Trong Đông y học có các khái niệm: khí Tiên thiên, khí Hậu thiên. Khí Hậu tiên do thức ăn sản sinh. Khí Thiên tiên có năng lượng vượt xa các năng lượng của khí Hậu tiên.
Trong vật lí hiện đại đã xuất hiện những cấu trúc có năng lượng rất cao. Mật độ cao nhất của vật chất đã biết là 10 luỹ thừa 14 gam trên một xăng - ti - mét khối. Đó là mật độ hạt nhân. Nhưng với cái vacuum (chân không vật lí) bí ẩn, thì các phép tính cho rằng mật độ của nó phải là 10 luỹ thừa 94 gam trên một xăng - ti - mét khối, nghĩa là bằng mật độ hạt nhân, nhân với một con số 1 kèm theo 80 con số 0... Và con 10 luỹ thừa 93 được xem là giới hạn nào đó trong vật lí học, tại đó sẽ có bao nhiêu sự thay đổi về Vũ Trụ quan...
Viện sĩ Mác-kốp cho rằng mỗi electron (điện tử) cũng là một Vũ Trụ. Còn nhà vật lí lỗi lạc Uy-lơ cho rằng tất cả các điện tử chỉ là một điện tử. Ngoài ra, các tính toán của nhà vật lí học xuất sắc O-kun cho rằng để tạo ra một hạt tương tự như điện tử nhưng lại mang tính từ, thay cho tính điện - thường gọi là đơn cực từ - thì phải làm xáo động cả Vũ Trụ... Như vậy là vật lí học hiện đại đang giã từ không - thời gian bốn chiều... Vật lí đang lái mình sang phương Đông.
Từ những kiến thức của vật lí học hiện đại, quan niệm về hai loại khí trong Đông y học không phải là hoang đường! Dân tộc ta có một đại danh y, Cụ Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác. Cụ là người có tầm tư tưởng lớn của thời đại, chưa nói đó là khuôn mặt lớn về lương tâm người thầy thuốc. Cụ hiểu con người là một tiểu Vũ Trụ một cách rất sâu sắc. Cụ đã nghiên cứu một khái niệm hết sức khó hiểu, để lại một dấu hỏi lớn trong Nội Kinh là khái niệm Mệnh Môn(*). Theo Cụ, với tư tưởng cơ bản trên về con người, Cụ khẳng định rằng: "Mệnh Môn là thiên tiên Thái cực trong thân người"... Nó nằm giữa hai quả thận và điều khiển mọi tiềm năng năng lượng và nhiệt năng của con người.
Mệnh là sinh mệnh chứ không phải là số mệnh hoặc định mệnh đã có thời làm cho người ta sợ không dám nói đến niềm tâm đắc của Cụ. Niềm tâm đắc này đã cho phép Cụ sáng tạo ra bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh, gồm 28 tập, 66 quyển. Những nghiên cứu về ngoại cảm sau này (nếu có), không thể đặt ra ngoài thuyết Mệnh Môn của Hải Thượng Lãn Ông. Đến một lúc nào đó, chúng ta phải đưa một tài năng như thế, một tâm hồn như thế, một khuôn mặt y học lớn như thế lên địa bàn xứng đáng của khoa học thế giới.
Cụ đã nhắc khái niệm Mệnh Môn ở nhiều nơi trong các tác phẩm lớn của Cụ như: Đại Lưu Dư Vận, Y Hải Cầu Nguyên, Y Gia Quan Miên, Huyền Tẩn Phát Vi.
Cụ viết (Y Gia Quan Miên): "Thận giữ chức năng tác cường, tàng tinh và khí. Thận chủ xương, dẫn khí thông vào cốt tuỷ, nó là các bể chứa khí huyết, là nơi nương tựa của tinh thần, và là căn bản của sinh mệnh. Có hai quả cật nằm song song với nhau áp sát ở hai bên xương sống, ở giữa là Mệnh Môn, tức là Thiên tiên Thái cực trong thân người. Mệnh Môn có thể sánh ngang với Tâm, đều là quân chủ, không có hình thể để nhìn thấy, nó gọi là Hoàng Đình, là nơi tàng tinh của nam giới, và là chỗ liên hệ bào cung của nữ giới. Các nhà Đạo dẫn thì gìn giữ để tu luyện, người thường thì thuận theo sự phát dục để đẻ sinh ra người".
Cụ lại viết (Huyền Tẩn Phát Vi): "Chính ở chỗ bên đốt sống số 8, có một quả tiểu tâm, bên tả là một quả Thận thuộc Âm Thuỷ, bên hữu là một quả thận thuộc Dương Thuỷ, đều cách ra ngang một thốn 5 phân, khoảng giữa là cung Mệnh Môn. Nguyên Dương, Long Hoả, Chân Dương, đều là tên riêng của Mệnh Môn".
Cụ còn viết (Y hải cầu Nguyên): "Trong nhân thể, trái tim sánh với quẻ ly mà sinh ra huyết, là trong dương có âm, tức là Chân Âm. Quả Thận sánh với Quẻ Khảm mà sinh khí, là trong Âm có Dương, tức là Chân Dương (Mệnh Môn Hoả)...
Như thế, Cụ đã nghiên cứu rất sâu sắc khái niệm Mệnh Môn một cách rất độc đáo. Và tính độc đáo của Cụ còn nằm ở chỗ đã đặt được Mệnh Môn vào một cấu trúc quan trọng nhất của nhân thể là Thận và đã sử dụng được hai Quẻ Ly, Khảm làm biểu tượng cho Tâm, Thận. Và còn nhiều hơn thế nữa...
Chú thích:
(*) Mệnh Môn là trung điểm giữa thận trái và thận phải. Huỳnh Đình Kinh Bí Nghĩa của Lãnh Khiêm giảng: "Tả hữu tương đối, trung hư nhất khiếu vi mệnh môn, tức sinh môn." (Thận trái và thận phải đối xứng nhau, khoảng trống ở giữa là một cái khiếu tên mệnh môn, cũng gọi là sinh môn). Sinh môn thì Huỳnh Đình Nội Cảnh Kinh xác định vị trí: Tự tề hậu tam thốn (sau rốn 3 thốn).
Hoàng Lạc
Ảnh: Internet
___________
Phụ Lục:
NHỜ TẬP THỞ MỆNH MÔN ĐÃ TỰ CỨU CHỨC NĂNG THẬN PHỤC HỒI TRỞ LẠI BÌNH THƯỜNG KHÔNG CẦN MỔ
Hoa bị bệnh hư thận đã được thay thận, nhưng hai năm qua cô nói thận không làm việc, vì khi thử máu và nước tiểu, protein vẫn cao trên 10, vẫn phải chích và uống thuốc để giúp thận làm việc, vì thế bị phản ứng thuốc khiến cơ thể càng ngày càng mệt mỏi suy nhược. Bác sĩ có đưa ra giải pháp thay lại thận khác, nhưng ông nghĩ, đã được thay thận tốt mà không làm việc thì chưa chắc thay thận lại lần nữa sẽ tốt hơn, khiến ông đắn đo cân nhắc, và Hoa phải mất thêm một thời gian chờ đợi.
Sức khỏe của cô càng mệt mỏi suy nhược, không thể ngồi lâu hơn 15 phút, lúc nào cũng phải nằm, tuổi còn trẻ, tương lai trước mắt theo mơ ước không lẽ là ảo ảnh, hạnh phúc gia đình có thể bị ảnh hưởng nếu không thể sinh con được do quả thận không làm việc thì còn gì là tương lai, mỗi lần nghĩ đến khiến cô lo lắng không vui. Có người thân giới thiệu cô liên lạc với Hội Khí Công xem có thể giúp đỡ được gì không.
Cô đã liên lạc xin được một cái hẹn và cô sắp xếp đến Montréal một tuần điều trị. Hai vợ chồng cô lái xe, cô phải có một ghế nằm trong suốt đoạn đường dài. Sáng thứ bảy, chồng Hoa đón tôi đến nhà. Tôi hướng dẫn cho chồng cô biết cách giúp cô tập thở khí công để giúp thận dương chuyển hóa. Hoa nằm úp, chồng cô đặt hai bàn tay trên lưng dưới, đối diện với rốn, gọi là vùng huyệt Mệnh môn, cứ mỗi lần cô thở ra, chồng cô đè hai bàn tay ấn xuống theo hơi thở, khi hít vào thả lỏng để thận lại phình lên, cứ theo hơi thở để kích thích thận phình lên xẹp xuống tạo ra một cộng hưởng đều đặn 3000 lần, mới đầu hơi thở ngắn nhanh, từ từ hơi thở sâu, đều, chậm.
Cách thở này khí công gọi là thở bằng thận làm tăng cường chức năng của tuyến thượng thận, giúp thận chuyển hóa, chữa được các bệnh về áp huyết, đau lưng thận, mệt mỏi, tiểu đường, đái đêm, nước tiểu nhiều protein, tăng creatinine-huyết, sạn thận... Phải đè ấn và nâng trên huyệt đều đặn theo hơi thở cho đồng bộ, đừng trật nhịp. Sau 3.000 hơi thở, Hoa cảm thấy khỏe, khi ngồi dậy không cảm thấy mệt mỏi đau lưng như trước.
Hai vợ chồng Hoa mời tôi đi ăn bữa cơm trưa tại tiệm ăn, Hoa ngạc nhiên khi cô ngồi lâu ở tiệm ăn không cảm thấy cơ thể có bệnh. Theo lời mời của tôi hai vợ chồng Hoa đến tham dự lớp khí công buổi chiều để có thêm kiến thức hiểu biết về cách chữa bệnh bằng khí công tự điều chỉnh chức năng hoạt động của nội tạng.
Hoa hỏi tôi xem liệu sức khỏe cô có cho phép cô ngồi lâu trong lớp không?
Tôi nói: Không sao, cứ thử xem để biết kết quả tập thở khí công vừa qua có thể giữ cho cơ thể được khỏe bao lâu.
Quả thật, Hoa tham dự lớp học, ngồi trong lớp từ 2 giờ đến 6 giờ chiều mà không thấy mệt mỏi. Thay vì hai vợ chồng Hoa dự định ở lại Montréal một tuần, nhưng chồng Hoa giúp cô tập thở thêm hai lần vào buổi chiều và tối thấy khỏe hẳn, hết mệt mỏi, hai vợ chồng cô lấy làm tự tin ở phương pháp này nên sáng hôm sau quyết định trở về Mỹ.
Mặc dù Hoa cảm thấy khỏe như không còn bệnh, nhưng Hoa vẫn muốn dựa vào kết quả cuối cùng khi thử máu và nước tiểu mới tin là phương pháp này thành công. Hai tháng sau Hoa viết thư cho tôi báo tin mừng kết quả thử máu và nước tiểu, protein từ trên 10 xuống còn 3,4.
Hoa khỏe mạnh hơn xưa, sáu tháng sau hai vợ chồng Hoa báo tin cô đã có thai được 4 tháng, vẫn tiếp tục tập thở thận, hy vọng của vợ chồng Hoa bây giờ là chờ sinh được một cháu bé khỏe mạnh thông minh. Cuối cùng cả gia đình vui mừng đón nhận một cháu gái xinh xắn, bụ bẫm, thông minh, Hoa đã sung sướng trở thành một người mẹ như cô hằng mơ ước.
(Nguồn: http://ue.vnweblogs.com/post/18513/301940)
1 nhận xét:
Cũng rất đáng tham khảo.Cảm ơn chủ nhà.
Đăng nhận xét