TRANG

Thứ Ba, 16 tháng 4, 2013

Chữa bệnh bằng năng lượng sinh học

Chữa bệnh bằng truyền sinh khí prana
Yoga Ấn Độ quan niệm các chứng bệnh trên cơ thể con người có nguồn gốc từ Nghiệp, nói rõ hơn, đó là các Khí Nghiệp tồn tại trên cơ thể chúng ta và di chuyển liên tục xuyên qua các kinh mạch. Đến khi các Nghiệp đã chín, hoặc do khí tắc nghẽn bởi kinh mạch… các căn bệnh sẽ tìm đến. Và việc tập luyện yoga giúp thải các Khí Hư và thu Tinh Khí thay thế, nhằm mục đích cải thiện sức khỏe. 
Từ những thời đại cổ xưa nhất, các triết gia đã từng biết rõ khả năng thần diệu của âm nhạc để chữa khỏi một vài chứng bệnh, nhất là những bệnh thuộc về loại thần kinh. Ông Kircher đề cao lối chữa bệnh này sau khi đã có kinh nghiệm bản thân về những ảnh hưởng tốt lành của âm nhạc, và có diễn tả tỉ mỉ loại nhạc cụ mà ông đã dùng. Loại nhạc cụ này gồm có năm cái ly bằng thủy tinh rất mỏng, sắp thành một hàng. Trong hai ly, có hai thứ rượu nho cường độ khác nhau, ly thứ ba đựng rượu mạnh, ly thứ tư đựng dầu ăn và thứ năm đựng nước. Ông cọ ngón tay lên miệng các ly và phát ra năm loại âm thanh rất du dương. Những âm thanh này có tác dụng xoa dịu thần kinh và làm tiêu tan mọi sự đau đớn; dường như làm cho chứng bệnh lui ra khỏi xác thân để hòa lẫn với luồng sóng âm ba của tiếng nhạc và cả hai cùng nương nhau mà tan biến trong không gian. Hai nghìn năm về trước, đạo sư Asclepiades cũng đã dùng âm nhạc để chữa bệnh thần kinh; ông thổi kèn để chữa bệnh đau gân háng, tiếng kèn kéo dài làm cho những đường gân rung động và mọi sự đau đớn đều tiêu tan. Triết gia Démocrite cũng xác nhận rằng nhiều chứng bệnh có thể được chữa khỏi bằng tiếng sáo trầm bỗng du dương. Mesmer đã dùng lại nhạc ly của ông Kircher diễn tả trên đây chữa bệnh bằng khoa nhân điện. Triết gia Maxwell, người Tô Cách Lan, đề nghị ông sẽ chứng minh cho các y viện thấy rằng với vài phương tiện sử dụng từ điển, ông sẽ chữa khỏi bất cứ chứng bệnh nào mà họ đã tuyệt vọng và coi như không thể chữa được, chẳng hạn như bệnh động kinh, bất lực, loạn trí, liệt bại, phù thũng và những chứng sốt kinh niên.
Mọi người đều nhớ câu chuyện quen thuộc trong Kinh Thánh về việc trục tà ra khỏi Saul. Đoạn ấy được thuật lại như sau: “Khi Saul bị vong nhập và ám ảnh, David lấy cây đàn thụ cầm (harpe) và gẩy lên những âm thanh réo rắt. Saul liền tươi tỉnh sắc mặt và trở lại trạng thái khỏe mạnh, bình thường và vong ấy đã xuất...”
Trong quyển “Từ điển Y thuật”, ông Maxwell có trình bày những quan niệm dưới đây, tất cả đều phù hợp tương tự với những giáo lý của các phái Luyện kim và huyền môn Kabala. “Cái gọi là ‘linh hồn của thế giới’ hay Đại hồn Vũ trụ, là một sinh khí, cũng tế vi, tinh anh, nhẹ nhàng, thanh hư như ánh sáng vậy. Nó là cái tinh thần của sự sống, bàng bạc khắp nơi khắp chốn và ở đâu nó cũng vẫn y như thế... Mọi vật chất đều vô tri bất động, trừ phi nó được thấm nhuần cái tinh thần đó. Tinh thần này duy trì mọi vật ở vào trạng thái đặc biệt của nó. Trong thiên nhiên nó vốn thoát ly khỏi mọi chướng ngại và người nào biết cách phối hợp cái tinh thần đó với một thể xác điều hòa, người ấy sẽ sở hữu một kho tàng vô giá quý báu nhất trần gian”.
“Cái tinh thần đó là cái Thể đại đồng liên quan cùng khắp tất cả mười phương thế giới và sinh hoạt thấm nhuần tất cả vạn vật. Người nào biết được cái tinh thần sinh hoạt đại đồng đó và sự áp dụng của nó, có thể tránh khỏi mọi bệnh tật”.
“Người nào biết sử dụng cái tinh thần đó và trụ nó vào một vật thể nhất định, sẽ thực hiện được mọi hiện tượng nhiệm mầu”.
“Người nào biết cách dùng cái tinh thần đó để tác động vào người khác, sẽ có thể chữa khỏi bệnh tật, dù cách biệt với đối tượng đến bao xa trong không gian”.
“Người nào biết cách tăng cường sinh khí của tiểu hồn bằng năng lực của Đại hồn Vũ trụ, sẽ có thể đạt tới trạng thái trường sinh bất tử”.
“Có một sự giao cảm, hỗn hợp giữa những chân linh, những phóng phát dẫu cho chúng cách biệt xa nhau. Sự hỗn hợp, giao cảm đó là gì? Đó là sự phóng phát thường xuyên, bất tận, những tia năng lực của một thể xác này qua một thể xác khác”.
“Nhưng điều này không phải là không có những nguy cơ, hiểm họa của nó. Nhiều sự lạm dụng tai hại vẫn có thể xảy ra”.
Và, bây giờ chúng ta hãy xét tới những sự lạm dụng quyền năng từ điển của vài hàng đồng tử chữa bệnh. Việc chữa bệnh, để có ý nghĩa xứng đáng với danh từ này, cần phải có đức tin nơi bệnh nhân, hay sức khỏe tráng kiện phối hợp với ý chí mạnh mẽ của ông thầy chữa bệnh. Với một ý chí mạnh mẽ, trợ giúp bởi đức tin, người ta có thể tự chữa khỏi hầu hết một chứng bệnh tật nào. Ngôi mộ một vị thánh, một xá lợi linh thiêng, một linh vật hộ phù, một liều thuốc vạn ứng, một lời tụng sám hối, hay một nghi lễ cúng vái thần linh hoặc việc đặt bàn tay truyền điện hay đọc chân ngôn thần chú, v.v,… điều nào cũng được cả. Đó là vấn đề chỉ tùy thuộc ở tâm tình, tính chất, dùng sự tưởng tượng để tự chữa bệnh lấy mình. Trong hàng ngàn trường hợp, vị bác sĩ, giáo sĩ hay một xá lợi, được gán cho cái quyền năng chữa khỏi bệnh tật, mà thật ra đó chỉ là do tác động ý chí vô thức của người bệnh mà thôi. Đó là trường hợp người đàn bà bị chứng hoại huyết, vạch đường đi rẽ qua đám đông để nắm vạt áo của đức Giê-su và liền được khỏi bệnh. Bà ta được cho biết là do bởi đức tin của bà. Ảnh hưởng của tinh thần đối với thể xác mạnh mẽ đến nỗi nó đã từng thực hiện những phép lạ nhiệm mầu trải qua mọi thời đại.

Bàn tay năng lượng.

Salverte nói: “Biết bao nhiêu bệnh tật nan y đã được chữa khỏi thình lình một cách thần diệu chỉ do sức tưởng tượng. Những y thư của chúng ta chứa đầy các sự kiện như vậy và được coi như những phép lạ”.
Nhưng nếu người bệnh không có đức tin thì sao? Nếu y có một thể chất thụ cảm với trạng thái tiêu cực, và nếu người chữa bệnh có sức khỏe tốt, cường tráng, tích cực và cương nghị, y có thể dùng ý chí mạnh mẽ đó đẩy lui chứng bệnh. Người này hữu thức hay vô thức sử dụng nguồn khí lực thiên nhiên và tăng cường ý chí của mình với khí lực tinh hoa của Trời đất, và lập lại sự quân bình đã bị đảo lộn trong hào quang của người bệnh. Y có thể dùng một thập tự giá để trợ lực như Gassner đã làm; hoặc đặt hai bàn tay truyền điển phối hợp với ý chí như Zouave Yacob, hoặc như nhà chữa bệnh trứ danh Newton của Mỹ, ông này đã từng chữa khỏi hàng ngàn bệnh nhân, hoặc dùng lời nói truyền lệnh như đức Giê-su và vài vị tông đồ. Nhưng bí quyết sử dụng trong mỗi trường hợp vẫn y như nhau.
Và, những hậu quả
Trong tất cả những trường hợp đó, bệnh chữa khỏi thật sự, hoàn toàn và không có những hậu quả di hại. Nhưng nếu một người tự mình đã mắc bệnh mà lại muốn chữa bệnh cho người khác, y chẳng những thất bại mà còn truyền bệnh cho người kia và rút mất sinh lực của người ấy.
Các nhà chăn nuôi cho chúng ta biết rằng không nên để những súc vật trẻ ở chung lộn với những súc vật già nua, và những vị y sĩ khôn ngoan ngăn cấm những người lớn để cho những trẻ ấu nhi ngủ trên giường của họ.
Truyện tích cổ Do Thái nói rằng khi vua David đã già yếu, ông ta sống chung chạ với một người còn son trẻ và nhờ đó ông ta có thể hấp thụ sinh lực của người này để tăng cường sinh lực của mình. Bà nữ hoàng nước Nga, trong những năm cuối cùng của đời bà, đã bị suy nhược đến nỗi những viên ngự y khuyên bà nên để cho một cô gái đồng quê trẻ trung và khỏe mạnh ngủ chung với bà mỗi đêm. Nhà nữ linh thị Prevorst là bà Hauffé nói rằng bà bảo tồn sự sống chỉ nhờ những luồng từ khí phóng phát ra bởi những người ở chung quanh bà, sự có mặt của bà làm cho những luồng từ khí này được phóng phát ra một cách nhanh chóng lạ thường (Vampirism). Nhà nữ linh thị này hiển nhiên là một người thu hút từ điển và sinh lực của những người khá đầy đủ sức khỏe để chuyển qua cho bà luồng sinh khí của họ. Những người này, không ít thì nhiều, đều bị ảnh hưởng do sự tiêu hao sinh lực.
Các nhà hiền triết cổ và Paracelse cũng đã chữa bệnh bằng cách đặt một bộ phận lành mạnh vào chỗ cơ thể bị đau yếu. Và, trong những tác phẩm về y học của Paracelse, lý thuyết trên của những bậc triết gia cổ đã được nêu ra một cách táo bạo và dứt khoát. Nếu một người mắc bệnh dù là đồng tử hay không mà toan chữa bệnh cho người khác, y có thể còn đủ sức khỏe để làm cho những bệnh của người kia rời khỏi vị trí hiện tại, và chẳng bao lâu nó sẽ xuất hiện trở lại ở một vị trí khác; trong thời kỳ trung gian người bệnh kia tưởng là mình đã được chữa khỏi.
Nhưng việc gì sẽ xảy ra nếu chính người chữa bệnh lại mắc bệnh về tinh thần? Việc ấy có thể đưa đến những hậu quả vô cùng tai hại không thể kể xiết; vì chữa một cơn bệnh của thể xác còn dễ dàng hơn là tẩy sạch một tâm hồn bị ô nhiễm bởi một cơn bệnh tinh thần. Những sự bí nhiệm của các hiện tượng ở Norzine, Cévennes và của các nhà tu sĩ phái Jansénistes, vẫn còn là một điều bí hiểm lớn đối với các nhà sinh lý học cũng như tâm lý học. Nếu khả năng tiên tri, cũng như các chứng động kinh và loạn trí, có thể “truyền nhiễm” cho người khác thì mọi thói hư tật xấu cũng thế. Trong trường hợp đó, người chữa bệnh truyền cho người bệnh, bấy giờ là nạn nhân của y, cái chất độc tinh thần nó phá hoại tâm hồn và trí não của người này. Bàn tay đụng chạm của y là một sự ô nhiễm, cái nhìn của y là một sự xúc phạm. Người bệnh thụ cảm không có cách nào để tự bảo vệ chống lại sự tác hại đó. Người chữa bệnh hoàn toàn chế ngự đối tượng dưới quyền năng độc hại của y cũng như con rắn nhiếp phục một con chim nhỏ yếu. Một người “đồng tử chữa bệnh” lại có thể gây nên những tai hại vô cùng lớn lao và ngày nay hạng người đó rất nhiều có thể đếm tới hàng trăm. Nhưng, như chúng tôi đã nói ở trên, vẫn có những nhà chữa bệnh chân chính, có khả năng thần diệu, đã nổi tiếng trong lịch sử loài người.
Nói chung, thì các bậc hiền triết, thức giả cổ kim, kể từ Pythagore đến Eliphas Levi, từ vị cao cả nhất đến vị khiêm tốn nhất, tất cả đều dạy rằng quyền năng phương thuật thần diệu không bao giờ sở đắc được bởi những kẻ phàm phu, bị lệ thuộc những dục vọng thấp hèn. Chỉ có những tâm hồn thanh tịnh, thuần khiết mới thông công với Thượng Đế và vận dụng được những khả năng thiêng liêng? Chỉ có những người như thế mới có quyền năng chữa lành bệnh tật của thể xác, và được sự dìu dắt, trợ giúp của những “sức mạnh vô hình”. Chỉ có những người ấy mới đem lại sự bình an cho những tâm hồn bấn loạn và an ủi kẻ đồng loại khổ đau, bởi vì nước tịnh thủy cam lồ hàn gắn mọi vết đau thương phải đến từ nguồn suối trong lành, không mảy bợn nhơ, nhiễm độc. Chùm nho tươi ngon lành không mọc trên bờ gai góc, cũng như cây đắng không thể sinh trái ngọt. Với tất cả những điều kể trên, nền phương thuật không có gì vượt ra ngoài tự nhiên; nó là một khoa học và chí đến quyền năng “trục vong, đuổi tà” cũng là một ngành của khoa ấy, mà các bậc đạo gia thời cổ đã từng dụng công đặc biệt nghiên cứu. Trong quyển “Bí thuật cổ xưa” Josephus nói: “Phép thuật đuổi tà ra khỏi thể xác người bị vong nhập là một khoa học hữu ích và lành mạnh đối với con người”.

Tác giả bài viết: NGUYỄN HỮU KIỆT (Trích “Thiên nhiên huyền bí”)
truongsinhhocds.com
Theo tin: www.thongthienhoc.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét