm 30% số mệnh. Cung Phúc đức là nói về mồ mả tổ tiên của người đó. Nhân - quả, Thiện - ác kiếp trước mình đã gieo cũng ảnh hưởng nhiều. Nếu mồ mả tổ tiên của người đó đặt nơi có Long mạch tốt thì sinh ra con người có tướng diện tốt, số mạng tốt (điều này đã được chứng minh ở các sách tướng). Giải thích điều này như sau: Giữa người sống và người chết, cùng chung một huyết khí, bao giờ cũng có sự liên hệ trực tiếp với nhau. Do đó, nếu hài cốt được an táng vào một nơi đẹp mắt, tiền, hậu, tả, hữu đều có những phong cảnh tươi tốt, thì lẽ tất nhiên hài cốt nằm đó, cũng được thấm nhuần linh khí thiên địa, phát sinh được những “tia điện” thiêng liêng, để truyền “sinh khí” cho con cháu, hay những bà con thân thích có liên hệ huyết thông với người nằm dưới đáy mộ. Do đó tục ngữ có câu “Khôn có dòng, dại có giống” là để chỉ ý này. Những người có mồ mả tổ tốt hay nhà ở hợp phong thủy thì do được tiếp phúc từ tổ tiên và sinh khí từ căn nhà ở nên được thụ thai và sinh ra vào những ngày giờ có sao tốt chiếu mệnh. Từ đó, cuộc đời có số mạng tốt. Nếu mồ mả tốt thì sinh ra người có khuôn mặt sáng sủa thanh tú, tướng người sang trọng. Thời gian được ra đời sẽ phụ thuộc vào sự hội tụ của những vỉ sao tốt hay xấu. Nếu ngày, giờ, tháng đó có nhiều sao tốt hội chiếu thì người sinh ra có số tốt. Thời gian và không gian sinh ra là không đổi nên số mạng của người đó không thay đổi. Các yếu tố Thiên mệnh này là không thay đổi suốt cuộc đời, con người không cải được cho nên muốn cải số của mình phải cải Nhân mệnh - Địa mệnh. Muốn cải biến số mệnh ta làm thế nào? 
2.3. Tại sao long mạch tốt thì sinh ra những người có số mạng tốt? 
Các nhà phong thủy quan niệm rằng: sinh khí không phải chỉ tồn tại và vận hành trong lòng đất, mà cũng tồn tại trong bản thân mỗi con người. Con người cũng như hết thảy mọi vật đều do sinh khí cấu tạo thành.
Nhà phong thuỷ nổi tiếng đời Minh là Tưởng Bình Giai, khi bàn về “sự vận động thần diệu của khí” trong sách Thủy song kinh có viết: “Cái đầu tiên duy nhất chỉ là khí, tiếp ngay sau đó là nước. Không có gì xuất hiện trong nước, trong nước có những hạt cặn đục lắng đọng lại thành ra sông núi”. Tưởng Bình Giai quan niệm sinh khí không những tạo ra diện mạo của sông, núi, cảnh quan môi trường xung quanh con người, mà còn tạo ra chính bản thân con người, thậm chí sinh khí còn được duy trì bảo lưu ngay sau cả khi con người đã chết. Giải thích điều này như sau: Con người là do tinh cha huyết mẹ kết lại mà thành. Tưởng Bình Giai nói: “Sinh khí kết tinh trong cơ thể của cha mẹ dưới hình thức nước, nó được di truyền cho con cháu. Do vậy mà con cháu thụ hưởng được sinh khí của cha mẹ”. Tinh kết hợp với trứng tạo ra bào thai, sinh ra thành người. Ông còn nói tiếp: “Khi con người sống, khí ngưng tụ, kết tinh ở trong xương, cho nên bản thân mình là tinh hoa của hai khí Âm Dương. Sinh khí kết tinh trong cơ thể của cha mẹ dưới hình thức nước, nó được di truyền cho con cháu thông qua giao hợp, tạo thành bào thai. Do vậy mà con cháu thụ hưởng được sinh khí của cha mẹ. Khi con người sống, khí ngưng tụ, kết tinh ở trong xương”. Mỗi người khi sống là hai khí Âm Dương hoạt động nơi toàn thân, khi mất rồi thịt da tiêu hết, nhưng hai khí Âm Dương không hề tiêu mất. Khí ấy, khi chết đi thì chỉ có khí được giữ cùng với xương. Khí tụ nơi xương, xương người quá vãng không mất, khi chết đi thì chỉ có khí được giữ cùng với xương, vì vậy việc mai táng là để cho sinh khí tiếp tục trở lại với hài cốt. khi sinh khí di chuyển trong huyệt mạch, bồi bổ cho xương cốt. Xương cốt thu được sinh khí truyền cho con cháu được tiếp nhận qua dòng điện dao động cùng tần số, từ đó mà con cháu cảm ứng được họa phúc. Những người cùng huyết thống thu được sinh khí sẽ tạo được phúc lộc vĩnh trinh, vạn vật được hóa sinh. Quách Phác đời Tấn và Tưởng Bình Giai thời Minh đều khẳng định như sau: “Khi người chết rồi đem mai táng, chân khí của người ta hội với Huyệt Khí tạo thành Sinh Khí, thông qua Âm Dương giao lưu hình thành đường lối, ảnh hưởng trong sâu thẳm, lảng vảng xung quanh vận khí của người chết. Do đó, khi hạ táng, cần nhất tìm nơi âm trạch có Sinh Khí. Đó là luồng khí chạy trong lòng đất. Khí ấy làm cho Sinh Khí kết hợp với hai Khí Âm Dương tồn lưu trong xương cốt, bảo hộ cho thân nhân đang sống”. Những người có cùng huyết thống thì có cùng tần số điện từ nên dễ bắt được sóng của nhau. Mộ tổ tốt hay xấu ảnh hưởng tới con cháu. 
2.4. Một số biểu hiện ảnh hưởng của mộ phần qua tướng diện con cháu
* Mộ tổ hưng bại thường thường hay thể hiện ngay trên mặt, tướng. Nếu người có ngũ nhạc cao, đó là mộ tổ đắc được Long Mạch Địa Thế tốt; Tứ thủy thanh tú, là do đắc được thủy pháp lợi.
* Nếu khí tốt đầy mặt, đó là mộ Tổ đắc khí. Mặt con cháu mà khô héo, tất là mộ tổ phong thủy bị tiết thoát khí. Người mà xương thô là do mộ tổ phong thủy lộ rõ. 
* Xương nhỏ là mộ Tổ ẩn tàng.
* Nếu xương thô lộ, mắt cũng to lộ, là mộ tổ lộ rõ hoặc chôn nơi núi đá lởm chởm.
* Phàm sau khi táng mà sinh ra dị nam. Là do nhật nguyệt đều nhau. Long Hổ chầu về, núi phía sau cao vút, khí đẹp trước mặt, đó là Thần Quang, đó là Đất Linh đắc khí, người của đều vượng. 
* Sau khi chôn sinh con trai, mà khí trọc thần thô, thịt thô xương rắn, ngũ nhạc không ngay ngắn, tất là tứ thủy Thần lan tràn, như vậy không thế đạt Phong Thủy vậy.
* Nếu xương đầu cao đầy, gương mặt tròn đầy mà khí sắc khô héo, ánh mắt vô Thần, tất là phong thủy bị tiết thoát khí, chẳng bao lâu sẽ thua bại. 
* Giả như khuôn mặt đầy đặn trong sáng, nếp mặt, mụn ruồi phá cung, tai mắt tiếng nói đứt đoạn, nhất định là thủy cảng, cầu đường xung phạm mộ phần lai Long.
* Chân tay eo lưng tàn khuyết và ngu ngốc điên cuồng, lại có râu mọc hỗn loạn như cỏ như lông tất là mộ tổ bị cây lớn xâm phạm. 
* Thần sắc tiêu điều, thất thần vô khí, điên đảo thác loạn, đó là do mộ tổ phong thủy bị thương tổn, long mạch ứ khí. Kinh Thư viết: “Người mất rồi có Khí, Khí có thể cảm ứng, ảnh hưởng đến mọi người”[1]. Thế nên sự cảm ứng giữa người sống và người đã khuất là có căn cứ thực sự. 
[1] Hội văn hóa Sơn Đông, Bàn về đạo Khổng, Nxb. Thanh Hoa, 1980, tr. 136.
3. Những cách cải biến số mạng của con người
Muốn cải biến số mệnh của mỗi người, ta chỉ có thể cải biến được Nhân mệnh - Địa mệnh, nghĩa là cải số phận tối đa là 40% số mệnh cuộc đời. Người ta nói là cải số trời là cải biến Nhân mệnh - Địa mệnh chứ không phải cải Thiên mệnh. Để cải biến số mệnh người xưa đã tổng kết và đưa ra một số cách cải biến vận mênh như sau: 
3.1. Dùng thuật phong thủy trong cải biến vận mệnh
Phong Thuỷ là môn khoa học tổng hợp của các môn khoa học thực nghiệm và lý thuyết khác như vật lý địa cầu, thủy văn địa chất, vũ trụ tinh thể học, khí tượng học, môi trường học và kiến trúc.
Người vận dụng phải có kiến thức tổng hợp, biết xem xét thiên nhiên môi trường, cải tạo nó thành môi trường tối ưu cho con người sinh sống để phát triển tốt đẹp. Đích cuối cùng của Phong Thuỷ phải là Thiên - Nhân - Địa hợp nhất, con người đạt đến cái đích thấu hiểu những quy luật của trời đất và sống hòa hợp với những quy luật ấy. Từ trước đến nay những quy luật của thiên nhiên, của trời đất vũ trụ vẫn vô tư tồn tại, chỉ có con người duy ý chí mới cho rằng mình sống không cần phụ thuộc vào nó nên vô tình đã phạm phải những điều gây tai họa cho chính bản thân con người. Cải biến vận mệnh theo Phong Thủy địa lý như hướng nhà hướng cổng, cửa phòng ngủ, bếp hợp với cung phi gia chủ thì sẽ thay đổi được 10% số mệnh cuộc đời. Ngoài cải biến bằng phong thủy ra, để cải biến số mênh người xưa đã tổng kết và đưa ra một số cách sau:
3.2. Làm việc thiện để tích đức 
Theo quan điểm của đạo Phật thì luật nhân quả xuyên suốt quá khứ vị lai. Con người sinh ra đời là kết tinh của nghiệp quá khứ, tức là những gì đã tạo tác trong các kiếp trước.
Thuyết định mệnh theo ý nghĩa đó đã được các nhà nho tóm tắt trong câu: “Dục tri tiền thế nhân, kim sinh thụ giả thị. Dục tri lai thế quả, kim sinh tác giả thị” (có nghĩa là: muốn biết trong kiếp sống trước mình đã làm những gì thì hãy nhìn xem hiện tại trong kiếp này mình đang được hưởng những gì. Muốn biết trong kiếp sau mình sẽ được hưởng những gì thì hãy nhìn xem trong kiếp sống hiện tại mình đang làm được những gì). Theo thuyết này thì con người có nhiều kiếp sống: kiếp trước, kiếp này và kiếp sau. Mỗi kiếp sống gồm có hai phần: một phần là kết quả của kiếp trước và một phần là nguyên nhân của kiếp sau.
Trong kiếp sống hiện tại của một người nào đó ta thấy có hai phần: một phần là những gì người đó đang thụ hưởng và một phần khác là những gì người đó đang làm. Phần người đó đang được thụ hưởng là phần được sinh ra trong một gia đình giàu có sang trọng, lại thông minh, được may mắn thành công và hưởng nhiều hạnh phúc sung sướng ở đời. Phần này là kết quả của những việc làm có thể là rất tốt, rất thiện, rất đạo đức của người đó hồi kiếp trước. Tuy nhiên phần người đó đang làm trong kiếp này như khinh người, hiếp đáp kẻ khác, có những hành động độc ác, thì những việc làm xấu xa đó là nguyên nhân của một kiếp sau có thể là sẽ rất hèn hạ, khổ đau. Kiếp sau có thể người đó sẽ phải sinh ra trong gia đình nghèo khó, lại có thể không đủ khôn ngoan, không có cơ hội học hành, phải sống cuộc đời nghèo khổ bị nhiều người khinh bỉ.
Trong thực tế ai cũng biết là khi ta đối xử tử tế, lịch sự, tốt đẹp đối với những người chung quanh ta thì dĩ nhiên ta cũng sẽ được nhiều người đối xử tử tế, lịch sự và tốt đẹp lại. Ngược lại nếu ta có những hành vi không ra gì đối với những người chung quanh ta thì khó mà mong rằng người ta thương mến, đối xử tốt với mình. Thực tế cho thấy không ai chịu tốt bụng để cứ đối xử tốt đẹp mãi với một người đã có lối xử sự không ra gì đối với mình. “Bánh sáp đi, bánh quy lại” cũng như “ăn miếng thì trả miếng” có chung ý nghĩa về nhân quả.
Theo quan điểm của Đạo Phật, tích đức hành thiện sẽ thay đổi nghiệp quả ác từ đời trước, tạo nên những nghiệp thiện và nếu làm nhiều có thể báo ứng ngay hiện tại góp phần cải thiện vận mệnh. Các việc thiện có rất nhiều như giúp người khó khăn, chữa bệnh, làm đường xá cầu cống, ủng hộ thiên tai, hiến máu nhân đạo. Thực tế cho thấy hạnh phúc lớn lao của con người chỉ đạt được khi mà hạnh phúc ấy được chia sẽ với những thành viên khác trong cộng đồng. Tích đức hành thiện sẽ cải số được 8% số mệnh cuộc đời. 
Chuyện kể rằng tại một ngôi chùa nọ có một chú Sa di được sư phụ cho phép trở về thăm cha mẹ, vì Sư có thần thông nên được biết trong vòng một tháng nữa là thọ mạng của chú Sa di sẽ chấm dứt. Trên đường đi về quê, chú Sa di thấy một ổ kiến lớn đang sắp sửa bị trôi theo dòng nước lũ, chú vội vàng tìm cách cứu để ổ kiến khỏi bị chết. Chú về thăm nhà và sau đó trở lại chùa. Nhiều tháng trời trôi qua, chú vẫn tiếp tục tu hành niệm Phật ăn chay bên sư phụ. Sư phụ của chú rất thắc mắc, một hôm hỏi chú chuyện gì đã xảy ra khi chú về thăm cha mẹ. Chú kể rõ tự sự chuyến về thăm quê, kể cả chuyện chú cứu vớt một ổ kiến to. Sư phụ mới hiểu việc kéo dài thọ mạng chính là nhân cứu giúp chúng sinh và nhân không sát sinh. Trong kinh Phật cũng dạy nhân sát sinh có thể đưa đến địa ngục, làm loài bàng sinh, quả báo nhẹ là làm người với tuổi thọ ngắn và hay bệnh hoạn.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy muốn được quả báo giàu sang sung sướng là do nhân bố thí đời trước, được quả báo thông minh là do nhân khuyên người khác làm lành tránh ác, quả báo tướng mạo đoan trang đẹp đẽ là do nhân đời trước giúp đỡ kẻ tật nguyền. Chú Sa di trong câu chuyện trên nhân cứu mạng sống của một ổ kiến to, không giết hại chúng sinh nên mạng sống được kéo dài, không bệnh tật. 
3.3. Các phương pháp cải biến vận mệnh khác 
* Đổi danh tính
Danh tính có vai trò rất quan trọng bởi đó là nhân tố thường xuyên tác động đến bản mệnh. Cái tên gọi mỗi ngày sẽ có tác dụng to lớn đến quá trình cải tạo vận mệnh. Tính danh ảnh hưởng 4% vận mệnh, vì vậy khoa tính danh học đã phát triển, sử dụng Âm Dương, Ngũ Hành bổ trợ cho vận mệnh. Để biết mệnh của mình thiếu hành gì phải dùng môn Bát Tự để xem xét, sau đó đặt lại tên để bổ cứu. Người ta đổi tên sao cho tổng số nét chữ họ và tên mới vào đúng những số tốt thì vận mệnh người này thay đổi tốt lên 4%.
* Đổi chữ ký 
Chữ ký cũng có tác dụng là thay đổi sự may mắn hay rủi do trong cuộc đời. Có chữ ký làm cho cuộc sống gặp may mắn, công viêc trôi chảy nhưng cũng có chữ ký làm cho cuộc sống trở nên thăng trầm bất định. Nếu đang xui, ta đổi chữ ký và thấy cuộc đời thay đổi tốt lên thì hãy dùng chữ ký đó. Khoa tướng số chỉ cần nhìn chữ ký người ta có thể đoán biết về số phận của người ký tên. 
* Y phục và đồ vật đi kèm
Trên cơ sở xem xét bản mệnh thiếu loại ngũ hành gì có thể sử dụng loại màu sắc quần áo, trang phục, xe cộ... để có Ngũ Hành phù hợp bổ trợ cho chỗ thiếu của mệnh. Ví dụ, mệnh thiếu hành Hỏa có thể dùng quần áo nhiều màu hồng, đỏ, xe cũng nên dùng màu đỏ sẽ bổ cứu cho mệnh tốt hơn. Các dụng cụ đồ vật đi kèm cũng nên dùng Ngũ Hành phù hợp, như mệnh cần hành Kim nên dùng nhiều đồ trang sức kim loại, vàng bạc. Mệnh cần hành Thổ nên dùng nhiều loại đá quý, ngọc. 
* Sử dụng phương hướng phù hợp
Căn cứ Ngũ Hành của bản mệnh, xem xét bản mệnh hợp với phương vị nào thì nên sinh sống lập nghiệp ở phương vị đó sẽ tốt hơn là sinh sống lập nghiệp ở phương vị không phù hợp. Ví dụ: lấy trung tâm thành phố làm chuẩn, mệnh cần hành Hoả thì nên sinh sống ở phía Nam của thành phố, ở nhà quay về hướng Nam, văn phòng hướng Nam. Mệnh cần hành Kim thì nên sinh sống ở phía Tây thành phố hay phía tây của làng xã, cổng hay cửa nhà quay về hướng Tây, văn phòng quay về hướng Tây.
* Sử dụng các con số phù hợp
Ngũ Hành của bản mệnh cần bổ cứu hành gì thì sử dụng các con số phù hợp để bổ trợ. Các con số thường sử dụng như số nhà, số điện thoại, biển số xe… Đại diện ngũ hành của các con số như sau: Số 1, 2 thuộc Mộc, số 3, 4 thuộc Hoả, số 5, 6 thuộc Thổ, số 7, 8 thuộc Kim, số 9, 0 thuộc Thủy. Ví dụ: người mạng Mộc dùng số 1, 2 thì may mắn hơn các số khác… Y phục và đồ vật đi kèm là có thể cải biến 10% cuộc đời.
* Chọn nghề nghiệp, bạn hợp tác phù hợp
Căn cứ ngũ hành cần thiết cho bản mệnh mà chọn nghề nghiệp cho phù hợp như mệnh cần hành Thổ nên làm về những ngành nghề thuộc Thổ như sản xuất nông nghiệp, kiến trúc, xây dựng, bất động sản.
Chọn vợ chồng và bạn bè, đối tác làm ăn phù hợp: nên chọn những người có Ngũ Hành bản mệnh phù hợp và bổ trợ tốt cho ngũ hành của bản thân mình. Đặc biệt là người vợ, chồng chung sống suốt đời có vai trò vô cùng quan trọng, vì thế cần phải chọn lựa cẩn thận trước khi tiến đến hôn nhân. Các phương pháp trên sẽ được khảo luận cụ thể ở các mục tương ứng. Nếu con người cải biến được Nhân mệnh - Địa mệnh thì họ cải biến được 40 % cuộc đời. Với người đang nghèo cải biến tốt có thể trở nên giàu có, còn người đang giàu không biết cách cải biến thì đang giàu có thể trở nên nghèo khó nếu Nhân mệnh - Địa mệnh của họ xấu đi. 
4. Phẫu thuật sửa tướng, phẫu thuật y khoa cho bào thai để cải số tốt hay xấu?
4.1 Phẫu thuạt sửa tướng tốt hay xấu? 
Quan niệm “sửa mũi có thể thay đổi được số mệnh” là không chính xác. Nếu sửa mũi có thể thay đổi được số phận con người thì đến thời điểm này, các nhà khoa học chưa chứng minh được thế nào là cái mũi tốt nhất, các nhà lý học nghiên cứu về tướng số cũng chưa chứng minh được mũi thế nào là mũi chuẩn.
Theo ông Nguyễn Phúc Giác Hải - Chủ nhiệm bộ môn Thông tin dự báo, Trung tâm nghiên cứu Tiềm năng con người (thuộc Liên hiệp các Hội KHKTVN) cũng cho rằng số mệnh con người có thể thể hiện qua tướng mạo, qua giờ sinh (lá số tử vi). Tuy nhiên, ông Giác Hải không đồng tình với việc nhiều người dân hiện nay tìm đến sự can thiệp của y khoa để nhằm thay đổi số mệnh. Ông Hải cho rằng, những cuộc “phẫu thuật dao kéo” là một sự may rủi khôn lường.
Theo quan niệm của phong thủy, tâm sinh ra tướng chứ tướng không thể sinh ra tâm. Bản chất của con người ta sẽ thể hiện qua tướng mạo. Việc giải phẫu thẫm mỹ nếu có kết quả nào đó chỉ là kết quả về mặt tâm lý mà thôi.
Trên thực tế cho thấy có rất nhiều trường hợp độn mũi, chỉnh sửa mắt, môi khiến khuôn mặt bị biến dạng. Việc phẫu thuật thẩm mỹ khi đó thực sự đã đem lại tai họa. May mắn của từng người sẽ quyết định cái mà người đó sẽ làm trong đường đời, tâm đức.
4.2. Phẫu thuật y khoa cho bào thai để cải số tốt hay xấu? 
Hiện nay một số người có tư tưởng dùng phẫu thuật y khoa để cho ra đời một đứa trẻ có số tốt, lớn lên sẽ làm quan hay giàu có. Việc làm này tốt hay xấu?
Chúng tôi cho rằng: về tướng diện con người do cung phúc đức tạo nên. Mộ tổ hưng vượng thì sinh ra những người có tướng diện tốt, các nét tướng trên người hoàn chỉnh. Mộ tổ đặt nơi đất xấu thi sinh ra người có khiếm khuyết. Cung phúc đức chiếm 30% vận mênh của con người nên dùng phẫu thuật để cải số mạng là hại nhiều hơn lợi. Việc dùng phương pháp đẻ mổ để sinh con vào đúng giờ đẹp theo quan niệm của nhiều người là trái tự nhiên. Cái may chưa đến đã thấy cái rủi rình rập. Việc thực hiện đẻ mổ sẽ để lại trên bụng người vợ một vết sẹo và điều đó sẽ làm mất đi mỹ quan trong quan hệ vợ chồng. Thứ hai đó là việc phải bỏ ra một số tiền chi phí cho ca mổ. õ ràng là hạnh phúc đâu chưa thấy nhưng tình cảm vợ chồng đã vơi đi ít nhiều.
Những người khi đẻ ra đã có tướng mạo khiếm khuyết như trẻ em bị sứt môi thì việc phẫu thuật để mang đến cho các em nụ cười lành lặn, đó là việc nên làm nhưng với việc nâng mũi, người có mũi thấp trong khi các nét trên khuôn mặt đều đẹp thì có nên giải phẫu? Những đứa trẻ ra đời đã định sẵn giờ, ngày, tháng sinh nên có số thiên mệnh sẵn. Nay lại dùng phẫu thuật lấy ra theo ngày giờ của con người định cho thì lá số tử vi của đứa trẻ này sẽ có thay đổi nhưng không nhà tướng số nào đoán định đúng số phận của nó. Vì vậy, cuộc đời của nó may hay rủi là khó xác định. Ta lấy một hiện tương thực tế hiện nay là người ta dùng các hóa chất kích thích cho rau, quả mau lớn, những trái cây xanh chín ép hậu quả là các loại rau quả này ăn không ngon, mọi người tẩy chay. Người sinh ra thiếu ngày, thiếu tháng chẳng khác gì trái cây chín ép. Vậy thì có nên làm như vậy với một đứa trẻ?
Tác giả: GS.TS Cao Ngọc Lân

Không có nhận xét nào: