Thứ Năm, 7 tháng 2, 2013

Chuyện Luân Hồi Thời Hiện Đại

LỜI GIỚI THIỆU
Nói đến luân hồi, nhiều người quan niệm đó như là chuyện xưa tích có, nhưng thật ra vô cùng mật thiết với đời sống thăng trầm của kiếp người mà chẳng mấy ai lưu tâm. Cũng như không khí hít thở hằng ngày rất thiết yếu cho đời sống, nhưng phần đông không mấy người để ý đến. Từ đó cho ta thấy rằng, không khí trong không gian quan trọng đối với sức khoẻ sanh tử đời sống nhân sanh như thế nào, thì luân hồi cũng tương quan mật thiết trọng yếu đối với kiếp sống thăng hoa hay đọa lạc của con người cũng như thế ấy. Chỉ khác ở chỗ là, không khí thuộc về thể khí mắt phàm và dụng cụ khoa học có thể thực nghiệm. Còn tâm linh con người thuộc về tinh thần, quanh quẩn trong luân hồi nổi chìm trong sáu nẻo, mắt phàm khó mà thấy biết.

Tuy nhiên những hiện tượng nhất là về tâm linh tinh thần mắt phàm không thể thấy biết và khoa học không thể chứng nghiệm mà bảo rằng không có luân hồi là nông nổi thiếu suy tư. Ðối tượng của trí thức khoa học là chứng minh sự hình thành của vật thể. Ðối tượng của tuệ giác Phật học là thuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học. Trước đây hơn 2500 năm, Ðức Phật Thích Ca đã thuyết minh về đạo lý luân hồi nhân quả, ngày nay các nhà trí thức nhân loại mới bắt đầu vén màn huyền bí luân hồi.

Ðối với vấn đề luân hồi, vào hạ bán thế kỷ 20, những nhà khoa học, triết học, tâm lý học v.v... đã nhiều năm để tâm cố gắng nghiên tầm thực nghiệm qua những hiện tượng và đã gặt hái được những thành quả đáng kể, điều đó được ghi nhận trình bầy qua các bản báo cáo, sách báo bằng phương pháp khoa học thực nghiệm, làm cho vấn đề luân hồi trở nên sáng tỏ.
Ðể cống hiến cho những ai yêu thích tìm hiểu đời sống tâm linh sinh động thăng trầm chuyển hóa qua các dạng thức, Tỳ Kheo Thích Tâm Quang đã dầy công nghiên đọc các tác phẩm Âu Mỹ nổi tiếng thực nghiệm về luân hồi và dịch thành tập "Những Chuyện Luân Hồi Hiện Ðại".
Nay xin giới thiệu đến độc giả bốn phương cùng thưởng thức.

Hoa Kỳ, Xuân Giáp Tuất 1994 
Tỳ Kheo Thích Ðức Niệm 

LỜI NGƯỜI DỊCH
Luân Hồi, Ðạo Lý căn bản của Phật Giáo là một sự thực có thể chứng nghiệm được. Luân Hồi, Nhân Quả, Nghiệp Báo mang lại an lạc hạnh phúc cho con người nói riêng và công bằng xã hội cho nhân loại nói chung. Tin tưởng Luân Hồi, Nhân Quả, Nghiệp Báo là hướng thiện đi đến Chân, Thiện, Mỹ; ngược lại không tin tưởng Luân Hồi, Nhân Quả, Nghiệp Báo thì tự mình sẽ rơi vào hố sâu, vực thẳm, đau khổ triền miên.
Khi còn tại thế, Ðức Phật đã nói: "Ngu Si là tối tăm nhất, không tin tưởng Luân Hồi, Nhân Quả, Nghiệp Báo là nguồn gốc sinh ra tội lỗi nhất."
Ngày nay có các quốc gia bất hạnh cầm đầu bởi những người không tin tưởng Luân Hồi, Nhân Quả, Nghiệp Báo đã gây ra bao tội lỗi và đưa dân tộc đến chỗ tối tăm, thoái hóa, đau khổ, tan rã.
Bắt đầu từ thế kỷ thứ 20, các nước trên thế giới nhất là các nước Âu Mỹ văn minh tiền tiến, các Học Giả, các Khoa Học Gia, đã tiến sâu vào lãnh vực nghiên cứu, điều tra, thực nghiệm vấn đề Luân Hồi.
Nhận thấy các Học Giả, Bác Học, các Giáo Sư như các Tiến Sĩ Y Khoa Ian Stevenson, Raymond A. Moody, các Tiến Sĩ Giáo Sư Robert Almeder, Hans Holzer, Sylvia Cranston, Carey Williams, H.N. Banerjee, John Van Auken, đã xuất bản các cuốn sách nổi tiếng về các chuyện luân hồi điển hình, trung thực đã được kiểm chứng nên chúng tôi mạo muội trích dịch một số các bài trong các cuốn sách để cống hiến cho độc giả bốn phương.
Dù đã hết sức cố gắng nhưng không khỏi có nhiều khiếm khuyết, vậy nên chúng tôi rất hoan hỷ đón nhận các ý kiến quý báu của các vị cao minh, độc giả bốn phương để lần tái bản sau được hoàn chỉnh hơn.
Cũng trong dịp nầy chúng tôi xin thành kính tri ân Chư Tôn Ðức, Hòa Thượng, Thượng Tọa, Ðại Ðức, Tăng, Ni, đã khích lệ tinh thần và các Quý Ðạo Hữu Viên Minh Phạm Ðình Khoát, Quảng Lâm Châu Ngọc Tòng, Minh Hỷ Phan Duyệt, Quảng Hải Ngô Thanh Hùng, Diệu Chân Lương Thị Mai và Diệu Hỷ Nguyễn Cung Thị Hỷ đã góp phần công đức trong việc ấn hành dịch phẩm này.
Chúng tôi xin hồi hướng công đức hoằng pháp này lên ngôi Tam Bảo và nguyện cầu Hồng Ân Chư Phật thùy từ gia hộ Quý Vị cùng Bửu Quyến thân tâm thường an lạc và hạnh phúc.

Xuân Giáp Tuất 1994, Phật Lịch 2537 
Tỳ Kheo Thích Tâm Quang 

GIÁO SƯ SYLVIA CRANSTON VÀ CAREY WILLIAMS
Giáo Sư Sylvia Cranston là một chuyên gia khảo cứu về luân hồi từ 30 năm nay. Bà là tác giả của các cuốn sách nổi tiếng về luân hồi như An East-West Anthology, Reincarnation in World Thought, Phoenix Fire Mystery...
Bà đã từng đi diễn giảng tại Hoa Kỳ, Gia Nã Ðại, Anh, Ái Nhĩ Lan và đã xuất hiện nhiều lần trên các đài vô tuyến truyền thanh truyền hình.
Giáo Sư Carey Williams, người Hoa Kỳ, chuyên dạy Y Tế, phụ trách nhiều lớp giảng dạy về sự sống chết của con người.
Chúng tôi xin trích dịch một vài chuyện trong cuốn Reincarnation, A New Horizon In Science, Religion and Society của hai tác giả do nhà Xuất Bản Julian Press, New York, phát hành năm 1984.


TRƯỜNG HỢP LY KỲ CỦA GEORGE RITCHIE ÐÃ CHẾT RỒI SỐNG LẠI, HIỆN NAY LÀ BÁC SĨ, ÐÃ THẤY NHỮNG GÌ KHI HỒN LÌA KHỎI XÁC.
Tác Giả: Sylvia Cranston và Carey Williams

Trường hợp lạ lùng của bệnh nhân George Ritchie đã chết rồi sống lại (hiện đang là Bác Sĩ Tâm Trí) đã khiến cho các Khoa Học Gia cũng như các nhà Tâm Lý Học đặc biệt chú ý. Bác Sĩ Raymond Moody đã bỏ ra 5 năm để nghiên cứu trường hợp đặc biệt này. Bác Sĩ Raymond Moody vừa là Bác Sĩ vừa là nhà Phân Tâm Học, là tác giả cuốn sách nổi tiéng "Life After Life"với số độc giả cả triệu người đã phổ biến trường hợp của George Ritchie đến thế giới Tây Phương. Cuốn sách do Bác Sĩ Raymond Moody viết để tặng Bác Sĩ George Ritchie, trước đây là một bệnh nhân trong Quân Ðội. Câu chuyện có thật này đã được đưa lên màn ảnh với tựa đề Beyond And Back. Cuốn phim này đã làm chấn động dư luận.
Lúc 20 tuổi, George Ritchie, một sinh viên y khoa với hoài bão trở thành bác sĩ, đã phải gia nhập Quân Ðội. (Sau này George Ritchie đã trở thành vị bác sĩ trẻ tuổi nhất tốt nghiệp tại Ðại Học Ðường Virginia). Khi chiến tranh chấm dứt cũng là lúc George Ritchie tốt nghiệp y khoa. Bác Sĩ George Ritchie là Chủ Tịch Hàn Lâm Viện Nội Khoa và Ngoại Khoa Richmond, chuyên về tâm trí và đã trở thành Viện Trưởng Viện Tâm Trí của Bệnh Viện Towers ở Charlotsville. Bệnh Viện này đã sát nhập với Ðại Học Ðường Virginia. Hiện nay Bác Sĩ George Ritchie có một phòng mạch riêng tại Richmond và là Chủ Tịch Sáng Lập Viên Ðoàn Thanh Niên Quốc Tế.
Tài liệu này được viết theo trong cuốn "Return From Tomorrow" của Bác Sĩ George Ritchie và trong băng ghi âm của Bác Sĩ có nhiều chi tiết chưa được tiết lộ.
Là một người lính được huấn luyện tại trại Barkeley, Texas, George Ritchie nhận định rõ giá trị của một người lính bộ binh trong Quân Ðội Hiện Ðại với cơ khí hóa tối tân. Vì nhu cầu cần Bác Sĩ để phục vụ cho Quân Ðội nên George Ritchie được tuyển chọn gửi đi huấn luyện tại Ðại Học Ðường Y Khoa Virginia. Nhưng chẳng may trước hôm đi, George Ritchie bị bệnh nặng, hai lá phổi bị sưng, phải vào nhà thương điều trị. Thời đó thuốc Penicilline được coi là phát minh kỳ diệu nhưng cũng không chữa nổi căn bệnh xưng phổi, bệnh tình của George Ritchie rất trầm trọng.
Người phụ trách trông nom khu George Ritchie điều trị đã thấy George Ritchie tắt thở. Ðược báo cáo Bác Sĩ trực đến khám nghiệm, xác nhận George Ritchie đã chết và ra lệnh làm thủ tục đem George Ritchie vào nhà xác. Chính trong khoảng thời gian 9 phút này việc lạ lùng đã xảy ra.
Bác Sĩ Donald G. Francy, Y Sĩ Trưởng của Trại Barkeley gọi trường hợp của George Ritchie sống lại là một trong những sự lạ lùng và ly kỳ nhất chưa từng bao giờ có. Trong một bài đã được kiểm chứng, Bác Sĩ Francy viết như sau:
"Bệnh nhân George Ritchie đã chết hẳn rồi lại sống lại rất mạnh khoẻ là một trường hợp chưa từng có. Ðiều đáng lưu ý là một người bị bệnh tim, khi tim ngưng đập có thể dùng cách này hay cách khác để làm tim đập lại. Nhưng trường hợp của George Ritchie với bệnh sưng phổi, cơ thể đã bị nhiễm độc, các cơ quan trong người đều bị phá hủy thì việc làm cho trái tim đập lại không thể thực hiện được. Hơn nữa, George Ritchie đã chết ít nhất là 9 phút, thì bộ não hư hỏng không thể toàn vẹn được."
Bây giờ là khoảng thời gian sau khi George Ritchie đã được xác nhận là thực sự chết nhưng anh cảm thấy tinh thần tỉnh táo thấy mình như trong một thân xác vật vì khác lạ được chuyển đến một căn phòng nhỏ trong lúc tình trạng trở nên nguy kịch. Lúc này khoảng nửa đêm. Ý nghĩ đầu tiên của anh là phải đi chuyến xe buýt sáng sớm để tới Trường Y Khoa tại Richmond để kịp dự lễ khai giảng khóa mới. Nhưng lạ lùng thay! Quần áo của anh đâu rồi? Anh tìm khắp nơi trong phòng. À! có lẽ ở dưới giường chăng?
"Tôi đi vòng quanh, rồi lạnh cứng. Có người nào đó đang nằm trên giường tôi kìa! Tôi lại gần, đó là một người đàn ông còn trẻ, tóc mầu nâu cắt ngắn, nằm ngay đơ. Nhưng... không thể như thế được! Chính tôi vừa ra khỏi cái giường này mà. Tôi thắc mắc, khó hiểu sự kỳ lạ này. Thật là quá lạ lùng nghĩ đến việc này - nhưng không còn thì giờ nữa!"
Anh phải đi tìm người phụ trách nơi đây để lấy lại quần áo. Ritchie trông thấy một trung sĩ đang đi ngoài hành lang, anh chận lại và yêu cầu ông ta giúp đỡ. Nhưng người này không thấy anh và cũng không nghe thấy anh nói cứ tiếp tục đi thẳng khiến anh phải tránh ra nhường lối cho ông ta đi.
Nóng lòng tới Trường Ðại Học, Ritchie ra khỏi bệnh viện rồi bay theo hướng bắc về Richmond với một tốc độ nhanh chóng. Anh phân vân không biết đi có đúng đường không.
"Một con sông rộng ở dưới tôi. Tôi thấy có một cái cầu dài, cao và tít đằng xa bên kia sông có một hành phố lớn mà tôi chưa bao giờ đến cả. Tôi muốn đáp xuống kiếm người hỏi thăm. Tôi từ từ ngưng lại, ngay dưới tôi có hai con đường chập lại làm một và tôi bị cuốn hút bởi một luồng ánh sáng xanh chiếu ra từ một bảng hiệu gắn đèn nê-ông của một tòa nhà có mái ngói đỏ. Tấm bảng hiệu "Past Blue Ribbon Beer" treo ngay trên cửa sổ và trước nhà bảng hiệu "Cafe" lơ lửng trên cửa ra vào...
Trên con đường nhỏ dẫn vào quán Cafe bán đêm này, có một người đang rảo bước. Tôi bèn xuống đi bên cạnh và hỏi:
"Làm ơn cho tôi biết đây là thành phố nào?"
Ông ta vẫn tiếp tục đi thẳng... Chúng tôi tới quán Cafe.Ông ta xay tay nắm cửa bước vào. Có lẽ Ông ta bị điếc hẳn? Tôi lấy tay trái đập lên vai của Ông ta. Không có gì cả mà hình như tay tôi vừa để vào khoảng không. Rõ ràng tôi thấy ông ta mà, tôi còn nhận ra ông ta có một chòm râu đen ở cầm cần phải cạo đi nữa."
Mọi suy nghĩ Ritchie tựa hẳn vào một người đàn ông đang mắc dây điện thoại ở kế bên và đi xuyên qua.
Trước khi đi đến phần kế tiếp, chúng tôi thấy cần phải báo cáo là, một năm sau đó, bất ngờ Ritchie đã khám phá ra tên của thành phố này. Trên đường trở về trại Barkeley trước khi đi công tác tại Âu Châu, Ritchie cùng những người bạn sinh viên y khoa đi xe hơi về trại. Ðến ngày thứ ba họ tới Tiểu Bang Missisipi, một Tiểu Bang mà chưa bao giờ Ritchie đặt chân tới cả. Khi đến vùng ngoại ô của Vicksburg, Ritchie đã tả lại như sau:
"Thành phố này tuy xa lạ nhưng hình như rất quen thuộc. Tôi đã biết rõ từng nét cong của bờ biển, từng khúc rẽ đường. Nơi đó, tôi biết rõ đường phố như thế nào! Tôi biết chắc chỉ còn một con đường ngắn là tôi có thể đến ngôi nhà trắng có mái ngói đỏ, có chữ Cafe bằng nê-ông gắn trên cửa ra vào. Khi xe tới gần tôi nhận được ra con đường nhỏ mà tôi đã cùng một người không nhận ra tôi đi tới quán này. Cũng còn cả cột điện thoại mà tôi đã đứng ở đó rất lâu... bao lâu? Giờ nào, ngày nào với loại thân hình nào?"
Trong cơn thoát xác, Ritchie cảm thấy đi Richmond thật phù phiếm không ai thấy và nghe được anh cả.
"Nếu tôi có trở về gia đình thì cũng chẳng ai thấy tôi? Ý tưởng cô đơn xâm chiếm tôi, dù sao tôi cũng phải về ngay nơi mà mọi người thấy tôi và nghe được tôi chứ.'
Rồi George Ritchie nghĩ đến cái xác hãy còn đang nằm tại bệnh viện. Ritchie đã vội vàng quay trở về bệnh viện tại Trại Barkeley. Tới nơi Ritchie đã phải xục xạo tìm lại cái xác nằm tại một trong hai trăm căn phòng của 5 ngàn binh sĩ đang ngủ. (Lúc đó Trại Barkeley có 250 ngàn khóa sinh)
Ðèn không được sáng, thật khó khăn mới nhìn được mặt họ.Cả giờ rồi, đã toát cả mồ hôi, qua hết phòng này đến phòng khác mà vẫn không kết quả. Ðột nhiên anh nhớ ra! Tay trái anh có đeo một cái nhẫn hội viên Phi Gamma Delta. Và tiếp tục tìm kiếm, anh đã tìm được cái xác một người đàn ông trong một căn phòng nhỏ, phủ một tấm chăn và tay trái có đeo chiếc nhẫn.
"Tôi tiến lại từ từ, mắt dán chật vào cái bàn tay đeo nhẫn. Tôi khiếp hãi. Dưới ánh đèn mờ ảo, tôi thấy bàn tay đó thật trắng và thật mềm. Trước đây, tôi đã nhìn thấy bàn tay này ở đâu rồi nhỉ? Tôi đã nhớ ra: Cha Dabney nằm trong phòng khách Moss Side. Tôi lùi lại gần cửa ra vào. Người nằm trên giường đã chết. Tôi cảm thấy khó chịu như trước đây tôi đã phải ở chung với người chết trong một phòng... Nhưng... cái nhẫn là của tôi mà, vậy chính là tôi mà - vậy thì một phần của tôi nằm trên cái giường này, phủ bởi tấm chăn. Vậy có nghĩa là tôi đã... Ðó là lần đầu tiên tôi đã trúc nhận đến chữ 'chết" liên quan đến những gì đang xảy ra cho tôi. Nhưng tôi chưa chết mà - sao tôi có thể chết trong khi tôi vẫn còn thức đây? Tôi bấu vào tấm chăn, cố gắng kéo xuống để mắt tôi nhìn được phía ngoài. Nhưng vô ích, tất cả các cố gắng của tôi cũng không đủ để tạo một cơn gió nhẹ thoáng qua căn phòng im lặng nhỏ bộ này. Sau cùng thất vọng tôi ngồi xuống giường. Tôi nghĩ: Tôi đã thoát ra khỏi xác nên không tiếp xúc lại được. Ðây là chính là lúc tôi cảm thấy da thịt tôi và tôi (hình hài và linh hồn) ở hai hành tinh riêng biệt."
Chợt George Ritchie thấy trong phòng tự nhiên sáng hẳn lên. Anh nhìn vào cái bóng đèn 15 watts và chắc chắn cái bóng đèn này không thể sáng đến thế được!
"Tôi ngạc nhiên thấy ánh sáng càng ngày càng rúc lên ở trong phòng, tất cả các bóng điện trong bệnh viện thắp lên cũng không thể sáng như thế, tất cả những ngọn đèn trên thế giới cũng không thể sáng như thế, sáng như cả triệu ngọn đèn dùng để bàn cùng cháy lên một lúc."
Bây giờ George Ritchie nhận thấy không phải là ánh sáng mà là một người đang bước vào phòng, nói đúng hơn là một Người được làm bằng ánh sáng.
"Con Người này đã tỏa ra sức thần thông của chính mình xưa hơn cả thời gian và hiện đại, hơn bất cứ ai mà tôi đã được gặp."
Người này đã nhìn thấy suốt cuộc đời của anh." Người này đã biết đến cả những gì khó ưa trong tôi, Người đã chấp nhận và thương yêu tôi".
Người này đã hỏi anh: "Anh đã làm được những gì trong đời?" Câu hỏi được nhắc đi nhắc lại nhưng anh lẩn tránh. Cuối cùng là anh cũng phải trả lời là chẳng làm được gì trong suốt cuộc đời.
Không thể nào trong một vài chương mà có thể kể hết được. Con Người Thiên Thể này đã dẫn dắt Ritchie đi; sau này Ritchie gọi là "Một Cuộc Kinh Lý Giáo Dục". Ritchie đã được dẫn đến thế giới thiên thể ở tầng trời cao nhất. Ỏ thế giới thiên thể này Ritchie đã nhìn thấy cảnh các linh hồn đam mê nhục dục Những người nghiện rượu được kéo ra khỏi các quán rượu, các quán cà phê và đây là địa ngục của họ: Những người nghiện rượu trông thấy người khác đang uống mà không được động đến cái ly. Ritchie nhìn thấy những người khác vì say mê ái dục mà trở thành bất lực. Ðây là địa ngục của họ, Ritchie đã nhìn thấy những người tự tử vì thất vọng. Ritchie cũng được dẫn đến thăm một văn phòng mà người thoát xác đang la hét và bắt người làm phải thi hành công việc như thế nào nhưng các người làm này đâu còn tuân lệnh nữa. Ðây là ông chủ đã quá cố của Ritchie.
Tuy đã được Southern Baptist (một tông phái Tin Lành) dậy dỗ nghiêm khắc Ritchie cũng vẫn thấy giật mình. Anh thấy Anh đang ở trong một Thư Viện Vĩ Ðại có nhiều cuốn sách nói về vũ trụ mà chưa ai viết - và cuốn Thánh Kinh chỉ là một mà thôi.
Khi được đưa tới tầng trời thứ ba thì Ritchie bị ngất ngây bởi vô lượng ánh sáng của người Ðồng Hành Thiên Thể mà sau này Ritchie nghĩ là Ðấng Tối Thượng, Tối Cao hơn cả. Ðó là Ðức Chúa Christ với người Thiên Chúa Giáo - Ðức Phật với người Phật Giáo - Khrisna (Phạm Thiên) với người Ấn Ðộ Giáo - Messiah Giáo Chủ với người Do Thái Giáo - Có lẽ tất cả đều đúng.
Ðã đến lúc phải trở về với nhiều nuối tiếc. "Những bức tường đã ngăn chận chúng tôi. Những bức tường rất hẹp như những cái hộp; rồi trong khoảnh khắc tôi nhận ra được cái phòng của bệnh viện mà tôi đã bỏ đi trong một thời gian". Anh cố gắng nhập vào cái xác đang nằm trên giường, Anh cố gắng mở mắt nhưng không sao mở mắt được vì bị tấm chăn phủ mất. Anh muốn dở hai tay nhưng không thể được và cảm thấy như đang nâng hai thanh sắt nặng. Anh chậm chạp xích hai bàn tay lại gần nhau và xoay cái nhẫn vài lần.
Rồi đầu óc Ritchie lại mờ đi. Ritchie lại rơi vào tình trạng hôn mê và hình như lại chết một lần nữa. Chính sau này thân xác anh cử động được nhưng đầu óc anh vẫn mê man mất 3 ngày. Lần này khi mở mắt ra anh nhìn thấy cô y tá đang nhìn anh mỉm cười và nói: "Thật vui mừng ông đã trở lại với chúng tôi, đã có lúc chúng tôi tưởng không thành công".
Sau này Ritchie được biết khi người trông nom bệnh viện trở lại để sửa soạn đưa Ritchie vào nhà xác thì đôi tay anh đã được đổi vị trí. Nguyên lúc Bác Sĩ khám nghiệm phủ mặt Ritchie, đặt hai cánh tay thẳng và để đôi bàn tay úp xuống. Nhờ vậy Ritchie đã nhìn thấy cái nhẫn của mình. Nhận thấy có sự thay đổi (đôi tay không ở vị trí có) người trông nom (binh nhì) vội cấp báo Bác Sĩ. Sau khi khám nghiệm lại cẩn thận, vị Bác Sĩ đã một lần nữa tuyên bố Ritchie đã chết hẳn.
Tuy nhiên người trông nom bệnh viện này không thừa nhận lời tuyên bố của Bác Sĩ đề nghị: "Có thể chích một mủi Adrenalin vào thẳng tim cho Ritchie sống lại". Về việc này, George Ritchie đã nhận xét như sau: "Việc này không thể có được, thứ nhất là vì một người binh nhì đâu có thể tranh cãi với cấp sĩ quan chỉ huy của mình, hơn nữa lại là một bác sĩ chuyên môn có bằng cấp, thứ hai lời đề nghị của người trông nom trên phương diện y khoa chuyên môn thật là lố bịch và buồn cười. Bệnh sưng phổi đã làm tê liệt tất cả các bộ phận trong cơ thể việc tiêm thuốc kích thích tim không thể chấp nhận được. Về trường hợp của tôi, bất cứ một nhà y khoa nào cũng không thể làm gì hơn được. Ấy thế mà đề nghị cho một người đến canh chừng của người trông nom bệnh viện với Bác Sĩ cho rằng việc này không hữu lý đã được chấp thuận và đề nghị này lại thành công!
Thời gian bình phục thật là khó khăn. Khi trở về Richmond, Ritchie chỉ như một bộ xương, không ai có thể tin được Ritchie có thể theo học lớp y khoa. Phải mất đúng một năm Ritchie mới hoàn toàn bình phục. Sau đó Ritchie được chuyển trở lại Trại Barkeley và được gửi sang phục vụ một đơn vị ở Âu Châu. Khi chiến tranh kết liễu, Ritchie đã tiếp tục học lại, đậu Bác Sĩ và đã trở thành một Bác Sì chuyên khoa về tâm trí.
Bác Sĩ George Ritchie đã viết như sau:
"Khi tôi xin vào nội trú tại Ðại Học Ðường Virginia, một người bạn đã khuyên tôi đừng nên cho Ban Tuyển Chọn biết chuyện tôi đã xuất hồn vì những người chấm điểm có thể nghi ngờ tôi. Người đầu tiên phỏng vấn tôi là Bác Sĩ Wilfred Abse, Giáo Sư Ngành Phân Tâm Học, Tâm Lý Học thuộc Viện Tâm Trí và là một trong những người đứng đầu trong Ngành Phân Tâm Học tại Virginia. Ngay khi bước vào phòng Bác Sĩ Abse đã nói với tôi:
"Tốt, này Bác Sĩ Ritchie hình như Ông đã được gặp Chúa Christ. Tôi tưởng rằng cơ may của tôi đã bị ném qua cửa sổ. Bác Sĩ Abse là người Do Thái, một người nghiên cứu về triết học Freud. Ông ta đã trực tiếp phỏng vấn tôi. Tôi đã nói hết sự thực và không dấu diếm chút nào về việc xảy ra tại Trại Barkeley, Texas.
Không thể ngờ được hai tuần lễ sau cuộc phỏng vấn tôi nhận được thư thông báo Ban Tuyển Chọn đã chấp nhận tôi vào nội trú và tôi đã trở thành một Bác Sĩ về tâm trí.
Những năm sau này, Bác Sĩ Abse trở thành người bạn thân của tôi. Trong một câu chuyện giữa chúng tôi, Bác Sĩ Abse đã cho biết: "Mọi người nơi đây đều biết rõ câu chuyện xuất hồn của Anh; nếu trong cuộc phỏng vấn Anh dấu diếm thì tôi đã không chọn Anh vì cho Anh là một người không có tinh thần vững vàng, một người như vậy ắt hẳn không thể phân biệt đâu là sự thật, đâu là ảo tưởng."
Cũng tại Bệnh Viện này, Bác Sĩ George Ritchie đã tiến tới chức vụ Viện Trưởng Viện Tâm Trí.

MỘT NGƯỜI NÔ LỆ DA ÐEN MÙ LÒA  TRỞ THÀNH NHẠC SĨ LỪNG DANH
Tác Giả: Sylvia Cranston và Carey Williams

Chú mù Tom sanh năm 1849 tại Georgia, Hoa Kỳ trong thời kỳ chế độ nô lệ còn đang mạnh mẽ. Là một người da đen, chào đời vào thời này, lại bị tàn tật ngay từ lúc mới sanh, thật là một bất hạnh!
Trong một tạp chí, Webb Garrison đã viết một bài với tựa đề "CHÚ MÙ TOM VÀ SỰ HUYỀN BÍ CỦA ÂM NHẠC". Ông đã ghi như sau:
"Hầu hết mọi nông dân tại Georgia trong một trăm năm qua đã đặc biệt chú ý đến việc thương mại nô lệ. Trong đó có Perry H. Oliveer ở Quận Moscogee. Bởi thế khi người nô lệ da đen của ông sanh ra một đứa con trai mù thì tự nhiên ông phải thất vọng vô cùng. Ít lâu sau trong một cuộc đấu giá nô lệ, ông đem bán người mẹ cho Tướng James Bethune ở Columbus, Georgia. Sau đó ông mới đem thằng nhỏ da đen bị mù ra khỏi nơi dấu và nói rằng: "Tôi quên không cho Ngài biết người đàn bà nô lệ này còn đứa con trai. Tôi đồng ý cho không đứa nhỏ này" (Theo Coronet, tháng 7 năm 1952 ). Người mẹ đáng thương cùng đứa con trai mù 1 tuổi đau lòng từ bỏ căn nhà và bạn bè để về làm nô lệ cho người chủ mới xa lạ. Tướng James Bethune đặt tên cho đứa trẻ là Thomas Green Bethune, nhưng cả thế giới này chỉ biết Chú là "Chú Mù Tom". Trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng "My Antonia" bà Willa Cather đã thuật lại cuộc đời của Chú mà bà gọi là Người Mù Arnault.
Trong nhiều bài tường thuật về sự kỳ diệu này, bài có giá trị nhất là bài của Bà Ella May Thornton, Quản Thủ Thư Viện Georgia, 1 Quản Thủ được xếp vào hàng danh dự của các Tiểu Bang. Ðó là Bài "Sự Huyền Bí Của Chú Mù Tom" của Bà đăng trong tập "The Georgia Review" xuất bản mùa đông năm 1961. Sau đây là một đoạn:
"Lúc Tom còn nhỏ đang phải bồng trên tay thì Tom đã tỏ ra rất nhậy cảm trong bất cứ một tiếng động nào và đặc biệt về âm nhạc. Tất cả những người trong giòng họ Tướng James Bethune lúc bấy giờ phần đông đều thông minh, học thức và giàu lòng từ thiện đều công nhận tài năng khác thường của đứa bộ da đen này.
Khả năng kỳ diệu về âm nhạc được khám phá khi chú Tom mới lên 3 tuổi. Vào một buổi chiều trên thềm ngôi biệt thú, thình lình giọng của Chú vang lên hòa ca với giọng hát của các ái nữ Tướng Bethune. Không những Chú đã ca phần êm dịu ở phần đầu bản nhạc nhưng phần thứ hai mới là khó hát nhất... Thế mà Chú đã trọn vẹn hát hết bản nhạc một cách tài tình không gượng gạo.
Cuộc trình diễn bất ngờ lần sau vào năm Chú lên 4 tuổi, cũng vào một buổi chiều các thiếu phụ trẻ tuổi sau khi đã chơi dương cầm mấy tiếng đồng hồ tản mác quanh biệt thự. Bỗng nhiên họ được nghe lại những bản nhạc mà họ đã chơi từ lúc đầu. Mọi người vội vã trở về phòng khách, họ sửng sốt thấy một chú Mọi đen nhỏ xíu đang say sưa dạo nhạc trên đàn dương cầm với những bản mà chú vừa được nghe.
Trước đây không một ai trong gia đình Tướng Bethune cho phép Chú Tom được chạm vào cây đàn. Ella May Thornton còn nhấn mạnh thêm: "Một đứa trẻ nô lệ mà đánh đàn dương cầm thì làm sao có thể dấu nổi một gia đình đông đúc như gia đình Tướng Bethune!".
Tạp chí Nghiên Cứu về âm nhạc xuất bản Tháng 8 năm 1940 đã ghi nhận như sau: Ngay khi bắt đầu chơi dương cầm, Chú đã biết sử dụng các phím đàn trắng và đen, Như vậy chứng tỏ Chú đã từng hiểu biết về dương cầm của âm nhạc Tây Phương. Các phím đàn dương cầm sắp xếp không như nốt thường mà do óc sáng chế kỳ diệu cuả một người có biệt tài về âm thanh. Thật khó sử dụng đối với một đứa bộ bị mù và chưa từng được ai chỉ dẫn huấn luyện. Bà Thornton nhấn mạnh: "Chú có thể chơi các bản nhạc cổ điển nổi tiếng một cách thành thạo, khác hẳn những người chơi đàn 'bằng tai' thường thấy. Chú Tom đã dùng các ngón tay mình một cách rất chính xác nhà nghề. Cho nên năm 1862, một chuyên viên điêu luyện về âm nhạc nói là Chú Tom chơi đàn giỏi được như vậy, chắc chắn phải được học ở 'Nhà Trường'". Mặc dù thần kinh Chú Tom hoàn toàn bị giới hạn nhưng nếu cho Chú vào học tại các Trung Tâm dành cho các trẻ em chậm phát triển thì thật sai lầm. Chú Tom có một bộ óc điện tử có thể ghi và trình tấu lại các bản nhạc dù mới chỉ nghe có một lần. Với khả năng siêu việt Chú có thể lập lại chính xác một bản nhạc mới dài 20 trang. Ngoài ra Chú Tom còn có khả năng sáng tạo nữa. Bà Thornton nhớ lại "Thời bấy giờ ở Columbus, Georgia có rất nhiều giáo sư âm nhạc; trong đó có giáo sư Carlo Patti, anh của Bà Adelina. Tướng Bethune đã nhờ Giáo Sư Patti chỉ dạy thêm nhạc cho Chú Tom. Chính Giáo Sư là người đã từng dậy nhạc cho các ái nữ của Tướng Bethune, nhưng ông từ chối và nói như sau: "Tôi không thể chấp nhận lời yêu cầu, Thế giới chưa bao giờ thấy được một sự lạ như thế ở một người da đen, và từ xưa tới nay chưa từng thấy một hiện tượng nào như thế. Tôi không thể dạy cho Chú thêm một chút gì nữa, tầm hiểu biết của Chú về âm nhạc còn hơn cả chính tôi đã biết và đã học - trường hợp thần đồng này quả là một ngoại lệ và sự việc này đã biến thành một hiện tượng hữu hình. Tôi không thể hiểu nổi. Tất cả những gì tôi có thể giúp Chú ấy là cho Chú ấy nghe những bản nhạc hay và chính Chú ấy sẽ tự ghi lại và tự tấu được không cần sự hướng dẫn hay chỉ bảo của tôi."
Vào lúc 8 tuổi Chú bắt đầu trình diễn các bản hòa tấu trước công chúng. Lúc 12 tuổi, trong cuộc Chiến Tranh Nam Bắc, Chú Tom trình diễn tại Nữu Ước trong một cuộc hòa tấu ngày 19 Tháng Giêng năm 1861. Trong cuộc Chiến Tranh Nam Bắc này, Chú đã trình diễn rất nhiều lần tại các thành phố sau chiến tuyến của cả hai phe bảo thủ và thống nhất. Hòng ngàn binh sĩ cả hai phe lâm chiến đã được dự thính nghe Chú trình diễn. Một số khán giả này đã tường thuật lại một cách thích thú và trung thực về tài năng của Chú trong các Nhật Ký, Tùy Bút, Phỏng Vấn xuất bản trên các báo chí sau đó. Năm 1866 và năm 1867, Chú đã đi trình diễn tại các Quần Ðảo thuộc Anh Cát Lợi, tại Lục Ðịa và trên khắp nước Mỹ. Chú đã trình diễn tại Tòa Bạch Ốc và chính Chú điều khiển buổi trình diễn này.
Chú Tom không bị giới hạn về một loại nhạc nào cả, Chú có thể trình diễn Nhạc Khúc của Beethoven, Mendelsohn, Bach và Chopin và cũng có thể chơi các bản nhạc bất luận về loại gì.
Nguồn cảm hứng đến với Chú trong lúc Chú ngồi dạo dương cầm khiến cho Chú sáng tác được những bài ngẫu hứng cùng những bản trường ca bất hũ có tới cả nghìn bản. Các sáng tạc với âm điệu tuyệt vời cùng những lời nhạc rất hay có thể nói lên Chú Tom đã nắm được trọn vẹn khoa học và kỹ thuật về âm điệu nhạc lý. Chỉ có thể cho rằng tất cả các yếu tố tạo thành sức mạnh âm nhạc đó đã có sẵn trong con người Chú Tom.
Ella May Thornton đã kết thực bài tham cứu bằng một câu hỏi: "Một câu được đặt ra để hỏi các Nhà Tâm Lý Học, các Nhà Vật Lý Học, các Nhà Khoa Học cùng các Chuyên Gia về Âm Nhạc có thẩm quyền có thể giải thích về trường hợp này của Chú Tom không? Sau một thời gian nghiên cứu tôi đã không tìm được câu trả lời. Chỉ có thể giải thích được đó là Luân Hồi và người ta đã kết luận rằng ở một thời điểm nào đó, ở một nơi nào đó, ở một kiếp nào đó Chú Tom đã là một nhà nhạc sĩ siêu đẳng."
Sự hiện diện của Chú Mù Tom ở Âu Mỹ đã có một ý nghĩa đặc biệt. Trong giai đoạn cuối cùng của chế độ mọi nô người da đen tại Hoa Kỳ, Chú Mù Tom đã chứng tỏ cho hàng triệu khán thính giả trên thế giới biết rằng một người nghèo, bị khinh rẻ, bị coi là chậm tiến, một người da đen thất học đã làm nên sự nghiệp vĩ đại mà không một người da trắng nào dù tài giỏi đến mấy nữa cũng không làm được. Phải chăng tài năng này Chú đã có từ kiếp trước? Cho nên các giáo sư đã tìm được sự giải thích, đó là Luân Hồi. Tương tự như thế trường hợp của Bà Sơ Teresa, một Tu Sĩ Ky-Tô-Giáo, Giáo Sư Mỹ Thuật tại Chủng Viện Brooklyn, có mặt trong một buổi thuyết trình về luân hồi của Hội Thanalogy Foundation tại Ðại Học Ðường Columbia, được hỏi bởi một học sinh rằng có phải những nét vẽ điêu luyện của Sơ là do sự huấn luyện và thực hành sau nhiều năm kinh nghiệm mà có phải không? Sơ Teresa đã xác nhận là do tiền kiếp của Sơ mà có.
Trong những chuyện luân hồi do Tiến Sĩ Ian Stevenson điều tra đã chứng minh được có luân hồi nên con người đã có những khả năng đặc biệt, điều mà những khả năng đến với con người từ lúc nào và phát triển từ bao giờ chúng ta không phát hiện được. Ian Stevenson đã nêu lên thí dụ: "Trong hiện kiếp chúng ta biết đi đứng nhưng không ai có thể nhớ lại chúng ta đả biết tự lúc nào. Con người tuy không nhớ được những gì ở tiền kiếp song những tài năng và những cá tính đặc biệt ở kiếp trước đã là các chất liệu cho chúng ta trong kiếp này."
BÀ SHAKUNTALA DEVI, MỘT NHÀ TOÁN HỌC ĐẠI TÀI
Tác Giả: Sylvia Cranston và Carey Williams

 Bà Shakuntala Devi, Nhà Toán Học Thần Ðồng này đã được cả Quốc Tế công nhận và biết đến. Bà là người sanh trưởng tại Ấn Ðộ. Bà đã du hành qua nhiều nước trên thế giới và đã làm cho các nhà toán học sửng sốt ngỡ ngủng với tài năng xuất chúng của Bà.
Bà đã tìm được đáp số của các bài toán còn nhanh hơn cái máy điện tử tối tân nhất. Trong chuyến du hành sang nước Mỹ năm 1977, tài nghệ siêu việt của Bà đã được các báo chí ca ngợi. Bà đã được US National Standard trao giải thưởng Univac 1108 vì tính được 23 căn số của 201 con số trong 50 giây. Tên Bà đã được ghi trong cuốn Guiness Book of World Records (Cuốn Sách Ghi các Thành Tích Kỷ Lục Trên Thế Giới). Bà có thể tính nhanh hơn máy điện tử mà không phải chuẩn bị trước. Muốn được như Bà, máy điện tử cần phải có 13,466 chỉ dẫn và 4,883 dữ kiện. Nếu nói là may mắn, theo máy điện tử thì kết quả sự may mắn đó là 1 trong 598 triệu lần.
Tài năng của Bà đã được khám phá khi Bà mới lên 3 tuổi. Lúc ấy cha mẹ Bà thấy Bà có tài năng kỳ lạ về những con số nên đã đem Bà đến Học Viện Ðịa Phương để tìm hiểu. Trước mặt các vị Giáo Sư của Ðại Học Ðường Bengalore, Bà đã chứng tỏ tài năng phi thường qua những đáp số về Logarithms (Ðối Số) về căn số của con số phức tạp và về tổng số chỉ trong ít phút. Tên tuổi của Bà đả trở nên lừng lẫy. Học vấn của Bà chỉ ở mức trung bình nhưng Bà cho biết: "Tôi rất thích các con số và say mê các con số, mọi sự trên đời dù là nghệ thuật, khoa học hay triết lý, tất cả đều căn cứ trên những con số". Khi còn nhỏ tuổi, tài năng phi thường của Bà được coi như thiên phú và Bà cứ tưởng rằng tất cả mọi người đều giống như Bà nghĩa là cũng có tài như Bà về toán học và Bà đã ngạc nhiên vô cùng khi thấy sự thực không phải như vậy.
Người ta đặt câu hỏi: Bà du lịch vòng quanh thế giới để phô trương tài năng của Bà mục đích để kiếm tiền phải không? Không phải như vậy.
Ngày 3 Tháng 1 Năm 1974, tờ báo Ottawa Citizen phỏng vấn Bà với tựa đề: "NGƯỜI ÐÀN BÀ TÍNH TOÁN GIỎI BẬC NHẤT TRÊN THẾ GIỚI". Bà nói: "Tôi tin rằng những thành tích của loài người là quan trọng nhất, điều đó chứng tỏ con người vẫn còn siêu việt hơn máy móc. Thế giới còn chưa hiểu hết được khả năng của trí tuệ con người, nó vô cùng tận, tôi đã chứng tỏ cái khả năng ấy".
Trong một cuộc phỏng vấn khác trên Ðài Vô Tuyến Truyền Hình tại Ottawa của chương trình "This Day" (Ngày Nay) để trả lời câu hỏi tại sao Bà lại có tài năng đặc biệt đó, Bà cho biết người Ấn Ðộ giải thích là bởi sự "LUÂN HỒI", kiếp trước Bà ở Ai Cập. Ðiều không thể chối cãi là đã có rất nhiều các nhà toán học kỳ tài trên đất nước của các vị Pharaohs (Những nhà Vua nổi tiếng Ai Cập). Kim Tự Tháp Cheops (Một kỳ quan trên thế giới) với lối kiến trúc hoàn toàn dựa trên căn bản toán học phức tạp đến nỗi các điều tra viên, 1 thế kỷ qua đã cố nặn óc mà vẫn chưa tìm được hết mọi bí ẩn.
 
CÔ BÉ BLANCHE BATTISTA
Tác Giả: Sylvia Cranston và Carey Williams

 Câu chuyện Luân Hồi này do Bác Sĩ người Anh Raynor Johnson điều tra và chính Bác Sĩ Johnson đã giới thiệu gia đình Battista với Mục Sư Tiến Sĩ Leslie Weatherhead, Cựu Chủ Tịch Hội Methodist Conference Anh tại Melbourne, Úc Ðại Lợi. Tiến Sĩ Weatherhead đã kể lại trong một bài thuyết giảng về đề tài: "Một Trường Hợp Luân Hồi".
Ðại Úy Battista và vợ, đều là người Ý có sanh một người con gái tại La Mã và đặt tên là Blanche. Ðại Úy Battista có mướn một người vú em Thụy Sĩ nói tiếng Pháp tên Marie để trông nom Bé Blanche. Marie thỉnh thoảng dạy bộ Blanche bài hát ru con bằng tiếng Pháp. Bé Blanche rất thích bài này thường hát đi hát lại mỗi ngày nên thuộc lòng. Chẳng may Bé Blanche bị chết nên Marie phải trở về Thụy Sĩ.
Ðại Úy Battista viết: "Tiếng hát Ru con từ nay đã im bặt trong gia đình nhưng âm vang của nó vẫn nhắc nhỡ chúng tôi nỗi đau buồn về cái chết của đứa con nên chúng tôi cố tránh không nghĩ đến các kỷ niệm."
Bé Blanche chết được 3 năm, người mẹ, Bà Signora Battista mang thai. Lúc thai được 4 tháng, Bà đã thấy một giấc mơ lạ lùng trong lúc nửa tỉnh nửa mê, Bà cả quyết thấy rõ ràng Bé Blanche hiện ra và nói với Bà bằng giọng quen thuộc như hồi nào: "Mẹ ơi con sẽ trở về với mẹ". Rồi Bé Blanche biến mất. Ðại Úy Battista hoài nghi, nhưng đến tháng 2 năm 1906, vợ ông sanh một bộ gái và ông cũng đặt tên cho đứa con gái này là Blanche. Ðứa con mới sanh giống hệt như đứa con gái trước.
Chín năm sau cái chết của đứa con gái đầu, khi đứa thứ hai được 6 tuổi thì một việc bất ngờ đã xảy đến. Ðây là lời của ông:
"Trong khi tôi và vợ tôi đang ở trong phòng đọc sách kế cận phòng ngủ thì cả hai chúng tôi đều nghe thấy giọng hát ru con bằng tiếng Pháp vẳng ra từ phòng ngủ của đứa con gái chúng tôi đang ngủ. Lấy làm lạ chúng tôi liền vào xem thì thấy con gái chúng tôi đang ngồi trên giường và hát bài ru con với một giọng Pháp rất tự nhiên. Bài hát này chưa được ai trong chúng tôi dạy cho con gái cả. Vợ tôi hỏi con đang ca bài gì đó thì nó trả lời đang ca bài hát bằng tiếng Pháp. Tôi liền hỏi: "Ai dạy con bài hát hay vậy?" Nó đã trả lời: "Không ai dạy con cả, bài hát này đã có sẵn trong đầu óc của con".
Blanche, người con gái Ý Ðại Lợi, khi luân hồi đã báo cho mẹ biết là sẽ trở lại và Blanche hãy còn nhớ bài hát bằng tiếng Pháp mà trước Blanche đã được Marie, người trông nom em dạy em ở tiền kiếp.

"LÀ MỘT QUÂN NHÂN, TÔI CHIẾM CỬA THÀNH"
Tác Giả: Sylvia Cranston và Carey Williams

 Câu chuyện sau đây được giải thưởng hạng nhất trong một cuộc thi toàn quốc với chủ đề: "Một sự trùng hợp lạ lùng mà tôi biết".
Cuộc thi này do Tạp Chí "The American Magazine" tổ chức và câu chuyện được đăng trong Tháng Bảy Năm 1915. Dù chỉ là một sự trùng hợp hay một sự gì khác nữa, độc giả có thể tự mình phán xét lấy. Người kể lại chuyện này là một thiếu phụ tại Minneapolis.
Nội dung của câu chuyện ngắn có thực này rất đơn giản nhưng rất giá trị vì được ghi lại trung thực từ nhiều năm qua, tài liệu lịch sử hiện còn lưu trữ là những bút tích hiện hữu đã chứng minh cụ thể.
Người đàn bà đáng tin cậy nhất kể lại câu chuyện ấy như sau:
"Anne, cô em gái cùng mẹ khác cha của tôi nhỏ hơn tôi 15 tuổi là một đứa bộ kỳ quặc ngay từ tấm bộ. Nó không giống một ai trong gia đình, da nó ngăm ngăm trong khi mọi người khác đều trắng trẻo dòng dõi thừa hưởng Tô Cách Lan - Ái Nhĩ Lan của cha ông.
"Ngay khi biết nói rành rẽ, nó thường kể những câu chuyện hoang đường về nó. Vì thấy khá ngộ nghĩnh, tôi đã dùng bút chờ ghi lại những điều nó nói trong nhật ký của tôi. Tôi có bổn phận phải trông nom nó - mẹ tôi rất bận rộn - và tôi rất hãnh diện về bà. Ở một đứa trẻ như nó không thể nào có được những câu chuyện hoang đường, với lại cái trí óc non nớt của nó làm sao có thể hiểu được những việc đại loại như thế.
Ðiều đáng nói nữa là tất cả mọi việc nó làm đều như một thói quen; nó chẳng bao giờ giải thích là tại sao nó lại làm như vậy. Nếu bạn nhìn cách thức nó cầm ly sửa lên và uống một hơi cạn ly sửa thì bạn sẽ không khỏi ngạc nhiên và bật cười vì nó mới có 3 tuổi đầu.
Những việc như thế làm mẹ tôi khó chịu và bà thường quở trách nó. Là một đứa trẻ ngoan, cố gắng vâng lời, nhưng rồi sau đó lại đâu vào đó.
"Mẹ à! Con không thể làm hơn thế được, từ trước đến nay con vẫn làm như vậy mà". Nó nói với mẹ tôi bằng giọng trẻ thơ pha nước mắt.
Qúa nhiều việc xảy ra do thói quen về cách ăn nói, cách suy nghĩ và cách hành động của nó nên cuối cùng chúng tôi không để ý đến nữa và cho nó là một đứa trẻ hoàn toàn khác hẳn những đứa đồng tuổi.
Năm nó lên 4 tuổi một hôm cha tôi làm nó phẫn uất điều gì đó, nó tức mình ngồi ngay dưới đất trước mặt chúng tôi và bảo rằng nó có ý định đi xa.
" -Trở về thiên đường, nơi con từ đó đến đây hả?" Cha tôi châm biếm hỏi. Nó lắc đầu
"-Con không đến với Cha từ thiên đường". Nó bình thản xác nhận. Thái độ này vẫn thường thấy ở nó.
" -Trước tiên con sẽ lên mặt trăng - Cha có biết gì về mặt trăng không? Trên đó cũng có người nhưng muốn lên rất khó".
Ðó là một dự định hoang đường, tôi lấy bút ghi vào nhật ký.
Cha tôi tiếp: "-Vậy ra con từ mặt trăng đến với chúng ta à?
"-Ồ! Không phải " Nó trả lời cha tôi với một thái độ điềm tĩnh.
- Con đã ở đấy nhiều lần, có khi là đàn ông, có khi là đàn bà.
Vẻ bình thản của nó khiến cha tôi bật cười làm nó tức giận. Nó không thích bị diễu cợt.
"-Ðúng vậy, đúng vậy." Nó phản đối ngay:
"Một lần con đã đến Gia Nã Ðại lúc đó con là đàn ông, ngay cả tên con con còn nhớ nữa mà".
Cha tôi chế nhạo:
"- Ái Chà! Ái Chà! Một đứa con gái nhỏ tại Hoa Kỳ lại là một người đàn ông Gia Nã Ðại Thế con còn nhớ tên là gì?" Nó suy nghĩ một chút rồi trả lời:
- "Lishus Faber", Nó nhắc lại và cả quyết đúng là tên Lishus Faber. Nó nói rõ rành rẽ nên tôi đã ghi lại trong nhật ký của tôi cái tên "Lishus Faber".
"-Này Lishus Faber, thời đó anh làm nghề gì? Cha tôi vẫn hỏi nó với điệu bộ diễu cợt.
"- Con là quân nhân và con đã chiếm được cửa thành". Nó trả lời cha tôi một cách cao ngạo của một người thắng trận.
Tất cả đều đã được tôi ghi vào nhật ký. Ðã rất nhiều lần, chúng tôi cố gắng hỏi nó giải nghĩa thêm các câu nói của nó nhưng nó một mực chỉ nhắc lại câu trên và tỏ vẻ tức giận vì chúng tôi đã không hiểu. Trí tưởng tượng của nó ngừng lại khi nói đến giải nghĩa. Dù chúng tôi sống trong một cộng đồng có kiến thức và tìm mọi cách để tìm hiểu câu chuyện như một người tìm hiểu câu chuyện có liên quan đến những đến những đứa con yêu quý của mình nhưng không một ai có thể ức đoán được.
Vài người khuyến khích tôi cố gắng đi xa hơn nữa và tôi đã bỏ một năm để nghiên cứu lịch sử Gia Nã Ðại với hy vọng tìm thấy một trận chiến nào đó có người "chiếm được cửa thành". Tất cả đều vô vọng. Cuối cùng tôi được một quản thủ thư viện giới thiệu với tôi một cuốn tài liệu, một cuốn sách dầy cũ và rất ngộ nghĩnh với chữ s's viết giống như f's. Ðã một năm qua tôi không còn hy vọng gì tìm hiểu được. Thế mà một cuốn sách cổ xưa sống động vì có nhiều hình vẽ với nhiều truyện ngắn đã giúp tôi tìm thấy câu chuyện thật bất ngờ.
Câu chuyện nói về thành tích chiến đấu của một đội quân nhỏ, chiếm đánh một thành phố cũng không có gì quan trọng. Một viên Trung Úy trẻ với toán quân của ông - với giòng chữ hiện ra trước mắt tôi - "Chiếm Cửa Thành"; Viên Trung Úy này tên là "Aloysius Le Febre" (Trùng hợp với tên và câu nói của đứa em nhỏ ngây thơ của tôi đã nói trước đây với cha tôi! ).
Về việc em gái tôi cho rằng con người đã có lần sống trên mặt trăng thật là kỳ lạ, tuy nhiên theo quan điểm của các nhà thông thiên học, sự việc rất có thể vì mặt trăng trước đây là một hành tinh có người sanh sống và là nơi ở xa xưa của chúng ta. Ðiều đáng quan tâm là giờ đây người ta đã khám phá ra những viên đá do các phi hành gia mang về từ mặt trăng đều đã có lâu đời hơn các viên đá hiện tại trên trái đất.


CÓ PHẢI VỊ BÁC SĨ TÂM LÝ NGƯỜI HOA KỲ ÐÃ SỐNG Ở THẾ KỶ THỨ 17 TẠI ÂU CHÂU KHÔNG?
Tác giả: Sylvia Cranston và Carey Williams

 Không phải chuyện bình thường khi một nhà tâm lý học viết khảo luận, nhất là cuốn sách đó nói về luân hồi. Và nhất định một câu chuyện như vậy phải được nghiên cứu kỹ lưỡng - nếu không cũng là chính kinh nghiệm bản thân của tác giả về tiền kiếp, khiến cho tác giả mạnh dạn viết thành sách. Nhà Tâm Lý Học này là Bác Sĩ Tâm Lý Frederic F. Flach; ông là giáo sư chuyên khoa tâm lý của Ðại Học Y Khoa Nữu Ước và cũng là Bác Sĩ Tâm Lý của Dưỡng Ðường Payne Whitney ở Bệnh Viện Nữu Uớc. Ông có phòng mạch riêng rất đông khách. Cuốn sách của Bác Sĩ Flach có tựa đề "Fridericus" được xuất bản vào năm 1980.
Ðầu tiên Bác Sĩ Flach chú ý đến luân hồi trong lúc khảo cứu đề tài "Sức Mạnh Kỳ Bí Của Phiền Muộn". Thật là hy hữu - một đồng sự của ông đã khám phá ra bản luận án số 1620 bằng tiếng La Tinh của một Bác Sĩ người Thụy Sĩ cùng tên Frederich F. Flacht nghiên cứu một đề tài như ông. Lúc đó ông cho chỉ là một sự trùng hợp lạ lùng nhưng ông không khỏi không nghĩ phải chăng vị Bác Sĩ Thụy Sĩ kia chính là ông thời nay.
Sau khi phát hành cuốn sách Fridericus, Bác Sĩ Flach đã kể với phóng viên ông tin tưởng mãnh liệt chính ông là Bác Sĩ Fridericus.
Vị Bác Sĩ Thụy Sĩ ở tại Basel " là một Bác Sĩ chuyên về tâm lý giống như tôi hành nghề này rất hiếm ở thời ấy. Có một sự trùng hợp lạ lùng giữa những điều vị Bác Sĩ Thụy Sĩ viết và điều tôi nghiên cứu". Ông nói: "Còn một sự trùng hợp khác nữa là miền Âu Châu mà Fridericus tới,những thành phố mà Fridericus đi qua trong đời cũng chính là những nơi mà gia đình tôi đã sống. Gia đình tôi một phần gốc ở gần Zurich. Có một thị xã mang tên Flach. Một phần khác ở ngay phía Bắc biên giới, tức là phía nam của Ðức Quốc bây giờ. Một phần khác nữa thì từ Strasbourg đến. Nếu bạn khoanh tràn khu vực đó thì thấy đúng là Bác Sĩ Thụy Sĩ đã đến từ vùng đó.Ông là một Bác Sĩ hành nghề tại Thị Xã Worms ngay phía bắc Strasbourg, và ở tại Basel, Heidelberg và Mulhouse. Lại nữa ông lấy vợ hai lần. Tôi cũng lấy hai lần vợ. Ông ta có ba người con, tôi cũng có ba con.
Năm 1977, Bác Sĩ Flach đi Âu Châu để tìm hiểu thêm về Fridericus (Bác Sĩ Thụy Sĩ). Bác Sĩ Flach nói:
"Mục đích chính của tôi là tìm mọi dấu vết của Fridericus. Tôi đã đến Basel, Worms, Heidelberg,Strasbourg và Mulhouse.Tôi muốn biết cảm nghĩ của tôi khi đến các vùng này. Tại Basel tôi cảm thấy rất quen thuộc - một cảm giác ấm cúng như được về nhà."
Cuốn sách "Fridericus" được viết theo quan điểm của một Bác Sĩ Tâm Lý được huấn luyện kỹ càng, có nhiều kinh nghiệm. Và thật là thích thú khi theo dõi các lập luận để giải quyết vấn đề chính được nêu lên bởi bốn chuyên gia khác nhau. Trong đó đa số cuộc đối thoại xoay quanh vấn đề có hay không có luân hồi.
Trường hợp của Bác Sĩ Flach không có nhiều chi tiết không là một trường hợp đặc biệt nhưng cũng là dấu hiệu đáng quan tâm trong hiện đại. Ðiều chắc chắn là 50 năm về trước đây không một nhà tâm lý nào lại dám đề cập đến vấn đề (Luân Hồi) như vậy.


MỘT TRƯỜNG HỢP KỲ LẠ TẠI LEBANON
Tác Giả: Sylvia Cranston và Carey Williams

 Vào năm 1962 khi Tiến Sĩ Stevenson đến Ba Tây để điều tra một vụ luân hồi gặp một người di cư gốc Lebanon cho Tiến Sĩ biết rằng ở làng anh ta, làng Kormayel có rất nhiều trường hợp tái sanh. Anh ta có viết thư giới thiệu Tiến Sĩ với người anh họ của anh ta hiện còn đang sống ở đó, nhưng mọi đến 2 năm sau Tiến Sĩ mới đến thăm được. Vào thượng tuần tháng 3 năm 1964, Tiến Sĩ Stevenson, không báo truớc đã tự đến nơi đó và được biết người mà Tiến Sĩ Stevenson muốn gặp đã đi Beirut để tránh mùa đông lạnh lẽo của miền quê hương rừng núi này.
Dân làng Kormayel biết được nhiệm vụ của Tiến Sĩ Stevenson đã báo cho Tiến Sĩ biết có một em bộ 5 tuổi tên Imad Elawar đã luôn luôn nhắc về tiền kiếp của em từ khi một tuổi. Ðối với dân bản xứ, việc này không xa lạ vì có nhiều trường hợp tương tự. Trên thực tế Tiến Sĩ Stevenson thấy dân nơi đây không theo Hồi Giáo mà theo đạo Druse và tỷ lệ luân hồi tại đây được coi như cao nhất thế giới. Hai trăm ngàn người Druse phần lớn sống tại Lebanon, Syria, miền Bắc Do Thái và Jordan. Còn một thiểu số di cư sang Hoa Kỳ và Ba Tây.
Tiến Sĩ Stevenson đã tìm được người cha em Imad và ông này lại chính là người anh họ với người bạn của ông tại Ba Tây. Câu chuyện trở nên hấp dẫn và có giá trị đặc biệt vì ông có thể điều tra trước hai gia đình liên hệ về cả quá khứ lẫn hiện tại để biết rõ sự tồn tại của mỗi gia đình. Vén đươc màn bí mật ông có thể quan sát em nhỏ ngay tại nhà về tính tình của em và cũng về việc lần đầu em gặp lại những người thân tiền kiếp của em. Sau hết trước khi đi kiếm những người này, Tiến Sĩ Stevenson đã ghi 50 dữ kiện mà em Imad đã nhớ được.
Bây giờ bắt đầu vào chuyện.
Imad sanh ngày 21 tháng 12 năm 1958, khi bắt đầu biết nói thì lời nói đầu tiên của em là những tên Jamileh và Mahmoud. Khi biết nói trôi chảy rồi thì em tiết lộ nhiều chuyện ở kiếp trước, tên những người mà em biết, tài sản mà em có và vài biến chuyển có xảy ra trong đời em. Em kể lại em là người của gia đình Bouhamzy sống ở làng Khriby cách làng Kormayel một con đường núi khúc khuỷu dài 25 dậm. Trong gia đình hiện thời của em chỉ có cha em là người đã đến Khriby để dự tang lễ của một người Druse nổi tiếng.
Imad đã nói về những người mà em nêu tên và lớn tiếng hỏi họ sống với nhau ra sao. Trong giấc ngủ em cũng nói như vậy. Cả thảy có 14 tên em nhắc đến. Người được nhắc nhiều nhất là Jamileh, một phụ nữ đẹp mà em say sưa so sánh với người mẹ kém hấp dẫn hiện tại. Em nói Jamileh mặc bộ quần áo mầu đỏ do em mua tặng và mang giầy cao gót - loại giầy mà ngày nay các phụ nữ trong làng cũng ít dùng. Mẹ của Imad cho biết khi lên 3 tuổi em có nói em muốn cao bằng Jamileh và một hôm nằm trên giường với mẹ em đã yêu cầu mẹ hãy cư xử như Jamileh.
Em còn nhớ thời tiền kiếp em thích đi săn em có một cây súng hai nàng. Ðể mô tả cây súng có hai nàng em dùng hai ngón tay chập lại với nhau. Về tài sản em có một căn nhà, một xe hơi nhỏ mầu vàng, một chiếc xe buýt và một chiếc xe vận tải chở đá.
Về những chuyện ở kiếp trước em nhớ một lần em có đánh một con chó. Nhưng chuyện làm em khổ tâm nhất là một tai nạn xe cộ nghiêm trọng đã xảy ra. Một chiếc xe vận tải đã đụng phải một người đàn ông (tức là em) làm gãy hai chân và cán nát bụng. Người đàn ông được chở đi Bác Sĩ và đã phải giải phẫu. Bà mẹ và Bà Nội của em cho rằng việc này rất đáng quan tâm vì ngay khi mới biết đi em vẫn hay nói rằng em sung sướng biết mấy khi có thể đi lại được! Người cha em cho tất cả những chuyện trên là nhảm nhí và gọi em là đứa điêu ngoa, vì vậy em chỉ dám kể cho những người đàn bà trong nhà mà thôi.
Tuy nhiên mọi người trong nhà đều thấy một hôm lúc Imad lên 2 tuổi đã chận một người lạ mặt ngoài đường ôm chầm lấy ông ta mừng rỡ. Người lạ mặt liền hỏi "Em biết tôi sao?" - "Vâng, ông là người hàng xóm của tôi " em trả lời. Người này là Salim Aschar, người làng Khriby ngày xưa ở cạnh nhà Imad sự thực này mãi sau mới khám phá ra được chứ vào lúc này cũng chưa ai biết em là người của gia đình Bouhamzy. Tuy nhiên điều này không ngăn cản gia đình hiện tại của em đi đến kết luận - hòan toàn không chính xác như chúng ta sẽ biết sau này. Nghĩa là lúc đầu Tiến Sĩ Stevenson đã được người ta cung cấp những tin tức sai lạc.
Ðây là câu chuyện mà cha mẹ em đã cung cấp:
Những lời nói đầu tiên khi em mới biết nói là Mahmoud và Jamileh, chính là tiền thân của em và người vợ. Mahmoud đã bị xe vận tải đụng chết. Chuyện này không những đã do Imad kể lại mà chính em là một đứa trẻ rất sợ hãi mỗi khi nhìn thấy xe vận tải lớn và các xe buýt. Ngay cả lúc còn chập chững biết đi em vẫn thường chạy trốn khi nhìn thấy 2 loại xe trên.
Một chuyện nhỏ nữa là ngày hôm sau Tiến Sĩ Stevenson cùng Imad và cha em đến Khriby. Em đã tỏ ra xúc động như là em đã xa cha mẹ lâu năm nay mới được về thăm lại. Trên đường đi em đã cho Tiến Sĩ Stevenson biết thêm về ký ức của em. Nhưng cuộc viếng thăm này không mang lại một kết quả cụ thể nào để chứng minh câu chuyện bí mật về tiền kiếp của Imad vì đúng là có Mahmoud Bouhamzy, nhưng hiện nay người này còn đang sống. Vợ anh ta không mang tên Jamileh và căn nhà cũng không như Imad đã mô tả.
Ngày hôm sau đó, Tiến Sĩ Stevenson quyết định một mình đến Khriby để điều tra lấy. Tiến Sĩ đã thấy một người Bouhamzy tên Haffez có người cha bị xe cán gẫy hai chân và đè nát bụng. Và mặc dầu đã phải giải phẫu hai lần song ông ta vẫn chết. Vợ ông ta cũng không phải là Jamileh và căn nhà cũng không giống như Imad mô tả. Sự điều tra của Tiến Sĩ Stevenson cho đến ngày ấy cũng chưa đi đến kết quả cụ thể.
Bất ngờ một tia sáng tự nhiên lóe lên! Haffez cho biết ông ta có một người anh họ rất quyến luyến với cha của Haffez và vô cùng đau xót trước tấm thảm kịch tai nạn ấy. Người này tên Ibrahim Bouhamzy có một người chú tên Mahmoud có một người tình nhân tên Jamileh. Mối quan hệ giữa hai người Mahmoud và Jamileh đã làm cho dư luận xôn xao. Vẻ đẹp của Jamileh rất thanh tú, nàng ăn diện theo thời trang đúng như Imad đã mô tả. Hơn thế nữa căn nhà mà Imad nói đến đúng là căn nhà của Ibrahim Bouhamzy. Ibrahim đã chết vì bệnh lao vào khoảng trên 20 tuổi và đã bị bán thân bất toại lối một năm trước khi chết. Imad sung sướng biết bao khi được đi vòng quanh nơi này! Sau khi Ibrahim chết, Jamileh đã lấy chồng và chuyển đến một làng khác.
Bình luận về sự thất bại lúc đầu Tiến Sĩ Stevenson nói: "Vì sự suy luận sai lầm của gia đình Imad cộng thêm vào sự quá tin tưởng vào lòng thành thật của họ khi họ cung cấp các tin tức, hơn nữa giữa đám người Hồi và người Cơ Ðốc Giáo xung quanh thì người Druse vẫn được tiếng là thành thực".
Khi Tiến Sĩ Stevenson quay trở lại gia đình Imad và báo cho họ kết quả điều tra của mình, cha mẹ Imad không được vui vì quan hệ của Imad với Jamileh ở tiền kiếp làm gương mặt của Bà mẹ Imad sa sầm đau khổ.
Hôm sau Tiến Sĩ Stevenson dẫn Imad và người cha đến nhà Ibrahim để xem Imad có thể nhận ra được điều gì kể từ khi Ibrahim chết vào năm 1949.
Theo lời Imad trước khi đi nhà này có hai cái giếng, một cái đầy nước còn một cái thì cạn. Tiến Sĩ Stevenson đã đích thân đi xem những cái giếng này. Cả hai đều đã bị lấp từ khi Ibrahim chết. Thực ra đây không phải là giếng nước mà là 2 cái hầm xây bằng bê tông để chứa nước cốt nho. Theo như Tiến Sĩ Stevenson miêu tả, có một bộ phận đặc biệt được chế ra để hầm được luân phiên điều chỉnh nghĩa là hầm này đầy thì hầm kia cạn.
Ðến lúc này thì xuất hiện 3 người đàn bà cùng dẫn Imad đi vòng quanh nhà. Ba người này là mẹ, chị của Ibrahim và người hàng xóm. Imad đã trả lời đúng 13 câu hỏi liên quan đến những người thân ở tiền kiếp. Tuy nhiên, Imad không nhận ra người mẹ mặc dù Imad vẫn thường nói rất thương yêu mẹ. Giờ đây người mẹ đã già và thay đổi hẳn. Người chị liền hỏi: "Thế em có biết ta là ai không?" Imad trả lời ngay: "Chị Huda". Rồi chỉ một bức tranh sơn dầu trên tường và bảo đó là em Fuad. Một bức ảnh lớn được đưa ra và chỉ vào Imad họ hỏi: "Ai đây? Em của em hay là người chú của em? " Imad trả lời: "Tôi đấy "
Người chị tiền kiếp lại hỏi Imad: "Trước khi chết em có nói một câu gì em còn nhớ không?"
Imad trả lời: "Chị Huda! Gọi Fuad cho em". Ðúng như vậy, Người em Fuad vừa ra khỏi nhà một lúc Ibrahim muốn gặp em lần cuối nhưng không kịp, Ibrahim đã chết liền sau đó. Ibrahim rất thương em, một tấm hình nhỏ của Fuad được trao cho Imad để làm kỷ niệm. Imad nâng niu và hôn tấm hình này rất là âu yếm.
Trong khi đi xem nhà, Huda đã được Imad cho biết bà mẹ có lần bị cái cửa dẫn ra sân kẹp ngón tay. Tiến Sĩ Stevenson nhận thấy ngón tay của Bà mẹ hiện nay hãy còn bị dẹp vì tai nạn này.
Một người hỏi Imad: "Khi em ngủ thì chiếc giường được đặt như thế nào?" Imad cho biết cái giường để theo hình chữ thập. Rồi một câu hỏi thích hợp khác được nêu lên: "Khi em đau ốm, những người bạn đến nói chuyện với em bằng cách nào?" Imad trả lời:
"Qua cửa sổ".
-"Tại sao?"
-"Vì họ không dám vào phòng sợ lây bệnh Và cũng vì thế mà cái giường được kê như trên." Imad trả lời.
Một câu hỏi thử thách khác:
"Thế cây súng được dấu ở đâu?" Imad chỉ đằng sau cái tủ quần áo trong một cái hộc trên tường. Mẹ của Ibrahim xác nhận là đúng và thêm vào chỉ có Bà Cô và Ibrahim là biết chỗ dấu súng mà thôi.(Việc này được giữ bí mật; ở thời đó có súng là bất hợp pháp).
Trường hợp này có hai diễn biến rất hay. Những diễn biến này được khám phá bởi Mahmoud, người chú của Imad trong một vài lần tiếp xúc với Tiến Sĩ Stevenson khi Tiến Sĩ Stevenson trở lại Lebanon để phỏng vấn các nhân chứng.
Mahmoud là tên một trong hai người mà Imad thường nhắc đến lần đầu tiên khi còn nhỏ. Khi Imad đến Khriby, Imad đã không gặp được Mahmoud, nhưng đến mùa hè năm 1970, Imad 12 tuổi, Mahmoud, người chú bất thần đến thăm nhà Imad. Imad không nhận được ra là Mahmoud. Khi Mahmoud đưa một tấm hình cho Imad coi, tấm hình này Mahmoud có bộ ria mép, hỏi Imad hình này là ai thì Imad đã trả lời: "Ðó là hình Chú Mahmoud". Sau đó người chú có mời Imad về Khriby ở với ông ta vài ngày. (Imad đã không đến Khriby từ khi Tiến Sĩ Stevenson và Imad đến đó vào năm 1964).
Diễn biến thứ hai khiến người chú xúc động vô cùng xảy ra khi Imad và ông ta đang đi bộ tại Khriby. Thấy một người đàn ông trên đường, Imad đã chặn lại và xin phép nói chuyện. Người chú hỏi Imad: "Con muốn nói gì với người đó? Ông ta là một cựu quân nhân đấy" Imad trả lời chính là lý do mà Imad muốn trò chuyện. Imad đã nói chuyện rất lâu với người này và người này cho biết Imad chính là Ibrahim tái sanh và nhắc lại với người này về những thời trước đã cùng sống với nhau như thế nào. Người cựu quân nhân này đã xác nhận với người chú Mahmoud là chính ông ta và Ibrahim đã gia nhập Quân Ðội Pháp một ngày và đã cùng sống với nhau trong quân ngũ.
Trong phần kết luận, Tiến Sĩ Stevenson đã báo cáo trong số 57 điều Imad nói về tiền kiếp trước khi gặp những người thân có thì Imad đã nói trúng 51 điều. Những điều đúng này gồm có cả cái xe hơi mầu vàng, xe buýt, xe vận tải mà Imad thường nhắc tới và nói những thứ trên là thuộc của Imad ở tiền kiếp.


TIẾN SĨ IAN STEVENSON

Tiến Sĩ Ian Stevenson sanh ngày 31 Tháng 10 Năm 1918 tại Montreal, Gia Nã Ðại. Cha ông là phóng viên của Tạp Chí Time, Luân Ðôn. Ian Stevenson học về y khoa và tâm lý tại Ðại Học Y Khoa Mac Gill, Montreal, Gia Nã Ðại và đậu Y Khoa Bác Sĩ năm 1943. Tiến Sĩ Ian Stevenson đã phục vụ tại Bệnh Viện Saint Joseph, Tiểu Bang Arizona, Hoa Kỳ, Viện Ðại Học Louisana, New Orleans từ Năm 1947 đến Năm 1957. Bắt đầu năm 1957 Tiến Sĩ điều khiển Ngành Tâm Trí và là Viện Trưởng Viện Tâm Trí tại Ðại Học Virginia, Charlotsville.
Tiến Sĩ là tác giả của nhiều bài khảo luận về Bệnh Tâm Trí đăng trên các Tập San Y Học. Ngoài việc trị bệnh cho các bệnh nhân Tiến Sĩ còn phụ trách giảng dạy tại các Trường Ðại Học Hoa Kỳ.
Tiến Sĩ là một nhà phân tích về tâm trí có biệt tài và đến năm 48 tuổi Tiến Sĩ đã đạt đến nấc thang danh vọng cuối cùng; thế mà Tiến Sỉ bỏ nghề y khoa chuyên môn để bước sang một lĩnh vực khác, đó là công cuộc điều tra và nghiên cứu về Luân Hồi.
Trong một cuộc phỏng vấn, Ký Giả Eugene Kinkaid của tờ New Yorker đã hỏi Tiến Sĩ lý do gÌ đã khiến Tiến Sĩ bỏ nghề y khoa chuyên môn để đi theo một nghề không chính thống. Tiến Sĩ đã trả lời:
"Tôi không đồng ý các phương pháp áp dụng để chữa trị các bệnh nhân tinh thần. Lý thuyết của ngành tâm trí hiện nay cho rằng cá tính của một con người là do ảnh hưởng của tính chất di truyền hoặc là ảnh hưởng thời gian của người cha hay người mẹ trước và sau khi sanh, Song rất nhiều trường hợp tôi đã khám phá ra chúng ta không thể đồng ý với lý thuyết trên cả về tính cách di truyền lẫn ảnh hưởng thời gian."
Tiến Sĩ Ian Stevenson đã giải thích trong việc nghiên cứu về luân hồi Ông đã phải dùng đến nhiều phương pháp chuyên môn của một nhà sử học, một nhà luật học, một nhà tâm trí học và tìm các dữ kiện qua những chứng nhân, tài liệu như nhật ký, giấy khai sanh, báo cáo giảo nghiệm, hồ sơ bệnh lý, tin tức của các báo chí vân vân...
Tập San về Bệnh Thần Kinh và Trí Não (The Journal of Nervous and Mental Desease) số 165 Tháng 9 Năm 1977 đã dành riêng nói về công cuộc nghiên cứu luân hồi, về có sự sống sau khi chết của Tiến Sĩ đã khiến cho các độc giả cùng các nhà khoa học gia rất chú ý đến những chứng minh của Tiến Sĩ. Cũng trong Tháng 5 Năm 1977 Tiến Sĩ đã đăng một bài khảo luận "The Explanatory Value of The Idea of Reincarnation" nêu vấn đề luân hồi trên tập san này.
Phản ứng của các độc giả ra sao? Tiến Sĩ Eugene Brody, nhà xuất bản tờ báo cũng là một nhà tâm trí học của Viện Ðại Học Y Khoa Maryland trong một cuộc phỏng vấn đã cho biết như sau: "Tôi đã nhận được lối 300 đến 400 lá thư của các Khoa Học Gia yêu cầu cho in lại số báo trên. Quả là đã có nhiều người chú trọng đến vấn đề này."
Tiến Sĩ Ian Stevenson đặc biệt khảo cứu các trẻ em trên thế giới cả Ðông lẫn Tây có ký ức về tiền kiếp. Ông đã xuất bản 5 cuốn sách về luân hồi, trong đó có cuốn "Children Who Remember Previous Life" (Những Thiếu Nhi Còn Nhớ Tiền Kiếp) do nhà Xuất Bản University Press of Virginia, Charlotsville phát hành năm 1987 mà chúng tôi xin trích dịch vài truyện trong tác phẩm này.
 
GOPAL GUPTA
Tác giả: Tiến Sĩ Ian Stevenson

Gopal Gupta sanh ngày 26 Tháng 8 Năm 1956 tại Dehli Ấn Ðộ. Cha mẹ của Gopal thuộc giai cấp trung lưu, học vấn không đáng kể. Từ lúc lọt lòng đến lúc 2 tuổi không có gì đặc biệt.
Khi Gopal bắt đầu biết nói từ khoảng 2 đến 2 tuổi rưỡi, có một người khách đến thăm gia đình Gopal. Cha của Gopal sai Gopal đem cất cái ly người khách vừa uống xong. Gopal đã làm cho mọi người ngạc nhiên. Em nói rằng: "Con không thể làm việc đó vì con là một Sharma (thuộc Bà La Môn, một giai cấp thượng lưu của Ấn Ðộ). Trong cơn giận giữ, Gopal đã làm vỡ cái ly. Cha của Gopal bắt Gopal giải thích lý do. Gopal liền kể lại vài chi tiết về tiền kiếp của em. Em cho biết trước kia em ở thành phố Mathura, cách xa Dehli 160 dậm về phía nam. Em là chủ nhân một hãng thuốc Sukh Shancharak, có một căn nhà rất lớn, có nhiều đầy tớ, có hai người anh và một người vợ. Em đã cãi nhau với một trong hai người anh và đã bị bắn chết.
Gopal cho biết ở tiền kiếp em thuộc dòng dõi Bà La Môn nên từ chối không chịu cất ly vì người Bà La Môn thường không bao giờ cầm những vật dụng gì mà người giai cấp thấp hơn đã đụng tới. Gia đình của Gopal hiện tại thuộc dòng Bania, giai cấp thương mại.
Cha mẹ của Gopal không có liên hệ gì với Mathura, nên sự phát hiện của Gopal về tiền kiếp không gợi cho cha mẹ Gopal một ký ức nào cả. Mẹ của Gopal không thích và cũng chẳng bao giờ khuyến khích Gopal nói về tiền kiếp cả. Cha của Gopal thì lại càng lạnh nhạt với những câu chuyện về tiền kiếp khi Gopal kể. Tuy nhiên thỉnh thoảng cha của Gopal có kể lại cho vài người bạn nghe về chuyện tiền kiếp của Gopal. Một trong những người này cho biết hình như ông ta có nghe thấy một vụ giết người trùng hợp với câu chuyện trên ở Mathura, nhưng cha của Gopal chưa tin nên cũng chẳng mấy quan tâm để đi Mathura tìm hiểu sự việc có thật hay không.
Cho đến năm 1964, nhân cơ hội có một buổi đại hội về tôn giáo tổ chức tại Mathura, cha của Gopal trong lúc đi dự hội đã khám phá ra là tại Mathura có hãng thuốc Sukh Shancharak. Ông tìm đến Hãng thuốc và được gặp viên Quản Lý. Ông kể lại cho Viên Quản Lý nghe chuyện Gopal nói về tiền kiếp. Viên Quản Lý rất ngạc nhiên vì có một chủ nhân của hãng này đã bị người anh ruột bắn chết cách đây mấy năm. Người chủ này là Shaktipal Sharma chết ngày 27 Tháng 5 năm 1948, vài ngày sau khi bị bắn.
Viên Quản Lý báo cho gia đình Sharma biết việc viếng thăm của cha Gopal. Vài người trong gia đình Sharma đã tới Dehli thăm gia đình Gopal và đã mời Gopal tới Mathura. Trong những cuộc gặp gỡ tại Mathura cũng như Dehli, Gopal đã nhận ra một số người và một số nơi mà trước kia Shaktipal đã quen biết và thêm vài tin tức đặc biệt về đời tư của Shaktipal Sharma. Gia đình của Sharma rất ngạc nhiên vì Gopal đã cho biết trước đây Shaktipal Sharma dự định muốn mượn một số tiền của vợ và muốn lấy số tiền để cho anh mình vay hùn vốn vào công ty. Cuộc cãi vã đã xảy ra giữa hai anh em, Shaktipal muốn cho người anh nguôi giận đã tăng số tiền cho vay lên nhưng người vợ lại từ chối không cho. Do đó người anh đã cáu kỉnh và trong lúc nóng giận đã bắn Shaktipal Sharma. Chi tiết của tấn thảm kịch này đã được dấu kín không ai được biết ngoại trừ những người trong gia đình. Vụ người anh giết em này đã được đăng tải trên báo chí. Sự hiểu biết tường tận về nội vụ cùng với sự nhận dạng được một số người trước đây đã quen với Shaktipal khiến cho gia đình của Shaktipal Sharma phải công nhận Gopal chính là hiện thân của Shaktipal. Song song với những lời tuyên bố về tiền kiếp, Gopal đã tỏ ra phong thái của một người Bà La Môn giàu có cho nên cá tính của em đã làm trở ngại không ít đến gia đình hiện tại của em. Em đã không ngần ngại nói rằng em thuộc giòng dõi cao quý hơn những người hiện tại của gia đình em. Em đã từ khước những công việc nội trợ cho rằng những công việc này chỉ đáng để cho những người đầy tớ làm mà thôi. Em không bao giờ uống sửa nếu sửa nếu được rót vào một cái ly đã có người khác sử dụng.
Tiến Sĩ Jamua Prasad đã từng cộng tác với tôi (Ian Stevenson) nhiều năm trong nhiều trường hợp tại Ấn Ðộ, đã bắt tay điều tra vụ này năm 1965. Riêng tôi bắt đầu vào năm 1969 khi tôi đích thân phỏng vấn hai gia đình tại Dehli cũng như Mathura. Tôi vẫn còn liên lạc với họ cho đến năm 1974. Sau khi đi thăm Mathura vào năm 1965 thì Gopal không có ý định đến thăm nơi này nữa. Vài năm sau 1965 thỉnh thoảng Gopal có đến Dehli thăm hai người chị của Shaktipal. Nhưng sau đó thì sự liên lạc giữa hai gia đình đã không được duy trì nữa. Gopal càng lớn lên thì cái phong thái Bà La Môn của tiền kiếp thể nhập nơi anh ngày dần biến mất và anh từ từ hòa mình với đời sống khiêm tốn của gia đình hiện tại. Anh cũng ít nói đến đời sống của Shaktipal Sharma, nhưng đến cuối năm 1974 cha của Gopal vẫn nghĩ rằng con của ông còn nhớ đến những ký ức của chuyện này.
Ðối với tôi (Ian Stevenson) trường hợp luân hồi này rất đáng được kể đến vì sự trung thực, làm sao Gopal có thể biết rõ về lúc sống cũng như lúc chết của Shaktipal Sharma. Tuy Shaktipal Sharma thuộc một gia đình khá giả tại Mathura và việc anh bị thảm sát đã làm xôn xao dư luận nhưng hai gia đình Sharma và Gopal đã sống ở hai thành phố cách xa nhau và thuộc hai giai cấp khác hẳn nhau. Ðời sống xã hội của hai gia đình ở trong hai qóy đạo riêng biệt và chính tôi tin tưởng mãnh liệt là hai gia đình theo như lời họ thuật lại đã không bao giờ được biết nhau cho đến khi xảy ra sự việc trên.
 
CORLISS CHOTKIN JR.
Tác Giả: Ian Stevenson


Trường hợp này là lời nói trước của một người đánh cá lớn tuổi ở Tlingit, Alaska tên Victor Vincent. Ông cô cho người cháu gái Corliss Chotkin Sr biết là sau khi ông cô chết, ông cô sẽ đầu thai làm đứa con trai của cô ta. Ông cô chỉ cho cô ta thấy hai vết thẹo sau hai lần giảì phẫu, một trên sống mủi và một đằng sau lưng. Ông cô nói là đứa con cô ta (tức là ông cô tái sanh) sẽ mang 2 vết thẹo như trên.
Victor Vincent chết vào mùa xuân năm 1946. Khoảng mười tám tháng sau, ngày 15 tháng 12 năm 1947, cháu gái của ông cô sanh một đứa con trai và được đặt tên là Corliss Chotkin Jr. Ðứa nhỏ mang hai vết thẹo y như hai vết thẹo của Victor Vincent trước kia. Vào năm 1962, lần đầu tiên khi tôi (Ian Stevenson) xem xét hai vết thẹo tôi được Bà Chotkin cho biết hai vết thẹo có thay đổi theo thời gian nhưng hãy còn rất rõ ràng. Nhất là vết thẹo đằng sau lưng đã làm tôi kinh ngạc, nó rộng chừng 5 ly, dài chừng 3 phân, so với chỗ da khác thì vết thẹo này có mầu sậm hơn và hơi lồi, có nhiều chấm đen chung quanh tựa như vết thương được khâu nhiều mủi.
Khi Corliss vừa được 13 tháng Bà Chotkin thường tập cho Corliss gọi tên của nó, thì Corliss thường nóng nảy nói rằng: "Mẹ không biết con là ai à? Con là Kahkody mà". Kahkody là cái tên do Bà lúc đặt cho Victor Vincent khi còn sống. Bà Chotkin có kể lại cho một người cô thì bà này cho biết là sau khi Victor Vincent qua đời được ít lâu bà có nằm mơ thấy Victor Vincent trở về sống với gia đình Chotkin. Bà Chotkin chưa bao giờ cho bà cô ấy biết là chính Victor Vincent đã nói trước với bà là sẽ tái sanh làm con trai bà.
Khi được chừng 2, 3 tuổi Corliss đã nhận ra nhiều người mà trước đây Victor Vincent đã từng quen biết trong đó có người vợ của Victor Vincent. Corliss còn kể 2 biến cố xảy ra trong cuộc đời của Vincent mà chỉ có mình Vincent biết được mà thôi. Thêm nữa còn có nhiều nét đặc biệt giống như Victor Vincent, chẳng hạn như cách chải đầu. Corliss đã chải kiểu tóc giống như Vincent trước đây. Cả hai cùng nói lắp (cà lăm), cùng thích bơi lội và tầu bè, cùng thuận tay trái, cùng có chung khuynh hướng về tôn giáo. Cũng như Vincent, Corliss có khiếu về máy móc, có khả năng về sử dụng và sửa chữa. Mẹ của Corliss cho biết đã tự học một mình cách làm sao cho chiếc thuyền máy chạy được. Khác hẳn với cha là ông Chotkins, một người không mấy thích máy móc và càng không có năng khiếu về máy móc.
Khi lên 9 tuổi, Corliss ít nói đến tiền kiếp của mình, cho đến năm 1962 thì hầu như Corliss không còn nhớ gì nữa.
Tôi (Ian Stevenson) đã gặp Corliss và gia đình cả thảy 3 lần và đầu năm 1960 và 1 lần vào năm 1972. Lần gặp cuối cùng tôi thấy Corliss không còn nói lắp (cà lăm) như trước nữa, khuynh hướng về tôn giáo của anh cũng giảm đi song anh vẫn còn thích máy móc. Trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam, Corliss đã được gửi sang chiến đấu trong đoàn Pháo Binh. Một trái đạn nổ gần bên đã làm Corliss bị điếc. Năm 1972 lần cuối cùng gặp lại Corliss, tôi thấy anh vẫn mạnh khoẻ và đang làm việc tại một nhà máy xay bột gần nhà của anh tại Sitka Alaska'
 
MA TIN AUNG MYO
Tác Giả: Ian Stevenson

 Ma Tin Aung Myo sanh ngày 26 Tháng 12 năm 1953 tại làng Nathul miền thượng Miến Ðiện. Cha Cô là U Aye Maung và mẹ cô là Daw Aye Tin. Khi còn đang mang thai Ma Tin Aung Myo, 3 lần Bà mơ thấy một người lính Nhật cởi trần, mặc quần soọc đã theo bà và nói rằng ông ta sẽ đến ở với vợ chồng Bà.
Khoảng 3, 4 tuổi, Myo đã có những hiện tượng nhớ đến tiền kiếp của mình. Mỗi lần thấy máy bay bay ngang làng Nathul, Myo đều sợ hãi và khóc. Tình trạng này kéo dài nhiều năm. Lúc lên 4 tuổi có lần Myo khóc sướt mướt; được hỏi lý do cô trả lời là cô khao khát được về nước Nhật. Rồi sau đó Myo kể là Myo là người lính Nhật đóng quân ở Nathul trong thời Ðệ Nhị Thế Chiến khi Quân Ðội Nhật Bản chiếm giữ Miến Ðiện. Myo nói rằng cô là hỏa đầu quân và bị bắn chết trong một cuộc oanh tạc của máy bay Ðồng Minh. Myo cung cấp vài chi tiết khác về tiền kiếp mà cô còn nhớ. Trước kia Myo ở phía Bắc nước Nhật, đã lập gia đình và có một con. Trước khi nhập ngũ gia đình có một cửa hàng nhỏ.
Trong lúc Quân Ðội Nhật rút lui khỏi Miến Ðiện, Cô bị máy bay bắn chết. (Có thể sự việc xảy ra vào năm 1945). Cô đã mô tả lối ăn mặc của người lính Nhật và cách thức ẩn tránh khi bị máy bay oanh tạc. Riêng cô bị kẹt ngoài bờ đê nên đã bị bắn chết. Myo không nhớ tên cũng như quê quán của người lính Nhật. Tuy nhiên những gì Myo kể lại rất phù hợp với những biến chuyển trong thời gian Quân Ðội Nhật chiếm đóng Miền Thượng Miến Ðiện. Mẹ của Myo cho biết có quen thân với một người lính Nhật làm hỏa đầu quân khi quân đội Nhật Bản đóng tại nơi đây, nhưng không biết anh lính Nhật này chết tại đâu.
Lối xử sự của Myo rất khác thường, giống như phong cách của một người lính Nhật. Myo không thích khí hậu nóng bức tại miền thượng Miến Ðiện và cũng không thích các món ăn nấu theo kiểu địa phương, Myo thích ăn đồ ăn có đường, cá sống. Myo thường tỏ vẻ mong đợi ngày trở về Nhật Bản và có nhiều khi nằm úp mặt khóc vì nhớ nhà. Myo cũng thường tức giận mỗi khi có ai nhắc tới người Anh hoặc người Mỹ trước mặt Myo.
Ðiều đặc biệt nhất là Myo thích làm con trai. Cô hay mặc quần áo đàn ông và thích cắt tóc kiểu con trai. Vì vậy khi đi học Myo bị nhà trường bắt buộc phải ăn mặc theo kiểu phụ nữ. Myo đã từ chối và năm lên 11 tuổi Myo đã bỏ học. Vì học vấn kém nên Myo đã phải làm nghề tầm thường. Năm 1974 khi tôi (Ian Stevenson) gặp Myo lần đầu tiên thì cô đang bán rong đồ ăn ở ga xe lửa.
Thưở còn nhỏ, Myo thích chơi trò đóng vai người Lính. Myo đòi cha lần nào đi Mandalay cũng phải mua cho cô một cây súng giả. Ba người chị cũng như người em trai độc nhất của cô lại không thích trò này. Myo thích chơi đá banh và khúc côn cầu, hai môn thể thao chỉ dành cho con trai.
Cha mẹ Myo đã có 3 người con gái trước khi sanh Myo. Tuy cả hai ông bà đều muốn có một đứa con trai, nhưng điều đó không có nghĩa là hoan nghênh tinh thần thích làm con trai của cô. Người mẹ phản đối con kịch liệt còn người cha thì khoan dung hơn.
Càng lớn, Myo càng có vẻ đàn ông, Myo thích ăn mặc theo kiểu con trai và không nghĩ đến việc lấy chồng. Ngược lại Myo nói rằng thích một người vợ. Myo coi mình như một nam nhi và không thích được đối xử như một phụ nữ. Khi U Win Maung, người phụ tá của tôi (Ian Stevenson) tại Miến Ðiện gọi Myo bằng "Ma", tiếng lịch sự để chỉ người phụ nữ Miến, thì cô yêu cầu được gọi cô là Maung, tiếng thông dụng để chỉ thanh niên Miến hoặc không dùng danh từ nào cả. Trong một cuộc phỏng vấn, cô đã nói với tôi và U Win Maung rằng cô sẽ rất hài lòng nếu chúng tôi chọn bất cứ cách nào để giết cô miễn là bảo đảm cho cô khi được sanh trở lại cô sẽ là đàn ông. Gia đình Myo cho rằng sự luyến ái của Myo khác thường như vậy vì tiền kiếp Myo là đàn ông và cũng xác nhận cái tính khí y hệt thanh niên của cô là do tiền kiếp cô là người lính Nhật Bản.
Tuy rằng chi tiết để xác minh người lính Nhật không được đầy đủ nhưng tất cả những hành động cũng như tính tình của Myo đã phản ảnh rõ ràng Myo đúng là hiện thân của một người Lính Nhật Bản.
Tôi (Ian Stevenson) đã gặp lại Myo vào năm 1975 và sau đó thì không gặp nữa nhưng U Win Maung, người phụ tá của tôi tại Miến Ðiện đã gặp Myo vào năm 1970, sau này còn gặp lại cô 2 lần nữa vào năm 1977 và năm 1981.
MỐI TÌNH TUYỆT VỌNG
Tác Giả: Ian Stevenson


Ðây là một trường hợp Tiến Sĩ Ian Stevenson đăng trên tờ Journal of Nervous and Mental Disease (Tì Báo nói về Bệnh Thần Kinh và Tâm Trí) và năm 1983.
Tại Rio Grand Do Sul, một Tiểu Bang cận nam của Ba Tây, một bé gái của một trại chủ giàu có tên là Senor C.J. De Oliveiro ra đời. Tên bé gái là Maria nhưng thường gọi là Sinha và thân mật hơn là Sinhazinha.
Khi lớn lên Sinha rất yêu mến đời sống thôn dã nơi quê cha và thỉnh thoảng nàng thường đến chơi làng Dom Feliciano cách 12 dậm. Nơi đây Sinha quen với Ida Lorenz, vợ một giáo viên.
Rồi thì 2 lần tình yêu đến nhưng lần nào nàng cũng đều bị người cha nghiêm khắc bảo thủ ngăn cản và một trong 2 thanh niên đã tự tử vì tuyệt vọng. Sinha ngày càng héo hon sầu não. Lo lắng người cha đã thu xếp cho nàng đi du ngoạn Pelotes, một thị trấn ven biển trong mùa hội nhưng tình trạng của nàng cũng không khả quan hơn.
Với mục đích hủy hoại thân mình nàng đã tự hành xác bằng cách dầm thân dưới trời giá lạnh cho đến khi kiệt sức. Nàng bị khan tiếng, nhiễm trùng cổ họng, sưng phổi rồi ho lao. Vài tháng sau nàng chết.
Trước khi chết nàng có tâm sự với người bạn thân Ida Lorenz rằng bệnh hoạn là tự nàng làm ra. Nàng còn căn dặn 2 điều:
"Một, tôi sẽ tái sanh làm con gái của Ida và hai, khi biết nói tôi sẽ kể lại mọi điều về đời sống hiện tại của tôi lúc đó chị sẽ nhận ra".
Ida có nói cho chồng biết và hai người cùng chờ xem sự việc xảy ra sao. Ngoài ra không một ai trong gia đình biết cả.
Vài tháng sau khi Sinha chết, Ida sanh được một bộ gái đặt tên là Marta. Marta có những nét đặc biệt tương tự như Sinha. Khi Marta chưa đầy 1 tuổi, người cha của Sinha đến thăm gia đình Ida Lorenz, một gia đình khác ông Valentin cũng đến chơi cùng lúc ấy. Ông Valentin có vẻ thương yêu chiều chuộng Marta, nhưng ngược lại Marta cứ đeo theo cha của Sinha mặc dầu ông này thường không thích trẻ nhỏ. Marta đã vuốt râu ông và nói: "Chào Ba". Lúc đó với ông lời chào ấy không có ý nghĩa gì nhưng rồi 11 năm sau ông mới công nhận là Sinha tái sanh thành Marta.
Sau đây là lời của ông Ida Lorenz, người cha hiện tại của Marta kể lại do Tiến Sĩ Ian Stevenson, người điều tra vụ này chuyển dịch Người chị tên Lola của Marta đã thấy một chuyện sau:
"Lúc Marta được 2 tuổi rưỡi, một hôm sau khi giặt xong quần áo ở một con suối gần nhà Marta và Lola trở về nhà. Marta nói với chị: "Lola cõng em đi" Lola (cũng như tất cả trẻ con hàng xóm của chúng tôi) không biết gì về lời hứa sẽ tái sanh của Sinha nên trả lời: "Em đi được đâu cần chị cõng". Marta nói: "Dạo trước lúc em lớn và chị nhỏ em thường cõng chị đó". Lola vừa cười vừa vặn lại: "Em lớn lúc nào?" Marta trả lời: "Lúc em không ở đây, mà ở xa chỗ này, nơi có nhiều bò đực, bò sửa, có nhiều cây cam, và có nhiều con vật như dê, nhưng không phải các con dở này (nó muốn nói các con cừu mà nó chưa bao giờ thấy ). Câu này mô tả cái nông trại của cha mẹ Sinha.
Rồi vừa đi vừa chuyện trò Marta và Lola về tới nhà. Lola kể cho chúng tôi những ý tưởng lạ lùng của Marta và tôi nói với Marta: "Này con gái nhỏ của Ba, Ba chưa bao giờ ở đấy sao con lại nói con ở đấy?" Marta trả lời: "Ðúng vậy, lúc đó con có cha mẹ khác".
Một người chị khác của Marta trêu em:
"Thế em cũng có một người đầy tớ da đen như bây giờ phải không?" (muốn nói đến đứa con gái da đen mồ côi mà chúng tôi đang nuôi). Marta trả lời ngay: "Không, lúc đó người đầy tớ da đen của chúng tôi đã lớn và biết cả nấu ăn, chúng tôi cũng có một em da đen nhỏ, và một hôm em nhỏ này quên không múc nước về nên bị cha tôi đánh".
Nghe vậy tôi liền nói: "Cha chưa bao giờ đánh một em nhỏ da đen nào cả con gái bộ nhỏ ạ" Marta nói: "Nhưng đó là người cha kia của con mà; bị đánh em nhỏ kêu khóc và cầu cứu con: Sinhazinha hãy cứu tôi! và con đã xin cha đừng đánh nó nữa và thằng nhỏ chạy ngay đi múc nước về".
Tôi hỏi: "Vậy ai là Sinha hay Sinhazinha? ". Marta trả lời: "Chính là con đấy, con còn có tên là Maria và một cái tên nữa mà con không nhớ".
Tên đầy đủ của Sinha la Maria Januaria De Oliveiro.
Ðể thử xem Marta nói có đúng không, Ida cũng hỏi một câu: "Mẹ thường đến nông trại thăm Sinha, vậy Sinha thường làm gì để đón tiếp mẹ?" Marta nói nó thường pha sẵn cà phê, vừa đứng chờ trước nhà vừa nghe máy hát để trên thềm đá.
Sau khi phỏng vấn người em gái của Sinha, Tiến Sĩ Ian Stevenson được biết quả đúng như vậy. Sinha thường làm thế để tiếp đón người bạn quý của mình tức người mẹ hiện tại.
Ida hỏi Marta là Sinha đã nói thế nào khi Ida đến thăm Sinha lần cuối cùng trước khi Sinha chết. Marta đã diễn tả: "Nàng thều thào bên tai Ida, chỉ vào cuống họng mình rằng nàng không thể nói được vì đau cuống họng". Cảnh này chỉ một mình Ida biết mà thôi.
Liên tiếp mấy năm sau, Marta kê khai 120 bản về đời sống của Sinha và về những người mà Sinha quen biết. Người cha hiện nay của nàng còn giữ tất cả những tài liệu này. Có nhiều điều ông ta, vợ ông ta và ngay cả đến những đứa trẻ khác trong gia đình hoàn toàn không biết nhưng sau khi phối kiểm thì thấy đều rất trung thực.
Bấy giờ Marta thường nhắc đến căn nhà của Sinha và mong ước được về thăm nhưng mãi đến năm 12 tuổi vào cái tuổi mà Marta ít nhắc đến tiền kiếp của mình thì Marta mới được mãn nguyện. Vừa đặt chân tới nhà có Marta đã nhận ra cái đồng hồ treo tường và nói là của mình. Nàng còn nói đằng sau cái đồng hồ có in tên nàng bằng chữ vàng. Người cha ở tiền kiếp nghe vậy bèn lấy cái đồng hồ xuống, quả nhiên đằng sau có in dòng chữ vàng: "Maria Januaria De Oliveiro". Cái đồng hồ do Sinha mua và tự mình lên dây. Ðó là đồ vật duy nhất mà Marta nhận được tại nông trại.
Sau chuyến viếng thăm của Marta, một người bà con của Sinha nghe nói Sinha tái sanh, đã không báo trước mà tìm đến nhà ông bà Lorenz và hỏi Marta như sau: "Nếu quả cô là Sinha, xin cho tôi biết quan hệ giữa chúng ta như thế nào?" Không chút ngặp ngừng Marta đã trả lời đúng: "Bà là chị họ và cũng là mẹ đỡ đầu". Người đàn bà này hoàn toàn chưa bao giờ biết làng Dom Feliciano, nơi mà gia đình và Marta đang sống.
Một chuyện khác xảy ra khi Marta 19 tuổi và được một nông trại mời đến kèm trẻ. Gia đình này theo đạo Cơ Ðốc Giáo gốc nên không bao giờ Marta đề cập đến luân hồi. Một phụ nữ già da đen cũng làm tại nơi đây thấy Marta đã nói với mọi người: "Cô gái này giống hệt như Sinha ". Hóa ra người đàn bà da đen chính là người đầy tớ trước đây của nông trại Oliveiro mà lúc lên 2 tuổi rưỡi Marta đã có lần nhắc tới.
Sinha tìm cái chết bằng cách tự hủy hoại thân thể mình với bệnh lao phổi và thanh quản - nay hai bệnh nghiệp chướng trên đã trở lại với nàng - Marta rất dễ bị cảm lạnh và sưng phổi trong khi những đứa con khác của gia đình Lorenz không một ai bị bệnh này cả. Tiến Sĩ Ian Stevenson đã bình luận: "Bệnh đau về hệ thống hô hấp và yết hầu của Marta hiện nay đúng là bệnh tình trước đây của Sinha. Tôi tin rằng trong hiện tại Marta hay mắc chứng bệnh này là vì có sự liên quan đến tiền kiếp và cái chết của Sinha".
Hậu quả thứ hai là hoàn cảnh trái ngang có thể đưa nàng đến ý định tự hủy hoại thân mình. Marta có xác nhận với Tiến Sĩ Ian Stevenson, mặc dù chưa bao giờ có ý định tự tử cả, xong có thể làm việc ấy nếu có sẵn một khẩu súng.
Trên bình diện xác thực và khích lệ, nàng đã vượt đến sự tốt đẹp của bản thân tiền kiếp. Nàng đã được nhiều người đặc biệt nhớ đến nàng vì tình thương yêu và lòng nhân ái đã được thể hiện trong cuộc sống hiện tại của nàng. Với kinh nghiệm tái sanh nàng đã tìm được cách hữu hiệu để làm giảm bớt sự đau khổ và ưu sầu của những người chung quanh.
Tiến Sĩ Ian Stevenson đã viết trong báo cáo:
"Một ngày nọ một thiếu phụ đến thăm gia đình Lorenz và ta thán về cái chết của người cha. Thiếu phụ này nói: "Ồ các bạn thân mến, người chết rồi không bao giờ trở lại được". Nghe vậy Marta đã lên tiếng: "Xin bà đừng nói thế, tôi cũng đã chết và bà có thấy không tôi đang sống lại đấy".
Một bửa khác trong cơn mưa bão, một người chị của Marta đã lo lắng cho người em Emilia mới chết có thể bị ướt dưới mộ sâu. Marta đã nói: "Chị đừng nói vậy, Emilia đâu còn ở nghĩa địa, Emilia đã ở một nơi an toàn tốt đẹp hơn nơi của chúng ta hiện nay, linh hồn không bao giờ bị ướt cả".

 SHAMLINIE PREMA
Tác Giả: Ian Stevenson

Shamlinie Prema sanh ngày 16 Tháng 10 năm 1962 tại Sri Lanka Colombo. Cha mẹ của Shamlinie sống ở Gonagela, cách Colombo 60 cây số về phía nam và lớn lên tại đó.
Cha mẹ của Shamlinie nhận thấy ngay từ khi biết nói, Shamlinie đã rất sợ nước, thường dẫy dụa khóc thét lên mỗi khi có ai muốn đem em nhúng xuống nước. Em cũng sợ cả xe buýt và thường khóc lóc mỗi khi cha mẹ đem lên xe buýt hay nhìn thấy xe buýt từ đằng xa. Sự việc này làm cho cha mẹ em bối rối, ông bà cho rằng những biến cố ở kiếp trước đã ảnh hưởng tới đời sống hiện tại của em.
Ðến khi biết nói em đã liên tiếp kể chuyện tiền kiếp của em cho cha mẹ cũng như những người thân thuộc. Em cho biết ở tiền kiếp em sống tại làng Galtudawa cách xa Gonagela 2 cây số. Em nói rằng cha mẹ tiền kiếp của em còn đang sống tại Galtudawa và em thường nhắc đến bà mẹ Galtudawa. Em cũng nói tới mấy người chị và hai người bạn học cùng trường. Em tả căn nhà ở tiền kiếp mà em đã sống, địa thế cũng như đặc điểm khác hẳn cái nhà mà em đang sống. Em kể nguyên do cái chết của em xảy ra như thế nào. Một buổi sáng để điểm tâm trước giờ đi học em đi mua bánh mì trên con đường bị ngặp nước. Một chiếc xe buýt chạy ngang làm bắn tung nước và em bị hất xuống ruộng. Em chỉ còn biết dở tay vẫy gọi "Mẹ" và sau đó em cảm thấy như ngủ thiếp đi.
Ở Galtudawa có một cô gái tên là Hemaseelie Guneratne bị chết đuối ngày 8 tháng 5 năm 1961 trong hoàn cảnh tương tự. Hemaseelie đã lùi một bước để tránh xe buýt và cô bị rơi xuống ruộng lúa ngặp nước. Hemaseeli là một học sinh 11 tuổi. Cha mẹ Shamlinie không hề quen biết gia đình Hemaseelie và cũng chưa gặp Hemaseelie lần nào cả. Tuy nhiên cha mẹ Shamlinie có được nghe chuyện cô học sinh chết đuối, cũng cảm thấy buồn nhưng sau đó rồi ông bà cũng quên bẵng đi.
Lần đầu tiên nghe em kể câu chuyện bị chết đuối cha mẹ em không nghĩ rằng em có liên quan đến cô bộ Hemaseelie bị chết đuối cả. Khi Shamlinie lên 3 tuổi em nhận ra một người anh em họ của Hemaseelie khi người này đang đi trên đường phố ở Gonagela. Hơn một năm sau, Shamlinie lại nhận ra người chị của Hemaseelie cũng tại Gonagela. Ðồng thời Shamlinie đòi đi Galtudawa để thăm "Mẹ Galtudawa" và em cho rằng người mẹ hiện tại không sánh bằng "Mẹ Galtudawa" ở tiền kiếp.
Cuối cùng cha mẹ của em đã đưa em đến nhà Hemaseelie Gueratne ở Galtudawa. Nhiều người tụ tập nơi đây vì họ nghe nói có một cô gái tái sanh trở về thăm làng có. Sự hiện diện của những người lạ mặt khiến Shamlinie thấy thiếu thoải mái. Tuy nhiên Shamlinie cũng nhận ra "bà mẹ của Hemaseelie tên là W.L. Podi Nona" trong khi đó gia đình Guneratnes vẫn còn hoài nghi. Cuộc viếng thăm rất ích lợi vì đã xác minh được những việc mà Shamlinie đã từng tuyên bố. Hầu hết những chuyện Shamlinie kể về tiền kiếp đều trùng hợp với đời sống của Hemaseelie tại Galtudawa. Thêm vào đó, hai gia đình trong khi trao đổi tin tức đều nhận thấy Hemaseelie và Shamlinie đều có nhiều điểm giống nhau về cách thức ăn mặc cũng như sở thích ăn uống.
Tôi (Ian Stevenson) bắt đầu điều tra vụ này và năm 1966, vài tuần lễ sau khi Shamlinie viếng thăm Galtudawa lần đầu tiên. Tôi đã phỏng vấn một số người còn nhớ rõ những điều Shamlinie đã kể và đã làm, về cả cuộc đời tiền kiếp của Hemaseelie. Mấy năm sau tôi có đến thăm cả hai gia đình để có thể kiểm chứng và cũng để xem sự tiến triển của Shamlinie ra sao. Ngoại trừ một vài điều cách biệt nho nhỏ, còn tất cả những tin tức mà tôi thâu lượm được đều rất xác thực và các nguồn tin mới này vẫn rất phù hợp với những điều mà họ nói trước kia.
Sau lần viếng thăm đầu tiên Galtudawa, Shamlinie trở lại thêm vài lần nữa thăm gia đình Guneratnes và sau đó các chuyến viếng thăm thưa dần ngày càng ít đi và Shamlinie càng lớn lên thì những ký ức về tiền kiếp của em mờ dần đi. Ðến năm 7 tuổi thì Shamlinie không còn kể về tiền kiếp của em nữa. Khi lên 11 tuổi vào năm 1973, Shamlinie đã hoàn toàn quên hẳn ký ức về tiền kiếp ngay cả đến những việc trước đây em thường nhắc đến. Em cũng không còn sợ nước như hồi 4 tuổi nữa và khi em lên 8 tuổi thì em cũng không còn sợ hãi khi trông thấy xe buýt tuy nhiên vẫn còn một chút sợ sệt.
Năm 1973 tôi có trở lại thăm Shamlinie và thấy em đã trở thành một cô gái Sinhalese bình thường.
Trường hợp luân hồi của Shamlinie rất trung thực. Hai gia đình ở cách xa nhau 2 cây số và cũng không là thân thuộc mà Shamlinie lại hiểu biết đời sống của Hemaseelie với nhiều chi tiết rõ ràng.
Theo sự xét đoán của tôi (Ian Stevenson) sự liên hệ của hai gia đình không có, nên không thể nào giải thích nổi tại sao Shamlinie lại có thể hiểu biết tường tận đời sống cũng như cá tính khác thường của Hemaseelie. Phải chăng Hemaseelie đã tái sanh thành Shamlinie?
 
SULEYMAN ANDARY
Tác Giả: Ian Stevenson


Suleyman sanh ngày 4 Tháng 3 Năm 1954 tại Falougha, Lebanon. Gia đình Suleyman thuộc dòng Druses, một tôn giáo bắt nguồn từ Islam (Hồi Giáo). Tuy nhiên tôn giáo này đã tách ra khỏi khối Hồi Giáo chính thống và những người theo đạo Druses cũng coi như không còn lệ thuộc vào khối Hồi Giáo. Luân Hồi là một giáo lý căn bản của Ðạo Druses.
Khi còn thơ ấu Suleyman nhớ vài chi tiết về tiền kiếp của anh. Ðôi khi qua các giấc mộng, anh kể là anh đã có con ở tiền kiếp và còn nhớ cả tên của chúng nữa. Anh nhớ anh sống tại Gharife và là chủ của một hãng ép dầu.
Không giống đa số các trường hợp luân hồi khi còn nhỏ tuổi nhớ kiếp trước nhiều hơn, càng lớn tuổi anh càng nhớ lại nhiều về tiền kiếp. Trong lúc ở với bà nội khi anh 11 tuổi, anh cảm thấy anh có nhiều ký ức về tiền kiếp. Một hôm bà ngoại anh đến nhà mượn một cuốn kinh về đạo Druses. Suleyman đã từ chối không cho mượn còn lỗ mãng bắt lỗi bà ngoại không có cuốn kinh trong nhà. Bà nội anh bất mãn về thái độ cư xử của anh và yêu cầu anh giải thích. Bất ngờ anh nhớ lại ở tiền kiếp anh có rất nhiều kinh sách về Ðạo Druses và không bao giờ anh cho ai đem những cuốn kinh này ra khỏi nhà. Người Druses rất quý trọng các cuốn kinh và thường giữ gìn cẩn thận. Hành động của Suleyman nếu là một thiếu niên thì quả là vô lễ, nhưng với một người đã trưởng thành như Suleyman thì lại là một việc bình thường.
Sau câu chuyện trên, Suleyman đã kể nhiều các chi tiết về đời sống tiền kiếp của anh. Anh nhớ anh là một tù trưởng ở Gharife và có tên là Abdallah Abu Hamdan. Anh còn kể thêm nhiều chi tiết cuộc đời của Hamdan. Lúc bấy giờ Suleyman rất sợ bị chế nhạo khi nhận là tù trưởng ở tiền kiếp. Anh nghĩ là gia đình và bạn bè sẽ cho anh là ngạo mạn và sẽ châm biếm anh. Cho nên anh đã dấu kín trong lòng. Hai năm sau anh mới kể lại cho một số bạn bè trước cho một số người ít tuổi và về sau cho một số người lớn.
Vài người thân đứng tuổi của gia đình Suleyman đề nghị đem Suleyman đi Gharife để phối kiểm các tin tức nói về tiền kiếp của Syleyman. Gharife cách xa Falougha chừng 30 cây số, thuộc một vùng khác phạm vi Lebanon. Muốn đi Falougha đến Gharife phải có lý do xác đáng. Gia đình của Suleyman không quen ai ở Gharife cả và cũng không có một liên hệ nào với Gharife cả. Có một người trong gia đình Suleyman làm việc tại Gharife trong một thời gian ngắn nhưng cũng không biết những lời kể của Suleyman đúng hay sai. Sau đó chính người này đến Gharife điều tra đã xác nhận những điều Suleyman kể lại đều rất đúng. Cùng lúc ấy có vài người khác công nhận tính cách trung thực của các sự việc trên.
Giống như trường hợp của Á Ðông, câu chuyện của Suleyman được nhiều người biết đến. Một người anh em họ của Suleyman đã gặp vài người Gharife ở Saudi Arabia và được biết những lời kể của Suleyman rất xác thực. Người tên là Abdallah Abu Hamdan mà Suleyman nhận là tiền kiếp của mình là chủ nhân một hãng dầu ép và làm tù trưởng nhiều năm trước khi chết vì bệnh tim năm 1942 lúc 65 tuổi. Những người Gharife đã mời Suleyman đến thăm Gharife. Lúc đầu anh từ chối nhưng đến năm 1967 anh đã đi Gharife 2 lần, vào mùa hạ và mùa thu. Khi tới Gharife anh cảm thấy thẹn thùng và bỡ ngỡ. Người vợ góa của Abdallah Abu Hamdan và 2 người con còn sống tại Gharife nhưng anh không nhận ra họ và cũng không nhận được những người thân quyến. Anh nhận được 3 người khác và vài nơi tại Gharife. Có lẽ điều quan trọng nhất là anh đã chỉ một con đường có từ năm 1967 không còn sử dụng, con đường trước kia dẫn đến nhà Abdallah Abu Hamdan. Tuy nhiên tầm quan trọng của trường hợp Suleyman không nằm trong sự xác nhận của anh mà là những cá tính riêng biệt của anh phát sanh từ tiền kiếp. Trước khi Gharife, cũng như trong cuộc viếng thăm lần đầu, Suleyman đã 17 lần nói về tiền kiếp của anh. Những lời anh kể gồm có tên các con anh và các chi tiết khác về đời sống của anh. Những lời phát biểu của anh đều đúng ngoại trừ hai trường hợp: 1) Salim là em chứ không phải con anh, 2) Salim không bị mù mà Naseeb con anh mới bị mù.
Tôi (Ian Stevenson) bắt đầu điều tra vụ này vào tháng 3 năm 1968 và tiếp tục cho đến năm 1972. Tôi đã phỏng vấn nhiều người tại Falougha và Gharife. Sau này Suleyman di cư sang Saudi Arabia và từ năm 1972 tôi không còn gặp Suleyman nữa. Khi Suleyman còn nhỏ tuổi anh đã tỏ ra phong thái một người lớn. Anh thích giao du với người lớn hơn là người đồng lứa tuổi và ngay cả giữa đám người lớn anh cũng chọn chỗ ngồi dành riêng cho những vị có đặc quyền. Anh không thích bị ai la rầy và khi ấy anh thường nói: "Ðừng mắng tôi, tôi là người lớn mà". Suleyman thường sợ bị người khác chế nhạo nếu họ biết anh nhận là ông tù trưởng ở tiền kiếp. Gia đình và bạn bè thường chế anh là "Ông Tù Trưởng". Ðiều này cũng không làm anh buồn mấy vì một số người trong gia đình đã tin anh và thân yêu gọi anh bằng cái tên này. Dĩ nhiên họ chỉ tin anh sau khi anh đã xác thực được những điều anh kể về tiền kiếp của Abdallah Abu Hamdan. Trong gia đình Suleyman cũng tỏ ra là người mộ đạo hơn những người khác giống hệt như Abdallah Abu Hamdan. Trước khi chết, Hamdan đã trở thành tộc trưởng, một chức vị cao cấp mà nhiều người mơ ước.
Tôi thấy Suleyman không muốn đến thăm Gharife nên anh đã từ chối lần đầu. Gia đình của Suleyman hiểu rõ hơn cho rằng anh không thích đi Gharife vì anh không muốn nhìn lại những thảm kịch trong đời sống của Hamdan. Các con của Hamdan không mấy nên người, có nhiều thói hư tật xấu, một người thì di dân sang Hoa Kỳ, một người thì ăn ở với Hamdan không hiếu thuận. Trong những ngày cuối cùng Hamdan gặp khó khăn. Vì muốn giúp đỡ một người bạn Hamdan đã ngụy tạo một tài liệu khiến chính phủ khám phá ra được và Hamdan bị cất chức. Cuối cùng Hamdan đã đầu tư vào việc ép dầu nhưng tình trạng tài chánh eo hẹp nên việc buôn bán không kết quả. Việc đầu tư thất bại làm Hamdan buồn phiền, nhuốm bệnh rồi qua đời. Hamdan chết năm 1942, 12 năm trước khi Suleyman sanh ra đời. Ðược hỏi về thời gian 12 năm chưa luân hồi thì Suleyman ở đâu, Suleyman trả lời không nhớ gì cả.
Với ký ức của Suleyman về tiền kiếp là Abdallah Abu Hamdan, tôi (Ian Stevenson) không nghĩ rằng những tin tức do Suleyman thâu lượm được bằng cách thông thường vì hai làng cách xa nhau đến 30 cây số và hai gia đình cũng không có liên lạc gì với nhau cả.
 
TIỀN THÂN BONGKUCH PROMSIN
Tác giả: Ian Stevenson


Bongkuch Promsin sanh ngày 12 Tháng 2 Năm 1962 tại làng Don Kha, Tỉnh Nakhon Sawan, Thái Lan. Ông Pamorn Promsin, cha Bongkuch là Hiệu Trưởng một trường Trung Học gần Don Kha. Tuy ông có kiến thức khá nhưng lương hàng tháng lại ít ỏi nên cuộc sống của gia đình rất đạm bạc.
Ngay khi biết nói rành rẽ, Bongkuch đã hay kể chuyện về tiền kiếp của mình. Bongkuch tả cho gia đình nghe nhiều chi tiết về đời sống trước như em ở làng Hua Tanon cách Don Kha chừng 9 cây số, em có tên là Chamrat và còn nhớ tên cha mẹ của Chamrat. Em cũng kể ra các vật dụng mà em có như là con dao, chiếc xe đạp, và gia đình ở tiền kiếp có nuôi 2 con bà.(Gia đình hiện tại của em không nuôi bà). Em cho biết một chi tiết đặc biệt là đã bị hai tên sát nhân giết chết ở Hua Tanon. Họ đã đâm em nhiều nhát để lấy chiếc đồng hồ đeo tay và sợi giây chuyền của em. Sau đó họ đã vất thây em xuống ruộng. (Khi kể chuyện này Bongkuch chừng 2 tuổi). Bongkuch cho biết sau khi chết em ở trên một ngọn cây gần nơi bị giết một thời gian là bảy năm. Một hôm trời mưa em trông thấy người cha hiện tại (Pamorn Promsin) đi ngang, em đã theo ông về nhà bằng xe buýt. Cha của Bongkuch xác nhận là trước khi vợ ông mang thai Bongkuch, ông có đi Hua Tanon để dự một phiên họp và hôm đó trời mưa.
Mẹ của Bongkuch cho biết có lần Bà đi tìm măng ở khu vực xảy ra án mạng trước khi mang thai Bongkuch nhưng không nhớ rõ thời gian nào. Bà nói rằng Bà không đến nơi gia đình Chamrat cư ngụ. Ông Pamorn Promsin vì nghề nghiệp có quen biết vài thầy giáo ở Hua Tanon nhưng không có bà con hoặc bạn bè ở đấy. Cả hai vợ chồng đều xác nhận với tôi (Ian Stevenson) là không biết gì về vụ Chamrat, một thiếu niên bị giết cả. Những tin tức giết người của một làng như Hua Tanon có được loan truyền đến các vùng lân cận như Don Kha nhưng những vụ án mạng thời ấy thường hay xảy ra nên người ta không mấy quan tâm đến và hầu như đã quên vụ án xảy ra. Hơn nữa vụ án xảy ra nay đã trên 10 năm thì tôi cho rằng dù cha mẹ Bongkuch có nghe kể vụ Chamrat bị giết cũng ít chú ý và gần như là quên ngay.
Chuyện Bongkuch kể về tiền kiếp của mình đã đến tai gia đình Chanrat và một vài người đã tới Don Kha thăm Bongkuch.(Lúc này Bongkuch chừng 2 tuổi rưỡi). Sau đó Bongkuch có theo gia đình đến Hua Tanon. Những chuyến viếng thăm này chỉ có mục đích là để kiểm chứng những điều Bongkuch nói về tiền kiếp. Chuyện về tiền kiếp của Bongkuch là có thực. Hai người dính líu trong vô giết Chamrat, một người đã tẩu thoát được, còn một người tuy bị bắt nhưng được tha vì thiếu chứng cớ. Tôi (Ian Stevenson) có thẩm vấn vài người cảnh sát hiện còn nhớ rõ vụ án, họ đã xác nhận những lời Bongkuch cho biết về vụ giết người rất là trung thực kể cả tên những người bị tình nghi.
Các báo cáo về trường hợp này đã được đăng trên báo chí Thái Lan vào tháng 3 năm 1965 và một thông tin viên đã gọi cho tôi. Bác Sĩ Sophon Nakphairaj (Giám Ðốc Bệnh Viện của Chánh Phò Tỉnh Nakhon Sawan) đã điều tra vụ này năm 1965. Còn tôi điều tra vụ này năm 1966. Tôi đã phỏng vấn cả hai gia đình tại Don Kha và Hua Tanon. Tôi vẫn tiếp tục điều tra vào những năm sau đó, và lần chót tôi gặp cha mẹ Bongkuch vào năm 1980. Tính tình khác thường của Bongkuch đã khiến cho gia đình em và sau ngay cả tôi cũng đều phải quan tâm đến em. Trong thời gian nói nhiều đến tiền kiếp gia đình thường thấy em có nhiều tật xấu, chẳng hạn như cách thức rửa tay và đôi khi em nói những tiếng mà gia đình không hiểu. Sở thích về ăn uống của Bongkuch không giống như những người trong gia đình vì gia đình Chamrat là một gia đình Lào. (Người Thái cho rằng những món ăn của người Lào không tinh khiết bằng những món ăn của Thái và tiếng nói lạ lùng chính là tiếng Lào). Gia đình Bongkuch không có ai biết nói tiếng Lào ngay cả những người dân làng Don Kha. Bongkuch thích các món ăn Lào, chẳng hạn như món ăn cơm nếp mà người Lào ưa chuộng. Bongkuch thù ghét các người giết Chamrat và em hăm dọa là sẽ trả thù khi có dịp. Thỉnh thoảng em lấy một cây gậy nhỏ và đánh vào một cái trụ mà em tưởng tượng là kẻ thù đã giết Chamrat; em vừa đánh vừa gọi tên những kẻ sát nhân. Có lúc em nghĩ rằng em là một người lớn bị tù túng trong một thân hình đứa nhỏ cho nên em có cử chỉ của một người lớn. Em đánh răng (Trẻ con Thái Lan thường không đánh răng). Ðặc biệt có lần em đã tới tiệm hớt tóc để xin cạo râu. Em không để ý đến những bộ gái cùng lứa tuổi mà chú ý đến các thiếu nữ. Một hôm có một thiếu nữ đến thăm gia đình em và dự định ở chơi ít bửa, nhưng vì thái độ mơn trớn ve vãn của em khiến thiếu nữ bực mình phải ra về sớm. Ngoài tính hơi phóng đãng, đôi khi anh lại muốn xuất gia đầu Phật. Hai bản chất trái ngược này của Bongkuch rất phù hợp với tính tình của Chamrat. Trước khi chết, Chamrat có gắn bó với một người bạn gái, Chamrat cũng đặc biệt lưu ý đến tôn giáo và anh muốn trở thành một thầy tu. (Ðiều này không có gì là bất thường vì ở Thái Lan, rất nhiều thanh niên vào Chùa tu một thời gian và sau đó trở về đời sống cư sĩ và lập gia đình).
Khi Bongkuch càng lớn lên thì trí nhớ về tiền kiếp càng mờ dần. Trong làng, các trẻ khác vẫn thường chế nhạo em là "đứa trẻ có hai đời sống", điều này làm em muốn quên ký ức. Ðến năm 10 tuổi thì em không còn kể chuyện với ai về tiền kiếp của mình nữa Ký ức mờ nhạt dần với thời gian, em đã trở lại hoàn toàn bình thường.
Năm 1980, vào lần cuối cùng tôi (Ian Stevenson) gặp lại em, lúc này em đã 18 tuổi đang theo theo học ở một trường Tỉnh Nakhon Sawan. Một điều mà em không bỏ được là tính thích ăn cơm nếp như những người Lào.

TIỀN THÂN CỦA GILLIAN VÀ JENNIFER POLLOCK
Tác Giả: Ian Stevenson


Gillian và Jennifer Pollock, hai chị em sanh đôi, sanh ngày 4 tháng 10 năm 1958 tại Hexam Northumberland, Anh Quốc. Trong khoảng thời gian từ hai tuổi đến bốn tuổi, 2 em thường nhắc đến cuộc đời của 2 người chị có tên là Joanna và Jacqueline. Ngày 5 Tháng 5 Năm 1957, một người điên lái xe hơi đã đâm lên vỉa hỗ tông vào Joanna và Jacqueline đang đi bộ làm hai em chết ngay tại chổ. Lúc xảy ra tai nạn, Joanna được 11 tuổi và Jacqueline 6 tuổi.
Thảm kịch làm cho ông bà Pollock đau đớn. Tuy nhiên Ông John Pollock vùng tin ở luân hồi nhưng vợ ông thì không. Vào đầu năm 1958 khi bà mang thai ông quả quyết rằng Joanna và Jacqueline đã đầu thai song sanh để trở lại với gia đình. Bất chấp hồ sơ y khoa đã ghi nhận Bà Florence Pollock chỉ sanh một người con, ông John Polloch vẫn tin là vợ ông sẽ sanh đôi.
Ðúng như sự dự đoán của ông, vợ ông đã sanh đôi. Ông bà Pollock nhận thấy em Jennifer có hai bớt cùng một cỡ và cùng một vị trí như 2 vết bớt trên người Jacqueline, một vết trên trán gần sống mủi Jacqueline. Jacqueline có vết thẹo này là vì bị té, còn vết kia là một mụn ruồi mầu nâu ở phía trái thắt lưng của Jennifer giống y như Jacqueline.
Trong thời gian từ 2 đến 4 tuổi, hai chị em song sanh thường nói đến đời sống của 2 người chị đã chết. Hai em nhận ra vài món đồ chơi mà chị của chúng đã chơi trước kia và tỏ ra rất quen thuộc như đã từng có. Ông Bà Pollock xác nhận là ông bà cũng không bao giờ đề cập đến 2 đứa con đã chết với đôi trẻ song sanh và chúng cũng chưa bao giờ nhìn thấy các đồ chơi trước khi chúng nhắc đến hai người chị.
Jennifer thường ỷ lại vào chị là Gillian cũng như trước đây Jacqueline thường nương tựa vào Joanna. Khi hai em bắt đầu học viết thì Gillian, ngay từ buổi ban đầu đã biết cầm bút một cách rành rẽ giữa các ngón tay, còn ngược lại Jennifer thì cầm cây viết bằng cả nắm tay. Joanna lúc chết đã 11 tuổi nên đã biết viết còn Jacqueline chỉ mới 6 tuổi còn đang tập viết nên cầm cây viết bằng cả nắm tay.
Tôi (Ian Stevenson) bắt đầu điều tra vụ này năm 1964 và thường xuyên liên lạc với gia đình Pollock cho đến năm 1985. Lòng nhiệt thành tin vào luân hồi của ông Pollock có thể làm cho trường hợp bị suy giảm và một số người không tin rằng hai ông bà hay những người khác trong gia đình đã không nói trước mặt 2 em về cái chết của 2 người chị. Ðể trả lời việc nói rằng quan niệm quá tin tưởng về luân hồi của ông có thể làm thiệt hại cũng như sai lạc hẳn ý nghĩa của trường hợp, ông đã khôn khéo trả lời việc đó cũng có nhưng chỉ một phần nào thôi. Việc không dấu diếm về luân hồi khiến ông ghi nhớ các nhận xét và các tính tình của 2 đứa con song sanh giống như 2 đúa chị đã chết nhưng hầu hết các bậc cha mẹ người Âu Châu thường không tin mà còn nhạo báng.
Năm 1978 tôi (Ian Stevenson) đã thử máu 2 chị em song sanh để xem chúng sanh ra từ một trứng hay hai trứng. Cuộc thử máu này cho thấy hai chị em do một trứng sanh ra, có nghĩa là cùng một chủng tử. Có những người cho rằng những vết bớt trên người Jennifer là do di truyền nhưng nếu như vậy thì Gillian cũng phải có các vết bớt đó; đằng này Gillian không có vết nào cả. Những vết bớt trên Jennifer lại trùng hợp với những vết bớt trên người Jacqueline cả về kích thước lẫn vị trí. (Phải chăng Jennifer chính là hiện thân của Jacqueline nên đã có những vết này).
Gillian và Jennifer đã lớn lên bình thường như mọi người và hầu như đã quên hẳn những chuyện khi còn thơ ấu thường hay kể ký ức về tiền kiếp. Lần tôi gặp hai cô vào năm 1985, hai cô không còn nhắc gì đến tiền kiếp của mình nữa tuy nhiên hai cô cũng không từ chối các bằng chứng trước đây mà ông bà Pollock đã nhận thấy khi hai cô còn thơ ấu.

SAMUEL HELANDER
Tác Giả: Ian Stevenson

Samuel Helander sanh ngày 15 tháng 4 năm 1976 tại Helsinki, Phần Lan, Âu Châu. Từ một đến hai tuổi em thường nói đến đời sống của người cậu (em trai mẹ) có tên là Pertti Haikio. Về sau càng lớn Samuel càng giống tính tình của cậu Pertti.
Tôi điều tra vụ này vào năm 1978 và năm 1981. Những người cung cấp tin tức cho tôi gồm có mẹ Samuel, bà ngoại Samuel, người này cũng là mẹ của Pertti.
Pertti Haikio sanh ngày 8 tháng 6 năm 1957 tại Helsinki, Phần Lan, chết vì bệnh tiểu đường ngày 10 tháng 6 năm 1975 khi vừa 18 tuổi. Vài tháng trước khi chết, Pertti mắc bệnh tiểu đường trầm trọng - đã uống thật nhiều nước mà gia đình không ai để ý đến việc này - Pertti đã bị bất tỉnh và chết.
Mẹ Pertti, Bà Anneli Lagerqvist (đã tái giá sau khi ly dị với cha Pertti) và người con gái là Marja Helander mẹ của Samuel) rất buồn thảm sau cái chết của Pertti. Lúc có mang Samuel được 10 tuần, Marja có ý định muốn phá thai. Trong một giấc mộng, Marja nằm mơ thấy Pertti căn dặn "đừng phá thai, hãy giữ đứa nhỏ".
Khi Samuel được 1 tuổi rưỡi, được hỏi đến tên thì Samuel trả lời "Pelti". (Ở thời điểm này và sau một thời gian nữa Samuel không nói rõ được vần r trong chữ Pertti). Gia đình rất lấy làm lạ vì đã nhiều lần căn dặn tên là Samuel nhưng em cứ nhất định là Pelti (sau này thì Pertti). Năm lên 6 tuổi Samuel vẫn cho mình là Pelti. Tuy nhiên em không từ chối lại gần mẹ mỗi lần bà gọi em là Samuel. Samuel đã nhớ một vài điều liên quan đến tiền kiếp chẳng hạn nhận ra vài người trong ảnh hay vài món đồ quen thuộc của Pertti. Những tấm hình chụp Pertti khi chưa tới 10 tuổi thường làm Samuel chú ý. Nhìn vào một bức hình Pertti lên ba, Samuel nói rằng lúc chụp tấm hình này Pertti bị chó cắn vào bắp chân trong khi Samuel chưa bao giờ bị chó cắn và nghe ai nói đến việc Pertti bị chó cắn. Bức hình cũng không có dấu vết gì cho biết Pertti bị chó cắn. Nhìn một bức hình Pertti mang nạng, Samuel nói đó là hình Samuel, em đã phải nằm nhà thương để băng bột đôi chân. Khi tôi (Ian Stevenson) đến Helsinki để tìm hiểu, tôi có được xem tấm hình này. Tấm hình chụp Pertti mang nạng và người ta có thể đoán là Pertti bị thương đôi chân nhưng bực hình không có dấu vết gì cho biết đôi chân Pertti đã bị băng bột trước khi chụp hình. Vào khoảng 4 tuổi Pertti đã bị tai nạn gẫy 2 chân. Và lúc nói ra điều này thì Samuel cũng khoảng gần 4 tuổi. Mỗi dịp thấy hình của Pertti, Samuel đều nhận là hình của em. Nhìn tấm hình cha Pertti, Samuel nói "Ðây là hình cha tôi". Bà Marja vẫn dấu tấm hình này vì sợ người chồng sau ghen tuông nên quả quyết là Samuel chưa bao giờ nhìn thấy tấm hình đó cả. Samuel cũng nhận được nhiều món đồ của Pertti: một cây đàn lục huyền cầm, một cái áo lạnh bằng nhung sọc và một chiếc đồng hồ có vứt trong một ngăn tủ, toàn đồ linh tinh bỏ đi. Khi thấy chiếc đồng hồ, Samuel vội chụp ngay, nói là của em và xin được giữ lại mặc dầu chiếc đồng hồ đã mất cả quai. Khi ngủ có lúc em để dưới gối, có lúc cất trong ngăn kéo giường.
Hỏi về cái chết của Pertti thì Samuel nói rằng Pertti đã được quàn tại một nơi có nhiều quan tài, có vài chiếc được mở nắp. (Samuel chưa bao giờ được dẫn tới một nhà quàn nào cả). Xác của Pertti sau khi chết được mang tới một nhà quàn. Samuel còn cho biết mẹ Pertti (Bà Ngoại Samuel) đã khóc thảm thiết như thế nào. Khi được đưa tới nghĩa trang, Samuel đã chỉ vào ngôi mộ Pertti mà nói rằng "Ðây là mộ tôi".
Bà ngoại cũng như mẹ Samuel đều nhận thấy Samuel có cá tính giống Pertti. Khi Pertti còn nhỏ có lần bị uống nước trong bồn tắm nên đã sợ nước, sau đó khoảng 15, 16 tuổi Pertti lại bị ngã từ một cầu tầu xuống biển, suýt chết dưới nước sau tai nạn này, Pertti càng bị nước ám ảnh. Vì vậy Pertti không bao giờ bơi lội cả. Samuel cũng vậy, em rất sợ nước, tắm với Samuel là "một cực hình" - nên em luôn luôn phản đối mỗi lần phải tắm. Khi bắt đầu biết nói, Samuel gọi Bà Anneli Lingerqvist là "Mẹ" (Bà ngoại Samuel và là mẹ Pertti) còn mẹ ruột của em là Marja Helander thì em lại gọi bằng tên và nói "Bà không phải mẹ tôi đâu". Samuel thường tỏ ra âu yếm và quyến luyến Anneli (Bà Ngoại) và thường đòi bú sửa của Bà. Mãi đến khi lên 5, Samuel mới thôi không gọi Bà Anneli là "Mẹ" nữa.
Khi Pertti còn sống, cứ vào chiều ngày lễ Giáng Sinh, khi mọi người thân đã quây quần đầy đủ, Pertti có thói quen đi hôn từng người một. Trong gia đình chỉ có mình Pertti làm vậy. Vào Giáng Sinh năm 1978 khi được 2 tuổi rưỡi Samuel đi vòng quanh phòng và hôn từng người một y như Pertti đã làm ngày trước. Samuel cũng có hai bộ điệu giống như Pertti, khi đứng thì chân trước chân sau và tay thì chống nạnh, khi đi thì hai tay chắp đằng sau lưng. Trong gia đình không một ai có cử chỉ như trên cả.
Qua sự thực và những bằng chứng hiển nhiên đã được phối kiểm về trường hợp luân hồi này, Pertti chết năm 18 tuổi vào ngày 10 tháng 6 năm 1975 đã tái sanh ngày 15 tháng 4 năm 1976 làm con của chị ruột là Marja Helander và mang tên hiện nay la Samuel Helander.
ROBERTA MORGAN
Tác Giả: Ian Stevenson

 Tôi được biết trường hợp luân hồi này vào tháng 2 năm 1971 khi Bà Shirley Morgan, mẹ của Roberta ở Minnesota điện thoại đến Ðại Học Ðường Virginia nói là từ mấy năm nay Roberta, con Bà cứ quả quyết là có "cha mẹ" khác. Em muốn đến thăm nhưng gần như tuyệt vọng. Em nói em đã hứa về thăm cha mẹ khác này và em muốn giữ đúng lời hứa.
Roberta sanh ngày 28 tháng 8 năm 1961 và đến tháng 2 năm 1971 em được 9 tuổi rưỡi. Em bắt đầu nói về tiền kiếp từ khi em khoảng 2 tuổi đến 2 tuổi rưỡi (1). Bà Morgan cho biết trong khoảng thời gian này em nói nhiều đến tiền kiếp nhưng lúc này Bà chưa hiểu về luân hồi nên cho rằng Roberta nói vớ vẩn mà thôi. Về sau nhờ đọc sách và suy luận Bà mới thấy là Roberta quả đã nhớ được tiền kiếp của mình và sự việc Bà cấm đoán không cho Roberta nói về tiền kiếp là sai.
(1) Nhưng đến năm 1971, em đã thôi nhắc tới, tôi sẽ nói rõ lý do sau.
Ðến năm 1971, sau khi có ít khỏi niệm về luân hồi, Bà cảm thấy có trách nhiệm là phải tìm ra gia đình tiền kiếp của Roberta. Sau khi được điện thoại của Bà, tôi có liên lạc với Bà và yêu cầu Bà viết ra tất cả những gì mà Roberta nhớ được về tiền kiếp của em. Bà Morgan đã làm theo những lời tôi dặn và đã trả lời những câu hỏi của tôi trong những thư kế tiếp.
Tháng 7 năm 1972 tôi đến Minnesota thăm Roberta và Bà Shirley Morgan - (tôi không gặp cha Roberta) - Roberta đã tỏ ra thân thiện với tôi nhưng vào lúc này em đã quên hẳn tiền kiếp của mình. Qua các cuộc đàm thoại và các tin tức Bà Morgan cung cấp cho tôi được biết câu chuyện như sau.
Trong thời kỳ em hay nhắc đến tiền kiếp thì em cư xử giống như một người con nuôi. Em nhớ rõ căn nhà của gia đình em. Nhà em trên một ngọn đồi không có nhà nào kế bên và phải đi qua một con đường đất dài mới tới. Gia đình em có một trang trại nuôi ngựa và chó. Có lần lúc 4 tuổi em được đưa tới chuồng ngựa, em đã đi thẳng lại những con ngựa và cho chúng ăn. Có người hỏi em: "Em có sợ ngựa không?" Em đã trả là i: "Không em đã cưỡi ngựa nhiều lần ". Roberta cũng nói đến chiếc xe hơi của người cha. Em không nhớ rõ là xe chở khách hay xe chở hàng nhưng xe này thỉnh thoảng người cha của em vẫn chạy. Roberta nói rằng: "Cha và mẹ khác cũng sống ở thành phố này " (Thành phố này khác thành phố mà tôi đến thăm họ). Có một lần cùng ngồi xe với mẹ, Roberta đã chỉ một con đường nói là em ở đó. Em cho biết con đường đất cũng dẫn đến xa lộ. Em muốn xuống xe đến thăm ngôi nhà xưa nhưng Bà Morgan ngăn cản vì lúc đó Bà chưa hiểu gì về luân hồi nên đâu có để ý đến lời nói của một đứa trẻ. Roberta đã cằn nhằn mẹ nhiều ngày vì Bà không dẫn em đến thăm cha mẹ ở tiền kiếp nhân dịp tốt này.
Roberta đòi mẹ mua những đồ chơi giống như đồ chơi mà em thường có, khi nghe mẹ nói không biết đó là những đồ chơi nào thì Roberta bảo rằng là Bà kém thông minh. Và một lần khác em đã gắt gỏng vì Bà không nhớ đến tiền kiếp của em, theo em Bà Morgan phải biết đến tiền kiếp của em.
Quả là Roberta đã nhớ rất rõ tiền kiếp. Về người mẹ ở tiền kiếp Roberta nói với Bà Morgan: "Mẹ (hiện tại) cư xử giống hệt như người mẹ trước của con nhưng Bà ấy nhìn không giống mẹ". Roberta khen người mẹ trước nội trợ giỏi nhất là về nấu ăn. Khi Bà Shirley Morgan nấu vài món ăn mới cho bửa cơm chiều thì đôi khi Roberta lại nói là em đã ăn nhiều lần món ăn này. Một hôm Bà Morgan nấu món bắp nhồi sẽ để dành cho gia đình một ngạc nhiên. Khi Bà đặt món ăn lên bàn Roberta đã không ngạc nhiên chút nào còn nói: "Con đã ăn nhiều lần món này, mẹ không nhớ là mẹ trước của con thường nấu món này sao". Em đã dùng một tên khác để gọi món ăn này nhưng Bà Morgan không còn nhớ. Bà Morgan hỏi Roberta cách nấu món ăn này của người mẹ trước, Roberta đã kiên nhẫn tả lại. Roberta cũng cho rằng mẹ hiện tại ngu xuẩn không biết chùi các cửa kiếng như người mẹ trước. Ngoài ra Roberta thường xen vào câu chuyện của cha mẹ và phát biểu nhiều ý kiến mà theo mẹ em em không thể nào biết như vậy. Roberta cho vài manh mối về thời đại em sống ở kiếp trước chẳng hạn như em không thích mặc quần áo kiểu cọ, gia đình có xe hơi, đa số các chủ trại đều có xe hơi. Roberta còn nhấn mạnh cha mẹ trước của em còn sống và cố gắng tìm thế nào cũng thấy.
Roberta có khuynh hướng mặc quần áo con trai. Em không muốn làm con gái. Em thích các đồ chơi dành cho con trai. Khi Bà Morgan hỏi thẳng rằng em chết như thế nào thì em trả lời "Con không chết, con chỉ xa cha mẹ một thời gian, con đã nói với họ là con sẽ trở về". Không bao giờ em nói là em yêu mến cha mẹ trước của em hơn nên Bà Morgan nghĩ rằng Bà là người được Roberta thương mến nhiều hơn. Vì em không nhớ tên cha mẹ nên Bà Morgan không thể nào kiếm ra được gia đình tiền kiếp của em.
Bà Shirley Morgan cùng chồng là người Cơ Ðốc Giáo - Bà là thành viên của Hội Cơ Ðốc nên không bao giờ được nghe về luân hồi cả. Vì không hiểu luân hồi nên thời gian Roberta nói về tiền kiếp Bà chẳng những đã không khuyến khích mà còn bực mình nữa. Lại nữa Roberta đã so sánh Bà với người mẹ ở tiền kiếp nên Bà không thích Roberta nói về tiền kiếp. Vì vậy cho nên mỗi lần nói đến tiền kiếp là Bà tức giận và đánh Roberta. Sợ bị trừng phạt nên Roberta đã phải ngừng không dám nói về tiền kiếp nữa. Dù vậy, đến năm 4 tuổi hỏi em, em cũng vẫn nói là em đã có nhiều lần cưỡi ngựa.
Sau này Bà Shirley Morgan cảm thấy hối hận và bị ám ảnh bởi những lời ghi nhận của Roberta và Bà đã đổi ý muốn đi tìm lại cha mẹ ở tiền kiếp cho Roberta. Bà đã rất ân hận vì đã đánh đập Roberta, cấm đoán em nói về tiền kiếp khiến em không dám nói về tiền kiếp nữa và cũng vì vậy việc tìm kiếm không thể thực hiện được. Nếu trong thời gian Roberta nói về tiền kiếp, Bà không đánh đập em, khuyến khích em, rất có thể em nhớ lại tên cha mẹ em ở tiền kiếp. Rất tiếc là khi Bà Shirley Morgan thay đổi thái độ thì Roberta đã 9 tuổi ruỡi rồi nên không còn nhớ gì về tiền kiếp cả.
Sau khi thăm gia đình Roberta vào mùa hè năm 1972, tôi không còn liên lạc với gia đình này nên không còn biết gì hơn về trường hợp này nữa.
 
TIỀN THÂN CỦA SUSAN EASLAND
Tác Giả: Ian Stevenson

 Lần đầu tiên tôi biết trường hợp này vào năm 1968 khi tôi nhận được thư của Bà Charlotte Eastland. Sau khi đọc các bài tham cứu của tôi trên các tạp chí, Bà đã viết thư cho tôi những gì mà con gái Bà là Susan nói về tiền kiếp. Susan có nhiều ký ức về người chị gái tên là Winnie đã chết.
Tôi đã thư từ liên lạc với Bà Eastland trong năm 1968 và đầu năm 1969. Tới mùa thu năm 1969 tôi đến thăm Bà ở Idaho. Tại nhà Bà, tôi đã gặp Susan, nhân vật chính của câu chuyện và người con gái lớn của Bà là Sharon. Tôi rất tiếc không được gặp Ông Robert Eastland, người chồng sau này của Bà vì Ông Robert đã nhiều lần mục kích Susan nói về tiền kiếp.
Winnie là con của Bà Charlotte Eastland lên 6 tuổi rất dễ thương đã bị xe đụng chết vào năm 1961. Cái chết đột ngột của Winnie làm gia đình Bà Eastland rất đau buồn. Bà cầu mong Winnie được tái sanh trở lại với gia đình. Lúc này Bà chỉ có ý niệm mơ hồ về luân hồi. Bà kể cho tôi nghe là ở Ấn Ðộ người ta nói rằng con người có thể tái sanh làm con vật (theo Bà cũng không thể) chứ không nghe nói một người chết có thể tái sanh thành người khác được.
Sau khi Winnie chết được 6 tháng, người con gái lớn nhất trong gia đình là Sharon nằm mơ thấy Winnie trở về với gia đình. Rồi hai năm sau Bà Eastland mang thai Susan thì Sharon cũng lại nằm mơ thấy Winnie trở về. Năm 1964 Bà Eastland còn đang ở trong nhà Bảo Sanh chờ sanh Susan thì người chồng trước của Bà (cha của mấy đứa con Bà) có nghe thấy Winnie nói: "Thưa Ba con đang trở về". Hai năm trước gia đình đã mất đứa con gái là Winnie thì nay Susan ra đời, ai nấy đều thầm mong Susan chính là Winnie tái sanh.
Khi được hai tuổi, Susan bắt đầu nói ít nhiều đến đời sống của Winnie. Nếu có ai hỏi Susan năm nay bao nhiêu tuổi thì Susan trả lời là sáu tuổi (tuổi lúc Winnie bị chết). Khi lên năm tuổi, Susan có vẻ già dặn hơn tuổi, Susan cả quyết là lớn hơn người anh tên Richard đang 11 tuổi. Winnie lớn hơn Richard 3 tuổi, cho nên nếu là Winnie thì điều này rất đúng, còn là Susan thì sai hoàn toàn!
Ðược xem hai tấm ảnh của Winnie, Susan nhất định "Ðó là hình tôi mà". Không những thế Susan còn đòi gĩù những tấm ảnh nữa. Một cái Susan treo chỗ giường ngủ, còn một cái thì mang theo người trong một thời gian.
Susan chưa bao giờ được gọi bằng tên Winnie, nhưng có một lần, Susan cầm lấy cây bút chờ viết nguệch ngoạc vào cánh cửa nhà bếp chữ "Winni". Em bỏ sót chữ e và viết chữ I nghiêng thay vì thẳng. Trong thời gian này, Susan thường nói câu: "Khi nào tôi đi học tôi sẽ chơi đu ở trong trường". Susan chưa đi học, em vẫn ngồi đu ở sân nhà. Winnie khi xưa lúc bắt đầu đi học trước khi bị chết thảm vẫn hay chơi đu ở trong trường.
Khi Winnie còn sống, Bà Eastland có một lọ bánh có hình con mèo. Mỗi khi đứa nào muốn ăn, Bà thường hỏi con mèo có thể cho con Bà mấy chiếc và Bà giả bộ nói giọng con mèo trả lời: "Meo, con có thể lấy một chiếc" (Số bánh thay đổi tùy theo đứa trẻ đòi nhiều hay ít). Khi Winnie chết Bà cất cái lọ đi và quên hẳn đã mấy năm. Lúc Susan lên 4, Bà Eastland lại mang cái lọ ra và bỏ vào đầy bánh. Susan đòi một chiếc, Bà vô tình hỏi Susan "Con mèo nói sao?", không suy nghĩ Susan trả lời: "Meo, con có thể lấy một chiếc". Bà Eastland không thể ngờ Susan có thể trả lời đúng ngay câu hỏi mà xưa kia Bà thường dùng khi kể tới chi tiết này. Bà có nhận xét tinh tế là một đứa trẻ thông minh như Susan có thể trả lời được câu hỏi và tôi muốn thêm là có thể trả lời đúng bởi thần giao cách cảm, nhưng đúng từng chữ, từng câu là việc khó. Chỉ có thể nói rằng Susan chính là Winnie xưa kia mới lập lại được mà thôi.
Susan sau đó kể thêm vài chuyện nữa khi Winnie còn sống. Susan đã kể lại một cuộc đi chơi bờ biển cùng gia đình em có bắt được một con cua và còn nói được tên những người tham dự cuộc đi chơi hôm đó. Bà Eastland nhớ là một năm trước khi Winnie chết gia đình Bà có đi chơi bờ bể của Tiểu Bang Washington. Họ nhảy sóng, nghịch cát, nhặt vỏ sò và bắt hến. Tuy nhiên Bà không nhớ họ có bắt được con cua hay không. Susan kể chính xác tên 3 trong số 4 người tham dự, em đã quên người cha kế sau này. Em còn đính chính lại là có cả cha em (cha của Winnie) và cũng cho biết đã cùng với Sharon đi chơi đồng cá, Susan không biết sợ ngựa và đã có lần đi dạo dưới chân ngựa. Sự việc đúng như vậy, Winnie trước đây đã từng chơi với Sharon trên bãi cá, không sợ ngựa và cũng có lần đi dạo dưới chân ngựa.
Bà Eastland hỏi Susan có nhớ Cậu Bé Gregory ở trước nhà không thì Susan cho biết còn nhớ và còn cho biết là thường chơi với Greg (tên tắt của Gregory). Bà Eastland chưa bao giờ nói với Susan về Gregory cả, thế mà Susan vẫn biết được.
Hỏi Susan còn nhớ Chú George ở phố trên không? Susan nói không còn nhớ căn nhà của Chú thế nào nhưng có nhớ Chú và còn thêm rằng: "Con có thói quen ngừng lại thăm Chú và chơi ở nhà Chú một lát trước khi tới trường". Ngày Winnie bị xe đụng chính là ngày em ngừng lại để chơi với Chú George. Cậu Bé Gregory và Chú George cùng ở chung một thành phố với Winnie trước khi em chết, còn Susan thì được sanh và sống tại một thành phố khác nhỏ hơn ở Idaho.
Quý Vị Ðộc Giả thấy ở đây mẹ của Susan thỉnh thoảng đã gợi lại trí nhớ tiền kiếp của Susan bằng cách hỏi em các sự việc trong đời Winnie tuy có thể biết được tiền thân của em nhưng mặt khác lại có thể đưa đến sự lầm lẫn, nhất là đối với một người thông minh và thận trọng như Bà Eastland. Một lần khác Bà Eastland kể cho Susan rằng Winnie dã làm mất đôi giầy mới ngoài cánh đồng. Lần ấy Susan cười và nói rằng em không quan tâm đến việc mất đôi giầy. Em còn thêm: "Mẹ phải lên phố mua cho con đôi giầy mới nữa". Sự việc xảy ra đứng như vậy, Winnie chỉ mất một đôi giầy trên cánh đồng.
Ðến cuối năm 1969, tôi vẫn theo dõi trường hợp luân hồi này. Cho đến năm 1977 khi tôi liên lạc với Bà Eastland để phối kiểm lại một số chi tiết thì có một sự việc khác Susan vừa nhớ được như sau:
Susan cho biết có lần em theo Bà Eastland đến một bãi chơi ném bóng, trong lúc mẹ em ném bóng, em (Winnie) đi mua kẹo ở một khu vực gần đấy. Một em trai ở đấy đang chạy quanh đến ôm và hôn em (Winnie). Bà Eastland nhớ rõ chuyện này khi Bà kể chuyện cho chồng Bà nghe, Ông rất giận dữ.
Susan nhắc lại những ký ức về Winnie với vẻ tha thiết như nhắc lại những sự việc của chính mình đã xảy ra "từ lâu".
Trong một lá thư gửi cho tôi, Bà Eastland viết: "Susan học rất tấn tới, hình như nó biết và chỉ cần nhớ lại mà thôi. Bà nhận thấy tính nết cũng như hành động của Susan giống hệt như Winnie ngày trước. Cả hai đều tháo vát, lanh lợi và ngăn nắp khác hẳn người chị Sharon tính nết rụt rè nhút nhát. Tuy nhiên về hình dáng thì Susan không giống Winnie. Winnie có tóc đỏ và mắt nâu sậm còn Susan thì tóc vàng, mắt xanh. Nhưng cả hai cùng có lông mọc đằng sau lưng. Cha các em cũng vậy, mà mấy đứa khác lại không. Susan cũng có một vết thẹo nhỏ bên hông trái đúng chỗ Winnie bị xe đụng gây ra vết thương trầm trọng khiến bị tử nạn. (Tôi có bản sao hồ sơ y khoa của bệnh viện nơi Winnie được mang tới sau tai nạn và chết ở đó).
Qua những ký ức về tiền kiếp mà Susan nhớ lại, Winnie đứa con gái của Bà Eastland đã chết năm 1961, và tái sanh năm 1963 cũng tại gia đình Bà và mang tên mới là Susan. Trường hợp này xảy ra ở Hoa Kỳ, trong một gia đình theo đạo Cơ Ðốc không chấp nhận thuyết luân hồi. Khi tôi đến thăm, Bà Eastland cho biết người ta có thể trục xuất Bà ra khỏi cộng đồng Cơ Ðốc nếu biết được Bà có niềm tin vào thuyết luân hồi. Bà đã khám phá ra tính cách hấp dẫn và lôi cuốn của thuyết này, dù rằng Bà vẫn luôn theo đúng tôn chỉ các Nhà Thờ Cơ Ðốc Giáo đề xướng ra. Bà quả quyết với tôi là cho tới khi tôi đến thăm Bà vào mùa hè năm 1969 Bà chưa hề kể cho các con Bà niềm tin tưởng của Bà là Susan chính là Winnie tái sanh. Tuy nhiên, sau lần ấy, Bà đã kể cho chúng để giải tỏa các thắc mắc của chúng về lý do thăm viếng của tôi.

TIỀN THÂN CỦA MICHAEL WRIGHT
Tác Giả: Ian Stevenson

 Tôi bắt đầu điều tra vụ luân hồi này từ khi người mẹ của Michael là Bà Catherine Wright gọi điện thoại cho tôi. Người đồng sự của tôi nói chuyện với Bà Wright trước nhận thấy vẻ hốt hoảng khi Bà báo tin cho hay con trai Bà, Michael, nói đến tiền kiếp và nhận là người yêu có của Bà trước khi Bà lấy người chồng hiện tại. Người bạn này tên là Walter Miller đã bị chết trong một tai nạn khi xe của Walter đâm xuống ruộng.
Tuy không tin có luân hồi, nhưng Bà Wright lại rất tin tưởng vào những hiện tượng lạ kỳ. Vào tháng 9 năm 1978, Bà gọi điện thoại đến Ðại Học Ðường Virginia. Một tháng sau tôi mới đến Texas để phỏng vấn Bà. (Hầu hết các tin tức thâu lượm được trong nội vụ đều do cuộc phỏng vấn này và một cuộc phỏng vấn khác cách đó một năm do Emily William Cook, cộng sự viên của tôi phụ trách). Qua cuộc phỏng vấn, tôi nhận thấy Bà và Bà mẹ của Bà tin tưởng có luân hồi, ngược lại người chồng thì không. Nghĩ cho cùng thì chồng của Bà không đồng quan điểm cũng phải vì vui vẻ sao được khi người bạn trai của vợ mình đã chết lại tái sanh làm đứa con của gia đình. Sở dĩ Bà Wright lấy người chồng hiện tại vì người bạn trai Walter Miller đã chết; phải chăng Walter Miller chưa chết hẳn mà lại tái sanh để xâm nhập vào gia đình của ông?
Trong khoảng thời gian từ lúc gọi điện thoại cho tôi vào tháng 9 năm 1978 đến lần viếng thăm Bà vào cuối tháng 10, Bà Wright đã không quan tâm đến sự hờn giận của người chồng và kể hết những điều mà con Bà, Michael, đã nói về tiền kiếp. Bà cho biết chồng Bà cũng phỏng đoán Michael là hiện thân của Walter Miller, người bạn trai có của Bà.
Trở lại người bạn trai của Bà, Walter Miller, chết vào mùa hè năm 1967 lúc chưa đầy 18 tuổi. Là một học sinh trung học phổ thông, có triển vọng về hội họa, Walter Miller dự tính vào đại học năm thứ nhất vào mùa thu năm đó. Walter và Catherine đã biết nhau 3 năm, đã hẹn hà nhiều lần và đã cùng nhau đính ước.
Một đêm Walter Miller cùng người bạn là Henry Sullivan đi dự khiêu vũ về, vì quá chén nên lúc về Walter ngủ gục trên tay lái khiến chiếc xe đâm xuống ruộng và Walter chết liền tại chỗ, còn người bạn thì không sao cả.
Walter chết, Catherine đau xót, nhưng nàng cố đè nén cơn xúc động, Một năm sau, năm 1968, Catherine lấy Frederick Wright, người bạn trai khác. Họ có con gái đầu lòng rồi Michael ra đời. Trước khi chuyện này xảy ra, vào khoảng một năm sau cái chết của Walter, Catherine đã mơ thấy Walter tái sanh. Walter nói rằng anh không chết, anh sẽ trở lại và tiếp tục vẽ chân dung cho Catherine. Catherine nghĩ rằng có thể Walter luân hồi, sẽ tái sanh vào một gia đình nào đó, có thể vào gia đình người chị của Walter là Carole Davis vì Carole có mang vào thời điểm này và không bao giờ có ý nghĩ là Walter sẽ đầu thai vào làm con mình.
Michael sanh ra bình thường, thời thơ ấu có đôi khi khó thở. Năm lên ba, Michael bắt đầu nói về tiền kiếp, kể những sự việc xảy ra mà một đứa trẻ lên ba không thể nào có thể biết được.
Có một ngày Michael đã làm cho Bà Wright sợ hãi vì em buột miệng gọi "Carole Miller". Sau khi Walter chết, Bà vẫn giữ liên lạc với Carole Miller nhưng Carole đã lập gia đình 10 năm về trước và Michael chỉ gặp có hai lần biết tên hiện tại là Carole Davis chứ không hề biết tên thật là Carole Miller.
Michael cũng kể với mẹ như sau: "Bạn tôi và tôi đi trên một chiếc xe, xe đâm xuống ruộng, lén đi lén lại nhiều vàng, cửa xe bị bật ra. Tôi bị văng ra ngoài và chết ngay tại chỗ". Michael sau đó còn cho biết thêm chi tiết như là kính xe bị vỡ, và sau tai nạn, anh được chở qua một cái cầu. Anh cũng nói anh và người bạn đã ngừng bên xa lộ để đi tiểu trước khi gặp tai nạn. Michael nói trúng cả tên thành phố có cuộc khiêu vũ và tên người bạn cùng đi xe chung.
Bà Catherine Wright xác nhận các chi tiết về tai nạn của Walter Miller đã được đăng trên các báo chí (có cả ảnh chiếc xe) rõ ràng và đúng như lời Michael thuật lại. Walter bị văng ra khỏi xe, gẫy cổ và chết ngay tại chỗ; xác anh được xe cứu thương chở qua một cái cầu gần chỗ xảy ra tai nạn. Michael cũng cho biết một vài chi tiết khác nhưng những chi tiết này chỉ mình Walter Miller biết được mà thôi, chẳng hạn như chi tiết về căn nhà của Walter, tên họ của Henry Sullivan (và chỉ nhầm chút xíu về biệt danh của Henry Sullivan).
Trong cuộc phỏng vấn Bà Catherine Wright với mẹ của Bà là Margaret Carpenter, cả hai đều xác nhận Michael đã nói về tai nạn xe cộ trước mặt họ và Michael đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần.
Chúng tôi nhận thấy những chuyện Michael thổ lộ với mẹ là Catherine rất có thể làm cho Catherine lo lắng, bối rối nên chắc chắn Bà không khuyến khích Michael, con Bà nói chuyện về tiền kiếp.
Việc Bà Catherine Wright gọi điện thoại cho tôi và cho tôi biết tự sự về việc này chứng tỏ Michael có thể là hiện thân của Walter Miller đã chết trong một tai nạn xe cộ vào mùa hè năm 1967.

Tỳ kheo Thích Tâm Quang trích dịch

Không có nhận xét nào: