Chủ Nhật, 8 tháng 11, 2015

Thế Giới Khi Xưa (THE WORLD BEFORE)

TTđTD - Dẫn-đạo-sư nói thêm rằng nếu trong đời sống vật chất mà chúng ta đạt tới mức gần hoàn toàn (toàn thiện) thì những cuộc hành trình sang các tinh cầu khác rất là nhẹ nhàng. Tại sao phải đi sang tinh cầu khác? Vì cần phải đền bù tội lỗi đối với người khác và phải lìa bỏ thái độ ích kỷ và trịch thượng. Ðó là một phương pháp san bằng. Cho nên trong đời vật chất, cần phải thiện những ý nghĩ và hành động đối với người khác, vì việc làm ấy dễ hơn rất nhiều là phải chịu khổ não tinh thần trên các tinh cầu.
Nói về những nền văn minh Lemuria, Atlantic và những giống dân đầu tiên xuất hiện trên quả địa cầu từ nhiều triệu năm trước nay đã không còn nữa.
Karen Traviss

LỜI NÓI ÐẦU

Tác-giả là một phóng viên báo chí, vốn không tin những sự huyền bí. Nhưng trong nhiều năm, bà đã được chứng kiến nhiều sự kỳ lạ xảy đến cho những người thân và bạn bè, báo trước những việc sắp tới, hoặc báo tin đúng lúc việc xảy ra tại nơi khác rất xa, có khi phải vài ngày sau mới được tin theo lối thông thường. Bà cũng đã tiếp xúc với nhiều con đồng (medium), dự nhiều phiên gọi hồn và viết tự động mà ta gọi là cầu cơ. Con đồng là người có khả năng tiếp xúc với người sống qua miệng hoặc tay của họ. Chính tác-giả cũng có khả năng đánh máy tự động, là để cho một linh hồn mượn tay của mình đánh máy ra những điều muốn nói.

Bà là một trong nhiều nhà học giả khảo cứu về thế giới vô hình. Nhờ những điều hỏi được các linh hồn, bà đã viết ra một số sách, như: A Search for the Truth (Tìm Sự Thật), A Gift of Prophecy: Jeane Dixon (Nhà Tiên Tri Jeane Dixon), Here and Hereafter (Ðây và Sau Ðây), A World Beyond (Thế Giới Bên Kia) và cuốn này.
Cuốn Thế Giới Khi Xưa này cũng được viết ra bằng những tài liệu do những linh hồn cao siêu mà tác giả gọi là Dẫn-đạo-sư (spirit guides) đã đánh máy ra qua bàn tay của bà. Dẫn-đạo-sư kể lại sự tích từ khi khai thiên lập địa, nghĩa là từ khi trái đất mới thành hình, rồi bắt đầu có loài người, những sự phấn đấu của những người thái cổ (homo-sapiens) với thiên nhiên và với những giống vật khổng lồ đời tiền sử.

Khi Dẫn-đạo-sư nói đến những điều khó tin như cây cối rậm rạp vùng nhiệt đới tại nơi ngày nay băng giá quanh năm, tác giả đã tham khảo và tìm thấy những tài liệu khoa học trong tập Bách-Khoa Toàn Thư (Encyclopedia Britannica) và vài cuốn khác, nói đến những vết tích cây cối và động vật bị chết cứng đột ngột dưới lớp băng đá rất dày trong những trận thiên tai đời thượng cổ. Khi Dẫn-đạo-sư nói đến lục địa trên vùng đại dương ngày nay, hoặc nói đến biển cả ở nơi đất liền hiện tại, tác giả cũng tìm được tài liệu khoa học chứng minh sự biến đổi đó.

Dẫn-đạo-sư nói rằng loài người bắt đầu sinh ra trên trái đất cách đây từ 5 đến 7 triệu năm. Người Bắc Kinh (là bộ xương cổ xưa tìm thấy tại vùng Bắc Kinh) được coi là bộ xương người xưa nhất mà các nhà bác học ước đã được 500 ngàn năm. Nhưng khi cuốn sách này sắp được xuất bản (1976) tác giả được biết các nhà khảo cổ đã tìm thấy tại miền đông Phi Châu, những xương bàn tay người ba triệu năm trước và xương sọ người một triệu rưỡi năm trước. Bác-sĩ Donald Johnson nói rằng sự xem xét hơn ba chục xương bàn tay và cổ tay rải rác trên một sườn đồi cho thấy rằng bàn tay có thể cử động như bàn tay người thời nay, chứ không như bàn tay của hai loài đười-ươi (gorilla và chimpanzee) là loài khỉ gần giống người hơn cả, hai loài này vẫn phải chống tay xuống đất để đi. Ðiều nhận xét này loại bỏ thuyết của khoa học cho rằng người và khỉ cùng chung một thủy tổ.

Bác sĩ Duane Gish cũng tìm thấy tại một lòng sông vùng Texas có vết chân người in vào đá gần vết chân khủng long.(có lẽ xưa là đất, lâu ngày đất ấy trở thành đá). [Khủng long (dinosaur) là một loài vật khổng lồ thời tiền sử, thuộc loài thằn lằn, có khi dài đến 30 thước (100 ft) cao hơn 5 thước (18 ft), thường chân sau rất lớn, chân trước rất nhỏ, đuôi lớn và dài, cổ ngắn đầu to, hoặc cổ dài đầu nhỏ.]

Ðiều này chứng tỏ loài người đã có sớm hơn là người ta tưởng, vì các khoa học gia vẫn cho rằng khủng long đã tuyệt chủng nhiều ngàn năm trước khi có người. Những người thái-cổ đã phải phấn đấu kinh khủng với những vật khổng lồ trong nhiều triệu năm sống chung với chúng.

Trong cuốn này, các dẫn-đạo-sư nói đến ba thiên tai, một trong đó là nạn trái đất đổi trục đã khiến cho vùng đại-lục Lemuria chìm xuống dưới Thái Bình Dương, đồng thời loài khủng long bị tuyệt chủng. Tác giả nghi ngờ rằng sao trái đất còn tồn tại được qua một tai nạn lớn lao nhường ấy, nhưng sau được biết các khoa-học-gia hiện đại đã nói Bắc-cực và Nam-cực đã có nhiều lần thay đổi vị trí trong thời gian ngàn triệu năm qua.

Dẫn-đạo-sư cũng đồng ý với Edgar Cayee {Edgar Cayee là một người Mỹ, làm nghề chụp hình, nhưng có khả năng tự thôi miên. Khi ông thức tỉnh chỉ là một người thường, không hiểu biết gì hơn người khác, nhưng khi ngủ thôi miên, ông rất sáng suốt, có thể:

- Nói rõ nguyên nhân bí hiểm bệnh tật của một bệnh nhân và cách chữa, trong khi các bác sĩ đều chịu bó tay.

- Nói ra những hành vi qúa khứ của một người trong những đời trước, đã đưa đến hậu quả là những khổ nạn mà người ấy phải chịu ngày nay.

- Nói về những biến cố lớn trong quá khứ và tương lai.

Ông đã qua đời vào khoảng 1945, thọ hơn 70 tuổi. Ông còn để lại hơn 30 ngàn hồ sơ về các buổi thôi miên của ông.} rằng gần cuối thế kỷ này sẽ có một lần trái đất đổi trục nữa, nhưng lần này có điều đáng mừng hơn là đáng sợ, vì tai nạn ấy sẽ đem lại một nền hòa bình, bởi lẽ nhân loại sẽ có quá nhiều vấn đề kiến thiết phải lo, không còn đầu óc nghĩ tới tham vọng đất đai của kẻ khác.

I. THUỞ SƠ KHAI

Trong Thánh-Kinh (Bible) có câu: "Thuở sơ khai, Thượng-Ðế tạo ra Trời và Ðất". Nhưng thế giới từ đâu mà có, và trước đó là gì? Dẫn-đạo-sư nói rằng: Trước đó chỉ là sự trống rỗng sâu thẳm quá sức hiểu biết của con người. Không có hỗn mang, không có tiếng động, không có yên tĩnh, không có gì cả. Thế nhưng cái Mãnh-lực mà ta gọi là Thượng-Ðế vẫn có luôn luôn ở đó, vì không có Thượng-Ðế thì không có vật gì, không có động lực, cũng không có cả cái không có.

Hỏi: cái Mãnh-lực ấy từ đâu ra? Dẫn-đạo-sư thành thật nói: Chúng tôi không thể trả lời câu hỏi ấy, vì lẽ trước khi phát sinh ra linh hồn con người thì chưa có cuốn sổ thiên nhiên (Cuốn sổ nầy theo như tôi hiểu, là cuốn sổ vô hình, mà ta thường gọi là sổ Thiên Tào, ghi chép tất cả các việc ở thế gian không thiếu xót việc gì. Các nhà Tiên tri là những người có thần nhãn có thể xem thấy cuốn sổ ấy và biết được những việc quá khứ vị lai. Cũng thế, tất cả hành động của một người từ bao nhiêu đời trước đều được ghi vào trong tâm thức, mà kinh Duy thức gọi là A-lại da thức hoặc thức thứ tám, thức ấy bất diệt và mang theo kho tàng phúc tội từ đời nầy sang đời khác theo luật luân hồi nhân quả.)

Cho đến khi Thượng-Ðế đặt những hành tinh vào quỹ-đạo, tạo nên tác động và sự hòa nhịp, thì linh hồn chúng ta chỉ là những phần tử của Toàn Thể, không có sự linh hoạt và hiểu biết. Nhưng Mãnh-lực ấy vẫn có đó, Thượng-Ðế vẫn có đó, vẫn có ở đó cái trí thông minh hoàn toàn khôn khéo, ngoài tầm hiểu biết của tâm trí con người.

Cái Mãnh-lực ấy bắt đầu tác động, và những ý nghĩ nẩy sinh ra trong Ðại-Thể ấy, để rồi trở thành sự thực. Từ những nguyên tử hợp thành mảnh li-ti, rồi những mảnh li-ti cuốn vào nhau quay theo chiều hướng nhất định, dần dần đến những khối lớn trở thành hành tinh xoay quanh những mặt trời do từ lực hút dẫn.

Vài hành tinh dần dần khô cứng vỏ ngoài, sinh vật vi-tế hiện ra, trước còn đơn giản như những tế bào, sau phức tạp hơn như trứng, tinh trùng và bào thai. Từ Mãnh-lực ấy, gọi là Thượng-Ðế, bắn ra hàng triệu triệu tàn lửa, mỗi tàn lửa là một linh hồn bao quanh Ðại-Thể, mỗi linh hồn được tự do đi theo ý muốn của mình. Theo các Dẫn-đạo-sư, tất cả chúng ta được tạo nên cùng một lúc trong lần bùng nổ tàn lửa đầu tiên ấy, sau đó không có tạo ra linh hồn nào nữa, và cho tới nay có nhiều linh hồn còn chưa bước vào đời vật chất.

Lúc phôi thai, các linh hồn là những tàn lửa nhỏ do Thượng-Ðế phóng ra, cũng như những đứa trẻ chập chững đi bên cạnh cha, đều ngây thơ như nhau. Rồi sau có một số lang thang ra ngoài đường chính như những đứa trẻ mất nết, muốn thử sức mình mà không theo khuôn khổ của Thượng-Ðế. Nhân đó, những tính xấu như ghen ghét, tham vọng, phát sinh và càng ngày càng tăng trưởng.

Nói đến sự cấu tạo nên vũ-trụ, dẫn-đạo-sư viết: Có nhiều chuyển biến trong thời gian trái đất dần dần đặc cứng. Ðầu tiên là khí, rồi đến nước, rồi đến đất, đến cỏ cây, đến sinh vật, rồi những linh hồn nhập vào sinh vật hưởng thú ăn, ngủ, sinh sản, rồi bị ràng buộc vào thân hình vật chất.

Rồi Mãnh-lực mà ta gọi là Thượng-Ðế lại sinh ra một loại sinh vật trình độ cao hơn, có bàn tay, bàn chân, và xương đứng thẳng, với khối óc lớn hơn, có thể phân biệt thiện ác, và có thể điều khiển thú vật, chim cá, nhờ thông minh hơn. Mới đầu mọi sự đều tốt đẹp, sau vì họ được tự do làm theo ý muốn, những sinh vật ấy phối hợp với những linh hồn đã nhập vào thân súc vật, mà sinh sản ra những loại bán-nhân dị-hình, như người có móng chân ngựa, có đuôi, sừng, vây cá, lông chim. Ðó là các hậu quả thương tâm của sự cố ý bất tuân lệnh Thượng-Ðế. Những bán-nhân ấy xưa kia nhan-nhản trên trái đất, nay còn nhớ lại là những thân hình chân ngựa mình người (contaur), thần dê (salyr), người đuôi cá (mermaid).

Một số đã được tạc hình trong các ngôi mộ cổ Ai-Cập, những thân hình người có sừng, có móng vuốt, có cánh, hoặc bộ phận bất thường khác. Ngay cả đến tượng thần Sphinx tại Ai-Cập, là một trong những kỳ quan thế-giới, cũng được tạc với mặt người, thân sư tử và có cánh.

Những thân hình ấy, không nên coi là chuyện thần thoại, mà là có thực, do lỗi lầm nguyên thủy là sự phối hợp với loài vật.

Tại sao những người đầu tiên ấy lại phối hợp với thú vật, cá và chim? Dẫn-đạo-sư nói: Thoạt kỳ thủy, mỗi linh hồn là một thư-hùng lưỡng-thể, có đủ cả âm-lực và dương-lực, cũng như Thượng-Ðế. Một linh hồn có thể tự ý muốn ở trong một xác thân bao lâu cũng được, hàng ngàn năm, vì thế không cần sinh sản. Nhưng sau có những linh hồn bị ràng buộc vào thân xác thịt và phối hợp với loài vật, nên cần phải đặt ra một hệ-thống để cho con người có thể sinh sản riêng giống người và thỏa mãn nhu cầu phối hợp. Nhân đấy, một linh hồn nhập vào thân xác thịt được chia làm hai, tức là hai nửa, và chỉ khi nào hết đời vật chất trở về cõi tâm linh, hai phần mới lại nhập một. Linh hồn đầu tiên nhập vào thân hình người là Amelius, là một cá thể hoàn toàn. Nhưng đến khi Amelius trở lại thì thành ra hai phần Adam và Eve.

Tác giả nhắc lại lời Edgar Cayee cũng nói đến tên Amilius, hai chữ khác nhau về chính tả, vì Edgar Cayee chỉ "nói" lên trong lúc thôi-miên, còn dẫn-đạo-sư đã đánh thành chữ nên chính xác hơn.

Tập quán thông thường coi đàn bà ở địa vị thấp hơn đàn ông. Thực ra việc sinh con đẻ cái cực kỳ quan trọng. Vả chăng mỗi chúng ta khi trở lại trái đất, lấy thân hình hoặc nam hoặc nữ, vậy vinh dự không dành riêng cho phái nào. Ngay chính Thượng-Ðế là một cá thể hoàn toàn, chẳng phải nam, chẳng phải nữ; chúng ta gọi là Cha, chỉ là theo tập quán thông thường.

Sự sinh ra những người đầu tiên là một biến chuyển cực kỳ quan trọng, không những vì trình độ trí khôn và thân hình con người cao hơn tất cả các sinh vật khác, mà còn vì chính một phần tâm linh của Thượng-Ðế ở trong đó, khiến con người, với sự tự do làm theo ý muốn, có thể đạt đến quyết định sau khi suy luận, điều này hoàn toàn không có trong loại vật. Y được chọn con đường y đi, được thương yêu và được thù hận, vì y là một phần của Thượng-Ðế, nên y có thể tạo ra ý nghĩ rồi đem ý nghĩ đến chỗ thực hiện. Như vậy, con người trở lên một cá tính, nhưng vẫn là một phần của Toàn Thể Vĩ Ðại, vậy thì ghét bỏ hay khinh khi một người khác tức là thù hận chính mình và cả Tạo Vật. Mỗi chúng ta là một phần của Toàn Thể Nguyên Thủy, và bị tách ra cho đến ngày chúng ta được hợp trở lại với Thượng-Ðế.

Những lời Dẫn-đạo-sư nói cũng tương tự lời của Edgar Cayee và những nhà siêu-hình-học khác, vì lẽ tất cả sự việc đều ghi vào sổ thiên nhiên, và những tâm linh sáng suốt được đọc sổ ấy, đều được nói lên sự thật như nhau. Edgar Cayee cũng nói rằng Amelius là thiên thần đầu tiên nhập vào thân hình người, và một số linh hồn đã làm trái ý muốn của Thượng-Ðế mà phối hợp với cầm thú, khiến cho những quái vật được sinh ra. Sự kiện này đã tiếp diễn trong nhiều ngàn năm.

Nhưng từ khi linh hồn người được phân chia ra nam nữ để sinh sản ra cùng giống, Thượng-Ðế đặt ra luật khiến cho loài người không thể sinh ra con cái khi phối hợp với loài khác. Năm giống người được vào trái đất cùng một lúc, mỗi giống có một mầu da riêng biệt để thích hợp với ánh nắng mặt trời và hoà đồng với hoàn cảnh (Từ trước tôi không khỏi thắc mắc, sau khi đọc truyện Adam và Eve, rằng ai là thủy tổ của loài người. Theo kinh Thánh (Bible), Ðức chúa trời (God) đã tạo ra trời đất cỏ cây động vật và sau cùng là người trong sáu ngày. Người đầu tiên Adam và Eve sinh ra tại vườn Eden ở trong khu vực Assyria-Euphrates, tức là vùng tây Á châu từ Ðịa trung hải đến vịnh Ba tư. Ðến khi cháu Adam đời thứ 20 là Abram (sau đổi là Abraham) vì nạn đói phải đi sang Ai Cập, và cháu Adam đời thứ 23 là Joseph bị các anh bán sang Ai Cập, thì thấy rằng người Ai Cập không phải là dòng-dõi Adam. Theo tập Exodus là Jehovah (chương 6) "là Ðức Chúa Trời của người Do Thái" (The Lord of the Hebrews, chương 3), vậy Ðức Chúa Trời trong Kinh Thánh chỉ sinh ra người Do Thái, chứ không sinh ra người Ai Cập. Ngoài ra, còn người Á châu da vàng, người Âu châu da trắng, người Phi châu da đen, người Mỹ châu da đỏ, ai đã sinh ra? Nay đọc cuốn sách nầy, dẵn đạo sư nói có năm giống người được sinh ra tại năm nơi với màu da khác nhau, như thế có lý hơn.)

Từ đấy mặt địa cầu càng ngày càng đông người ở. Những tâm linh ở trong thân hình người ấy có thể giao tiếp với nhau bằng ý nghĩ, và cũng có thể tự ý thoát ra khỏi từ lực của trái đất, để tạo lên những vật rất to lớn và di chuyển vật ấy từ nơi này đến nơi khác. Thực ra họ có thể phân tán ra và kết hợp lại những nguyên tử, nên với phương pháp giản dị này, ta thấy có những đầu khổng lồ trên Cù-lao Easter (Easter Island) (Easter Island là một cù lao trên Thái Bình Dương thuộc Chi Lê (Chile)), kim-tự-tháp lớn tại Ai-Cập, và nhiều di tích khác của một nền văn minh cao hơn ngày nay rất nhiều.

II. NGƯỜI TRÊN TRÁI ÐẤT
Các nhà siêu-hình-học đều công nhận rằng Ðại-lục Mu, cũng tên là Lemuria, trong quá khứ, là nơi phát nguyên nền văn minh. Ðại lục ấy là một vùng đất đai rộng lớn đi từ bắc California đến nam Peru, bao gồm một phần lớn Thái Bình Dương, mà những đảo Hawaii, Tahiti, Polynesia và Easter là những di tích còn sót lại. Từ miền tây California , bấy giờ thuộc bờ biển của Lemuria sang đến Bắc mỹ, là biển cả, trong đó có vùng Hồ Mặn (Great Salt Lake) tại Utah . Lưu vực sông Mississippi là bờ biển phía tây của lục địa Hoa Kỳ ngày nay. Nhưng khi Lemuria bị chìm xuống và đất nhô lên thành dãy núi Rocky và Appalachian, thì trong một thời gian, sông Mississippi đổ vào những Ðại Hồ (Great Lakes), trước khi một thiên tai khác, một lần nữa, thay đổi địa thế.

Các dẫn-đạo-sư ước rằng người thái-cổ đã có ở trên trái đất từ năm đến bảy triệu năm, sau khi những bán-nhân thô lỗ đã được sinh ra từ nhiều triệu năm trước. Người đầu tiên là Amelius có thân hình nhẹ nhàng, có thể hiện diện tức thì tại bất cứ nơi nào trên trái đất. Amelius và những người sau cũng có thân hình nhẹ như thế, đều có khả năng chuyển ý nghĩ thành sự thật, và di chuyển những vật nặng bằng cách phân tán ra và kết hợp lại những nguyên tử của vật ấy. Chính amelius cũng là một ý nghĩ của Thượng-Ðế chuyển thành sự thật. 

Theo dẫn-đạo-sư nhiều người thái-cổ cao trên ba thước rưỡi, và những loài thú, cá, chim, phối hợp với họ để sinh sản ra những con dị hình to lớn, một số những con này có nhiều tài lạ khiến chúng được tôn thờ trong thần thoại Hy-Lạp và La-Mã. 

Trong thời Amelius sống trên trái đất với hình thể nhẹ nhàng, con người không bị bám chặt trên mặt đất vì sức hút của từ lực, nên không nặng nề. Amelius là một thư-hùng lưỡng-thể, nghĩa là có đủ âm lực và dương lực, là một người mẫu hoàn toàn, chỉ trừ không thể ăn uống, tiêu hoá và sinh sản, bản năng này chỉ được phú cho người sau này khi đã được phân chia nam nữ. Những người bất tử đầu tiên ấy luôn luôn ở trong tình trạng trẻ trung không già không chết như người vật chất. Họ muốn đến đâu là tức thì đến đó, cũng như hình ảnh ti-vi được thấy tại tất cả mọi nơi nếu có máy thích hợp. Họ ở Atlantis, Lemuria, ở Mỹ Châu, Á châu, ở đâu họ cũng tìm cách an ủi và dạy bảo những kẻ dị hình. 

Ðến khi Thượng-Ðế đặt ra luật loại nào sinh sản ra loại ấy, khiến cho không thể trộn lẫn hai loại khác nhau, thì người không còn phối hợp được với thú, chim, cá và sinh sản ra loại dị hình nữa. Từ khi có Adam và Eve đầu tiên đã phân chia nam nữ, sinh sản loài người lan tràn trên mặt đất, và thời kỳ vàng son trên Lemuria lý tưởng quá sức tưởng tượng của người hiện đại, đến nay đã hơn bốn triệu năm. 

Những người đầu tiên sinh sản nhanh chóng, vì sự sinh nở tự nhiên không khó khăn, nên có nhiều phụ nữ sinh mấy chục con trong đời họ. Sự hoà nhịp với thiên nhiên được hoàn toàn nên không có tật bệnh, và họ có thể ở trong thân hình rất lâu. Nhưng về sau họ bị ràng buộc vào vật chất, nên thể chất họ trở thành nặng nề hơn và khả năng bảo vệ đời sống giảm dần đi. 

Từ khi trái đất dần nguội lạnh, vỏ ngoài co lại thành những nơi lồi lên lõm xuống, những lồi lõm ấy đã thay đổi nhiều lần, khiến nên nơi này đất liền chìm xuống biển, nơi khác đất từ biển nổi lên. Dẫn-đạo-sư nói rằng gần cuối thế kỷ này một thiên tai như thế sẽ xảy ra, nhiều lục địa sẽ biến thành biển cả và biển cả trở thành lục địa, nơi băng giá sẽ nóng bức và vùng nhiệt đới sẽ đông lạnh. Một số nhà địa-chất-học cũng công nhận rằng trái đất đã thay đổi trục nhiều lần trong qúa khứ, bằng chứng là thấy có vết tích cây cối, động vật và khủng long dưới những lớp băng đá dày tại nam bắc cực. Bác-sĩ Frank Hibben ước tới bốn mươi triệu thú vật đã bị chết cứng đột ngột trong lần đổi trục cuối cùng trước đây.

Dẫn-đạo-sư khuyên những ai lo sợ thảm họa ấy hãy nhớ rằng đời sống vật chất chỉ là đời sống mỏng manh. Mục đích của chúng ta là thực hiện sự toàn thiện, để cho không phải trở lại đời vật chất nữa. Càng bám vào của cải trần gian thì càng cản trở bước tiến của tâm linh. Trong đời sống tâm linh, của cải không có nghĩa gì, vì mọi vật đều do ý nghĩ sinh ra, muốn gì có nấy tức thì. Những ai lo sợ hủy diệt vật chất, nên biết rằng thân xác tuy mất, nhưng linh hồn vẫn còn tồn tại đời đời. 

Lý do duy nhất năm giống người khác nhau được tạo lên là để giúp cho con người thích nghi với khí hậu. Màu da của người da đen cần để che thân dưới mặt trời gay gắt miền nhiệt đới, và cũng để dễ dàng ẩn náu trong rừng rậm âm u của Phi-Châu. Người da trắng ở nơi giá lạnh mùa đông tuyết phủ, cần ít mầu sắc để che thân dưới ánh mặt trời xiên nghiêng. Mầu nâu được dành cho những người ở vùng bán-nhiệt-đới Thái Bình Dương nhiều gió bão. Màu đỏ để hoà đồng với đất đỏ châu Atlantis và châu Mỹ. Sau cùng mầu vàng cho người phương đông hợp với đất vàng và mặt trời ít gắt. Mỗi giống có một thủy tổ Adam hay muốn gọi tên gì cũng được, và một Eve tượng trưng cho sự tạo thành con người hoàn toàn có bộ phận loài vật. 

Dẫn-đạo-sư đồng ý với Edgar Cayee rằng Amelius tái sinh là Adam và Eve, cả hai đều tái sinh nhiều triệu năm sau là Jesus và Mary. Về điểm dẫn-đạo-sư ước từ năm đến bảy triệu năm từ khi có người thái-cổ trên trái đất, tác giả vẫn còn thắc mắc cho đến ngày 31-10-1975 được đọc một bài báo Associated Press như sau: "Các nhà bác học đã tuyên bố hôm qua rằng xương người cổ xưa nhất đã được tìm thấy tại một lòng sông khô cạn miền đông Phi Châu. Những răng và xương hàm đã hóa thạch của 11 người đã được ước lượng chính xác bằng kỹ thuật phóng xạ, có từ 3.350.000 đến 3.750.000 năm. Ðây là di tích cổ xưa nhất thế giới.

III. ÐẠI LỤC LEMURIA 

Trong buổi sơ khai của nền văn minh trên đại lục Lemuria, những loại cây có nhiều đời sống không khó nhọc. Sau vì nhân số gia tăng, những người thái-cổ phải cố gắng để có thêm thực phẩm. Trước còn là đời sống vô định, nay đây mai đó, về sau họ phải gom hạt giống để trồng loại cây có nhân như hạt dẻ. Nông nghiệp bắt đầu từ đó, và là một bước tiến phi thường, cũng như ngày nay bay lên mặt trăng. 

Nhiều dân Lemuria làm nghề đánh cá và tỏ ra có tài trên mặt biển. Thoạt đầu, họ ở những vùng bờ biển, rồi sau di chuyển vào nội địa. Họ nuôi cừu (trừu) và gia súc mà họ coi như là anh em, nhưng khi dân số càng đông thì họ giết để ăn thịt. Tuy rằng đa số cao lớn hơn người ngày nay rất nhiều, nhưng trong thời kỳ thí nghiệm ấy, cũng có những người nhỏ bé hơn người lùn bây giờ. Tất cả những người ấy đều ưa thích hát và nhảy múa theo nhịp sáo và nhịp trống. 

Những người Lemuria đầu tiên có đời sống tâm linh cao. Họ hòa nhịp với Thượng-Ðế, nghĩa là hiểu những gì Thượng-Ðế truyền dạy bằng cách truyền tư tưởng. Dần dần họ bị ràng buộc vào trái đất, khiến thân hình nặng nề hơn, và con mắt thứ ba, là mắt sáng suốt hiểu biết mọi sự, bắt đầu lu mờ. Một số sống thanh đạm, ăn dè dặt, và luôn luôn tưởng niệm đến Tạo-Hóa, nên vẫn có thể thông cảm với Thượng-Ðế. Họ không dự vào những thú vui của người trần tục để giữ cho tâm linh họ gần với Thượng-Ðế. Họ dạy bảo dân chúng những điều trong sạch, ngay thẳng, nên được dân chúng kính nể và chia sẻ hoa lợi mùa màng với họ. Từ đấy phát sinh giới thầy tu đầu tiên. 

Những người cao siêu ấy còn giữ được khả năng phân tán nguyên tử và di chuyển những tản đá lớn. Ðến đây, tác giả hỏi đến nguyên lai những đầu khổng lồ trên cù lao Easter. Dẫn-đạo-sư nói: Ðó là những tản đá rất lớn đánh dấu nơi công trường vĩ đại mà dân từ khắp nơi trên đại lục Lemuria kéo đến tụ họp trong những cuộc đại lễ. Những đầu to lớn ấy với những nét mặt khác nhau tượng trưng các vị thần, mỗi vị ngự trị trên một phạm vi riêng biệt và hướng về một phương trời. Những đầu ấy được dựng lên trong thời sơ khai, khi con người chưa bị ràng buộc vào sức thu hút của từ lực, và như thế được tạo lên dễ dàng. 

Dẫn-đạo-sư kể lại một sự tích về những khối đá khổng lồ ấy. Trong thời kỳ giới thầy tu được nhiều uy tín, có những kẻ ghen ghét muốn làm giảm uy tín ấy. Họ thách đố những thầy tu trong ngôi đền tại vị trí hiện nay của cù-lao Easter: Ai có thể di chuyển một cái đầu khổng từ nơi này qua nơi kia thì sẽ được nhận đồ dâng cúng và được quyền ưu đãi hơn người khác. Những kẻ thách đố xảo quyệt ấy đã biết cách di chuyển những vật to lớn bằng một phương pháp huy động tinh thần gần như thôi miên, góp sức nhiều người cùng nhau tác động. Một số đông tụ họp lại, và đến giờ đã định họ đều bước tới, niệm câu thần chú, và cùng nhau ghé vai vào dưới cằm một cái đầu bằng đá, nâng bổng lên được vài phân, nhưng rồi kiệt lực đều té cả xuống. Ðến lượt các thầy tu, họ dùng khả năng phân tán nguyên tử, cùng nhau hát lên, ngước mắt nhìn trời, cử động bàn tay ( Có lẽ là hộ thần là bất quyết), tức thì đầu đá khổng lồ biến mất. Tất cả đám đông hoảng hốt kêu lên: "Trả lại đầu đá cho chúng tôi." - Xin vâng, thầy tu vừa nói xong, đầu đá hiện ra trên một ngọn đồi khác. Những kẻ thách đố xấu hổ, và từ đấy uy tín các thầy tu càng cao. 

Thời bấy giờ có những linh hồn từ các hành tinh khác đến thăm. Mặc dù họ mang hình thể khác hẳn trên hành tinh của họ, nhưng họ có thể biến thành hình người thái-cổ khi họ đến trái đất. Vì những thân hình của họ nhẹ gần như bóng sáng, cũng như Amelius và những người thái-cổ đầu tiên, nên họ có thể đi về trong thời gian ý nghĩ phóng ra. Dẫn-đạo-sư giải thích rằng vì họ có khả năng phân tán và kết hợp nguyên tử, nên họ thoát ra ngoài ảnh hưởng từ lực của trái đất, họ nhẹ hơn không khí, tùy ý muốn biến hiện chính thân mình hoặc những tản đá lớn lúc nào cũng được, đến nơi nào cũng được. Những kim-tự-tháp Ai-Cập và các di tích khổng lồ khác đã được tạo dựng lên bằng phương pháp ấy. 

Ðại lục Atlantis là một nơi thiên đường không nóng không lạnh, dân chúng thuộc giống người da đỏ, và cũng có những bán nhân thân hình thô kệnh, là dòng dõi của những người đã phối hợp với cầm thú. Không như người Lemuria chịu khó dạy dỗ và nâng cao những kẻ dị hình ấy, người Atlantis đối đãi với họ như những con vật để khuân vác nặng nề và làm những việc ti tiện. 

Văn minh trên lục địa Lemuria lên đến cực điểm. Nền giáo dục rất cao, những người trưởng thành có trình độ ngang với tiến sĩ ngày nay, nhiều người còn tiến xa hơn về cảm giác và ý thức. Chính quyền rất dịu dàng, hòa hoãn, hàng ngày ít việc làm vì không có tội ác, không có thù hận. Nếu ai có điều bất hòa nhất thời với một người khác, thì người trọng tài giải thích rõ ràng quan điểm của đôi bên. Không người nào bị giam vào tù ngục, vì người ấy có thể thoát ra khỏi tức thì, bởi lẽ ai cũng có thể chuyển ý thành sự thực. Hình phạt về một hành động sai lầm chỉ là lời khuyên nhủ khiến họ hiểu tính chất của điều lầm lỗi và tránh không tái phạm. 

Về luật luân hồi nhân quả, dẫn-đạo-sư nói rằng luật ấy đã có từ trước khi linh hồn nhập vào thân xác thịt. Ðó là luật trời, nếu ai làm trái thì phải đền tội. Amelius và những người sinh ra cùng thời đầu đã hiểu luật ấy. Một số vì cám dỗ mà giao hợp với cầm thú đã gây nhân xấu nó theo chúng ra ngoài thân xác cho đến thân sau, khi đời sống đã bị Thượng-Ðế rút ngắn. Khi tái sinh ra thành những Adam, Eve và thân hình khác, họ đã phải cố gắng xoá cái nợ luân hồi ấy bằng cách đối xử tốt với loài vật. Nhưng bấy giờ Satan lợi dụng cơ hội để điều khiển những kẻ làm sai ý muốn của Thượng-Ðế. Vị thần sa ngã ấy quyến rũ những linh hồn xấu xa, càng ngày càng đông bộ hạ, đi ngược lại con đường dự định của Thượng-Ðế, có lúc tưởng chừng như y có quyền năng mạnh hơn cả Thượng-Ðế, nhưng không phải. Thượng-Ðế vẫn toàn năng, vẫn theo dõi kẻ lạc đường nhất thời, và khi một linh hồn biết hối cải và hồi đầu về Cha, tức thì có sự lạ chờ đón y. Do đó mà có luân hồi, là chuyện đáng buồn cho người đời cứ phải trở lại nhiều lần vào cái thân vật chất, nhất quyết rửa sạch vết xấu xa trong tâm thức. Một số linh hồn đã tiến cao đến toàn thiện, đã hoàn tất bánh xe luân hồi, không phải trở lại đời vật chất nữa.

IV. DÒNG-DÕI THIÊN THẦN

Văn minh trên trái đất chưa bao giờ lại được tiến bộ như thời vàng son trên đại lục Lemuria và Atlantis. Ða số dân chúng có trình độ trí thức cao, và nhờ sự cần cù của họ, cây cối tốt tươi bao phủ khắp mặt đất. 

Nhưng không phải là tất cả đều thơ mộng. Nhờ sự phồn thịnh do sức người tạo lên, có vài giống vật sinh sản nhanh hơn loài người. Ðiểu thú khổng lồ phá hoại mùa màng, thằn lằn to lớn từ biển bò lên đầy mặt đất, và những con khủng long với thân vĩ đại và đầu nhỏ bé, hung bạo đến nỗi người phải họp nhau lại trong những khu bảo vệ chặt chẽ. Tại Lemuria tình trạng rất nguy nan, khiến người ta phải đào hầm dưới đất hoặc moi rộng hang ở sườn núi để ẩn náu. 

Những con khủng long khổng lồ lang thang khắp nơi, đạp đổ cây cối, tàn hại hoa mầu, phá hoang vườn tược mà người ta tốn công trồng tỉa để có thức ăn và bóng mát. Chúng dày séo lên tất cả mọi vật trong tầm của chúng, một ngón chân của chúng có thể đè nát một đứa trẻ con. Chúng thường đánh nhau kịch liệt để tranh dành miếng mồi ngon như người hoặc thú vật. Ðuôi lớn của chúng quạt khắp rừng rậm và sông ngòi để tìm miếng ăn. 

Ðể tránh các thú dữ ấy, người phải sống trong những hang mà cửa vào thấp nhỏ. Ðó là một thế giới trong bóng tối. Chỉ có đàn ông mới dám đi ra để kiếm mồi khi những thú dữ không có ở gần. Họ sống bằng thịt săn và ít rau cỏ trồng quanh cửa hầm. Phụ nữ cả đời chỉ được trông thấy bóng người đi qua cửa hang. Họ nói với những bóng ấy, tưởng đó là những tâm linh của thế giới khác đến nói chuyện với họ, không biết rằng đó là bóng của những người có thân hình như thường đứng trước họ và quay lưng ra ánh sáng. Trẻ con dám phiêu lưu ra ngoài, khi không trông thấy có con vật khổng lồ nào từ xa mới chui ra khỏi cửa hang. Mắt họ bị chói lòa vì không quen với ánh sáng mặt trời. 

Những gia đình ấy hôn phối lẫn nhau trong những buổi lễ ngắn ngủi tổ chức bởi những thầy tu là những người còn nhớ đến đời sống tâm linh xưa kia. Trước mặt thầy tu, đôi trai gái nắm tay nhau, và tất cả cùng hát những câu chúc tụng. Nếu có người săn được một con vật, nhỏ như con thỏ hoặc lớn như con trâu, thì đó là một đại tiệc. Họ ăn, họ ngủ, họ nói chuyện, họ sinh sản. Ðó là đời sống âm thầm tăm tối của những người Lemuria ít may mắn. 

Vậy mà họ là dòng dõi thiên thần! Trước khi một số gan dạ cố gắng trừ khử những con vật kinh khủng ấy, tưởng chừng ít có hy vọng cho sự tiến hoá của loài người. 

Dẫn-đạo-sư kể lại một gia đình Lemuria chừng 20 người cả con và cháu, sống cách đây khoảng 60 ngàn năm. Họ ở trong hang đào sâu trong đất dưới một ngọn đồi, cửa hang rất thấp, ra vào phải bò, để giữ cho những con vật to lớn không thể vào được. Họ ngủ trên những chiếu đan bằng cỏ mọc quanh hang, sống bằng hạt dẻ và trái cây, đôi khi có thịt do đàn ông săn được. Họ sống trong bóng tối lờ mờ, chỉ có chút ánh sáng nơi gần cửa vào và những khi đốt đuốc, cây đuốc làm bằng mỡ những con vật đã chết, nhưng đuốc ấy tỏa nhiều khói quá chỉ dùng khi nào rất cần. 

Một ngày kia, trong khi đàn ông ra ngoài săn bắn, một con khủng long to lớn đánh hơi biết có người trong hang, nó lách cái đầu nhỏ của nó vào cửa hang, cố sức cậy ra một lỗ lớn để vào. Tất cả đàn bà, trẻ con trong hang sợ hết hồn, nhưng cũng phải can đảm lấy gậy đập vào đầu nó trong khi miệng nó phun ra khói. Ðàn ông nghe tiếng ồn ào chạy về, lấy giáo nhọn đâm vào nó hàng trăm nhát cho đến khi nó chết. Rồi mấy chục người ở những hầm quanh đấy phải họp nhau lại lôi xác nó ra xa vừa để tránh mùi hôi thối, vừa để những con vật khác khỏi đến gần. 

Ðó là cảnh sống hằng ngày của những gia đình thời bấy giờ, luôn luôn ở trong tình trạng sợ hãi. Họ ao ước được thấy cảnh đẹp bên ngoài, cũng như ngày nay một người già bệnh tật ao ước được lên cõi trời. Chỉ có những người đánh cá là không phải ở trong cảnh sợ hãi tối tăm ấy, vì vùng bờ biển cây cối thưa thớt, những con khủng long và mam-mút (là loại voi khổng lồ có nhiều lông và ngà cong lên) thường không lui tới. Nhưng vì đông dân cư quá nên chỉ có một số ít được hưởng cái tự do ấy. 

Thật là một ngày quan trọng vô cùng khi một chiếc máy bay đầu tiên đáp xuống hồ Chalda trên đại lục Lemuria, đem lại hy vọng cho những kẻ khốn khổ, dòng dõi của những bậc trí thức cao mà ngày nay sa xuống gần ngang súc vật, với đời sống trong tăm tối không có tương lai. Họ hết sức vui sướng khi được biết rằng những người Atlantis muốn cộng tác với họ để triệu tập một đại hội thế giới bàn cách trừ khử những con vật khổng lồ. 

Máy bay có thể đáp xuống bãi biển không sợ nguy hiểm, vì những con vật khổng lồ không ở nơi bãi cát. Khi những người Atlantis đầu tiên đặt chân lên Lemuria, tin tức lan ra rất nhanh trên khắp đại lục, phá tan không khí buồn tẻ trong nhiều thế hệ. Tin tức được loan ra bằng hệ thống một loại dây leo truyền âm do một nhạc khí tựa như cái trống của bộ lạc Phi Châu, trống nọ truyền đến trống kia đi xa hàng trăm dặm. Những người mới đến chào hỏi người Lemuria như là những anh em lâu ngày mới gặp lại nhau. Người Lemuria chạy vội đến nơi đón khách quý, vui mừng khôn tả. 

Khi người Atlantis nói đến những điều mới lạ trên đất họ, người Lemuria sụt sùi khóc, vì cảm thấy khác biệt một trời một vực giữa cảnh xa hoa của người và cảnh khốn khổ của mình. Chẳng khác nào một người mọi Phi Châu chưa bao giờ bước chân ra khỏi làng, nay được nghe tả cảnh phồn hoa Nữu Ước và Luân Ðôn. Một số những người niên trưởng Lemuria đi theo đám quý khách trở về Atlantis để cùng họp với những người từ các nước phương xa đến hội. Atlantis có nhiều tàu, nhiều khinh-khí cầu, nên việc triệu tập dễ dàng nhanh chóng, và những thanh niên được đưa đi học về kỹ thuật và hóa học. 

Phi công lái chiếc máy bay tên là Drofus. Cùng với y có hai nhà bác học để điều khiển quả cầu pha lê nhỏ trong máy bay cho phù hợp với một tia sáng của quả cầu lớn trung ương. Ðây là một phương pháp tinh vi mà ngày nay không ai hiểu được. Muốn bay từ Lemuria hoặc một nơi khác xa Atlantis, thì phải sửa soạn rất công phu, để điều hợp quả cầu nhỏ trong phi cơ với một tia sáng của quả cầu lớn, khiến cho phi cơ tự động theo hướng mà bay trở về. Nguyên tắc những quả cầu pha lê có nhiều mặt phẳng đã bị chôn vùi với đại lục Atlantis, ngày nay không ai biết cách tạo lên và xử dụng những quả cầu ấy. 

Người Atlantis bấy giờ là những người tốt bụng. Họ thấy đời sống khốn khổ mà những con vật khổng lồ đã gây cho người Lemuria, họ thúc giục những người này di cư sang nước họ, và họ dạy cho cách đóng những chiếc tàu lớn để có thể đi xa. Nhưng họ không cho ai biết bí mật Quả cầu Pha lê, nó giúp họ điều động các máy bay và tàu ngầm của họ. Vì họ có phương tiện vận chuyển nhanh chóng tiện lợi, nên những lần triệu tập hội đồng cũng được nhanh chóng. 

Có những máy bay loại nhẹ chở vài ba người, buộc vào một quả cầu, chỉ cần một khu nhỏ để đáp xuống và bốc lên, lại có bộ phận điều khiển luồng gió, đại khái như máy trực thăng ngày nay, để di chuyển gần. Những máy lớn và mạnh hơn điều khiển bằng tia sáng loại laser do Quả cầu Pha-lê phát ra, cần phi đạo dài hơn, như máy phản lực hiện thời. Những sân bay được xây tại nhiều nơi để chở người đi dự hội và để tiếp tế hàng hóa, vì khi ấy Atlantis giữ địa vị lãnh đạo trong việc sáng chế và sản xuất các loại hàng. Lemuria trong những ngày cuối được coi như một bà mẹ khôn ngoan và dịu hiền, cố gắng dạy bảo những nước nhỏ, nhưng bọn này ưa thích đời sống tối tân của Atlantis hơn là triết lý của Lemuria. Ðiều này khiến chúng ta nghĩ đến bọn trẻ tại Hoa-Kỳ ngày nay. 

Trong những hội họp quốc tế, có người đưa ra ý kiến dò tìm đến tổ những con vật khổng lồ để diệt con nó ngay khi còn nhỏ. Người Atlantis chế ra một hơi độc để "thổi" vào tổ chúng khi thuận chiều gió, cách ấy tỏ ra có hiệu quả với những con nhỏ, nhưng không đủ sức sát hại những con lớn. Dẫn-đạo-sư tả khí cụ được dùng tựa như cặp đũa để tìm mỏ hay mạch nước ngày nay, nhưng tinh vi hơn nhiều, để tìm ra tổ khủng long và mam-mút, những đũa ấy giúp cho những người liều mạng đi tìm đích xác vị trí và thổi thuốc vào tổ nó. Những người gan dạ đã đi tìm khắp các nơi trên thế giới. 

Cuộc chiến đấu với khủng long và các vật khổng lồ khác đã kéo dài nhiều thế kỷ và đã có nhiều cuộc hội họp quốc tế để bàn cách giải phóng đất đai nhanh chóng hơn. Người ta đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp trong việc diệt trừ những vật khổng lồ khiến chúng đã giảm bớt, trước khi một thiên tai xảy đến, đáy biển trồi lên, lục địa chìm xuống, chôn vùi đại lục và chôn luôn cả những vật khổng lồ. Khi một giống nào làm nguy hại cho giống khác, thì giống ấy không thể tồn tại lâu bền trên trái đất. Cái luật ấy là một sự cảnh cáo cho nhân loại hiện nay đương làm cho đất đai, sông biển và không khí nhiễm độc nguy hại cho các loài khác. 

Ðược hỏi tại sao Thượng-Ðế đã sinh ra những vật khổng lồ ấy rồi lại khiến cho chúng bị diệt chủng, như thế có phải là Thượng-Ðế đã lầm không? Dẫn-đạo-sư nói: Thượng-Ðế không lầm. Tạo-Hoá là một phòng thí nghiệm trường kỳ. Thoạt đầu con người cao hơn ba thước hoặc thấp hơn một thước, rồi sau trở lại trung bình hơn một thước rưỡi, và trong mấy ngàn năm gần đây lại cao hơn trước. Nhưng nếu nhân loại cứ tiếp tục nhiễm độc trái đất, làm nguy hại cho các giống khác, thì sẽ phải chịu số phận như loài khủng long. Mình được sống thì phải để cho kẻ khác cùng sống với mình, đó là luật chung của vũ-trụ, nếu chỉ phá hoại, tàn hại giống khác, sẽ không tồn tại lâu trên trái đất. 

Khi những vật khổng lồ bị giảm sút dần đi, thì đời sống con người đỡ khổ, họ đã có thể hưởng ánh sáng mặt trời và gió mát. Dân số tăng rất nhanh chóng, những phụ nữ có hàng chục đứa con. Việc sinh sản không khó khăn và không cần săn sóc như ngày nay, vì đó là sự tự nhiên, cũng như loài vật sinh con đẻ trứng chẳng cần ai săn-sóc và dạy cách nuôi con. 

Trẻ con lớn lên được dạy bảo nhờ những người còn nhớ đời sống tâm linh và cảm thông với các linh hồn như ta nói chuyện với hàng xóm. Chúng được dạy cho biết lý do tại sau chúng thác sinh ra đời vật chất, và chúng phải làm việc thiện để hoàn tất sứ mệnh theo luật Trời. Những bậc cha mẹ cũng hiểu rằng con họ cũng là những linh hồn ngang tuổi với họ, đã chọn họ làm cha mẹ để học hỏi và tiến hóa trong thân xác thịt. Những trẻ con Lemuria có lẽ là những kẻ hoàn toàn nhất trong nhân loại, chúng gần như không biết đến tội lỗi đối với cha mẹ, thầy dạy và bạn bè.
  
V. NHỮNG MÁY BAY ÐỜI THƯỢNG CỔ

Atlantis là một đại lục huyền ảo, lý tưởng, xưa nay không đâu bằng, với rừng rậm thâm u, với cánh đồng bát ngát, với khe nước suối, và một con sông lớn ngăn cách Poserdia với phần đất đai còn lại. Thật là một cõi thần tiên! Vua Atlantis tên là Atlas tức là một Adam, vợ là Heputh.

Châu Atlantis chạy dài từ duyên hải đông Hoa Kỳ, gồm những vùng bờ biển Georgia, Carolina, Virginia, west Indies và Brazil, băng qua Ðại Tây Dương đến gần duyên hải tây Phi Châu. Những vua đầu tiên là những linh hồn tiến hóa cao, còn nhớ đời sống tâm linh và có thể cảm thông bằng tư tưởng. Vua Atlas phóng những luồng điện và những người dưới bắt luồng điện ấy hiểu được ý vua không cần nói hay viết.

Nhưng đó không phải là một trạng thái thôi miên, chỉ là sức mạnh của ý nghĩ. Sức mạnh ấy tỏa ra từ Atlas qua các con cháu, trở thành năng lực linh động, từ ấy nẩy sinh ra những sáng chế kỳ lạ, chưa bao giờ có trước khi châu ấy bị chìm. Vua Atlas phóng ra một tư tưởng, những người khác bắt được làn sóng tư tưởng ấy đưa đến chỗ thực hiện ý nghĩ thành sự thật. Có như thế, những người Atlantis trong nhiều ngàn năm, đã sáng chế ra máy bay, tàu ngầm, tàu nổi, và tia điện như loại tia laser ngày nay, đưa đến một nền văn minh cao tột bực chưa từng có.

Atlas và Heputh sinh ra 24 người con và có nhiều cháu, đều có trình độ tâm linh cao. Mỗi người con là một ông Hoàng cai quản khu vực của mình. Anh quốc ngày nay nằm trong phạm vi của một khu vực, trước khi bị loạt thiên tai nhận chìm tất cả đất đai từ Hoa Kỳ đến Anh, Bồ Ðào Nha và miền tây Phi Châu. Thời bấy giờ người sống rất lâu, hàng triệu năm, nên chưa có vấn đề thừa hưởng, và chẳng bao lâu vua Atlas có hàng trăm con cháu.

Tác giả nhận thấy rằng những điều Dẫn-đạo-Sư nói trên tương tự với sự tích Atlantis mà nhà học giả Hy-lạp trứ danh Plato đã để lại cho văn minh tây phương. Plato được biết sự tích ấy do luật gia đại tài Solon ở thành Athens 600 năm trước kỷ nguyên, ông nầy đã sang Ai-Cập mười năm và đã học nhiều sự tích Atlantis do các thầy tu thành Sais, thủ đô Hạ Ai Cập. Theo Plato kể lại, vị thần Poseidon sinh ra năm đứa con trai sinh đôi, người con trưởng là vua Atlas có nhiều con cháu tiếp tục trị vì vương quốc trong nhiều thế kỷ.

Dẫn-đạo-Sư nói thêm rằng Atlas là con cháu là dòng giống thuần túy không bao giờ ô nhiễm vì chung sống với những bàn-nhân đã có từ lâu trên Atlantis trước thời Atlas. Người Atlantis coi những bàn-nhân thô lỗ ấy như loài vật để làm việc nặng, như khuân vác, cày bừa, và sau nầy vận chuyển máy móc.

Tuy có sự phân biệt giữa hai hạng người và bàn-nhân, nhưng lúc đầu họ không cảm thấy bị lạm dụng, vì mỗi bên đều làm hết sức mình. Nhưng mấy chục ngàn năm sau, sinh ra có sự tranh chấp, không những giữa người và bàn-nhân, mà còn ngay chính giữa loài người, vì bấy giờ đã mất quan niệm họ hàng và quan niệm đồng nhất. Khi ấy Atlas và con cháu gần đã qua đời lâu rồi, dân chúng đã đông đầy trên đại lục, đồng thời những chim và thú khổng lồ đã sinh sôi nẩy nở ra nhiều, trở thành mối đe dọa tiêu diệt nhân loại.

Ðược hỏi rõ hơn về sự cấu tạo loài người, Dẫn-đạo-Sư nói: Người ta lúc đầu chỉ là những hình bóng do ý nghĩ của Thượng Ðế mà thành, nhưng từ khi phối hợp với loài vật sinh ra những bàn-nhân, thì bị ràng buộc vào mặt đất. Khi Thượng Ðế sinh ra nam và nử là hai phần của linh hồn. Ngài dùng những chất liệu ở mặt đất để tạo thành những thân hình xác thịt, như đã tạo nên loài vật và các sinh vật khác, các nguyên liệu căn bản vẫn thế: khí, nước, đất, kim thạch, sinh tố. Thân hình người ta là sự sáng tạo tối cao, cũng bằng cùng những thứ vật liệu như các hình thể khác trên trái đất nầy. Xin chớ nghĩ rằng Tạo Hóa có hai bàn tay lớn từ trên trời thò xuống cạo đất xét trộn với nước, kim thạch, cây cỏ. Thực ra chỉ là ý nghĩ của Thượng Ðế dùng những vật liệu thích hợp tạo nên hình một sinh vật hoàn toàn.

Atlantis trong nhiều ngàn năm được những vua và hoàng tử sáng suốt nối tiếp nhau trị vì, mưu lợi ích chung. Rồi sau, người Atlantis hành hạ những bàn-nhân, gọi chúng là lao động nửa người nửa vật, cũng như người Mỹ miền nam trong thời kỳ đồn điền hưng thịnh, những trại chủ hành hạ người da đen bị bắt từ Phi Châu tới để làm nô-lệ. Những bàn-nhân xấu số ấy thường ở với nhau, nên dòng giống không khá lên được. Họ ở trong những túp lều, trong khi người Atlantis giống da đỏ sống xa hoa, với đủ đồ trang bị tự động do sức mạnh của quả cầu Pha-lê thu hút năng lực của mặt trời phát ra. Người Atlantis có đầu óc sáng tạo, thích thí nghiệm tất cả các loại khí (hơi), kim thạch, thảo mộc, và họ dùng những bàn-nhân để làm việc nặng nhọc như khuân vác, vận chuyển, hoặc làm việc nhẹ như điều hành những công tác dưới sự chỉ huy của người Atlantis.

Dẫn-dạo-sư nói rằng những sinh linh (beings) từ ngoài không gian được hấp dẫn tới Atlantis vì năng khiếu sáng tạo của những người ở đấy, và đã dành nhiều thì giờ đàm luận với họ. Những quý khách không gian ấy đã giúp nhiều trong việc tạo nên Quả cầu Pha-Lê vĩ đại. Nhờ sức mạnh lớn lao của Quả cầu ấy mà những máy bay, tàu nổi, và tàu ngầm được duy chuyển với một tốc độ kinh khủng. Lúc đầu sức mạnh ấy được dùng vào việc ích lợi chung, nhưng về sau lại dùng vào việc phá hoại.

Quả cầu vỉ đại! cái lực lượng do việc thiện và việc ác mà Edgar Cayee đã nói đến, hiện nay còn nằm sâu dưới Ðại Tây Dương khu Tam giác Bermuda, ở đấy đã có biết bao máy bay và tàu biển biến mất một cách bí mật trong những thập niên gần đây.(Xem chương. IX. biển Sargasso bí mật)

Những khách không gian đã dạy cho người Atlantis đã tạc nên Quả cầu khổng lồ, sau khi họ đã bắt đầu chinh phục được năng lực bằng những quả cầu nhỏ để điều khiển những đồ trang bị. Trên một sườn đồi, họ tìm thấy một mạch đá thạch anh (quart) đủ lớn để phản chiếu tất cả tia sáng của mặt trời và mặt trăng, vì mặt trăng cũng dự phần vào cuộc thí nghiệm lớn lao ấy. Sau khi đã dục bỏ hết đất bám chung quanh,họ khắc những mặt phẳng rất tỉ mỉ để phản chiếu tất cả các tia sáng. Thời bấy giờ bầu khí quyển hoàn toàn trong sạch, nên tia sáng không bị thiên lệch. Vì họ sản xuất năng lực thừa dùng hàng ngày, nên họ tìm cách tích trữ năng lực còn dư vào những thùng lớn bằng đồng, để cho các máy bay và tàu không phải tùy thuộc vào sự cung ứng năng lực mỗi ngày.

Những khách không gian ấy đến trái đất bằng những phi thuyền tuyệt xảo. Có nhiều loại máy bay khác nhau, phần lớn có những đĩa và những máy xoay tròn để không bị sức hút của từ lực khi cất cánh và hạ cánh. Ðến nơi họ chuyển những vật liệu lấy ở trái đất thành khí chất để làm ra điện lực. Những người Atlantis theo mẫu ấy đã sáng chế ra những máy bay và tàu chuyển động bằng năng lực do Quả cầu vĩ đại phóng ra.

Theo Dẫn-đạo-Sư, vì có những thú vật khổng lồ càng ngày càng đông, nên người Atlantis đã phải tập trung vào những khu có tường thành bao bọc, và nhu cầu đã thúc đẩy tài sáng tạo của họ. Vì họ là dòng dõi những "linh hồn nhẹ hơn không khí", nên họ còn giữ được khả năng giao tiếp với thế giới tâm linh và sáng tác ra những kỳ quan mà thế giới chưa từng thấy.

Tại sao những người không gian đến Atlantis mà không đến Lemura? Dẫn-đạo-Sư nói: Ðó là gì cái lẽ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, cùng có óc sáng tạo như nhau thì dễ gần nhau hơn.

Những khách không gian và người Atlantis đã phải mất nhiều năm mới tạo nên Quả cầu khổng lồ, và cái gương phản chiếu để chứa đựng quả cầu đó. Rồi họ sáng chế những tàu, máy bay, cả loại máy đứng yên một chỗ trên không trung như máy trực thăng ngày nay. Với những máy nầy họ đã học được địa đồ những vùng rộng lớn trên trái đất. Một số họa đồ ấy được tìm thấy mấy trăm năm trước, cho thấy hình ảnh trái đất trước lần đổi trục sau cùng, khi mà Nam-cực không có băng tuyết.

Những họa đồ ấy đã được tìm thấy tại Thỗ-Nhĩ-Kỳ hồi đầu thế kỷ 18, là sở hữu của Ðề-đốc Thổ Piri Reis. Ðó là bản sao họa đồ rất cổ, cho thấy những dãy núi ở Nam-cực trong thời không có băng tuyết. Những nhà địa-dư học mãi đến năm 1952 dùng phương pháp đo tiếng vang mới hình dung được những núi ấy. Ngày nay đem những hình chụp từ vệ tinh so với bản địa đồ ấy thì thấy rất giống nhau.

Ðại học Georgetown trong buổi phát thanh vô tuyến ngày 26-8-1956 bình luận về địa đồ Reis, nói rằng nếu không dùng phương pháp chụp hình từ trên không trung thì không thể nào họa được địa đồ ấy.

Trong cuốn Edgar Cayee on Atlantis, chính con Edgar Cayee cũng có đề cập tới địa đồ ấy.

Chắc chắn rằng chưa ai có thể bay được hồi đầu thế kỷ 18 khi địa đồ Reis được tìm thấy. Edgar Cayee và các dẫn-đạo-sư đồng ý rằng những người Atlantis là những phi hành gia đại tài.

VI. ATLANTIS HIỂN NHIÊN CÓ THẬT

Plato, nhà hiền triết Hy-lạp 24 thế kỷ trước (427-347 trước kỷ nguyên) đã nói đến một đại lục rộng lớn nằm tại phía tây eo biển Gibraltar, đó là đại lục Atlantis. Khi bị chìm xuống vì động đất, Atlantis trở thành một vùng biển bùn lầy trong nhiều ngàn năm, tàu thuyền không qua lại được. Edgar Cayee trong khi thôi miên, nói Atlantis bị chìm mất dạng sau ba trận thiên tai, trận sau chót khoảng 10.000 năm trước kỷ nguyên.

Những nhà địa chất học cũng nhận rằng những đại lục ngày nay đã trải qua rất nhiều biến chuyển nổi lên chìm xuống trong nhiều triệu năm. Bờ biển Na-uy, Thụy Ðiển, Ðam Mạch, đã trồi lên hàng trăm thước trong nhiều ngàn năm gần đây. Cù lao Sivily thuộc Ý ngày nay cao 1000 thước trên mặt biển, xưa là đáy biển. Những lớp than đá tại Pennsylvania chứng tỏ rằng vùng ấy đã ở trên và dưới mặt biển ít nhất 23 lần. Trận động đất tai hại nhất trong thời cận đại đã xảy ra 200 năm trước tại thủ đô Bồ-đào-Nha (gần bờ biển đông của Atlantis) sát hại 60 ngàn người trong sáu phút. Nhiều người chạy đến bến bờ cẩm thạch tưởng rằng được an toàn, nhưng bến tàu đột nhiên chìm xuống biển sâu 200 thước, hút xuống tất cả người và tàu thuyền lân cận. Ðồng thời đất nứt ra ở một làng Maroc nuốt cả 10 ngàn người ở đó. Nhiều người ngày nay còn nhớ nạn núi phun lửa Pelée trên đảo Martinique năm 1902, thành phố thủ đô và 30 ngàn dân chúng bị quét sạch trong vòng mấy phút.

Gần 40 năm trước, Edgar Cayee đã tiên đoán một phần Atlantis quanh Bimini bắt đầu nổi lên khoảng 1968-1969. Trong mấy năm vừa qua, các nhà địa chất học đã chụp được những hình tựa như những bức tường và những tòa nhà ở dưới mặt nước tại đó. Năm 1949 nhà bác học Maurice Ewing thuộc đại học Columbia, đã công bố một bản báo cáo về những cuộc thám hiểm dưới Ðại-Tây-Dương trong đó có nói đến việc khám phá một bãi cát nằm dưới sâu 5600 thước dưới mặt nước và cách xa đất liền 2000 cây số, nơi ấy xưa là bãi biển, vì chỉ có bờ biển mới có bãi cát.

Bắc Mỹ thời tiền sử khác với hình thể ngày nay, vì người ta tìm thấy xương cá voi tại Michigan, New Hampshire,Montreal, ở những nơi cao hơn mặt biển 150 đến 200 thước.

Những kim-tự-tháp tại Ai-Cập và Mể Tây Cơ có nhiều điểm tương tự, như là những chữ thập trên các ngôi đền ở Mễ Tây Cơ đã có từ lâu trước khi người Tây Ban Nha xâm chiếm và đem đạo Gia Tô truyền vào nước. Dẫn-đạo-Sư giải thích rằng: từ đời xa xưa không có núi, những kim-tự-tháp được xây dựng trên Lemuria và Atlantis, là những nơi cao nhất cho các thầy tu tôn thờ Thuợng Ðế. Bao giờ người ta cũng nghĩ rằng Thượng Ðế ở trên cao, trái với đất ở dưới. Thập-tự tượng trưng cho người đứng trên trái đất với hai tay dang ra, giữa khoảng từ mặt đất lên đến trời.

Trong thời vàng son trên Atlantis, theo lời dẫn-đạo-sư, những nhà ở cũng tựa như thời La-mã, dùng đá, cẩm thạch, đất sét để xây. Nhờ được khí hậu tốt, người ta ưa sống ngoài trời, nên có nhiều hành lang và sân trống giữa nhà. Người Atlantis có óc sáng tạo, chuyển ý nghĩ thành đồ dùng. Nhiều người còn giữ mình trong sạch không tội lỗi, nên có thể phóng ý nghĩ nhanh hơn là gửi thơ. Vì lẽ ấy những sáng tác mỹ thuật giống nhau tại nhiều nơi trên hoàn cầu.

Nói về luân hồi, Dẫn-đạo-sư giải thích: Lúc đầu, người đều toàn thiện nên sống rất lâu. Nhưng sau vì cám dỗ làm dơ bẩn linh hồn, nên đời sống bị rút ngắn lại. Những linh hồn ấy trãi qua một thời gian thiền định để kiểm điểm lại những lỗi lầm và quyết định chuộc tội, nên tìm cơ hội trở lại đời vật chất, do đó mà có luân hồi. Luân hồi cần thiết cho sự tiến hóa cũng như không khí để thở. Khi ở trong thân hình vật chất thì linh hồn muốn trở về với đất Sáng Tạo. Họ nhớ đến tình trạng toàn thiện, và mặt dù con đường đi cực nhọc và khó khăn, có rất nhiều linh hồn đã đi được đến nơi và hòa đồng với Thượng Ðế, không phải quay trở lại thân hình vật chất nữa. Không phải là tất cả các linh hồn đều đã đầu thai. Có một số muốn ở lại trạng thái tâm linh để giúp đỡ những linh hồn trong thân xác thịt, có thể gọi đó là những thiên thần hộ mệnh.

VII. ÐỜI SỐNG TRÊN ATLANTIS

Dẫn-đạo-sư nói: Trong một đời trước, cách đây hơn 51.000 năm, tác giả tên là Thelama, đã sống cùng gia đình trên Atlantis gần Poseidon, thành phố lớn nhất của Poseidia, trong một khu vườn trại rộng lớn có tường cao bao bọc chung quanh để tránh khủng long và man-mút. Ở đây cái nạn những con vật khổng lồ còn đỡ hơn ở Lemuria.

Những người Atlantis có mũi nhọn dài, tóc đen bóng như than, mắt đen, môi tô son, da đỏ như người thổ dân Mỹ, những nguời nầy dòng dõi người Atlantis. Không có tục bôi móng tay móng chân, nhưng họ xoa dầu lên tay, mặt và ngực để giữ cho da mềm và đỡ bị nắng rám. Quần áo họ bằng hàng dệt nhuộm màu các kiểu, đàn ông nhiều khi còn làm dáng hơn đàn bà. Răng trắng như ngọc trai và không bị sâu. Rau cỏ và trái cây họ đều ăn sống, còn thịt thì ăn nướng nhưng ít ăn trừ khi có đại tiệc. Bao giờ cũng có một ngày để lễ mặt trời và một ngày để lễ mặt trăng tròn được coi là Hoàng Hậu Ban Ðêm.

Thượng Ðế là đấng tối cao, ít khi được nói đến tên, mà chỉ tôn xưng là Ngài. Khi cần cầu đến Thượng Ðế thì chúm môi lại tròn như chữ o và phát âm thanh "o" để chỉ mặt trời, và ngậm miệng lại phát âm thanh "om" (Nhiều câu chú trong kinh Phật có chữ "Ôm", ta thường đọc là "Úm" hoặc "Án"). Nếu được như thế thì đó là căn nguyên của tiếng " Om " trong khi thiền (lời tác giả).

Cừu (trừu) được nuôi trong nhà như bạn, cũng như chó ngày nay. Chúng được buộc yên cho trẻ con cưỡi, lông được xén để ngồi gối hoặc dệt hàng mặt. Những nhà giàu hay mở tiệc có khi kéo dài hàng tuần lễ, khách từ mọi nơi được gởi thiệp mời do chim bồ câu mang đi và đem thiếp trả lời về. Họ không ăn thịt chim và cừu, coi chúng như những báo nhân. Giới cầm quyền có những lâu đài lộ thiên lan rộng ra hàng mấy trâm thước mỗi chiều, và họ cũng lịch sự tao nhã như người thời nay. Nước được dẫn bằng ống từ giếng hay từ suối trong khe núi. Người Atlantis đều thọ mấy trăm năm (Thelama thọ 300 năm) do đó họ có nhiều thời giờ để phát triển khả năng

Trong thời Thelama trên Atlantis. Quả cầu pha-lê vĩ đại và các phi cơ đã được thành hình. Thelama gặp một nhà bác học trẻ tuổi đến Poseidia từ nơi xa mà ngày nay là Alegia. Y nghiên cứu cách thu hút năng lực của mặt trời tạo ra một tia sáng kiểu laser bằng Quả cầu Pha-lê vĩ đại, để chuyển động các tàu và phi cơ đi quanh trái đất. Cha Thelama là cố vấn trong triều, mời y đến ở trong trại vì nhà y ở xa quá. Y tự phụ y là người đặc biệt, không tin có Thượng Ðế mà y không trông thấy, đã tạo ra vũ-trụ, nên không theo luật trời. Y muốn thu hút năng lực không những để chuyển động máy móc, mà còn để sai khiến mọi người, và y muốn diệt chủng những bàn-nhân, như kiểu những nhà bác học của Hitler. Trái lại, Thelama rất tin Thượng Ðế, vì thế cuộc hôn nhân đã dự tính giữa Thelama và y đã không thành.

Y trở lại Poseidon và được chính phủ cho phép nhóm của y nghiên cứu Quả cầu Pha-lê vĩ đại. Việc nầy phải mất nhiều năm và có nhiều người khác cộng tác, nhưng y là một trong những nhà bác học nổi tiếng nhất đã sáng chế ra quả cầu pha-lê. Mảnh lực hùng vĩ Quả cầu Pha-lê từ đấy đã giúp ích nhiều cho dân Atlantis, nhưng sau nầy chính nó lại tiêu diệt đại lục và đa số dân chúng.

Sự bí mật của Quả cầu là ở trong thán chất. Những người điều khiển việc kiến tạo nầy cùng ở trong một khu có đầy đủ tiện nghi và xa hoa tối tân. Họ hướng những mặt phẳng của quả cầu một cách rất tinh xảo để thu hút năng lực của mặt trời và phản chiếu ra thành tia kiểu laser để phục vụ nhân loại. Khi hoàn thành, những tia từ quả cầu phát ra có thể chuyển động máy móc trên trời hay dưới biển đi nhanh với tốc độ âm thanh. Quả cầu không được đặt tại thành phố Poseidon, mà ở gần nơi mà ngày nay là đảo Bimini, ở đó lâu lâu nó còn hoạt động.

Atlantis bấy giờ văn minh nhất thế giới về tất cả mọi phương diện, duy kém Lemuria về triết lý. Tính ham biết lên đến cực điểm, và những giải pháp được nghiên cứu theo mọi khía cạnh, trên tiến bộ nhanh chóng lạ lùng.
   
VIII. TRÁI ÐẤT CHUYỂN TRỤC

Còn Atlantis thế nào? Không thay đổi mấy. Một phần đất miền tây chìm xuống, trong khoảng từ bờ biển đông Hoa Kỳ đến Brésil ngày nay. Vì đường xích đạo thay dổi, nên khí hậu lý tưởng của Atlantis trở thành nóng bức, ảnh hưởng đến tính tình con người. 

Khi những vùng nóng ấm trở thành đông lạnh, và những nơi băng tuyết thành nhiệt đới, những con khủng long không quen với sự thay đổi thời tiết đột ngột, đã chết hàng vạn, thân hình rất lớn mà đầu óc tất nhỏ nên thiếu trí nhớ. Cả những con vật khổng lồ ở dưới nước, trên cạn và trên không cũng không sống nổi. Nhiều tàn tích khủng-long còn nguyên vẹn đã được đào thấy tại vùng bắc cực. Ngày nay chỉ còn vài loại to lớn ở sâu dưới biển, nhưng không nguy hại cho loài người nữa. 

Người tuy cũng chết rất nhiều vì trái đất đổi trục, nhưng nhờ thông minh hơn nên một số còn sống sót và bắt đầu công việc tái tạo. Ðất phì nhiêu có nhiều nên không có vấn đề nhân mản, vì số người bị tiêu diệt khi ấy gần bằng số toàn thể nhân loại ngày nay. 

Nếu thực như thế thì điều này trả lời câu hỏi của một số người thắc mắc về luật luân hồi, rằng nhân số ngày nay càng ngày càng tăng nhiều hơn xưa thì những người ấy từ đâu mà ra? Lịch sử của chúng ta mới bắt đầu từ mấy ngàn năm, đâu có biết được thời tiền sử. 

Cù lao Easter, một đồi cao xưa là thánh địa thiêng liêng nhất của Lemuria, đã tồn tại an toàn. Những người trước kia di cư sang Mỹ Châu bắt đầu kiến thiết lại những thành phố với những ngôi đền tại Mễ-tây-Cơ và Leru. Ngày nay có những nơi người ta đào thấy được nhiều lớp thành phố chồng chất lên nhau do những thiên tai liên tiếp nó đã chôn vùi những thành phố ấy. William Niven, một nhà khảo cứu mỏ, hồi đầu thế kỷ đã đào bới tại một nơi gần thành phố Mễ-tây-Cơ (Mexico city) và đã tìm thấy tàn tích của ba thành phố cổ nằm đè lên nhau qua một lớp đá cát dày chỉ mấy thước, những lớp đá cát này chứng tỏ nơi đây đã là bãi biển, mà ngày nay ở trên 2000 thước cao hơn mặt biển.

Hàng triệu hàng triệu linh hồn mất thể xác trong nạn chìm đắm Lemuria, đã trở về trạng thái tâm linh. Những hồn nào đã tiến hóa vì làm được nhiều công đức, thì không phải trở lại đời sống vật chất nữa, và sẽ tiếp tục tu tiến để trở về với Thượng Ðế, còn những kẻ đã làm việc thất đức sẽ phải luân hồi nhiều lần để học nhẫn nhục và tình thương. Một số người đương sống ngày nay là người đã ở Lemuria hay Atlantis, nhưng không phải là tất cả đều trở lại cùng một lúc hay trong khoảng vài trăn năm.

Khi Lemuria bị chìm, những người Atlantis ngạc nhiên sợ hãi, họ coi Lemuria là mẹ đẻ của nền văn minh, tuy rằng Atlantis đã tiến hơn nhiều. Những người lảnh đạo Lemuria đều là nhà triết học, canh tác và chiêm tinh, đã dẫn đầu thế giới về triết học và tôn giáo

Nay lãnh đạo tinh thần không còn, Atlantis chỉ thiên về lảnh đạo vật chất. Quả cầu Pha-lê giúp ích cho sự sáng tác rất nhiều, văn minh vật chất càng tiến thì những kỷ thuật gia càng có quyền thế. Khoa học được tôn sùng trên hết và người ta bớt tin tưởng ở Thượng Ðế. Tình trạng ấy cũng gần giống nước Mỹ ngày nay, chú trọng nhiều về máy móc, đời sống vật chất lên cao, nhưng tín ngưỡng và triết lý xuống thấp.

IX. BIỂN SARGASSO BÍ MẬT

Sau khi Lemuria chìm, Atlantis trở thành lảnh đạo thế giới, nhưng không được lòng người vì tính kiêu căng, chỉ muốn dùng võ lực để bắt các nước khác thần phục. Tuy chưa biết dùng đến chất nổ. nhưng với quả cầu Pha-lê họ có thể phóng năng lực của tia sáng mặt trời làm nổ những thành phố rất xa. Cướp bóc là sự rất thường. Những người Atlantis trong thời kỳ thứ hai này vơ vét đem về nước tất cả cái gì họ thích, từ các nơi xa Mỹ Châu, Âu Châu và Phi Châu.

Chính thể tại Atlantis trong thời vàng son là quân chủ, những quốc vương trị vì trú trọng đến đạo đức và tôn giáo. Nhưng sau khi Lemuria bị chìm, ngôi vua chỉ tượng trưng cho nghi lễ, còn thực quyền ở trong tay những nhà bác học.

Atlantis là một thành trì học vấn vững mạnh trước khi xảy ra thiên tai. Những học giả từ khắp nơi đến các trường đại học tại đó để dự lớp học về địa chất, thiên văn khoa học, toán học, canh nông. Nhiều người có thể tính nhẩm tới 11 số và có những bảng tính tiện dùng hơn máy tính ngày nay. Những tài liệu được chất chứa trong những thùng làm bằng ruột súc vật chế biến có thể tồn tại trong nhiều ngàn năm nếu được bảo trì kỹ lưỡng. Nhiều thùng ấy nay còn nguyên vẹn trong thùng tài liệu chôn dấu không xa Kim-tự-tháp lớn tại Giza , về hướng thần tượng Sphinx. Có những thùng khác được cất tại Yucatan . Hình trái đất được chụp theo một phương pháp không giống ngày nay. Radio bấy giờ đã có, tiếng nói được truyền bằng sự phản ứng của đá thạch anh (quartz) trên chất kim khí và điều khiển bởi những mặt phẳng của Quả cầu Pha-lê.

Trong 20.000 ngàn năm sau trận thiên tai, Atlantis dần dần suy đồi, bên trong mục nát, chỉ nhờ có Quả cầu Pha-lê mà còn giữ được uy thế đối với các nước. Nhưng không phải là tất cả các nước đều chịu thần phục. Những dân ở nơi mà sau này là Ba Tư hợp với Hi-Lạp chống lại Atlantis. Người Atlantis dùng Lybia làm căn cứ để tấn công Hi-Lạp nhưng bị đánh lui, và khi họ tập trung lại lực lượng để tấn công lần nữa thì một thiên tai kinh khủng xảy đến làm thay đổi lịch sử.

Những nhà bác học tăng cường năng lực của Quả cầu Pha-lê, và để khuất phục những dân Á Châu ở cách xa nửa vòng địa cầu, nơi mà ngày nay là Trung Hoa, Họ dọi tia sáng xuyên qua trái đất, khiến cho vỏ trái đất nổ tung nhận chìm hầu hết đại lục Atlantis và luôn cả Quả cầu Pha-lê.

Vùng ấy ngày nay gọi là biển Sargasso. Vùng biển bí mật này, phần lớn nước đứng, với nhiều rêu biển nổi trên, trong nhiều thế kỷ đã được mệnh danh là "Nghĩa địa của Ðại-tây Dương"! Xưa những tàu buồm qua đó đều biến mất dạng, rồi sau những tàu có động cơ cũng vậy. Quá trưa ngày 5-12-1945, một đoàn 5 chiếc phi cơ Hãi quân Grumman TBM-3 Avenger cất cánh từ căn cứ Fort Lauderdale , Florida , để tập dợt, do 5 phi công lái với 9 phi hành đoàn. Ðoàn phi cơ gọi là Phi vụ 19, do trung úy Hãi quân Charles C. Taylor, một phi công với trên 2500 giờ bay, điều khiển. Chừng 70 phút sau, sau khi bay qua phía bắc đảo Bimini, một phi công bay trên phi trường Hãi quân Fort Lauderdale, nhận được tính hiệu lạ lùng của phi cơ điều khiển. Phi công nầy bị lạc, cả hai địa bàn đều hư, Rồi những tính hiệu bị loạn, căn cứ không thể liên lạc được với người nào trong số 14 người trên 5 phi cơ. Ngay sau đó, một phi cơ hai máy Martin Mariner với phi hành đoàn 13 người cất cánh từ căn cứ Hãi quân Banana River để tìm 5 phi cơ lạc và dẫn họ về căn cứ. Nhưng rồi sau không nhận được tính hiệu nào của cả 6 phi cơ, và mặt dù một cuộc tìm kiếm vĩ đại chưa từng có gồm hơn 300 phi cơ, 4 khu trục hạm, 18 tàu tuần, mấy chiếc tàu ngầm, hàng trăm phi cơ và tàu của tư nhân, và cả phi cơ và tàu của Anh đóng tại quần đảo Bahama, không tìm thấy một vết tích nào cả, không một vết dầu, không một phao hoặc một mảnh vụn.(Những bí mật của vùng này đã được nói đến trong cuốn, "khu tam giác Bermuda" (The Bermuda Triangle). Tác giả Adi-Kent Thomas Jeffrey đã kể rõ tên 12 chiếc tàu, một tàu ngầm nguyên tử và hơn một chục phi cơ được ghi nhận đã mất tích tại đây từ 1609 đến 1968,không để lại một dấu vết gì: mảnh gổ, mảnh áo, hay vết dầu trên mặt biển, mặc dù rất nhiều tàu và phi cơ qua lại tìm kiếm.).

Charles Berlitz trong cuốn "Khu tam giác Bermuda" (The bermuda triangle) nói ranh giới biển Sargasso chạy dài từ 200 dặm phía bắc đảo Antilles lớn, dọc theo và cách bờ biển Hoa Kỳ 200 dặm tới mỏm Hatteras tại North Carolina, rồi thẳng ra Ðại-tây-Dương đến Phi Châu và Bồ Ðào Nha, ngược lên hướng bắc rồi trở về Mỹ, ranh giới nầy hợp với ranh giới mà dẫn-đạo-sư đã nói về Atlantis.

Khu tam giác Bermuda nằm trên phần phía tây của biển Sargasso gần khu xưa kia đặt Quả cầu Pha-lê. Berlitz nói rằng trong một phần tư thế kỷ vừa qua, hơn một ngàn nhân mạng đã mất tích tại đó, không để lại một vết tích gì của những phi cơ và tàu thủy. Dẫn-đạo-sư giải thích rằng Quả cầu Pha-lê vẫn còn nằm dưới biển Sargasso, và khi mặt trời và mặt trăng đến một vị trí nào đó, ảnh hưởng đến Quả cầu, khiến cho những tia phát ra làm nguy hại cho tàu biển và phi cơ đi qua tầm những tia ấy.

Vụ nổ đã xé đại lục Atlantis mạnh hơn một triệu lần sức nổ của trái bom ném xuống Hiroshima, không những đã nhận chìm hầu hết Atlantis còn gây nên bảo tố và sóng thủy triều trên khắp nửa thế giới ở tây phương trong nhiều tháng. Vụ nổ ấy đã được nhận thấy từ các hành tinh khác trên bầu trời. May mắn là những tia của quả cầu pha lê không thể xuyên qua lòng lỏng của trái đất để sang tận Trung Hoa,nên vùng nầy không hề gì. Nạn hồng thủy lớn lao đã được kể lại trong những huyền thoại của nhiều sắc tộc, như dân Do Thái trong thánh kinh.

Phần còn lại Atlantis chỉ là hai hòn đảo Poseidia và Og. Những sự di chuyển đi xa bằng phi cơ và tàu không được nữa vì những quả cầu nhỏ đều quá yếu. Vùng biển đã chôn vùi đại lục, nay như là một vũng bùn lầy đầy những tàn tích. Ðất đai mới nổi lên thì khô cằn vì chất phóng xạ, tựa như sau một vụ nổ bom nguyên tử khổng lồ. Dân Atlantis còn lại phải di chuyển đến những nơi khác và trà trộn với dân Mỹ Châu, Á Châu, Âu Châu và vùng Ðịa Trung Hãi.

Hai hòn đảo còn lại vẫn bị rung động ngầm, những hỏa diệm sơn thi nhau bùng nổ, rồi sau hai đảo ấy cũng chìm nốt xuống biển.

Thiên tai này xảy ra khoảng 12.000 ngàn năm trước, chỉ còn lại vài hòn đảo nhỏ như azores và Bahamas .

X. THẾ GIỚI THỜI TIỀN SỬ

Trong thời Lemuria toàn thịnh, một số dân đã đến lập nghiệp tại vùng đồng bằng Á Châu, nơi mà ngày nay là Gobi . Họ liên lạc với mẫu quốc bằng ý nghĩ và cũng bằng tàu thuyền. Họ sống lẫn lộn với dân bản xứ da vàng, một trong năm giống đã được sinh ra từ nguyên thủy.

Triết lý là môn học được ưa chuộng nhất. Những ngôi đền đều hướng về đông, là hướng về đại lục Lemuria. Sau khi trái đất đổi trục nhận chìm Lemura và nhiều núi nổi lên khắp nơi, các thầy tu xây cất những tu viện trên núi cao, để dể hòa đồng với vũ-trụ lực. Ðể giữ truyền thống của Lemuria, họ bảo toàn văn hóa triết lý và tôn thờ Thượng Ðế. Những tu viện ấy ngày nay nằm ở Tây Tạng, và dãy núi Hy-Mã-Lạp-Sơn xưa là một phần của đồng bằng Gobi. Gobi khi ắy khí hậu ẩm ướt, đất đai phì nhiêu, ngày nay là sa mạc.

Vì Quả cầu Pha-lê của Atlantis không thể chuyển động máy bay và tàu qua một bên kia trái đất, nên không có mấy người Atlantis đến Gobi và Trung Hoa ngày nay. Nhưng vì tham vọng, những nhà bác học cầm quyền tại Atlantis muốn chinh phục vùng này, đã dọi tia sáng qua trái đất, nhưng tai họa đã đến với chính họ.

Vùng Ấn Ðộ được nổi lên sau Gobi và trước khi Lemuria chìm. Từ trước không có thổ dân,người Lemuria đến rất nhiều, coi đó như là thuộc địa, và sống chung với người da vàng cũng di dân đến. Nhiều thầy tu đến đó để truyền bá văn hóa Lemuria. Dân chúng Ấn Ðộ ngày nay là dòng dõi nhiều lớp văn minh: Thầy tu và dân Lemuria, di dân da vàng, da đen , da trắng, và những bàn-nhân tuy hình thể không giống những cùng đinh (untouchable) Ấn Ðộ ngày nay, nhưng sống ở nước thấp nhất, nhân đó cản trở công việc dân-chủ-hóa xã hội này. Vì ở đây có rất ít người Alantis, nên văn hóa không bị nhiểm độc bởi tham vọng quyền thế của họ. Nhưng khi Lemuria chìm thì người Atlantis bắt đầu đến đông.

Trong tập Bách Khoa Toàn Thư (Encydopedia Britannica) tác giả thấy có đoạn nói về Ấn Ðộ. Khi những người Aryan xâm chiếm Ấn Ðộ, họ thấy dân ở đấy văn minh hơn họ về nhiều phương diện, rõ ràng đó là những di dân từ miền đông tới (Lemuria ở về miền đông). Churchward trong cuốn "những con cháu Lemuria" (The children of Mu). Nói đến những người Naacals, 70.000 năm trước, đã đem đến đây những sách "Cảm hứng thiêng liêng về Mẫu quốc", những sách ấy được cất giữ trong một tu viện Tây-Tạng. Trong sách của người Naacal, nói đến những người Maga lập nghiệp ở Ấn Ðộ 70.000 năm trước, màu da sậm và mắt đen sắc, câu này có vẻ tả người Lemuria da màu. Lại có câu: Cũng như Ai Cập, Ấn Ðộ không bao giờ có một thời man rợ trước thời văn minh. Ấn-Ðộ là hạt ngọc trai trên trán của Mẫu quốc Lemuria.

Những người da trắng, thoạt tiên ở trong vùng Carpathe-Caucase, dần dần tràn lan về phía tây quanh Ðịa trung Hãi rồi cùng tập trung tại dãy núi Pyrénée miền nam nước Pháp. Họ cũng tràn về phía đông nam đến Ba Tư và Ai Cập. Tại Ba Tư họ lập thành dòng giống Aryan mà Ðức Quốc Xã đã tự hào là dòng dõi.Người da trắng cũng cầm quyền tại Ai Cập, quốc vương là Araaraat. Một vị cao tăng là Ra Ta theo Araaraat đến, cùng với hàng trăn người khác, lo giúp đở những người bản xứ, trong ấy có nhiều bàn-nhân được Ra Ta giúp loại bỏ những bộ phận dị hình. Ra Ta hợp tác vơi những người Atlantis tại Poseidia, dùng phương pháp giải phẩu và năng lực những quả cầu Pha-lê nhỏ còn xót lại, để loại bỏ những đuôi, móng, sừng, lông cánh, cho các bàn-nhân.

Những người Atlantis đến Ai Cập càng ngày càng đông để tránh tai nạn, vì hai hòn đảo còn lại thường bị rung chuyển, và những nhà tiên tri đoán sẽ có nạn hồng thủy nữa. Hermes, là sứ giả của Atlantis có nhiệm vụ bảo vệ những tài liệu quý giá, đã đem những tài liệu ấy đến Ai Cập và hợp tác với Ra Ta xây dựng kim-tự-tháp để cất giữ những bí mật của thời oanh liệt xưa.

Kim-tự-Tháp lớn nhất được xây dựng tại Giza trong thời gian trước và sau khi Atlantis bị chìm lần cuối, vào khoảng 10.000 năm trước kỷ nguyên, trong đó có chứa tất cả những toán số để tính vị trí các ngôi sao, kinh tuyến, vĩ tuyến và đường kính trái đất, chiều dày lớp vỏ trái đất. v.v...Kim-tự-tháp cũng có mục đích làm cái kho để chứa những bảo vật của Atlantis, nhưng vì thiên tai xảy đến nhanh chóng quá, nên những bảo vật đều bị chôn vùi dưới biển.

Nhiều người nghĩ rằng những người thượng cổ có quay hàm lớn và khối óc nhỏ. Nhưng những bộ xương cổ xưa đã được khám phá hơn 100 năm trước tại Pháp cho thấy người xưa cao hơn và xương sọ lớn hơn người ngày nay. Những người ấy đã sống quanh Ðịa trung Hãi 15 đến 30 ngàn năm trước, trán cao, gồ má cao, quay hàm nở, thân cao hai thước, không có vẻ gì giống loài khỉ. Nếu thực những người ấy là tổ tiên loài người, thì quả là người thời nay đã suy đồi hơn xưa.

Âu Châu xưa kia chỉ gồm có mấy hòn đảo Anh quốc và Na-uy, Thụy Ðiển ngày nay, còn phần lớn lục địa mới được nổi lên sau khi trái đất đổi trục. Những người Lemuria và Atlantis còn lại dần dần pha trộn giống với người da trắng tại Âu Châu, người da vàng tại Mông Cổ, người da đen tại Phi Châu, Úc Châu và các quần đảo tại vùng Nam Dương là những đất đai Lemuria còn xót lại, dân chúng ở đó lâu ngày mất liên lạc với giới lãnh đạo và thầy tu nên trở thành man rợ. Miền Nam cực trong nhiều triệu năm thuộc vùng ôn đới và nối liền với Úc Châu, trước khi bị thiên tai tách ra bằng những vùng biển rộng lớn. Người Atlantis đã họa địa đồ miền này nhưng thấy không thể ở được vì đầy dẫy những khủng long và vật khổng lồ. Khi trái đất đổi trục, những vật ấy bị tiêu diệt vì không chịu nổi cái lạnh băng giá đột ngột.

Khi Lemuria hãy còn, Alaska ở trong vùng nhiệt đới như Florida ngày nay, nhưng ít có người dám ở đó vì những khủng long và man-mút rất nhiều. Nhưng khi trái đất đổi trục, những con vật khổng lồ ấy bị chết vì băng giá, một vùng đất nổi lên bắt cầu từ đấy sang miền đông bắc Á Châu, vùng này cũng bị đông lạnh. Rất lâu về sau, mới có những bộ lạc du mục Á Châu đi phiêu lưu qua đấy, dần dần tiến xuống những vùng ấm áp hơn. Những người Á Châu ấy càng ngày càng đến đông, rồi trộn lẫn với những người da đỏ và da nâu thành những giống phụ.Những người Mễ-tây-Cơ ngày nay có vài nét mặt Á Ðông là vì cuộc di dân này từ Siberia đến vùng nắng ấm trung Mỹ.

Nhiều người Alantis lánh nạn sang Mỹ Châu, ở đây những người Lemuria đã đến từ nhiều ngàn năm trước. Ðất đai phì nhiêu, hoa màu được phân phát đều cho mọi người, không hề có sự tranh dành. Những người Lemuria bắt đầu chiếm vùng bờ biển phía tây hiện thời và xứ Yucatan (Mễ-tây-Cơ), nhưng về sau họ di chuyển đến những đất mới nổi lên tại vùng trung ương Hoa Kỳ ngày nay. Họ đã mang theo những tài liệu và xây một phòng rất kính gần thành phố Uxmad tại Yucatan để cất những tài liệu về văn minh Atlantis và về việc xây dựng một Quả cầu Pha-lê. Nhưng không một người nào còn sống sót khi đó biết cách tái tạo Quả cầu Pha-lê đã mất.

Sau khi phần còn lại của Atlantis bị chìm nốt, phòng kín ấy nằm sâu dưới nước, lâu ngày không ai còn biết đích là chỗ nào, rồi đến khi đất lại nổi lên, không còn thể nhận biết được phòng ấy đã được chôn tại đâu.

XI. NHỮNG THIÊN THẦN TRONG THÁNH KINH

Những nhà bác học nói rằng 70.000 năm trước, Bắc-cực nằm ở vùng Nam-cực, và có thể một ngày kia quay trở lại. Những tảng đá có từ lực trái ngược với từ lực của trái đất và đã được khám phá tại Ấn Ðộ, Pháp và Nhật Bản trong khoảng từ 1855 đến 1929. Trong đầu thập niên 1960, Ban Khảo Sát Ðịa Chất Hoa Kỳ đã báo cáo rằng theo sự nghiên cứu những tảng đá lớn thu thập từ khắp nơi trên hoàn cầu, thì đã có chín lần trái đất đổi trục trong thời gian ba triệu rưởi năm qua.

Trong thời vàng son của Lemuria và Atlantis, hai đại lục ấy phần lớn nằm tại vị trí Thái bình Dương và Ðại tây Dương, tuy nhiên không phải cùng vị trí đối với trục trái đất ngày nay. Phần lớn lục địa Mỹ Châu và Âu Châu còn nằm dưới mặt biển, núi non hầu như không có, cho đến khi Lemuria chìm xuống bấy giờ núi mới nổi lên như một tờ giấy bị vò nhàu. Tại Alaska có những vết tích động vật và cây cối chồng chất lên nhau như trong những thiên tai. Những thân hình man-mút còn cả thịt da và lông nguyên vẹn đã được đào thấy tại vùng băng giá bắc Sibérie, tỏ rằng những con vật ấy đã bị đột nhiên đông lạnh. Trong Bắc băng Dương quanh Bắc cực, có rất nhiều tàn tích man-mút, tê-giác, ngà voi, những giống này cần rất nhiều cây cỏ để sống, không thể nào ở những nơi quanh năm đá phủ. Rõ ràng Alaska và miền bắc Sibérie xưa kia là xứ nóng. Trái lại có nhiều bằng chứng cho thấy rằng vùng nhiệt đới Brézil và Phi Châu xưa kia bị bao phủ dưới một lớp dày băng đá.

Ðiều đó có thể giải thích tại sau, khoảng 50.000 năm trước người Atlantis với những phi cơ của họ, đã có thể chụp hình Greenland và Nam-cực khi những nơi ấy không bị băng đá bao phủ (Bản địa đồ Reis đã nói ở trên)

Trong số những thiên tai nhiều vô kể đã thay đổi cục diện trái đất, có ba lần đáng để ý hơn cả là Lemuria bị chìm 48.000 năm trước kỷ nguyên, phần lớn Atlantis bị chìm 28.000 năm trước kỷ nguyên, và phần còn lại của Atlantis bị chìm nốt 10.000 năm trước kỷ nguyên. Theo dẫn-đạo-sư và Edgar Cayee, nạn hồng thủy trong Thánh Kinh trùng hợp với thiên tai thứ hai cách đây khoảng 30.000 năm.

Những thời kỳ nói trên chỉ là phỏng chừng, vì thời gian trên trái đất không nghĩa lý gì đối với thế giới tâm linh. Chỉ ước rằng những Adam và Eve hiện thân trên trái đất khoảng 4 triệu năm trước. Amelius với hình thể nhẹ vài năm trước đó, và những bàn-nhân nhiều triệu năm trước nữa. 

Trong Thánh Kinh chỉ nói đến gia đình Noah, cháu Adam đời thứ 10, được thoát khỏi nạn hồng thủy, nhưng thực ra còn rất nhiều người khác nữa, mặt dù đã có hàng vạn người chết ở Trung Ðông và hàng triệu người chết tại Atlantis. Noah là tổ dòng giống Semite, các cháu chắt là Abraham, Jacob, Joseph, David rồi đến Jesus Christ.

Abraham, cháu Adam đời thứ 20, có hai con trai: Con thứ hai Isaac là con vợ cả, là dòng giống thuần túy Lemuria; con lớn Ishmaci là con vợ bé, sau này là tổ dân tộc Ả-Rập. Con cháu thứ hai của Isaac là Jacob, là tổ dân tộc Do-Thái (Jew). Dân Do-Thái vẫn giữ được truyền thống của người Lemuria và tôn thờ Thượng Ðế (GOD). Nhờ tín ngưỡng ấy, chứ không phải là nhờ có giúp đở người khác, họ được các thiên thần trợ lực tìm một xứ sở, và sau một thời gian dài lang thang rồi sống nhờ Ai-Cập, họ đã được trở về đất hứa. Theo dẫn-đạo-sư, Moses là một người Lemuria đầu thai vào dòng giống Hebrew để cứu dân tộc này ra khỏi cảnh nô lệ tại Ai-Cập.

Tâm linh (Spririt) và linh hồn (Soul) khác nhau thế nào?. Dẫn-đạo-Sư giải thích như sau. Linh hồn là cá thể riêng biệt, là Ta. Tâm linh là cái sức mạnh của đời sống rút từ nhiều nguồn tiến hóa. Khi một hài nhi nhập vào thân xác thịt, linh hồn nó qua nhiều kiếp luân hồi, đã tạo nên một cái-thể và mẫu mực ăn ở hành động trong đời sống tới. Bấy giờ tâm linh được rút vào hòa nhịp với linh hồn ấy để cho con đường đi tới được tốt đẹp hơn. Tâm linh là tinh hoa của Thượng Ðế, nhưng vì đã tách rời với đại khối từ khi bắt đầu làm người, nên có nhiều đẳng cấp khác nhau. Cả linh hồn và tâm linh đều cùng hướng về hợp với Ðức Sáng Tạo. (Tâm linh (Esprit) nói ở đây có lẽ là Tâm thức, là A-Lại- a-Thức, là Phật tính trong kinh Phật.). Ðức chúa Jesus gọi tâm linh là Ðức Chúa Thánh Thần (Holy Spririt: le saint Esprit). Không có tâm linh, chúng ta sẽ quay trở về đời xác thịt như thú vật.

Nói đến các thiên thần, dẫn-đạo-sư nói có ba hạng. Thượng thiên thần là những vị không bao giờ sinh vào thân vật chất, vì không bao giờ trái luật thiên nhiên, hoàn toàn hòa đồng với Thượng Ðế. Những vị ấy cai quản những khu vực rộng lớn trong vũ-trụ. Thứ đến những thiên thần, mà một số đã sống trong đời vật chất. Sau nhiều đời sống không tội lỗi, những vị này không cần trở lại và được ở gần Thượng Ðế. Nhưng cũng có nhiều thiên thần không bao giờ sinh vào thân xác thịt. Các thiên thần có nhiệm vụ trong việc tiến hóa của nhân loại và của các động vật, thực vật và khoáng vật.

Sau cùng là những thần hộ mệnh, là những tâm linh trước đã sống trong đời xác thịt, nay hết lòng giúp đở người sống tránh khỏi tai ương và chết bất thần. Ðây là những linh hồn quảng đại, tuy vậy chưa được tiến cao bằng những thiên thần và thượng thiên thần. Một số thần hộ mệnh giúp cho những sáng kiến, như Instein là một trạm tiếp nhận những luật vũ-trụ nên có thể trong những giấc mơ, xảy ra những ý nghĩ phi thường.

Chúng ta cũng có thể trở thành những thiên thần nếu chúng ta biết nghe tiếng nói yên lặng của Thượng Ðế bên trong chúng ta, và quay vào đó (lương tâm) trước khi quyết định hay hành sự một việc gì. Tất cả chúng ta cần phải nghe hoặc cảm thấy tiếng đó, nhưng thường thường ta vẫn quên trong khi đi trên con đường tươi đẹp của ta. Khi ở bên kia ngưỡng cửa (cõi vô hình) tự nhiên ta hiểu rõ thế nào là phải là trái, vì ta sẵn có tinh hoa của Thượng Ðế bên trong chúng ta và không bị những cám dỗ vật chất nó cạm bẫy ta. Ta hiểu rõ rằng những hành động vô ý thức trong đời xác thịt đã làm cho ta xa Ðấng Sáng Tạo. Như thế, thay vì được hưởng khung cảnh tình yêu thương thuần túy không ích kỷ mà chúng ta có thể đạt tới, ta còn phải ở đây học đi học lại những bài học trước trong những thời gian chờ đợi giữa hai đời sống trên mặt đất. Cho nên ta cần phải học sau cho có thể, phân biệt tức khắc không lưỡng lự cái hay với cái dỡ, đều phải với đều trái, như ta thuộc lòng bản cửu chương - Hãy làm việc thiện bỏ việc ác.

Trở lại tình trạng nhân loại trên trái đất từ sau khi Atlantis hoàn toàn chìm hết khoảng 10.000 năm trước kỷ nguyên, dẫn-đạo-sư nói rằng người ta dần dần tụt xuống trình độ gần như dã man vì không còn những người lảnh đạo của hai đại lục trước nữa. Những phương tiện vận chuyển như thời sơ khai. Tàu thuyền không thể đi lại được trên Ðại Tây Dương vì bùn lầy và những tàn tích nổi lềnh-bềnh. những trận thủy tai và động đất đã phá hủy các kho tàng tài liệu, và những dân tộc rời rạc quên cả lối viết đọc xưa, vì không còn tu sĩ giảng dạy, không còn người lảnh đạo tâm linh. Trừ một vài nơi như Ấn Ðộ, Ai Cập , Peru , ngoài ra dân chúng không hiểu biết gì về văn hóa. Ðó là thời kỳ đen tối.

Trong thời kỳ ấy, những thú vật được người chăn nuôi để làm việc nặng nhọc, vì những bàn-nhân hầu như mất hết, nhờ phương pháp thành công của người Atlantis và Ra Ta. Khi mọi người bắt buộc phải làm lấy các việc chân tay, họ không có thì giờ rèn luyện trí thức, nên không tiến hóa.

Sau nhiều ngàn năm thời tiền sử đen tối ấy, việc học mới lại được phục hồi tại vùng Tiểu Á. Thành Athens và một vài nơi khác quanh Ðịa Trung Hãi trở thành những trung tâm văn học.Người Ai Cập không bao giờ rập tàn ngọn đuốc, nhưng họ giử lấy riêng cho họ. Từ khi Alexander the Great truyền bá ngọn đuốc văn minh cùng với đạo quân chinh phục, Athens bừng sáng, Rome (La mã) trỗi lên và rồi sụp xuống. Lịch sử bắt đầu từ đó.

XII. NHỮNG VÒNG TÁI SANH

Những người đã quen biết nhau trong những đời trước, có khuynh hướng trở lại vòng tái sanh cùng với nhau. Các quốc gia cũng vậy, cũng cùng với nhau khi thăng khi trầm.

Vì những nền văn hóa của Lemuria và Atlantis đã tiến đến cực thịnh trong nhiều triệu năm, và vì thiện và ác luôn luôn đi sát cạnh nhau, không thể nói rằng tất cả người Lemuria cao thượng và tất cả người Atlantis tội lổi. Nhưng trong giai đoạn sau của Atlantis, có rất nhiều người quá hăng sai về kỹ thuật, đã phá hủy lục địa của họ. Edgar Cayee đã cảnh cáo rằng những linh hồn phá hoại ấy đã đầu thai trở lại rất nhiều trong nữa thế kỷ 20 này, thu hút bởi thời kỳ đặc biệt khoa học tân tiến ngày nay.

Thời kỳ phục hưng (Renaissance) tại Âu Châu trong thế kỷ 14 và 15, và thời kỳ Mỹ dành độc lập thế kỷ 18, là những thời dựng lên sự nghiệp của những người Lemuria tái sanh. Thomas Jefferson, Benjamin Franklin, George Washington, xưa ở Lemuria rồi sau ở Atlantis. Wondrew Wilson sống đời thứ nhất ở Lemuria, thuộc về giới tu sĩ. Khi trở lại Atlantis, ông là một ông hoàng trẻ trong hoàng cung, nhưng từ sớm ông đã thiên về triết học và hoạt động tôn giáo. Ông rời khỏi hoàng cung để dốc lòng vào việc họa và việc tôn thờ, nhưng trong thế kỷ 20 ông không thể lôi cuốn Clémenceau và Lloyd George theo ý kiến ông, vì hai ông nầy là người Atlantis thực tế. Winston Churchill là một người Atlantis thuần túy, rất tinh xảo về chiến trận. Franklin D. Roosevelt đã sinh cùng thời với Wondrew Wilson tại Atlantis, có tài về trị quốc. Anwar Sadat xưa cũng giữ một địa vị cao tại Ai Cập sau thời Ra Ta. Cũng đã từng thương lượng giãn hòa với các lân bang hiếu chiến. Gerald Ford xưa cũng là một nhà chính trị hòa bình tại Ai Cập và Atlantis. Bao giờ cũng có những người từ các nền văn hóa khác nhau cùng sinh ra một thời. Vì có một số nhiều người xưa đã sống trong thời kỳ sau của Atlantis ngày nay tái sinh trên mặt đất, chắc chắn rằng sẽ có những hành động hiếu chiến, bất hòa và vô nhân đạo.

Nói đến Ðông phương, dẫn-đạo-sư cho biết rằng những người đầu tiên lập nghiệp tại Gobi là những người hiểu biết đạo Trời, và có đầy lòng từ bi bác ái với tất cả nhân loại. Vì thế họ truyền lại nhiều phúc đức trên khắp vùng này bao gồm phần lớn Trung Hoa ngày nay, Tây Tạng và Mông Cổ, và sự thấm nhuần của tâm linh vào đời sống hàng ngày đã sản xuất ra những tư tưởng cao siêu chưa từng có: Khổng học và Phật học

Nhóm cầm quyền tại đó ngày nay phần lớn gồm những người Atlantis tái sinh, đã sống trên đất Gobi sau khi Lemuria chìm xuống biển, và đặt ách độc tài trên dân da vàng. Mao trạch Ðông xưa là một người Atlantis nắm quyền tại Gobi trên 10 năm đến khi bị nguời Aryan xăm lăng truất quyền. Chu Ân Lai là một người Mông Cổ theo Mao, đã bán nước cho người Atlantis. Những người cầm quyền tại Nga trong mấy chục năm gần đây cũng là người Atlantis, tuy nhiên Staline xưa là người Mông Cổ, khát máu và quyết định vươn lên bằng bất cứ cách nào, đã từng cộng tác với người Atlantis xâm lăng Gobi.

Sau khi tác giả nhận được những lời trên này ít lâu. Chu Ân Lai chết vì bệnh ung thư. Tác giả hỏi về Hoa Quốc Phong mà bên tây phương ít người biết đến. Dẫn-đạo-sư nói: Hoa Quốc Phong là một người Atlantis trong thời kỳ sau chỉ còn lại hai đảo, là một thủy thủ đi thám hiểm đến Gobi . Y yêu thương một phụ nử Mông Cổ và đem thị trở về Atlantis. Nhưng bị sợ hãi vì thấy người ta chỉ tôn thờ máy móc và sáng chế, thị thuyết phục Hoa trở lại Gobi và ở luôn đó. Hoa không phải là người Atlantis có học thức, vì hầu hết đời y sống trên mặt biển, nhưng y khôn ngoan, và khi y nghe nói một số đông người Atlantis rời bỏ quê hương vì đất rung động, y quyết định lập một tổ-chức thực dân với y làm chủ, và tuyển mộ những người mới đến Gobi. Y thành lập vương quốc riêng của y, và cai trị tất cả vùng đất thuộc Trung Hoa ngày nay đã được nổi lên thành đồi núi. Nhiều người Atlantis đã đến đó lập nghiệp, nhưng gì y đối đãi gắt gao với họ, nên họ vượt qua núi đi sang Ấn Ðộ và các vùng lân cận. Y sẽ không cầm quyền tại Trung Hoa được lâu, và sau khi Mao chết, y sẽ phải nhường quyền cho Ðặng.

Ðặng Tiểu Bình cũng là một người Atlantis có nhiều tài, xưa kia y hay đi tới Gobi, cuộc hành trình rất gian nan vì Quả cầu Pha-lê không có hiệu lực qua phần bên kia trái đất. Y có tư tưởng hòa bình, và như thế là điều tốt cho Trung Hoa và thế giới tây phương ngày nay. Y sẽ hợp tác với tây phương nhiều hơn Mao, và sẽ đưa Trung Hoa trở lại với các quốc gia thân thiện. Trung Hoa sẽ trở thành một lãnh tụ thế giới sau khi trái đất đổi trục trong hai thập niên tới, khi đất đai rộng lớn của nó sẽ bị thay đổi nghiêm trọng và sẽ giải phóng dân chúng khỏi bàn tay sắt của chính phủ.

Những người Atlantis lan tràn đến bắc Phi Châu, pha trộn với người da trắng từ vùng Caucase, phát sinh ra nền văn hóa Ai Cập ở mức độ cao. Còn những người da đen không pha trộn với các giống khác, tiến hóa rất chậm, nhưng thời của họ đã đến. Họ được sinh ra ở Phi Châu có nhiều ánh nắng, nên có màu da che chở cho họ thích hợp với khí hậu. Tại đây có ít những con vật khổng lồ và không có khủng long. Và những loài vật cũng không sinh sản quá nhiều như khủng-long và man-mút tại Lemuria và Atlantis.

Bánh xe luân hồi đã mang lại trong nhiều vòng những người xưa kia đã chung đụng với nhau, không có người nào không phải trở lại đời sống nhiều lần. Vì thế không có ai còn là thuần túy người Lemuria hay người Atlantis. Dẫn-đạo-sư nói: vì xã hội ta ngày nay đa số là những người Atlantis trong thời cuối, nên những lớp trẻ và lớp chưa đứng tuổi có nhiều hành động sai lạc như phá rối, bắc cóc, nổ bom, bạo động, ma túy .v.v... . Ngày nay là một thời táo loạn, và điềm báo trước bạo động sẽ tiếp tục trong thập niên 1980, cho đến thập niên cuối cùng của thế kỷ này khi trái đất đổi trục lần nữa. Một trận chiến tranh khác với võ khí nguyên-tử sẽ mang lại tình trạng như tại Atlantis khi năng lực của Quả cầu Pha-lê phát ra đã phá hủy châu Mỹ.

Trong thời vàng son, khi chưa có phi cơ dùng năng lực Quả cầu Pha-lê, những sự vận chuyển đều bằng tàu thuyền và xe trượt. Vận chuyển bằng xe trượt rất khó khăn vất vả, do những bàn-nhân hoặc trâu kéo trên mặt đất. Không hiểu tại sao họ không chế ra bánh xe.

Cũng như trâu, chó mèo cũng được nuôi trong nhà. Chúng thuộc giống sói, cáo, hoặc cọp, báo, sư tử, nhưng loại nhỏ hơn, nhiều hơn và trung thành với người. Ðược hỏi những loài vật ấy có hồn không, Dẫn-đạo-sư trả lời: Linh hồn loài vật thuộc về một loại riêng và cũng là một phần của tinh hoa Thượng Ðế, nhưng không phải là linh hồn người, cũng như tính linh của cây cỏ đối với tính linh của đất đá và các vật khác, mỗi loại có liên lạc riêng với Tạo Hóa. Tất cả linh hồn người là những tàn lửa từ Thượng Ðế sinh ra cùng một lúc từ nguyên thủy. Linh hồn loài vật cũng tiến hóa không ngừng, nhưng không bao giờ được thành người, cũng như chim và cây cỏ không bao giờ trở thành thú vật, vì mỗi loài ở trong một phạm vi riêng biệt.

So sánh Hoa Kỳ với Atlantis, dẫn-đao-sư nói rằng: Khi Hoa Kỳ mở cửa cho tất cả các dân tộc và trở thành một nơi chứa đựng những người nghèo từ các nước, chủng tộc và tín ngưỡng hoà tan với nhau, chúng ta sẽ trở nên mạnh mẽ. Cho tới thế kỷ này, Hoa Kỳ là một thí dụ rực rỡ của Atlantis trong thời kỳ vàng son khi mọi chủng tộc đều được hoan nghênh, và tất cả mọi người đều cố gắng tiến hóa về Tâm linh, về tinh thần và về văn hóa.

Hoa Kỳ giống Atlantis về nhiều phương diện và cần so sánh những trạng thái nó đưa đẩy lên cao cùng những trạng thái nó dẫn đến sụp đổ của đất đai mạnh lớn ấy. Chắc chắn chúng ta phải kềm hãm cái lòng ham muốn vô biên về vũ khí kỹ thuật cho chiến tranh và về địa vị lãnh đạo thế giới. Con đường đi ngày nay đưa thẳng đến một cuộc xung đột khác trong những thập niên 1980 và 1990 trước khi diễn ra tai họa chuyển trục trái đất.

Theo dẫn-đạo-sư thì tai họa này khó tránh khỏi. Nhưng theo Edgar Cayee, luật ân huệ vượt lên trên luật nhân quả. Nếu không được Thượng Ðế ban ân huệ, thì chúng ta sẽ phải trãi qua 20 năm xung đột bạo lực, đổ máu và có thể chiến tranh hạt nhân trước khi trái đất đổi trục vào cuối thế kỷ này.

XIII. ÐI SANG TINH CẦU KHÁC

Nhiều nhà chiêm tinh học nói rằng người, vật, cá, chim, cây cỏ đều bị ảnh hưởng của các tinh cầu khác, trái đất có lẽ cũng vậy. Chúng ta đều biết rằng nước biển lên xuống là do sức hút của mặt trời và mặt trăng, và từ thượng cổ người ta đã biết trồng tỉa theo tuần mặt trăng. Nay dẫn-đạo-sư lại nói rằng những linh hồn cũng phải trãi qua những rung động của tinh cầu khác để hoàn bị sự tiến hóa trước khi hòa đồng với Tạo Hóa. Dẫn-đạo-sư cũng nhấn mạnh về sự cần thiết tham thiền, cả đến sau khi chết.

Khi linh hồn chưa tiến cao, thì chọn tinh cầu rung động nhẹ hơn như Kim-tinh (Venus) để chịu đựng dể dàng hơn. Những linh hồn trên Kim-tinh đều dịu-dàng, đầy lòng yêu thương và lòng tôn thờ Ðức Sáng Tạo. Trên Hỏa-tinh (mars) không khí nóng bỏng, để cho những linh hồn đốt cháy tính nóng nảy hiếu chiến, Cho nên tốt hơn là trong đời sống vật chất, cần san bằng những mối bất hòa, hơn là chịu áp lực trên Hỏa-tinh. Nhưng người nào chịu nổi áp lực ấy thì sự đốt cháy sẽ nhanh chóng hơn, và sẽ không phải ở lâu trên đó.

Trên hành tinh Uranus, có ảnh hưởng "đình chiến", những linh hồn học hỏi giàn xếp bằng cách không nghĩ đến nguyên nhân những mối bất hòa. Tuy nói vậy nhưng không phải dễ, vì những linh hồn đã thù hận nhau trong suốt một đời, nay phải luôn luôn đối diện với nhau. Nếu họ cố gắng chịu đựng trong một thời gian khá lâu trên Uranus thì mối bất hòa có thể sẽ tiêu tan. Nhưng đôi khi có những linh hồn không chịu nổi tình trạng kéo dài ấy, nên có dịp liền trở lại đời sống vật chất, nhất định giải quyết vấn đề trong thân xác thịt để có thể hoặc chiến đấu hoặc thương lượng hòa bình.

Ảnh hưởng của Neptune dể chịu hơn là của Hỏa-tinh và Uranus nhiều. Những dục vọng được xoay chiều nhẹ nhàng, khiến cho tâm hồn được yên tỉnh, nên nhiều linh hồn không muốn đi nơi khác, nhưng ai muốn được nhanh chóng hợp nhất với Thượng Ðế thì không muốn kéo dài thời gian yên tỉnh, vì những thử thách gắt gao là những cơ hội để tiến hóa nhanh chóng hơn. Sau thời gian ở Neptune , những linh hồn sẵn sàng chịu đựng thử thách gắt gao hơn như ở Uranus, Uranus là nơi mài dũa linh hồn.

Rồi dẫn-đạo-sư nói đến Mộc-tinh (Jupiter). Mộc tinh dạy cho tính tự chế ngự, đồng thời tính cương quyết theo lẽ phải, nhưng không được có tính tự phụ, Nếu người nào có cảm tưởng rằng mình cao hơn nguời khác, thì được nhắc nhở rằng mình chỉ là một vật rất nhỏ mọn, phải tùy thuộc vào một nguời mẹ mang nặng đẻ đau.

Thủy-tinh (Mercury) là thủy ngân. Trên Thủy tinh người ta có thể thấy lại hình ảnh tất cả các đời sống trước và ấn định hướng đi lên hay đi xuống trong hoạt động tương lai. Ðó là một nơi rất nhỏ để un đúc lại các nguyên động-lực trong mỗi lần giáng sinh, để cố gắng xóa bỏ trong một đời sống tất cả những nhân xấu từ xưa. Ðây không phải là một nơi nghĩ an nhàn, vì không những là phải kiểm điểm lại những lầm lỗi trong đời mới trãi qua, mà còn cả hàng ngàn đời trước. Những lầm lổi càng nhiều thì sự đau khổ càng nhiều. Có lẽ vì thế mà có những linh hồn can đảm đã chọn thân hình bất toàn, như mù, điếc, tàn tật, để trả quả cho nhanh chóng.

Thổ-tinh (Saturn) là cao hơn hết, là nơi những linh hồn đã tiến đến mức toàn thiện. Dẫn-đạo-sư không thể nói gì nhiều về Thổ-tinh, vì chưa được lên đến đó. Có những linh hồn từ Thổ-tinh trở về đã nói rằng chưa đủ trình độ còn phải trở lại để tu thêm.

Dẫn-đạo-sư nói thêm rằng nếu trong đời sống vật chất mà chúng ta đạt tới mức gần hoàn toàn (toàn thiện) thì những cuộc hành trình sang các tinh cầu khác rất là nhẹ nhàng. Tại sao phải đi sang tinh cầu khác? Vì cần phải đền bù tội lỗi đối với người khác và phải lìa bỏ thái độ ích kỷ và trịch thượng. Ðó là một phương pháp san bằng. Cho nên trong đời vật chất, cần phải thiện những ý nghĩ và hành động đối với người khác, vì việc làm ấy dễ hơn rất nhiều là phải chịu khổ não tinh thần trên các tinh cầu. Vậy tại sao không bắt đần ngay từ bây giờ phương pháp gột rửa cuốn sổ thiên nhân ấy! Hãy cân nhắc những điều thiệt hại đã gây cho người khác, rồi ngay từ bây giờ bắt đầu tìm cách chuộc lại, hoặc giúp đở những người kém ta. Nếu những người đó đã làm thiệt hại cho người ta thì cũng chẳng sao, vì đó là việc nhân quả của họ, họ sẽ phải đền bù. Hãy để mặc họ về chuyện đó, nhưng cứ giúp đỡ họ đi khi nào có thể được, hãy quên đi, tha thứ đi. Còn ở trong đời vật chất thì rất dễ, nhưng khi đã bước sang cõi tâm linh thì rất khó. Hãy xóa bỏ tội lỗi khi còn ngày giờ, hãy lợi dụng tối đa cơ hội còn ở trong xác thịt.

Hết

Không có nhận xét nào: